Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Nâng cao khả năng hội nhập của nền kinh tế Việt Nam trong xu thế toàn cầu hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.69 KB, 16 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành một trong
những xu thế khách quan của sự phát triển kinh tế thế giới. Sự phát triển mạnh
mẽ về khoa học, công nghệ cùng với sự ra đời của các thể chế toàn cầu và khu
vực đã góp phần thúc đẩy quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới.
Quá trình toàn cầu hoá không chỉ trong lĩnh vực thương mại mà còn cả
trong lĩnh vực sản xuất, dịch vụ, tài chính, đầu tư cũng như các lĩnh vực văn
hoá, xã hội, môi trường với các hình thức đa dạng và mức độ khác nhau.
Toàn cầu hoá kinh tế đã và đang mở ra những cơ hội và tạo điều kiện cho
các dân tộc trên thế giới khai thác tối đa những lợi thế so sánh của mình để tăng
trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Đồng thời quá trình toàn cầu hoá kinh tế
cũng đặt mỗi quốc gia, dân tộc trước sức ép cạnh tranh và những thách thức gay
gắt, nhất là đối với các nước đang phát triển. Vì thế để không bị gạt ra ngoài lề
của sự phát triển, các nước đều phải nỗ lực hội nhập vào xu thế chung đó và tăng
cường sức cạnh tranh kinh tế .
Hơn lúc nào hết quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế không
chỉ là sự quan tâm của mỗi quốc gia, mỗi tổ chức mà còn đối với mỗi cá nhân
chúng ta. Chúng ta đã trải qua 17 năm thực hiện đường lối mở cửa, đổi mới và
hội nhập với nền kinh tế khu vực và toàn cầu. Với phương châm "đa dạng hoá,
đa phương hoá quan hệ" và "sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Việt
Nam đã thiết lập các quan hệ thương mại, đầu tư, dịch vụ và khoa học kỹ thuật
với tất cả các nước, tích cực tham gia vào các tổ chức, diễn đàn kinh tế thế giới
và khu vực. Vì vậy, vấn đề nâng cao khả năng hội nhập của nền kinh tế nước ta
hiện nay đang là vấn đề lý luận và thực tiễn nóng bỏng.
Có rất nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu và các chuyên gia đầu ngành
trong nước và ngoài nước đề cập đến vấn đề này. Đây là vấn đề rộng lớn và
1
phức tạp, có cả những nhận thức và quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập
nhau.


Thông qua những tài liệu tham khảo cùng với những kiến thức đã được
lĩnh hội trong nhà trường, trong khuôn khổ báo cáo của mình, em xin phép được
trình bày tóm tắt về đề tài: "Nâng cao khả năng hội nhập của nền kinh tế Việt
Nam trong xu thế toàn cầu hoá". Nội dung của báo cáo được trình bày trong 3
chương
Chương I: Khái quát về toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế. Những kinh
nghiệm thực tiễn về nâng cao khả năng hội nhập của một số
nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương II: Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Những vấn đề
đặt ra.
Chương III: Mục tiêu, phương hướng và những giải pháp cơ bản nhằm nâng
cao khả năng hội nhập kinh tế quốc tế của nền kinh tế Việt Nam.
2
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ TOÀN CẦU HOÁ, HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ KINH
NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ NÂNG CAO KHẢ NĂNG HỘI NHẬP CỦA
MỘT SỐ NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.
I. NHẬN THỨC VỀ TOÀN CẦU HOÁ VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ.
1. Nhận thức chung về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế .
a) Toàn cầu hoá.
Ngày nay toàn cầu hoá mà trước hết và về thực chất là toàn cầu hoá kinh
tế đang trở thành một xu thế chủ yếu của quan hệ kinh tế hiện đại. Hiện nay tuy
có rất nhiều những quan niệm không giống nhau về toàn cầu hoá kinh tế nhưng
có thể thấy nét chung nhất là thừa nhận mối quan hệ qua lại của các hoạt động
kinh tế hiện nay đã bao trùm gần như tất cả các nước, mang tính toàn cầu. Có
thể hiểu toàn cầu hoá kinh tế là quá trình phát triển kinh tế của các nước trên thế
giới vượt qua khỏi biên giới quốc gia, hướng tới phạm vi toàn cầu trên cơ sở lực
lượng sản xuất cũng như trình độ khoa học kỹ thuật mạnh mẽ và sự phân công
hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng, tính chất xã hội hoá của sản xuất ngày càng
tăng.

Mặc dù vậy, toàn cầu hoá kinh tế vẫn ở trong giai đoạn đầu. Lĩnh vực the
chốt hợp tác toàn cầu hoá kinh tế vẫn chỉ là mậu dịch, tự do lưu thông nguồn
vốn và sức lao động còn là vấn đề trong tương lai.
b) Hội nhập quốc tế.
Hiện nay người ta đều thấy rằng nhận thức về hội nhập vẫn là một vấn đề
thời sự. Các nước đều khẳng định cần xây dựng nhận thức thống nhất trong nội
bộ rằng hội nhập là cần thiêts, phù hợp với xu thế chung, nhất là tham gia WTO
sẽ tạo thuận lợi cho sự phát triển của đất nước.
3
- Hội nhập là một quá trình tất yếu, một xu thế bao trùm mà trọng tâm là
mở cửa kinh tế, tạo điều kiện kết hợp tốt nhất nguồn lực trong nước và quốc tế,
mở rộng không gian để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể trong
quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập vừa là đòi hỏi khách quan vừa là nhu cầu nội
tại của sự phát triển kinh tế mỗi nước.
- Các nước đều không thể né tránh việc hội nhập mà vấn đề then chốt là
phải đề ra được những chính sách, biện pháp đúng để hạn chế trả giá ở mức
thấp nhất và tranh thủ cao nhất những cơ hội phát triển.
- Hội nhập thực chất là tham gia cạnh tranh trên quốc tế và ngay trong
thị trường nội địa. Để hội nhập có hiệu quả phải ra sức tăng cường nội lực, cải
cách và điều chỉnh cơ chế, chính sách, luật lệ, tập quán kinh doanh, cơ cấu kinh
tế trong nước để phù hợp với "luật chơi chung" của quốc tế.
Chính sách hội nhập phải dựa và gắn chặt với chiến lược phát triển của
đất nước, đồng thời cải cách kinh tế, hành chính phải gắn chặt với yêu cầu của
quá trình hội nhập. Cải cách bên trong quyết định tốc độ và hiệu quả hội nhập,
đồng thời hội nhập sẽ hỗ trợ, thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, qua đó
nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế .
- Hội nhập không phải để được hưởng ưu đãi, nhân nhượng đặc biệt mà
nhằm mở rộng các cơ hội kinh doanh , thâm nhập thị trường, có môi trường
pháp lý và kinh doanh ổn định dựa trên quy chế, luật lệ của các thể chế hội
nhập, không bị phân biệt đối xử, không bị các động cơ chính trị hay những lý

do khác cản trở việc giao lưu hàng hoá, dịch vụ và đầu tư. Các nước có thể sử
dụng những luật lệ, quy định, cơ chế giải quyết tranh chấp của các thể chế hội
nhập để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình.
- Tăng cường thông tin, tuyên truyền, giải thích để giới kinh doanh nhận
thức sâu sắc và ủng hộ hội nhập, chuẩn bị tốt mọi mặt để chủ động hội nhập
từng bước, tận dụng những lợi thế so sánh của mỗi nước để cạnh tranh chiếm
lĩnh thị trường.
4
Nhận thức đúng về hội nhập và toàn cầu hoá kinh tế đối với các nước có
ý nghĩa quan trọng trong việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách và
giải pháp để chủ động hội nhập và tham gia giải quyết các vấn đề mang tính
toàn cầu nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội.
2. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế, thời cơ và thách thức.
a) Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế : Những lợi ích.
Toàn cầu hoá là xu hướng tất yếu của quá trình tập trung, chuyên môn
sản xuất và phân công lao động quốc tế. Khi nền kinh tế thế giới phát triển
thành một thị trường thống nhất thì không một quốc gia nào có thể đứng ngoài
tiến trình này mà có thể tồn tại và phát triển được.
Toàn cầu hoá kinh tế thúc đẩy rất mạnh, nhanh sự phát triển và xã hội
hoá lực lượng sản xuất, đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Toàn cầu hoá kinh
tế góp phần làm chuyển biến cơ cấu kinh tế thế giới, đặc biệt làm tăng mạnh tỷ
trọng hàng chế tác (chiếm 21,4%) và các dịch vụ (62,4%) trong cơ cấu kinh tế
thế giới.
Toàn cầu hoá và khu vực hoá được thể hiện rõ trong sự hình thành và
gia tăng rất nhanh trao đổi quốc tế về hàng hoá, dịch vụ, tài chính và các yếu tố
sản xuất, được thể hiện qua sự hình thành và củng cố của các tổ chức kinh tế
quốc tế và khu vực.
Toàn cầu hoá làm tăng thêm sự phụ thuộc và tác động lẫn nhau giữa các
nền kinh tế các nước. Toàn cầu hoá kinh tế làm cho kinh tế ở mỗi nước có thể
trở thành bộ phận của các tổng thể, hình thành cục diện kinh tế thế giới mới.

Toàn cầu hoá kinh tế cũng làm giảm thiểu các chướng ngại trong việc lưu
chuyển vốn, hàng hoá, dịch vụ, nguồn nhân lực… giữa các nền kinh tế các
nước, làm tăng vai trò kinh tế đối ngoại, mậu dịch và đầu tư nước ngoài đối với
sự phát triển kinh tế mỗi nước.
5
Toàn cầu hoá truyền bá và chuyển giao trên quy mô càng lớn những
thành quả mới về khoa học và công nghệ, về tổ chức và quản lý, về sản xuất
kinh doanh … dọn đường cho công nghệ hoá, hiện đại hoá.
Toàn cầu hoá và khu vực hoá có tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho nhau và
cùng nhằm mục tiêu thúc đẩy trao đổi hàng hoá, dịch vụ, vốn và lao động. Liên
kết khu vực vừa củng cố quá trình toàn cầu hoá, vừa giúp các nước trong từng
khu vực bảo vệ lợi ích của mình. Mặt khác, toàn cầu hoá, khu vực hoá cũng
làm cho sự cạnh tranh giữa các thực thể kinh tế trở nên gay gắt chưa từng có.
Toàn cầu hoá đã và đang mang lại những cơ hội to lớn cho nền kinh tế
thế giới và cho mỗi quốc gia tham gia vào quá trình hội nhập:
- Hội nhập quốc tế tạo điều kiện để phát huy lợi thế so sánh, thúc đẩy
việc tham gia vào phân công lao động quốc tế, tranh thủ được lợi ích của việc
phân bổ nguồn tài lực hợp lý trên bình diện quốc tế để từ đó phát huy cao độ
nhân tố sản xuất hữu dụng của từng quốc gia.
- Tự do luân chuyển hàng hoá, dịch vụ và vốn với việc giảm hoặc xoá bỏ
hàng rào thuế quan, đơn giản hoá thủ tục, cắt giảm kiểm soát hành chính sẽ
góp phần giảm chi phí sản xuất, giảm thất nghiệp và tăng thêm lợi ích cho
người tiêu dùng.
- Tạo ra nhiều cơ hội đầu tư mới, tăng nhanh vòng quay vốn và tạo điều
kiện để đa dạng hoá các loại hình đầu tư, nâng cao hiệu quả, hạn chế rủi ro
đầu tư.
- Thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ, chuyển giao vốn, kỹ năng
quản lý, qua đó mở rộng địa bàn đầu tư cho các nước, đồng thời giúp các nước
tiếp nhận đầu tư có thêm nhiều cơ hội phát triển.
b) Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế : Những thách thức.

- Sự bất ổn định của thị trường tài chính quốc tế. Nguồn tài chính được
phân bố không đồng đều, tập trung vào một số trung tâm tài chính lớn là các
6

×