Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Phát triển nguồn nhân lực tại công ty tài chính cổ phần hóa chất việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.27 KB, 57 trang )

3
Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Học viện chính trị khu vực I
PHAN THỊ HỒNG VÂN
Lý luận cao cấp chính trị - hành chính
ĐẢNG ỦY KHỐI CÁC CƠ QUAN KINH TẾ TRUNG ƯƠNG
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH CỔ PHẦN
HÓA CHẤT VIỆT NAM
Luận văn tốt nghiệp
Cao cấp lý luận chính trị - hành chính
Người hướng dẫn
Tiến sĩ: Phùng Trung Hiếu
HÀ NỘI - 8/2014
4
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 3
1Chương 1: CON NGƯỜI VÀ VAI TRÒ NHÂN TỐ CON NGƯỜI
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
7
1.1. Khái niệm con người và nhân tố con người 7
1.2. Vai trò của nguồn lực con người trong phát triển kinh tế - xã hội 12
1.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con người và phát
huy nguồn lực con người
15
Chương 2: THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC VÀ PHÁT TRIỂN
NGUỒN LỰC CON NGƯỜI Ở CÔNG TY TÀI CHÍNH CỔ PHẦN
HÓA CHẤT VIỆT NAM (2009 – 2013)
20
2.1. Khái quát về Công ty tài chính cổ phần hóa chất Việt Nam 20


2.2. Nguồn lực con người và phát triển nguồn nhân lực ở Công ty
tài chính cổ phần hóa chất Việt Nam
26
2.3. Những vấn đề đặt ra trong phát triển nguồn nhân lực ở Công ty
tài chính cổ phần hóa chất Việt Nam
37
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC Ở CÔNG TY TÀI CHÍNH CỔ PHẦN HÓA CHẤT VIỆT
NAM HIỆN NAY
41
3.1. Phương hướng phát triển nguồn nhân lực ở Công ty tài chính
cổ phần hóa chất Việt Nam
41
3.2. Các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực ở Công
ty tài chính cổ phần hóa chất Việt Nam hiện nay
43
KẾT LUẬN 52
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 55
5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ ra rằng, con người là chủ thể của hoạt
động sản xuất vật chất, đóng vai trò quyết định trong sự phát triển của lực
lượng sản xuất, đồng thời còn là chủ thể của quá trình lịch sử, của sự tiến bộ
xã hội. Trong các điều kiện và nguồn lực để phát triển kinh tế xã hội của các
quốc gia thì nhân tố con người luôn giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong
sự phát triển đó. Với các quốc gia chậm phát triển và đang phát triển thì nhân
tố con người càng có vai trò quan trọng hơn nữa trong tiến trình phát triển
kinh tế - xã hội.
Việt Nam là một quốc gia đang trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa

xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam, chúng ta đang thực
hiện công cuộc đổi mới xây dựng đất nước, tiến hành xây dựng và phát triển
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế. Đảng ta ngày càng nhận thức đầy đủ hơn về nhân tố con
người và vai trò của nhân tố con người trong sự phát triển kinh tế -xã hội.
Đảng xác định con người Việt Nam vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự
phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đảng đã khẳng định: “Con người là
vốn quý nhất”, “Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho
sự phát triển nhanh và bền vững”, “Con người và nguồn lực là nhân tố quyết
định sự phát triển của đất nước”. Quan điểm nhất quán của Đảng ta về con
người và vai trò của nhân tố con người, phát huy vai trò nhân tố con người đã
góp phần đưa sự nghiệp đổi mới đất nước của chúng ta phát triển và giành
được những thành tựu quan trọng trong gần 30 năm đổi mới vừa qua.
6
Công ty Tài chính Cổ phần Hóa chất Việt Nam (VCFC) được cấp phép
thành lập ngày 29/12/2008 với vốn điều lệ ban đầu là 300 tỷ đồng, với 4 cổ
đông sáng lập là Tập đoàn Hóa chất Việt Nam (Vinachem - chiếm 37% số
vốn), Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank- góp 10%),
Tổng công ty Cổ phần Bảo Minh (góp 10%) và Công ty TNHH một thành
viên Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc. Theo giấy phép hoạt động, VCFC sẽ hoạt
động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng với các sản phẩm, dịch vụ như huy
động vốn (thời hạn trên 1 năm), cho vay, bảo lãnh, thu xếp vốn, ủy thác đầu
tư, ủy thác quản lý vốn…
Sản phẩm chính của Công ty tài chính cổ phần Hóa chất Việt Nam là:
Kinh doanh dịch vụ tiền tệ trong nước và nước ngoài, bao gồm: Huy động
vốn; Hoạt động tín dụng (các hình thức Cho vay, Bảo lãnh, Chiết khấu, Tái
chiết khấu, Cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá trị khác); Các hoạt
động khác (đầu tư tài chính, tư vấn, đại lý, dịch vụ ngân quỹ, )…
Đối với một đơn vị có quy mô nhỏ, tổng số cán bộ, nhân viên chỉ hơn
50 người, để thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược đặt ra trong bối cảnh tình

hình kinh tế, chính trị trong nước và thế giới có nhiều diễn biến phức tạp,
khủng hoảng kinh tế thế giới diễn ra trên diện rộng ảnh hưởng đến nhiều nước
trên thế giới trong đó có Việt Nam, tình hình kinh tế trong nước chưa có dấu
hiệu phục hồi thì yếu tố con người suy cho cùng là yếu tố quyết định thành
công. Chăm lo bồi dưỡng, đào tạo con người, phát huy nhân tố con người
không những có ý nghĩa đối với nhiệm vụ trước mắt của công ty mà còn có ý
nghĩa chiến lược lâu dài, đòi hỏi việc phát huy nhân tố con người phải có giải
pháp đồng bộ, phù hợp với tình hình thực tiễn của đơn vị.
Từ tính cấp thiết trên, tác giả chọn vấn đề Phát triển nguồn nhân lực
tại Công ty Tài chính Cổ phần Hóa chất Việt Nam làm đề tài luận văn tốt
nghiệp chương trình Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính.
7
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở vận dụng quan điểm triết học Mác – Lênin trong việc phát
triển nguồn lực con người, đề tài phân tích thực trạng công tác cán bộ ở Công
ty Tài chính Cổ phần Hóa chất Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất những giải
pháp chủ yếu để phát triển nguồn nhân lực (nhân tố con người) tại Công ty
Tài chính Cổ phần Hóa chất Việt Nam.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về nguồn lực con người.
- Phân tích, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực và việc phát huy nguồn
nhân lực tại Công ty Tài chính Cổ phần Hóa chất Việt Nam.
- Luận giải, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn
nhân lực tại Công ty Tài chính Cổ phần Hóa chất Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng sử dụng và phát huy nguồn lực
con người ở Công ty Tài chính Cổ phần Hóa chất Việt Nam.

3.2 Phạm vi nghiên cứu
Tất cả các nhân tố, các điều kiện, các vấn đề tác động đến nguồn lực
con người ở Công ty Tài chính Cổ phần Hóa chất Việt Nam.
Thời gian từ 2009 đến 2015.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1 Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về con người, về cán bộ, các quan điểm đường lối và chủ trương
8
chính sách của Đảng và Nhà nước ta về nguồn lực con người và phát huy
nhân tố con người.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử; sử dụng các phương pháp cụ thể, như phân tích, tổng hợp,
logic và lịch sử, phương pháp thống kê…
5. Đóng góp của đề tài
- Hệ thống hóa những quan điểm lý luận mácxit về nhân tố con người
và phát triển nguồn nhân lực.
- Trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng của nguồn nhân lực ở
Công ty Tài chính Cổ phần Hóa chất Việt Nam đề xuất các giải pháp phát
triển nguồn nhân lực tại công ty.
- Ở một mức độ nhất định đề tài có thể là tài liệu tham khảo, nghiên
cứu, tham mưu cho các cấp lãnh đạo trong vấn đề nguồn nhân lực.
6. Kết cấu của đề ài
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề
tài gồm có 3 chương, cụ thể:
Chương 1: Con người và vai trò nhân tố con người trong phát triển
kinh tế - xã hội.
Chương 2: Thực trạng nguồn lực con người và phát triển nguồn nhân
lực tại Công ty Tài chính Cổ phần Hóa chất Việt Nam.

Chương 3: Phương hướng và những giải pháp chủ yếu phát triển
nguồn nhân lực tại Công ty Tài chính Cổ phần Hóa chất Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.

9
2Chương 1
3CON NGƯỜI VÀ VAI TRÒ NHÂN TỐ CON NGƯỜI
4TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1 KHÁI NIỆM CON NGƯỜI VÀ NHÂN TỐ CON NGƯỜI
1.1.1 Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về con người
Vấn đề con người trong lịch sử tư tưởng của triết học vốn đã nằm ở vị
trí trung tâm. Các quan niệm triết học trước Mác đã có nhiều lý thuyết về con
người, trong đó đã có những kiến giải sâu sắc, tích cực về bản chất, bản tính
con người và các mối quan hệ của con người. Tuy nhiên, do giới hạn về thế
giới quan, điều kiện lịch sử nên triết học trước Mác còn nhiều hạn chế, mới
chỉ đề cập đến con người một cách chung chung trừu tượng, xem xét lý giải
các vấn đề con người phi lịch sử không gắn với môi trường, hoàn cảnh trong
đó con người sống và hoạt động. Triết học trước Mác không thấy được vai trò
hoạt động thực tiễn của con người, tiếp cận con người hoặc thuần túy ý thức
hoặc thuần túy sinh vật tự nhiên. Do đó chưa đem lại cơ sở lý luận và phương
pháp luận đúng đắn cho việc xem xét và giải quyết các vấn đề con người.
Vượt qua mọi hạn chế, sai lầm của chủ nghĩa duy tâm với “con người ý
thức”, của chủ nghĩa duy vật siêu hình với “con người sinh vật”, với cách tiếp
cận con người hiện thực, Triết học Mác – Lênin đã chỉ ra rằng: con người là
một chỉnh thể sinh vật - xã hội, là thực thể song trùng tự nhiên – xã hội.
Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin, con người trước hết là một
thực thể sinh vật, một sinh vật sống với tất cả những đặc điểm sinh lý, cấu
trúc cơ thể và những nhu cầu tự nhiên của nó.
Nhờ có lao động mà con người tiến hóa từ động vật thành người. Con
người là một thực thể tự nhiên, một sản phẩm cao nhất trong sự phát triển của

giới tự nhiên. Con người gắn bó với tự nhiên nhưng con người không chỉ biết
10
khai thác tự nhiên, khám phá tự nhiên mà con người còn tác động vào tự
nhiên, sáng tạo thêm những cái mà tự nhiên không có. Chính trong quá trình
cải biến tự nhiên, con người làm biến đổi chính bản thân mình: con người trở
thành con người xã hội, cùng với những hoạt động, những quan hệ xã hội của
nó. Sự tồn tại của con người trong tự nhiên hay phần tự nhiên trong con người
(cái sinh vật) chỉ là tiền đề cho hoạt động bản chất của con người là hoạt động
sáng tạo. Trước những tác động của con người, giới tự nhiên đã dược nhân
loại hóa. Cái sinh vật (tự nhiên) ở con người là cơ sở tồn tại của cái xã hội, là
cái sinh vật - xã hội. Con người không còn là cái sinh vật thuần túy, con
người là sinh vật mang bản chất xã hội. Theo tiến trình phát triển lịch sử, cái
sinh vật - tự nhiên ấy ngày càng được xã hội hóa, xã hội càng văn minh, con
người càng phát triển thì cái bản năng sẽ ngày càng bị thu hẹp, nhường chỗ
cho hành vi tự giác của con người.
Như vậy, con người vừa là sản phẩm của tự nhiên vừa là sản phẩm của
xã hội. Vì thế, trong sự phát triển của con người, tự nhiên và xã hội là hai mặt
thống nhất của một chỉnh thể.
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại
con người, bởi vậy con người là sản phẩm của lịch sử. Triết học Mác – Lênin
đã chỉ ra vai trò của con người trong hoạt động thực tiễn, những hoạt động vật
chất cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội.
Con người là chủ thể của hoạt động thực tiễn, trước hết là hoạt động
thực tiễn lao động sản xuất vật chất, chủ thể của nhận thức, quan hệ xã hội,
những giá trị xã hội do hoạt động của con người tạo ra.
Quá trình con người cải tạo tự nhiên cũng là quá trình con người tự
hoàn thiện mình để trở thành con người với đúng nghĩa của nó. Chính lao
động đã làm biến đổi chất lượng cái tự nhiên trong con người xã hội. Bằng
những hoạt động sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần, con người đã xác
11

lập ra vai trò làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ chính bản thân
mình.Từ hoạt động sản xuất, con người đã chuyển hóa sức mạnh của tự nhiên
thành sức mạnh của mình bằng việc chế tạo ra công cụ lao động, cải tạo đối
tượng lao động theo yêu cầu của mình. Đồng thời, con người cũng sáng tạo ra
những mối quan hệ giữa con người với con người (những mối quan hệ về
kinh tế, quan hệ về chính trị, tinh thần …).
Như vậy, trong quá trình cải biến tự nhiên, con người đã làm ra lịch sử
của chính mình. Con người vừa là sản phẩm của lịch sử, đồng thời con người
còn là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người.
Con người là một thực thể xã hội được tách ra như một lực lượng đối
lập với giới tự nhiên, sự tác động qua lại giữa cái sinh học và cái xã hội tạo
thành bản chất con người.
C.Mác và Ph.Ăng ghen đã nhấn mạnh: con người chỉ tồn tại với tư cách
là Người trong mối quan hệ với con người, với cộng đồng, với thế giới xung
quanh nó. Hệ thống các mối quan hệ xã hội của con người được hình thành
trong quá trình con người tham gia hoạt động thực tiễn, tham gia vào đời sống
- xã hội. Tổng hòa các mối quan hệ ấy, đến lượt nó, lại quy định đời sống xã
hội, quy định bản chất xã hội của con người. C.Mác đã khẳng định: “ Bản
chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng
biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa những
quan hệ xã hội.
Như vậy, quan hệ xã hội là yếu tố cấu thành, là đặc trưng bản chất của
con người, đó là một bản chất xã hội dựa trên tiền đề cơ sở là thực thể tự
nhiên Triết học Mác cũng chỉ ra: các quan hệ xã hội quy định bản chất của
con người không tách rời, cô lập với quan hệ sản xuất là cơ sở luôn ở trong
quá trình vận động và biến đổi cùng với quan hệ giữa con người với tự
12
nhiên.Vì vậy, bản chất của con người không phải là bất biến mà luôn vận
động, biến đổi và phát triển theo xu hướng ngày càng hoàn thiện hơn.
Tóm lại: theo quan điểm triết học Mác – Lênin, con người là một bộ

phận của tự nhiên, là sản phẩm phát triển cao nhất của tự nhiên. Cùng với đó,
con người là một thực thể xã hội, là sản phẩm của sự phát triển xã hội. Vì vậy,
con người là một chỉnh thể thống nhất giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội. Con
người là chủ thể của lịch sử đồng thời là sản phẩm của lịch sử. Bản chất của
con người là tổng hòa những quan hệ xã hội. Quan điểm triết học Mác –
Lênin đã trở thành luận cứ khoa học cho hoạt động nghiên cứu và giải quyết
các vấn đề con người vì mục đích cao nhất là giải phóng con người.
1.1.2 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về con người và đặc
trưng của nhân tố con người
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, con người không chỉ là sản
phẩm của sự phát triển tự nhiên và xã hội mà còn là chủ thể tích cực cải biến
tự nhiên và xã hội. Khi con người tồn tại với tư cách là một nhân tố thúc đẩy
đời sống kinh tế - xã hội phát triển gọi là nhân tố con người. Như vậy, khái
niệm nhân tố con người không đồng nhất với khái niệm con người. Nói tới
nhân tố con người là nói tới năng lực của con người nhằm thúc đẩy sự phát
triển của xã hội.
Nhân tố con người hướng đến những phẩm chất liên quan đến hoạt
động của con người nhằm tạo nên những giá trị xã hội, giá trị con người, thúc
đẩy sự phát triển, hoàn thiện của cá nhân và sự tiến bộ, phát triển của xã hội.
Nhân tố con người là sự tổng hòa các lực lượng bản chất của con người nhằm
đảm bảo cho con người tồn tại với tư cách là chủ thể của đời sống xã hội, là
một thực thể hoạt động hiện thực, là một động lực quan trọng nhằm phát triển
kinh tế- xã hội. Khái niệm nhân tố con người nhấn mạnh đến tính tự giác, tính
tích cực chủ động sáng tạo của con người trong xã hội. Khi xem xét nhân tố
13
con người chúng ta phải gắn nó trong các mối quan hệ giữa con người với các
nhân tố tự nhiên, kỹ thuật, môi trường, trong các điều kiện lịch sử cụ thể cũng
như các hoạt động phát triển xã hội và phát triển con người.
Khi nghiên cứu nhân tố con người có nhiều góc độ tiếp cận khác nhau,
hứớng tiếp cận khác nhau như: Hướng tiếp cận nhấn mạnh vào những hoạt

động của nhân tố con người, vào sự thể hiện phẩm chất và đặc trưng bản chất
của nó trong các hoạt động có tính định hướng và cải tạo hiện thực; Tiếp cận
nhân tố con người dưới góc độ nhân cách nhấn mạnh đến vị trí, vai trò của
con người với tư cách là chủ thể hoạt động có ý thức, có mục đích đối với sự
phát triển của xã hội, nhấn mạnh đến các phẩm chất, năng lực – đặc trưng
nhân cách của con người; Theo hướng tiếp cận hệ thống đối với nhân tố con
người cho rằng: con người ở mọi lúc, mọi nơi luôn là yếu tố cơ bản chủ yếu
để hợp thành hệ thống xã hội. Khi nghiên cứu nhân tố con người trong hệ
thống cấu trúc xã hội cho thấy nhân tố con người như một hệ thống – cấu trúc
phức tạp trong quá trình vận động, phát triển xã hội Trên cơ sở các góc độ
tiếp cận, nói tới nhân tố con người có thể xác định ở các phương diện sau:
Thứ nhất: nhân tố con người chỉ hoạt động của con người, bao gồm
hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận hay còn gọi là hoạt động vật chất và
hoạt động tinh thần.
Thứ hai: nhân tố con người là tổng hòa những đặc trưng về phẩm chất
và năng lực của con người.
Thứ ba: nhân tố con người là sự thống nhất của tính cá nhân (cá thể) và
tính xã hội (cộng đồng).
Ba phương diện này thống nhất biện chứng với nhau trong sự vận động
và phát triển. Trong đó, hoạt động của con người gắn liền với phẩm chất và
năng lực, nó dựa trên những điều kiện nhất định thì phẩm chất, năng lực mới
thực hiện được. Sự thống nhất giữa cá nhân và xã hội, cá thể và cộng đồng chỉ
14
ra vị trí, đặc trưng của nhân tố con người so với nhân tố khác trong thế giới
hiện thực.
Trên cơ sở kế thừa các quan điểm về nhân tố con người, có thể đi đến
khái niệm nhân tố con người như sau: nhân tố con người là tổng thể các yếu
tố liên quan đến con người cấu thành một chỉnh thể thống nhất giữa mặt hoạt
động với tổng hòa những đặc trưng về phẩm chất và năng lực của con người
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi cộng đồng, quốc gia trong

những giai đoạn lịch sử nhất định.
Như vậy, nhân tố con người tồn tại với tư cách là một chủ thể có khả
năng lao động sáng tạo. Đó là khả năng không ngừng vươn tới cái tốt đẹp hơn
hoàn thiện hơn, nó chi phối sự tồn tại, phát triển của bản thân con người.
Nhân tố con người là loại nhân tố đặc biệt được tạo bởi những con người có
tính tự chủ, có khả năng làm chủ trong mọi hành động, được thể hiện trong
mối quan hệ với thiên nhiên, với xã hội và với bản thân mình. Nhân tố con
người là nguồn sức mạnh được tạo bởi con người có khả năng liên kết thành
cộng đồng, thể hiện tính cộng đồng trong phương thức hoạt động của mình.
1.2 VAI TRÒ CỦA NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG PHÁT TRIỂN KINH
TẾ - XÃ HỘI
Triết học Mác – Lênin đã chỉ ra con người là sản phẩm của sự phát
triển tự nhiên và xã hội đồng thời là chủ thể của quá trình cải biến tự nhiên và
xã hội điều đó đã khẳng định vai trò của nhân tố con người trong sự phát triển
kinh tế - xã hội. Vai trò của nguồn lực con người được thể hiện trong tương
quan với các yếu tố khác. Trong tương quan đó, nhân tố con người thể hiện
với tư cách là chủ thể phát hiện, khai thác và sử dụng.
Bản thân các yếu tố khác không thể tự nó tham gia vào các hoạt động
kinh tế - xã hội. Chúng chỉ có thể thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển nhờ vào
15
sự khai thác, sử dụng của con người. Mặt khác, bản thân việc tham gia thúc
đẩy của các yếu tố tự nhiên ở mức độ nào cũng là do con người quyết định.
Sự phát triển của mỗi quốc gia phụ thuộc vào nhiều nhân tố: con người,
vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn… Mỗi nhân tố có vai trò riêng
và vai trò đó cũng khác nhau ở mỗi quốc gia khác nhau. Tuy nhiên, có một
điểm chung ở mỗi quốc gia là nhân tố con người luôn có vai trò quyết định.
Tách biệt với nguồn lực con người, các yếu tố khác chỉ còn tồn tại dưới
dạng tiềm năng. Tiềm năng đó chỉ phát huy tác dụng thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội khi nó kết hợp với nhân tố con người.
Vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên là những nhân tố quan trọng, ảnh

hưởng trực tiếp đến sự phát triển của mỗi quốc gia. Nhưng trên thực tế vai trò
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của chúng lại phụ thuộc rất lớn vào khả
năng khai thác, sử dụng của nhân tố con người. Ở một số nước, vị trí địa lý
thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên phong phú là điều kiện làm cho đất nước
ngày càng giàu mạnh. Ở một số nước khác có điều kiện tương tự nhưng do
con người khai thác một cách bừa bãi làm tài nguyên nhanh chóng cạn kiệt
không tạo ra được sự phát triển bền vững. Trong khi đó, có một số nước mặc
dù tài nguyên khoáng sản rất nghèo, nhưng do chiến lược con người đúng đắn
nên vẫn đạt được tốc độ phát triển nhanh, đất nước cường thịnh.
Cùng với vị trí địa lý và tài nguyên thiên nhiên, vốn ban đầu cũng là
nhân tố quan trọng cho sự phát triển của bất kỳ quốc gia nào. Nhưng vốn ấy
chỉ có thể phát huy vai trò tích cực, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội khi
nó được con người sử dụng hợp lý, có hiệu quả.
Như vậy nhân tố con người là nhân tố năng động, có khả năng phát
hiện khai thác và quyết định hiệu quả của việc khai thác sử dụng các nhân tố
khác vì sự phát triển của con người và xã hội.
16
Để nhân tố con người tạo ra được sức mạnh to lớn phát huy vai trò của
mình trong sự phát triển kinh tế - xã hội thì vấn đề đặt ra là phải phát huy
nhân tố con người. Phát huy nhân tố con người là làm cho cái hay, cái tốt lan
tỏa tác dụng và tiếp tục nảy nở thêm. Phát huy nhân tố con người chính là sự
chăm lo, tạo ra những điều kiện cần thiết để mỗi người, mỗi cộng đồng thể
hiện tối đa năng lực sáng tạo nhằm phát triển kinh tế - xã hội. Phát huy nhân
tố con người thực chất là phát huy nâng cao tính tích cực của con người, của
người lao động bởi tính tích cực xã hội là đặc tính năng lực bản chất của con
người. Việc tạo điều kiện cho mỗi người, mỗi cá nhân đem tài năng, trí lực,
sự sáng tạo của mình tham gia vào mọi hoạt động kinh tế - xã hội, trước hết
để đảm bảo lợi ích thiết thân, thỏa mãn nhu cầu của chính bản thân họ đó
cũng là vấn đề cơ bản để phát huy tính tích cực của mỗi người. Bởi vậy, cần
phải khuyến khích và coi trọng nhu cầu, lợi ích chân chính của mỗi cá nhân,

đồng thời giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập
thể, lợi ích xã hội, lợi ích riêng và lợi ích chung. Làm chủ thiên nhiên, làm
chủ xã hội và làm chủ bản thân là những mặt, những khía cạnh khác nhau của
một chỉnh thể thống nhất là con người. Các mặt đó đều phản ánh trình độ phát
triển của bản thân con người, trong đó trình độ làm chủ bản thân của mỗi
người là khía cạnh phản ánh trực tiếp nhất, đồng thời cũng chi phối các mặt
khác. Chất lượng của nhân tố con người phụ thuộc chính vào sự tác động của
yếu tố tự chủ bản thân con người và những yếu tố bên ngoài thường xuyên tác
động vào. Ngày nay, sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ đã
có tác động to lớn đối với con người. Khoa học công nghệ không chỉ thúc đẩy
gia tăng năng suất lao động mà còn ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực, mọi hoạt
động trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp. Phát huy nhân tố con người trong quá trình phát triển kinh tế - xã
hội là làm thế nào để con người tham gia tích cực vào quá trình phát triển lực
17
lượng sản xuất và hoàn thiện mình với tư cách là một bộ phận của lực lượng
sản xuất ấy.
Con người là chủ thể của quá trình phát triển kinh tế - xã hội do vậy
phát huy nhân tố con người phải đặt trong mối quan hệ giữa khai thác, bồi
dưỡng và phát triển. Đó là quá trình không ngừng hoàn thiện tính tích cực, tự
giác, sáng tạo của con người vào hoạt động thực tiễn phát triển kinh tế - xã
hội.
1.3 QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ CON NGƯỜI VÀ
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC.
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập đến nay đã rất chú ý đến vấn
đề con người trong đường lối chiến lược cách mạng của mình. Quan tâm xây
dựng con người, phát huy sức mạnh con người để giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội, giải phóng con người là sự nghiệp cách mạng cao cả của Đảng
ta và của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội

trước hêt cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Con người xã hội chủ
nghĩa mà chúng ta xây dựng trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng của người
đó là con người phát triển toàn diện, hài hòa về nhân cách, cao về trí tuệ,
cường tráng về thể chất, phong phú về tâm hồn, trong sáng về đạo đức. Con
người xã hội chủ nghĩa là lý tưởng, là mục tiêu mà chúng ta cần đạt tới, đồng
thời nhân tố con người cũng chính là chủ thể của tiến trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Trên cơ sở của quan điểm Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và xuất
phát từ thực tế của công cuộc đổi mới xây dựng đất nước, Đảng ta đã nhận
thức ngày càng đầy đủ, sâu sắc hơn vai trò của nhân tố con người trong sự
phát triển kinh tế xã hội. Đảng ta đã khẳng định: nguồn lực quý báu nhất, có
vai trò quyết định nhất là con người Việt Nam. Đảng cũng chỉ rõ: nhân tố con
18
người chính là nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam.Việt Nam
chúng ta đang tiếp tục thực hiện đổi mới toàn diện, mạnh mẽ theo con đường
xã hội chủ nghĩa, sự phát triển, tăng trưởng kinh tế xét đến cùng cũng là vì
con người, hướng đến con người. Các nghị quyết, chủ trương, chính sách của
Đảng đã thể hiện thật sự coi trọng con người, coi con người là nhân tố có tính
quyết định để xây dựng thành công xã hội mới.
Từ Đại hội VI của Đảng năm 1986, Đại hội đánh dấu công cuộc đổi
mới của toàn Đảng, toàn dân ta, Đảng đã rất chú trọng đến quyền làm chủ của
nhân dân lao động “thực chất là tôn trọng con người, phát huy sức sáng tạo
của mọi tầng lớp nhân dân, hướng sự sáng tạo đó vào sự nghiệp xây dựng xã
hội mới”. Từ quan điểm của Đảng về con người, mọi chủ trương chính sách
của Đảng đều chú trọng đến việc chăm lo bồi dưỡng phát huy nhân tố con
người. Mọi chiến lược phát triển xã hội của Đảng ta bao giờ cũng đặt con
người vào vị trí trung tâm, coi đó là nguồn lực nội sinh quyết định sự phát
triển. Phát huy nhân tố con người và lấy việc phục vụ con người là mục đích
cao nhất của mọi hành động. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) Đảng ta đã khẳng định: xã hội xã

hội chủ nghĩa là một xã hội con người được giải phóng, nhân dân làm chủ, có
nền kinh tế phát triển cao và nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển cá
nhân, công bằng xã hội và dân chủ được đảm bảo. Trong Cương lĩnh Đảng đã
chỉ rõ: Phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng
về quyền lợi và nghĩa vụ công dân, kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ
xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa đáp ứng các nhu cầu
trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài, giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng
xã hội.
19
Tại Đại hội làn thứ VII của Đảng, Đảng ta đã xác định đẩy mạnh hơn
nữa sự nghiệp giáo dục đào tạo, khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu
để phát huy nhân tố con người – động lực trực tiếp của sự phát triển. Hội nghị
Trung ương lần thứ IV khóa VII Đảng ta đã nhấn mạnh: Con người là vốn
quý nhất, chăm lo hạnh phúc con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế
độ ta… Chúng ta cần tìm hiểu sâu sắc những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết
định của nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn gốc của cải
vật chất và văn hóa, mọi nền văn minh của các quốc gia, phải xuất phát từ
tinh thần nhân văn sâu sắc nhằm phát triển con người toàn diện, xây dựng một
xã hội công bằng, nhân ái, thiết lập quan hệ thật sự tốt đẹp và tiến bộ giữa con
người với con người trong sản xuất và trong đời sống.
Sau mười năm thực hiện công cuộc đổi mới chúng ta đã giành được
những thành tựu to lớn, đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội và đã
tạo ra được những tiền đề cần thiết để đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa
đưa đất nước ta chuyển sang thời kỳ phát triển mới. Đại hội Đảng lần thứ VIII
năm 1996 đã đưa ra chiến lược con người là thực hiện “Chính sách xã hội
đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng
sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Vấn đề
chiến lược con người đã được đại hội cụ thể hóa thành các quốc sách lớn
thích ứng với yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là các

chính sách nhằm phát huy nguồn lực con người và thực hiện công bằng xã
hội. Mục đích của các chính sách này là nhằm phát triển trí tuệ của người Việt
Nam, nguồn lực quyết định nhất, quý giá nhất của chúng ta trong sự nghiệp
đổi mới đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Đảng đã chỉ ra
phải “ khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài
trí của người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu
bằng khoa học và công nghệ”. Đảng ta đã khẳng định: “tăng trưởng kinh tế
20
phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong
suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối
hợp lý tư liệu sản xuất lẫn khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều
kiện cho mọi người đề có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình”.
Thực hiện công bằng xã hội trên phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội và trong từng chính sách phát triển chính là biện pháp tích cực nhất để
phát triển toàn diện con người.
Tiếp tục nhất quán tư tưởng chiến lược con người của thời kỳ đổi mới,
Đại hội Đảng lần thứ IX, thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định: chiến lược con
người phải nằm ở vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mọi chủ
trương chính sách nhằm phát huy nhân tố con người đều xuất phát từ quan
điểm cho rằng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, là chủ nhân thực sự của
xã hội, là chủ thể của mọi hoạt động kinh tế, văn hóa xã hội và là mục tiêu
của của sự phát triển xã hội. Đảng chủ trương: phát triển giáo dục và đào tạo
là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, là điều kiện phát huy nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để
phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Kế thừa và phát triển quan điểm của các kỳ đại hội trước về vai trò của
nhân tố con người và chiến lược con người, căn cứ vào tình hình trong nước
và quốc tế tác động đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam,
Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ: “Con người là trung tâm của chiến lược phát

triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người,
gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm
chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia đình,
nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong
việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức
21
làm chủ trách nhiệm công dân, có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống có
văn hoá nghĩa tình, có tinh thần quốc tế chân chính. Đảng đã đưa ra quan
điểm: “Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là
chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”. Nội dung chính
của quan điểm phát triển này là: Đảm bảo quyền con người, quyền công dân
và các điều kiện để mọi người được phát triển toàn diện, nâng cao năng lực và
tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ, phát huy mạnh mẽ
mọi khả năng sáng tạo và bảo đảm đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực
phát triển đất nước, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài,
chăm lo lợi ích chính đáng và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của mọi người dân, thực hiện công bằng xã hội.
Như vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam đặc biệt từ khi
tiến hành sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta luôn chú trọng nhân tố con
người, coi nhân tố con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của
xã hội. Các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam
đều nhằm phát huy nhân tố con người và lấy việc phục vụ con người là mục
đích cao nhất của mọi hành động.
22
Chương 2
5THỰC TRẠNG NGUỒN LỰC CON NGƯỜI
6VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TẠI CÔNG TY
7TÀI CHÍNH CỔ PHẦN HÓA CHẤT VIỆT NAM
8(2009 – 2013)
2.1. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY TÀI CHÍNH CỔ PHẦN HÓA CHẤT VIỆT

NAM
Công ty Tài chính Cổ phần Hóa chất Việt Nam là tổ chức tín dụng phi
ngân hàng hoạt động theo Luật các Tổ chức tín dụng của Nước Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam và Điều lệ tổ chức hoạt động của Công ty được Đại
hội đồng cổ đông thông qua vào tháng 12 năm 2008. Công ty có tư cách pháp
nhân đầy đủ, hạch toán kinh tế độc lập, có con dấu riêng, được mở tài khoản
tại ngân hàng trong và ngoài nước, tổ chức, hoạt động theo Luật các tổ chức
tín dụng.
Tên gọi đầy đủ của Công ty: CÔNG TY TÀI CHÍNH CỔ PHẦN
HÓA CHẤT VIỆT NAM
Stt Tên cổ đông Mức nắm giữ
hiện tại
Mức nắm giữ kỳ
trước
I. Pháp nhân 62,0% 72,0%
1 Tập đoàn Hóa chất Việt Nam 37 37
2 Tổng Công ty Cổ phần Bảo
Minh
0 10
3 Techcombank 10 10
4 VPBS 15 15
Các tổ chức khác* 6.98% 8,15%
5 Công ty TNHH MTV Phân
đạm & Hóa chất Đạm Hà Bắc
2 2
6 Công ty CP Nam Việt 0 1,67
7 Công ty cổ phần giải pháp kỹ
thuật năng lượng
0 1
8 Cty TNHH Phát triển Thể thao

và giải trí Mễ Trì
4,98 2,98
9 Công ty vật tư và kỹ thuật nông
nghiệp Bắc Giang
0 0,50
23
II. Thể nhân 31,02% 19,85%
1 Nguyễn Thị Thu Hồng 1,67 1,67
2 Nguyễn Quỳnh Vân 4,92 4,92
3 Trần Thị Minh Nguyệt 4,99 4,99
4 Trần Thị Thanh Hiên 4,98 4,98
5 Nhâm Hải Hà 4,56 0
6 Lưu Thị Thủy 3,33 0
7 Phí Tuấn Thành 3,33 0
8 Tổng số cổ phần các cá nhân
khác còn lại nắm giữ
3,24 3,29
* Là các tổ chức, cá nhân nắm giữ dưới 5% cổ phần của Quý Công ty
Trong vòng 10 năm tới trở thành Công ty tài chính hàng đầu của Việt
Nam dựa trên 3 tiêu chí cơ bản: “Chuyên nghiệp, sáng tạo và hiệu quả”
Công ty cổ phần Tài chính Hóa chất Việt Nam là tổ một đơn vị kinh
doanh tiền tệ, trong đó chủ yếu là cho vay ngắn, trung và dài hạn, đầu tư
GTCG, đầu tư góp vốn mua cổ phần, tập trung dịch vụ tư vấn, thu xếp vốn, cơ
cấu, sắp xếp lại cho các công ty thành viên của Tập đoàn Hóa chất Việt Nam
và các cổ đông sáng lập; dịch vụ quản lý dòng tiền cho Tập đoàn Hóa chất
Việt Nam và Tổng Công ty cổ phần Bảo Minh; quản lý vốn nhàn rỗi của các
cổ đông và các đơn vị thành viên của các cổ đông một cách có hiệu quả.
Giá trị cốt lõi của công ty:
- Là đối tác tin cậy của mọi khách hàng;
- Là niềm tự hào cho toàn thể cán bộ nhân viên;

- Là tổ chức tín dụng hoạt động hiệu quả của hệ thống tín dụng
Việt Nam, mang lại lợi nhuận đầu tư cao nhất cho các cổ đông.
Mục tiêu hoạt động với khách hàng:
- Trở thành một đối tác tin cậy, an toàn;
- Cung cấp các dịch vụ, sản phẩm đa dạng, tiện ích và ưu việt;
- Cung cấp các sản phẩm mới phù hợp xu thế thị trường và nhu cầu
của khách hàng;
Mục tiêu hoạt động với người lao động:
24
- Phát triển đội ngũ cán bộ nhân viên có trình độ, tính chuyên
nghiệp cao và được đãi ngộ xứng đáng theo hiệu quả công việc.
- Tạo ra một môi trường làm việc có tính chuyên nghiệp cao, phát
huy tối đa tiềm năng của người lao động.
Sản phẩm của công ty
Công ty cổ phần tài chính hóa chất kinh doanh một số sản phẩm/dịch
vụ tài chính sau:
 Huy động vốn
Công ty tài chính huy động vốn dưới các hình thức sau:
- Nhận tiền gửi có kỳ hạn từ 01 năm trở lên của tổ chức, cá nhân
theo quy định của pháp luật, của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để
huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước khi được Thống
đốc NHNN chấp thuận;
- Vay vốn của các tổ chức tài chính, tổ chức tín dụng khác hoạt
động tại Việt Nam và của các tổ chức tài chính quốc tế;
- Tiếp nhận vốn ủy thác của Chính phủ, các tổ chức, cá nhân trong
và ngoài nước;
- Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của NHNN.
 Hoạt động tín dụng
Công ty tài chính cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức

cho vay, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho
thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của NHNN.
 Các hình thức cho vay
Công ty tài chính cho các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới các hình thức
sau đây:
25
- Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng các nhu cầu vốn cho sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ, đời sống;
- Cho vay trung hạn, dài hạn nhằm thực hiện các dự án đầu tư phát
triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đời sống;
- Cho vay theo ủy thác của Chính phủ, các tổ chức, cá nhân trong
và ngoài nước theo quy định hiện hành của Luật các tổ chức tín dụng và hợp
đồng ủy thác;
- Cho vay tiêu dùng bằng hình thức cho vay mua trả góp.
 Bảo lãnh
Công ty Tài chính Cổ phần Hóa chất Việt Nam bảo lãnh vay, bảo lãnh
thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu và các hình thức
bảo lãnh khác cho các tổ chức tín dụng, tổ chức kinh tế và các cá nhân theo
quy định của NHNN.
 Chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ
có giá trị khác
- Công ty Tài chính Cổ phần Hóa chất Việt Nam được cấp tín
dụng bằng hình thức chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá trị khác
theo quy định pháp luật hiện hành. Người chủ sở hữu thương phiếu và các
giấy tờ có giá trị khác phải giao ngay mọi quyền, lợi ích hợp pháp phát sinh từ
các giấy tờ đó cho Công ty Tài chính Cổ phần Hóa chất Việt Nam;
- Công ty Tài chính Cổ phần Hóa chất Việt Nam được cấp tín
dụng dưới hình thức cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá trị khác theo
quy định của pháp luật hiện hành. Công ty tài chính được thực hiện các quyền
và lợi ích hợp pháp phát sinh trong trường hợp chủ sở hữu của các giấy tờ đó

không thực hiện đầy đủ những cam kết trong hợp đồng tín dụng;
26
- Công ty tài chính được tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và
các giấy tờ có giá trị đối với các tổ chức tín dụng khác theo quy định của pháp
luật hiện hành.
Các hoạt động khác
Công ty tài chính thực hiện các hoạt động khác sau đây:
 Hoạt động đầu tư tài chính:
- Dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của các
tổ chức tín dụng khác và các doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.
- Đầu tư các dự án theo hợp đồng;
- Đầu tư các giấy tờ có giá;
- Đầu tư theo ủy thác của Chính phủ, các tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước theo quy định hiện hành và hợp đồng ủy thác;
- Góp vốn đầu tư cho các dự án.
 Hoạt động tư vấn:
- Tư vấn đầu tư;
- Tư vấn lập dự án đầu tư, xây dựng phương án kinh doanh;
- Thẩm định độc lập các dự án đầu tư, tổng dự toán công trình,
phương án kinh doanh;
- Phân tích và dự báo thị trường;
- Tư vấn quản lý vốn và tài sản;
- Tư vấn đầu tư bất động sản;
- Tư vấn tài chính và kế toán;
- Phân tích, đánh giá báo cáo tài chính;
- Tư vấn lập báo cáo tài chính, tư vấn hợp đồng;
- Tư vấn soạn thảo, đàm phán hợp đồng vay vốn trong và ngoài
nước theo sự ủy quyền của các cổ đông chiến lược;
27
- Tư vấn cổ phần hóa cho Tổng Công ty Hóa chất Việt Nam và các

đơn vị thành viên hoặc các tổ chức khác có nhu cầu.
 Hoạt động đại lý:
- Đại lý phát hành: đại lý phát hành trái phiếu, cổ phiếu và các
giấy tờ có giá khác cho Tổng Công ty Hóa chất Việt Nam, các đơn vị thành
viên và các tổ chức khác theo quy định hiện hành và hợp đồng đại lý;
- Đại lý bảo hiểm cho các công ty bảo hiểm trong nước và nước
ngoài;
- Đại lý thanh toán cho các tổ chức tín dụng khác theo quy định
hiện hành và hợp đồng đại lý.
 Dịch vụ ngân quỹ:
Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho các tổ chức và cá nhân.
 Hoạt động khác:
- Góp vốn với tổ chức tín dụng nước ngoài để thành lập tổ chức tín
dụng liên doanh tại Việt Nam theo quy định của Chính phủ về tổ chức và hoạt
động của tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam;
- Tham gia thị trường tiền tệ theo qui định của NHNN;
- Thực hiện dịch vụ kiều hối, kinh doanh ngoại hối và vàng trên
thị trường trong nước và thị trường quốc tế khi được NHNN cho phép;
- Bảo quản các hiện vật quý và các giấy tờ có giá, cho thuê tủ két,
nhận cầm cố và các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật;
- Thành lập các công ty con để thực hiện các hoạt động kinh doanh
có liên quan tới hoạt động của công ty tài chính theo quy định của pháp luật
(công ty bảo hiểm, công ty cho thuê tài chính, công ty quản lý quỹ đầu tư ).

×