Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

đề thi minh họa hướng dẫn chấm môn ngữ văn 12 sở giáo dục đào tạo bắc ninh đề số 17

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.45 KB, 6 trang )

SỞ GD & ĐT BẮC NINH
ĐỀ THI THỬ THPT QUỐC GIA NĂM 2015
MÔN: NGỮ VĂN
Đề 17 Th ờ i gian làm bài: 180 phút
Phần 1: Đọc hiểu (3 điểm)
Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo
nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm
mỏ, nguyên liệu. Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.
Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lí, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân
buôn, trở nên bần cùng. Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên.
Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.
(Trích Tuyên ngôn Độc lập - Hồ Chí Minh, Ngữ văn 12, Tập1, NXB Giáo dục,2008, tr.
39 - 40)
Đọc văn bản trên và thực hiện các yêu cầu sau:
1. Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản.
2. Nêu các dạng phép điệp của văn bản và hiệu quả nghệ thuật của chúng?
3. Nội dung chính của văn bản là gì?
Phần 2: Làm văn (7 điểm)
Câu 1 (3 điểm)
Bersot nói: “Trong vũ trụ có lắm kỳ quan, nhưng kỳ quan đẹp nhất là trái
tim của người mẹ”.
Viết một bài văn khoảng 400 từ trình bày ý kiến của anh/chị về câu nói
trên?
Câu 2 (4 điểm)
Phân tích tâm trạng bà cụ Tứ trong truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân.
HẾT
(Yêu cầu giám thị coi thi không giải thích gì thêm)
ĐÁP ÁN THI THỬ THPT QUỐC GIA NĂM 2015
MÔN: NGỮ VĂN
Phần 1: Đọc hiểu (3 điểm)
Yêu cầu về kĩ năng


- Thí sinh có kĩ năng đọc hiểu văn bản;
- Diễn đạt rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
Yêu cầu về kiến thức
Câu 1: (0,5 điểm)
Văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ chính luận.
Câu 2: (1,5 điểm)
- Các dạng phép điệp: điệp từ, điệp cú pháp.
- Tác dụng: Nhấn mạnh, tạo giọng điệu đanh thép, hùng hồn cho văn bản khi tố
cáo những tội ác của thực dân Pháp.
Câu 3: (1,0 điểm)
Nội dung chính của văn bản: Vạch trần những tội ác về kinh tế của thực dân
Pháp đối với nhân dân ta.
Phần 2: Làm văn (7 điểm)
Câu 1 (3 điểm)
Yêu cầu chung: Thí sinh biết vận dụng kiễn thức và kỹ năng về dạng bài nghị
luận xã hội để tạo lập văn bản. Bài viết phải có bố cục đầy đủ, rõ rang, có cảm
xúc, bảo đảm tính liên kết, không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
Đề yêu cầu bình luận về một vấn đề đạo lý – đó là tình cảm thiêng
liêng nơi trái tim người mẹ. Học sinh có thể cảm nhận và trình bày nhiều cách
khác nhau, nhưng yêu cầu phải nêu cho được những ý cơ bản sau:
1- Mở bài : (0,5 điểm)
- Bàn về vẻ đẹp của tình mẫu tử, Bersot nói: “Trong vũ trụ có lắm kỳ quan,
nhưng kỳ quan đẹp nhất là trái tim của người mẹ”.
- Câu nói của Bersot đã ca ngợi và khẳng định tình cảm thiêng liêng trong trái
tim của người mẹ dành cho con trong cuộc đời.
2- Thân bài : (2 điểm)
a. Giai thích nội dung câu nói của Bersot:
- Hiểu nghĩa của kỳ quan (có thể là một công trình kiến trúc hoặc cảnh vật)
đẹp đến mức kỳ diệu hiếm thấy.
- Bersot nói: “Trong vũ trụ có lắm kỳ quan” có nghĩa cái đẹp đến mức kỳ diệu

hiếm thấy (ở những công trình kiến trúc hay cảnh vật tự nhiên) là không ít,
nhưng kỳ quan tuyệt hảo nhất là trái tim người mẹ.
Nội dung chính của câu trên là nhằm nói về trái tim người mẹ:kỳ
quan tuyệt hảo nhất.
b. Phân tích, chứng minh để thấy được vẻ đẹp tuyệt hảo và thiêng liêng của
tình mẹ: Trái tim người mẹ ở đây là tình cảm của mẹ dành cho con. Đó là
tình yêu thiêng liêng nhất không gì có thể sánh được (học sinh có thể liên hệ với
thực tế để nói về đức hi sinh của mẹ suốt đời cho con).
- Mang nặng đẻ đau…
- Chăm nuôi con khôn lớn…
- Gần gũi chia sẻ những buồn vui với con …
- Lo lắng, dõi theo con từng bước trong cuộc đời
Hy sinh cho con tất cả mà không hề tính toán…
c. Bình luận :
- Trong thực tế , người mẹ nào cũng luôn yêu thương con mình.Bởi lẽ, những
đứa con chính là món quà vô giá mà Thượng đế ban tặng cho họ.Nhưng không
phải người con nào cũng hiểu được sự thiêng liêng vô giá từ tình thương của mẹ
.
- Tuy nhiên, trong thực tế cũng có những bà mẹ bỏ rơi con cái của mình
từ khi mới sinh ra, hoặc vì một ham muốn tầm thường, thấp kém nào đó mà lợi
dụng con cái của mình – nhưng đó là hiện tượng cá biệt cần phê phán.
- Câu nói của Bersot là lời khẳng định và ngợi ca, tôn vinh sự cao đẹp
của tình mẹ. Thức tỉnh những người làm con nào còn vô tâm, bất hiếu với bậc
sinh thành ra mình…
3- Kết bài: (0,5 điểm)
- Đây là một câu nói hay, sâu sắc và ý nghĩa…về đạo lý ở đời của tất cả
những ai là con trên thế gian này với người mẹ của mình.
- Chúng ta cần phải có những suy nghĩ, tình cảm, trách nhiệm đúng mực
của mình để đáp lại tình cảm thiêng liêng của mẹ đã dành cho con.
Câu 2 (4 điểm)

Yêu cầu chung: Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kỹ năng về dạng bài nghị
luận văn học để tạo lập văn bản. Bài viết phải có bố cục đầy đủ, có cảm xúc, thể
hiện khả năng cảm thụ văn học tốt. Không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
1- Mở bài: Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm, nhân vật. (0,5 điểm)
2- Thân bài: (3 điểm)
a. Sự ngạc nhiên đến sững sờ
Tình huống đặc biệt làm cho bà cụ Tứ ngạc nhiên, ấy là việc con trai
mình đã lấy vợ. Bà cụ ngạc nhiên vì con mình nghèo, xấu xí, dân ngụ cư lại
đang thời buổi đói khát, nuôi thân chẳng xong. Tràng còn dám lấy vợ, rước
thêm miệng ăn. Khi bà cụ đi làm về muộn, thấy người đàn bà ngồi ở đầu
giường con mình bà rất ngạc nhiên, càng ngạc nhiên hơn khi được người đàn
bà chào bẳng u và được Tràng giới thiệu: “Kìa nhà tôi nó chào u” "Nhà tôi nó
mới về làm bạn với tôi đấy u ạ”. Bà ngạc nhiên đến mức không còn tin được
vào mắt và tai mình nữa: “Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà
lão thấy mắt minh nhoèn thì phài. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn
chưa nhận ra người nào. Bà lão quay sang nhìn con tỏ ý không hiểu”.
b. Vừa mừng vừa tủi
- Khi đã vỡ lẽ, đã hiểu ra con mình “nhặt" được vợ, bà “cúi đầu nín lặng. Bà
liên tưởng đến bao cơ sự “oái ăm” “ai oán” “xót thương" cho số kiếp của đứa
con mình. Bà liên tưởng đến người chồng quá cố, đến đứa con gái đã qua đời,
lòng bà trĩu nặng tủi buồn, xót xa.
- Bà cụ Tứ mừng cho con từ nay yên bề gia thất, tủi thân làm mẹ không lo nổi
vợ cho con. Giờ đây giữa lúc người chết đói "như ngả rạ" lại có người theo con
trai bà về làm vợ. Cái tủi, cái buồn của người mẹ bị dồn vào cảnh nghèo cùng
quẫn. Biết lấy gì để cúng tổ tiên, để trình làng khi con đã có vợ. Bà cụ Tứ khóc
vì mừng con có vợ, khóc vì thương con dâu không biết làm sao vượt qua nỗi khó
khăn này.
“Trong kẽ mắt kém nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt". “Chúng mày
lấy nhau lúc này, u thương quá! ” “ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp
với nhau, u cũng mừng lòng ” . "Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ

mỏi chân”. Bao nhiêu tình yêu thương chân thành tha thiết của người mẹ thể
hiện trong những lời giản dị mộc mạc ấy.
- Bà cụ xót xa thương dâu, thương con, tủi phận mình: Bà cụ nghẹn lời không
nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng". Bao nhiêu lo lắng ngổn
ngang trong lòng.
c. Nỗi lo
Bà cụ Tứ lo lắng thực sự cho con trai, con dâu, lo cho cái gia đình nghèo túng
của bà giữa lúc đói kém này liệu có nuôi nổi nhau? Tương lai rồi sẽ ra sao. .
Bà chấp nhận cái “hạnh phúc” oái oăm éo le của gia đình. Ngẫm cái phận
nghèo bà tự nhủ: “Có gặp bước khó khăn, đói khổ này người ta mới lấy đến
con mình. Mà con mình mới có vợ được ". Bà chỉ biết khuyên con, khuyên dâu
thương yêu nhau, ăn ở hoà thuận với nhau để cùng vượt qua cơn khốn khó. Đó
là nỗi lo, nỗi thương của người mẹ từng trải, hiểu đời có tấm lòng sâu thẳm đối
với con mình. Trong sự lo lắng tủi hờn vẫn nhen nhóm một niềm tin.
d. Niềm tin
- Trong cái mừng, cái tủi, cái lo, người đọc vẫn thấy được niềm vui của bả cụ.
Một niềm vui tội nghiệp không sao cất cánh lên được, cứ bị cái buồn, cái lo níu
kéo xuống. Nhưng bà cụ Tứ cố vui và gắng làm cho con, cho dâu vui.
* Vui trong ý nghĩ tốt đẹp về tương lai: “Rồi ra may mà ông giời cho khá " ai
giàu ba họ ai khó ba đời. Có ra thì con cái chúng mày về sau. Bà cụ “nói toàn
chuyện vui, toàn chuyện sung sướng sau này’’.
* Vui trong công việc sửa sang vườn tược, nhà cửa. Bà cụ giẫy cỏ cho sạch
vườn. “Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xăm thu
dọn, quét tước nhà cừa".
* Vui trong bữa cơm sáng, bữa cơm đầu tiên có con dâu đó là một bữa “tiệc"
với món cháo loãng và món “chè khoán” đắng chát - một bữa ăn ngày đói rất
thảm hại nhưng bà cụ cố tạo ra niềm vui để động viên an ủi con trai, con dâu.
- Mặc dù cuộc sống khắc nghiệt, ngặt nghèo đến tàn bạo đã đầy đoạ mẹ con bà.
Bà vẫn cố tạo không khí hoà thuận ấm cúng trong gia đình và kể chuyện làm
ăn, nuôi gà tươi cười đon đả múc cho con dâu những bát cháo cám.

Tuy nhiên cái vui ấy, dù là rất nhỏ bé mà vẫn mong manh, vẫn chìm đi trong cái
tăm tối hiện tại: Tiếng khóc, mùi đốt đống rấm ờ những nhà có người chết đói.
Bà cụ nghĩ đến ông lão, đến đứa con út, đến cuộc đời cực khổ dài dặc dặc của
mình, đến cái “đói to" trước mắt. Bà cụ phấp phỏng nghĩ về con trai, về con
dâu.
• Nhân vật bà cụ Tứ mang nét đạo lí truyền thống:
Trong cái thân hình khẳng khiu, tàn tạ, với “cái mặt bủng beo, u tối” bà vẫn
nung nấu một ý chí sống mãnh liệt. Bà là hiện thân của những người mẹ nghèo
khổ mà từng trải, hiểu biết: hết lòng thương yêu con, yêu thương những cảnh
đời tội nghiệp, oái oăm. Bà nung nấu một khát vọng về cuộc sống gia đinh hạnh
phúc.
3- Kết bài: (0,5 điểm)
Qua nhân vật bà cụ Tứ, với những diễn biến tâm trạng phức tạp - dưới ngòi bút
nhân đạo của Kim Lân - nội dung nhân đạo sâu sắc, cảm động của “Vợ nhặt”
đã động chạm đến nơi sâu thẳm nhất của lòng người, bắt độc giả phải khóc,
phải cười, phải sống cùng nhân vật của mình.

×