Bài báo cáo: Khoa Học Trái Đất GVHD: Ths. Bùi Thị Luận
LỜI NÓI ĐẦU
Khoáng sản là một loại vật chất không thể thiếu trong cuộc sống của con
người. Đó là kết quả của một quá trình hoạt động phức tạp diễn ra bên
trong lòng đất. Quá trình đó diễn ra liên tục, thường xuyên và ta chỉ có thể
nghiên cứu, nhận ra chúng thông qua sóng điện từ mà chúng phát ra trong
quá trình hoạt động.
Hiện nay với khoa học kỹ thuật tiến bộ, con người đã khám phá ra rất
nhiều các loại khoáng sản, đáp ứng nhu cầu của con người. Họ đã phân
loại, lựa chọn và đánh giá công dụng của từng loại khoáng sản.
Các nguồn khoáng sản ảnh hưởng đến đời sống, đến sức khỏe và cả
môi trường xung quanh con người. Nếu biết cách sử dụng, khoáng sản trở
thành vật chất hết sức quý hiếm. Đặc biệt, Khoáng sản ảnh hưởng rõ rệt
đến sản xuất của con người, là nguồn nguyên vật liệu cho quá trình sản
xuất đó.
Thế nhưng, hiện nay con người đang khai thác không hợp lý nguồn tài
nguyên này, sử dụng không hiệu quả, đưa đến một yêu cầu rất cấp bách
đó là việc quản lý, khai thác và sử dụng hiệu quả nhất, đồng thời tìm ra
các loại vật chất thay thế khác, cải tạo và bảo vệ nguồn tài nguyên Khoáng
sản là góp phần bảo vệ cuộc sống của chính chúng ta.
Nhận thấy vấn đề này, nhóm chúng em đã tìm hiểu, tìm ra các khái
niệm, phân loại khoáng sản, và việc ảnh hưởng của Khoáng sản lên sản
xuất của con người.
Xin cám ơn Th.s Bùi Thị Luận, cô đã giới thiệu tài liệu, hướng dẫn tận
tình. Mong Thầy Cô và các bạn tham khảo và cho nhận xét, để bài báo cáo
hoàn chỉnh hơn nữa.
1
Bài báo cáo: Khoa Học Trái Đất GVHD: Ths. Bùi Thị Luận
I.Định nghĩa:
Khoáng là khoa học mà các phân tích khoáng sản. Ở đây chúng ta phải
xác định những gì là khoáng sản. khoáng sản là một vật liệu rắn hoặc lỏng
với các chất hóa học nhất định và tính chất vật lý mà là ở trái đất. So với
các loại đá khoáng chất rất khác nhau. Từ hàng ngàn năm người ta mê
hoặc khoáng sản. Có khoảng 3.000 khoáng chất được biết đến, nhưng chỉ
vài trong số đó là hấp dẫn người nhận. nhìn của họ là lý do tại sao họ vui
lòng cho nhân dân. Rất đẹp khoáng chất thường được minh bạch và họ
đã có một màu sắc đẹp, hoặc hình thức. Sự phổ biến của một khoáng
chất quyết định nếu nó là một đá quý hay không.
Sự hình thành: Có ba phát triển các quá trình: quá trình phát triển
macmatic, sự phát triển quá trình trầm tích và metamorphically phát triển
quy trình. magma này được gọi là vật liệu mà đi ra của núi lửa và được
gọi là dung nham. Nó là một chất lỏng trong trái đất với nhiệt độ 1.300 độ.
Khi macma đi ra khỏi trái đất vào bề mặt nó trở nên lạnh hơn và nó kết
tinh. Các khoáng sản được hình thành đầu tiên được sâu trong đất. Trên
đường đến bề mặt trái đất trở nên cao macma lỏng và nó kết tinh. Một
trong những giai đoạn cuối cùng là giai đoạn nhiệt dịch. Trong giai đoạn
này một số loại khí rời khỏi dòng magma und tới đỉnh. Thường thì các
hình thức phòng khí trong đá. Các phòng đều có sau này đầy macma.
Trong giai đoạn thạch anh (tinh thể đá, amethyst) có nguồn gốc. Đây là lý
do tại sao thạch anh thường trong các phòng khép kín của rock mà được
gọi là geodes. Generelly thạch anh phát triển trong vết nứt của đá. Trong
quá trình phát triển khoáng sản trầm tích có nguồn gốc do nhiều yếu tố môi
trường. Nhiệt độ cao có thể gây ra các kết nối hóa học mới. Sương giá
mạnh có thể có một hiệu ứng nổ. Hiện cũng còn acid và các chất khác,
bởi vì cho cơn mưa. Nước và ôxy trong không khí cũng có thể phản ứng
với các khoáng chất và khoáng chất như vậy mới được hình thành. Trong
quá trình phát triển metamorphically nó là như vậy mà lại nghĩ macma chảy
đá có khoáng sản đã tồn tại. Đây macma thay đổi các khoáng chất. Có
các quy trình đặc biệt phát triển khoáng sản hữu cơ, quá.
Hóa chất và tính chất vật lý: Tất cả các khoáng sản đã có một số hóa chất
và tính chất vật lý. Tất cả các khoáng sản đã có một cấu trúc. Cấu trúc
đơn giản nhất là một yếu tố, nhưng hầu hết các khoáng chất là các phân tử
hoặc các ion và do đó họ đã có một công thức hóa học. Các công thức
hóa học được mô tả trong chương về khoáng sản. Ở đây chúng tôi sẽ
xem xét các khoáng sản lớp 9, trong đó các khoáng vật được sắp xếp.
2
Bài báo cáo: Khoa Học Trái Đất GVHD: Ths. Bùi Thị Luận
1. Các yếu tố (kim cương, vàng, bạc)
2. Sulfua, selenides, tellurides, asenua, antimonides và bismutides
(pyrit)
3. Halogenua (fluorit, đá muối)
4. Oxit và hydroxit (corundum, thạch anh)
5. Nitrat, cacbonat và borat (canxit, malachite)
6. Sulfat, crômat, molybdates và tungstenates (thạch cao tuyết hoa)
7. Phosphat, asenat và vanadates (turkis)
8. Silicat (fenspat, topaz)
9. Các kết nối hữu cơ (hổ phách)
Hầu hết các tinh thể khoáng chất hình thức. Tinh thể là một lệnh đối xứng
của các nguyên tử, phân tử hoặc các ion. Nó được gọi là tinh thể lưới. An
để tùy ý được gọi là amorph. Hiện có 7 hệ tinh thể khác nhau đối với
khoáng sản (hinh lập phương, monoclinical, triclinical, lục giác, tam giác,̀
bốn phương, rhombical). Ví dụ như Rock muối kết tinh trong hệ thống hinh̀
lập phương. Bởi vì đá muối (NaCl) cũng phổ biến muối (NaCl), chúng ta
có thể nhìn thấy hình khối nhỏ trên muối thường. Nó là dễ dàng hơn để
nhìn thấy trong phần lớn hơn. Vì vậy, khoáng sản kết tinh trong hệ thống
hinh lập phương đã có hình thức một khối lập phương và. Quartz̀
corundum (ruby, saphia) kết tinh trong hệ thống tam giác. Khi vật liệu
không đến thường xuyên trong quá trình hình thành các tinh thể khoáng
sản một sau đó sẽ không được hoàn hảo. Các yếu tố khác cũng ảnh
hưởng của một hình thức sai lầm của tinh thể. Một phòng quá nhỏ hoặc
các tài liệu khác có thể thay đổi hình thức tinh thể, quá. Gần như không
bao giờ chúng ta có thể tìm thấy các tinh thể hoàn hảo. Mối quan hệ giữa
chu vi và chiều cao không phải luôn luôn giống nhau. Khi phòng quá nhỏ
sau đó thường là một tinh thể phát triển thành tinh thể khác. Một tài sản
của các khoáng chất có mật độ của họ. mật độ là khối lượng trên khối
lượng. Đó là gram mỗi centimet khối (g / cm
3).
Nước cho eample đã có
một mật độ của 1 g / cm
3.
Hầu hết các khoáng sản đã có một mật độ cao
hơn nước và vì vậy họ chìm trong nước. độ cứng là một tài sản. độ cứng
là khả năng để đột nhập vào một khoáng sản. Có quy mô độ cứng của
Mohs. Đó là from1 đến 10. Một khoáng sản với độ cứng của 1 có thể bị
trầy xước với móng tay ngón tay. Viên kim cương với độ cứng là 10 không
thể được, ngay cả trầy xước bằng dao. Một khoáng sản với độ cứng cao
hơn có thể đầu một khoáng chất với độ cứng thấp hơn.
3
Bài báo cáo: Khoa Học Trái Đất GVHD: Ths. Bùi Thị Luận
Mohs 'quy mô độ cứng
1 talc
2 thạch
cao
3
canxit
4 fluorite 5 apatit
6
fenspat
7 thạch
anh
8
topaz
9
corundum
10 viên kim
cương
Nhiều khoáng sản có thể được splited nghĩ rằng một tác động với một cái
búa. khoáng sản có thể được splited tốt trong một hướng, nhưng không ở
trong ví dụ khác. Ngoài ra còn có khoáng sản mà không có một fissileness
nhất định. Họ chia ngẫu nhiên. Ở đây chúng tôi có thể xem trong giờ giải
lao. Màu sắc là tài sản dễ dàng nhất. Có những khoáng chất không màu,
giống như đá tinh thể và viên kim cương. quartzs khác như ametit là đã có
một màu sắc, vì phụ gia. Họ là những màu nguyên khoáng sản. Nhóm
thứ ba là khoáng sản mà có được một màu sắc riêng, vì chất hóa học và
tính chất vật lý. Để xem Thời tiết là một khoáng chất màu hoặc đã có một
màu sắc riêng của chúng tôi có thể vượt qua nó trên một bề mặt và nhìn
vào sự mài mòn. Nó là màu dòng. Các bóng của một khoáng sản là một
tài sản. Anh có kim cương, Glos thủy tinh, chất béo và kim loại bóng Anh.
minh bạch là rất quan trọng, quá. khoáng sản Clear đã có một sự minh
bạch cao, nhưng minh bạch được gây ra bởi các hóa chất và tính chất vật
lý của khoáng sản.
Khoáng sản là thành tạo khoáng vật của lớp vỏ Trái Đất, mà thành phần
hóa học và các tính chất vật lý của chúng cho phép sử dụng chúng có hiệu
quả và lợi ích trong lĩnh vực sản xuất ra của cải vật chất của nền kinh tế
quốc dân.
Khoáng sản là một vật liệu rắn hoặc lỏng với các chất hóa học nhất định và
tính chất vật lý mà là ở trái đất.
Theo mục đích và công dụng người ta chia ra thành các dạng khoáng sản
sau:
• Khoáng sản nhiên liệu hay nhiên liệu hóa thạch bao gồm dầu mỏ, hơi
đốt, đá phiến dầu, than bùn, than v.v.
• Khoáng sản phi kim: Bao gồm các dạng vật liệu xây dựng như đá vôi,
cát, đất sét v.v.; đá xây dựng như đá hoa cương v.v và các khoáng
sản phi kim khác.
4
Bài báo cáo: Khoa Học Trái Đất GVHD: Ths. Bùi Thị Luận
• Khoáng sản kim loại hay quặng: Bao gồm các loại quặng kim loại
đen, kim loại màu và kim loại quý.
• Nguyên liệu đá màu bao gồm ngọc thạch anh (jasper), rhodolit, đá
mã não (agat), onyx, canxedon, charoit, nefrit v.v. và các loại đá quý
như kim cương, ngọc lục bảo, hồng ngọc,
xa-phia.
Dựa trên trạng thái vật lí phân ra:
• Khoáng sản rắn: như quặng kim loại v.v
• Khoáng sản lỏng: như dầu mỏ, nước
khoáng v.v
• Khoáng sản khí: khí đốt, khí trơ.
Sự tích tụ của khoáng sản tạo ra các mỏ (hay còn
gọi là khoáng sàng), còn trong trường hợp chiếm một diện tích lớn thì gọi
là các vùng mỏ, bồn hay bể. Người ta cũng phân biệt các loại khoáng sản
rắn, lỏng và khí.
• Khoáng sản nằm trong lớp vỏ Trái Đất ở dạng tích tụ với các đặc
trưng khác nhau (gân, mạch, cán, bướu, nham cán, vỉa, ổ, sa khoáng
v.v.) .
• Việc khai thác các khoáng sản gọi là khai khoáng.
Các dấu hiệu biểu hiện của tích tụ khoáng sản:
1. Các khoáng vật cộng sinh của mỏ quặng (đối với vàng là thạch anh,
đối với platin là quặng sắt có crôm v.v.).
2. Các mảnh vụn, đá cuội v.v, bắt gặp tại các khe máng sông suối.
3. Các chỗ lộ vỉa.
4. Các nguồn khoáng vật.
5. Thảm thực vật.
Trong quá trình thăm dò khoáng sản, người ta thường sử dụng các
phương pháp như đào giếng, mương, hào, rãnh, các đường xẻ hay tiến
hành khoan các lỗ khoan v.v. để bắt gặp thân quặng.
5
Bài báo cáo: Khoa Học Trái Đất GVHD: Ths. Bùi Thị Luận
Diện tích phổ biến
Theo diện tích phổ biến của khoáng sản, người ta chia ra như sau:
• Tỉnh khoáng sản là một phần lớn lớp vỏ Trái Đất, tương quan với
nền địa chất, các đới uốn nếp hay đáy đại dương, với các mỏ khoáng
sản phân bố trong phạm vi của nó và vốn có của nó. Chẳng hạn,
người ta chia ra các tỉnh Kavkaz, tỉnh Ural (Nga) v.v. Đôi khi người ta
cũng phân biệt tỉnh kim loại, tỉnh than, tỉnh dầu khí v.v.
• Vùng (đới, bể/bồn) khoáng sản chiếm một phần của tỉnh và được đặc
trưng bằng một tập hợp các mỏ khoáng sản xác định về thành phần
và nguồn gốc, được xếp vào một và chỉ một nhóm thành phần kiến
tạo bậc nhất (nếp lồi ghép, nếp lõm v.v). Các đới khoáng sản có thể
là thuần nhất mà cũng có thể là không thuần nhất theo thành phần
khoáng sản, kích thước của nó dao động trong các giới hạn rộng.
Các bể khoáng sản tạo thành các vùng có sự phổ biến liên tục hay
gần như liên tục của các khoáng sản dạng vỉa.
• Khu khoáng sản tạo thành một phần của vùng và thường được đặc
trưng bằng sự tập trung cục bộ của các mỏ, và liên quan tới điều
này, khu khoáng sản không hiếm khi được gọi là đầu mối khoáng
sản.
• Bãi quặng là một nhóm các mỏ đồng nhất về nguồn gốc và thống
nhất về cấu trúc địa chất. Bãi khoáng sản cấu thành từ các mỏ, còn
các mỏ cấu thành từ các thân quặng.
• Thân quặng hay vỉa quặng là sự tích tụ cục bộ của nguyên liệu
khoáng vật thiên nhiên, có thành phần cấu trúc-thạch học xác định
hay tổ hợp của các thành phần này.
Vùng, khu, bãi mỏ có thể lộ ra hoàn toàn trên bề mặt đất và được nói tới
như là mỏ lộ thiên; nó cũng có thể bị phủ một phần bởi các loại đất đá khác
nhau, thuộc về loại mỏ bán kín hoặc có thể bị vùi lấp hoàn toàn thì được
xếp vào loại mỏ kín.
6
Bài báo cáo: Khoa Học Trái Đất GVHD: Ths. Bùi Thị Luận
Các nhóm trữ lượng khoáng sản rắn theo giá trị kinh tế-thương mại:
Các trữ lượng khoáng sản rắn và hàm lượng của các thành phần hữu ích
có trong chúng theo giá trị kinh tế được chia ra thành 2 nhóm chính, theo
các kiểm định và tính toán riêng biệt:
• Cân đối/kinh tế/thương mại
• Không cân đối/kinh tế tiềm tàng/thương mại tiềm tàng.
• Các trữ lượng cân đối/kinh tế/thương mại. Chúng được phân chia
thành:
o Các trữ lượng, mà sự khai thác và thu hồi chúng tại thời điểm
đánh giá theo các tính toán kinh tế-kỹ thuật là có hiệu quả về
mặt kinh tế, trong điều kiện cạnh tranh thị trường trong việc sử
dụng các kỹ thuật và công nghệ khai thác và chế biến nguyên
liệu, đảm bảo tuân thủ các yêu cầu về sử dụng hợp lý lòng đất
và bảo vệ môi trường trong và sau quá trình khai thác, chế biến
khoáng sản.
o Các trữ lượng, mà sự khai thác hay thu hồi chúng tại thời điểm
đánh giá theo các tính toán kinh tế-kỹ thuật không đảm bảo tính
hiệu quả có thể thực hiện được về mặt kinh tế-thương mại
trong việc khai thác-chế biến chúng trong điều kiện cạnh tranh
thị trường do các chỉ số kinh tế-kỹ thuật thấp, nhưng sự khai
thác nó trở thành có thể về mặt kinh tế-thương mại khi có
những sự hỗ trợ đặc biệt từ phía nhà nước đối với các pháp
nhân khai thác khoáng sản dưới các dạng như ưu đãi thuế, trợ
cấp, trợ giá v.v. (trữ lượng kinh tế/thương mại có giới hạn).
• Trữ lượng không cân đối (kinh tế tiềm năng/phi kinh tế). Chúng chia
ra thành:
o Các trữ lượng, đảm bảo các yêu cầu được đề ra đối với các trữ
lượng cân đối, nhưng việc sử dụng chúng tại thời điểm đánh
giá là không thể, theo các điều kiện và tình trạng của kỹ thuật
khai mỏ, các yêu cầu của luật pháp, các yêu cầu sinh thái-môi
trường và/hoặc các điều kiện khác;
o Các trữ lượng, mà việc khai thác hay thu hồi chúng tại thời
điểm đánh giá là không hợp lý về mặt kinh tế do hàm lượng
thành phần khoáng sản thấp,
bề dày thân quặng mỏng hay
sự phức tạp chuyên môn đặc
7
Bài báo cáo: Khoa Học Trái Đất GVHD: Ths. Bùi Thị Luận
biệt trong các điều kiện khai thác và/hoặc chế biến nó, nhưng
việc sử dụng nó trong tương lai gần có thể trở thành hiệu quả
về mặt kinh tế-thương mại do sự gia tăng giá cả của khoáng
sản trên thị trường hay do các tiến bộ khoa học-kỹ thuật đảm
bảo cho việc giảm giá thành sản xuất của khoáng sản đó.
Các trữ lượng không cân đối được kiểm định và tính toán trong trường
hợp, nếu các tính toán kinh tế-kỹ thuật đưa ra khả năng hoặc là bảo tồn nó
trong lòng đất để khai thác sau này; hoặc chỉ ra sự hợp lý của việc vừa
khai thác hiện tại vừa lưu giữ và bảo tồn để sử dụng trong tương lai.
Mẫu quặng Rubi Lục Yên, Yên Bái
Trong tính toán các trữ lượng không cân đối người ta chia chúng ra thành
các tiểu thể loại, phụ thuộc vào nguyên nhân làm chúng trở thành không
cân đối (kinh tế, kỹ thuật, kỹ thuật khai mỏ, sinh thái, môi trường v.v.).
Đánh giá tính chất cân đối của các trữ lượng khoáng sản được thực hiện
trên cơ sở các luận chứng kinh tế-kỹ thuật chuyên môn, được thẩm định
bởi các chuyên gia trong các lĩnh vực khác nhau. Trong các luận chứng
này cần phải dự kiến trước các phương pháp khai thác mỏ có hiệu quả
nhất, đánh giá về mặt giá thành và đề xuất các tham số tiêu chuẩn, đảm
bảo việc sử dụng đầy đủ và tổng hợp nhất đối với các trữ lượng, với sự
tính toán tới các yêu cầu của luật pháp trong lĩnh vực bảo vệ và phục hồi
môi trường-sinh thái trong và sau khi khai thác.
8
Bài báo cáo: Khoa Học Trái Đất GVHD: Ths. Bùi Thị Luận
II. Các dạng khoáng sản:
1. Khoáng sản nhiên liệu: hay nhiên liệu hóa thạch bao gồm dầu mỏ, hơi
đốt, đá phiến dầu, than bùn, than v.v
Nhiên liệu hóa thạch là các loại nhiên liệu được tạo thành bởi quá trình
phân hủy kỵ khí của các sinh vật chết bị chôn vùi cách đây hơn 300 triệu
năm. Các nguyên liệu này chứa hàm lượng cacbon và hydrocacbon cao.
Các nhiên liệu hóa thạch thay đổi trong dải từ chất dễ bay hơi với tỷ số
cacbon:hydro thấp như methane, dầu hỏa dạng lỏng, đến các chất không
bay hơi chứa toàn là cacbon như than đá. Methane có thể được tìm thấy
trong các mỏ hydrocacbon ở dạng riêng lẻ hay đi cùng với dầu hỏa hoặc ở
dạng methane clathrates. Về tổng quát chúng được hình thành từ các
phần còn lại của thực vật và động vật bị hóa thạch khi chịu áp suất và nhiệt
độ bên trong vỏ Trái Đất hàng triệu năm. Học thuyết phát sinh sinh vật
được Georg Agricola đưa ra đầu tiên vào năm 1556 và sau đó là Mikhail
Lomonosov vào thế kỷ 18.
Cơ quan thông tin năng lượng Hoa Kỳ (EIA) ước tính năm 2006 rằng
nguồn năng lượng nguyên thủy bao gồm 36,8% dầu mỏ, than 26,6%, khí
thiên nhiên 22,9%, chiếm 86% nhiên liệu nguyên thủy sản xuất trên thế
giới. Các nguồn nhiên liệu không hóa thạch bao gồm thủy điện 6,3%, năng
lượng hạt nhân 6,0%, và năng lượng địa nhiệt, năng lượng mặt trời, năng
lượng gió, nhiên liệu gỗ, tái chế chất thải chiếm 0,9%.
[4]
Tiêu thụ năng
lượng trên thế giới tăng mỗi năm khoảng 2,3%.
Các nhiên liệu hóa thạch là tài nguyên không tái tạo bởi vì trái đất mất
hàng triệu năm để tạo ra chúng và lượng tiêu thụ đang diễn ra nhanh hơn
tốc độ được tạo thành. Sản lượng và tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch làm tăng
các mối quan tâm về môi trường. Thế giới đang hướng tới sử dụng các
nguồn năng lượng tái tạo là một trong những cách giúp giải quyết vấn đề
tăng nhu cầu năng lượng.
Việc đốt nhiên liệu hóa thạch tạo ra khoảng 21,3 tỉ tấn carbon dioxide hàng
năm, nhưng người ta ước tính rằng các quá trình tự nhiên có thể hấp thu
phân nửa lượng khí thải trên, vì vậy hàm lượng cacbon dioxit sẽ tăng
10,65 tỉ tấn mỗi năm trong khí quyển (một tấn cacbon tương đương 44/12
hay 3,7 tấn cacbon đioxit). Cacbon đioxit là một trong những khí nhà kính
làm tăng lực phóng xạ và góp phần vào sự nóng lên toàn cầu, làm cho
nhiệt độ trung bình bề mặt của Trái Đất tăng.
Nguồn gốc:
Nhiên liệu hóa thạch được hình thành từ quá trình phân hủy kỵ khí của xác
các sinh vật, bao gồm thực vật phù du và động vật phù du lắng đọng xuống
9
Bài báo cáo: Khoa Học Trái Đất GVHD: Ths. Bùi Thị Luận
đáy biển (hồ) với số lượng lớn trong các điều kiện thiếu ôxy, cách đây
hàng triệu năm. Trải qua thời gian địa chất, các hợp chất hữu cơ này trộn
với bùn, và bị chôn vùi bên dưới các lớp trầm tích nặng. Trong điều kiện
nhiệt độ và áp suất cao làm cho các vật chất hữu cơ bị biến đổi hóa học,
đầu tiên là tạo ra kerogen ở dạng sáp. Chúng được tìm thấy trong các đá
phiến sét dầu và sau đó khi bị nung ở nhiệt cao hơn sẽ tạo ra hydrocacbon
lỏng và khí bởi quá trình phát sinh ngược.
Ngược lại, thực vật đất liền có xu hướng tạo thành than. Một vài mỏ than
được xác định là có niên đại vào kỷ Phấn trắng.
Các ví dụ so sánh tương đối:
• 1 lít xăng tương đương 23,5 tấn vật chất hữu cơ cổ lắng đọng trên
đáy biển.
• Tổng nhiên liệu hóa thạch sử dụng trong năm 1997 tương đương
khối lượng thực vật hóa thạch phát triển trong 422 năm trên bề mặt
Trái Đất và các đại dương cổ.
2. Khoáng sản kim loại:
Kim loại là loại vật liệu có các tính chất có lợi cho xây dựng: cường độ lớn,
độ dẻo và độ chống mỏi cao. Nhờ đó mà kim loại được sử dụng rộng rãi
trong xây dựng và các ngành kĩ thuật khác.
Kim loại đen được sử dụng trong xây dựng nhiều hơn cả, giá kim loại đen
thấp hơn kim loại màu. Tuy nhiên kim loại màu lại có nhiều tính chất có giá
trị: cường độ, độ dẻo, khả năng chống ăn mòn, tính trang trí cao.
Quặng kim loại cơ bản.
Quặng sắt và hợp kim sắt.
Quặng sắt có các kiểu nguồn gốc khác nhau đã được phát hiện ở nhiều
nơi như Hà Tĩnh, Thái Nguyên, Yên Bái, Cao Bằng.
Đáng chú ý là quặng sắt ở đồng bằng ven biển Thạch
Khê (Hà Tĩnh) có trữ lượng tới 550 triệu tấn.
10