Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Nghiên cứu chính sách miễn giảm thủy lợi phí trong hoạt động tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (653.32 KB, 111 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THUỶ LỢI





Nguyễn Hồng Khanh






NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH MIỄN GIẢM THUỶ LỢI PHÍ
TRONG HOẠT ĐỘNG TƯỚI TIÊU PHỤC VỤ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP





LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ





Hà Nội, 2010


LỜI CAM ĐOAN




Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi tự tìm tòi,
nghiên cứu; các số liệu trong luận văn có cơ sở rõ ràng và
trung thực.


Tác giả luận văn





Nguyễn Hồng Khanh




2
MỞ ĐẦU
Tài nguyên nước hiện nay đã và đang được các quốc gia và toàn thể cộng đồng
trên thế giới quan tâm bảo vệ. Như chúng ta đã biết, Hội nghị thượng đỉnh của lãnh
đạo các quốc gia trên thế giới tổ chức tại Rio de Janeiro (Brazil), tháng 6/1992 về
Môi trường và Phát triển, đã đưa ra bốn nguyên tắc khuyến nghị các quốc gia trên
thế giới có những biện pháp khẩn cấp, nhằm tăng cường việc bảo vệ và phát triển
nguồn nước, trong đó đã đề cập đến các khía cạnh sinh thái, thể chế, xã hội và kinh
tế. Cụ thể như sau:
“Nguyên tắc sinh thái: Nước ngọt là nguồn tài nguyên có hạn và dễ bị tổn
thương, cần thiết cho sự sống, phát triển và môi trường.
Nguyên tắc thể chế: Phát triển và quản lý nước phải dựa trên cơ sở tiếp cận có

sự tham gia của các bên có liên quan, từ người sử dụng đến người lập kế hoạch quy
hoạch, người lập chính sách, ở mọi cấp độ.
Nguyên tắc xã hội: Phụ nữ đóng vai trò trung tâm trong việc cung cấp, quản lý
và đảm bảo an toàn về nước.
Nguyên tắc kinh tế: Nước có giá trị kinh tế ở mọi nhu cầu sử dụng có tính cạnh
tranh và phải được xem như hàng hóa kinh tế”.
Ở nước ta, trong những năm gần đây, nước đã được coi là tài nguyên và Chính
phủ đã đệ trình Quốc hội ban hành Luật Tài nguyên nước, chính thức được thông
qua vào tháng 5/1998.
Việc ban hành Luật Tài nguyên nước là một bước tiến quan trọng trong việc
đưa vấn đề bảo vệ tài nguyên nước trở thành một yêu cầu cấp bách trong giai đoạn
hiện nay của Chính phủ Việt Nam, đồng thời cũng đưa Việt Nam là một trong số ít
các nước có Luật riêng về Tài nguyên nước.
Tại mục 3, khoản 1, Điều 23 của Luật Tài nguyên nước đã quy định về nghĩa
vụ của các tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước như sau:
“1. Tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước có những nghĩa vụ
sau đây:
e) Thực hiện nghĩa vụ tài chính; bồi thường thiệt hại do mình gây ra trong khai




3
thác, sử dụng tài nguyên nước theo quy định của pháp luật”.
Tại khoản 3, Điều 47 của Luật Tài nguyên nước, về khai thác và bảo vệ công
trình thuỷ lợi đã quy định:
“3. Tổ chức, cá nhân khai thác và hưởng lợi từ công trình thủy lợi phải thực
hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp
luật”.
Như vậy, tiếp cận nước là một loại hàng hoá kinh tế và việc các tổ chức, cá

nhân phải có trách nhiệm tài chính đối với việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước
đã được các quốc gia và Chính phủ Việt Nam quan tâm từ lâu.
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đến nay, Nhà nước và nhân dân ta đã đầu tư xây dựng để hình thành nên một
hệ thống cơ sở hạ tầng thuỷ lợi hết sức to lớn, góp phần quan trọng trong việc tưới
tiêu, cấp nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm
muối, phòng chống lũ lụt, cấp nước công nghiệp, sinh hoạt, giao thông, du lịch và
nhiều ngành kinh tế xã hội khác. Hiệu quả của công tác thuỷ lợi mang lại cho sản
xuất đời sống xã hội là hết sức to lớn, có những hiệu quả tính được bằng tiền, nhưng
cũng có nhiều những hiệu quả hết sức to lớn khác khó có thể định lượng được, đó là
những tác động tích cực về dân trí, xã hội môi trường, nông nghiệp nông thôn
Để đáp ứng cho yêu cầu quản lý và khai thác khép kín các công trình, hệ thống
công trình thuỷ lợi, hiện nay, cả nước đã hình thành một hệ thống các tổ chức để
quản lý, khai thác các công trình như sau:
- Khoảng 100 doanh nghiệp quản lý các công trình đầu mối lớn, kênh trục
chính (cấp 1, cấp 2): các công trình đầu mối lớn, kênh trục chính, chưa bao gồm các
tổ chức khác thuộc nhà nước cũng được giao nhiệm vụ quản lý, khai thác công trình
thuỷ lợi.
- Khoảng 12.000 tổ chức hợp tác dùng nước bao gồm các hợp tác xã nông lâm
nghiệp có làm dịch vụ thuỷ lợi, hợp tác xã dùng nước, tổ chức hợp tác, Ban quản lý,
khai thác công trình thuỷ lợi, tổ thuỷ nông, đường nước độc lập quản lý các công




4
trình thuỷ lợi cơ sở nhỏ, hệ thống thuỷ lợi mặt ruộng.
- Một số loại hình có tính chất đặc thù khác: như Ban, Trạm Quản lý khai thác
công trình thuỷ lợi huyện, liên xã, Trung tâm quản lý khai thác công trình thuỷ lợi,

Chi cục thuỷ lợi, công ty khác cũng được giao chức năng quản lý, khai thác công
trình thuỷ lợi.
Để đảm bảo cho các hệ thống công trình thuỷ lợi nói trên vận hành an toàn,
hàng năm yêu cầu phải có đủ kinh phí để vận hành, duy tu, bảo dưỡng, chưa kể đến
kinh phí yêu cầu xây dựng mới, nâng cấp, khôi phục công trình hư hỏng do sử dụng
lâu ngày và do thiên tai gây ra và kinh phí khắc phục hạn hán, úng lụt. Với mục tiêu
này, chính sách thuỷ lợi phí đã được ban hành.
Nhằm bù đắp một phần kinh phí yêu cầu nói trên, giảm nhẹ gánh nặng bao cấp
ngân sách nhà nước, Nhà nước đã có chủ trương thu thuỷ lợi phí từ người hưởng lợi
và thực hiện chế độ hạch toán kinh tế trong các đơn vị quản lý khai thác công trình
thủy lợi. Ngay từ năm 1962, Hội đồng Chính phủ, nay là Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 66/CP ngày 5/6/1962 quy định điều lệ thu thuỷ lợi phí, tuy nhiên Nghị
định này chỉ áp dụng đối với các hệ thống nông giang lớn. Tiếp đó, là các Nghị định
số 112-HĐBT ngày 25/8/1984 của Hội đồng Bộ trưởng và Nghị định số
143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ.
Để khuyến khích sản xuất lương thực, trong các văn bản trên, thuỷ lợi phí đối
với tưới chỉ thu ở mức cần thiết, đảm bảo chi phí cho sửa chữa thường xuyên (chưa
tính đến chi phí nâng cấp, thu hồi vốn). Nhà nước phải hỗ trợ phần chi phí tiền điện
tiêu úng, sửa chữa công trình hư hỏng nặng do thiên tai gây ra bằng những quy định
chặt chẽ.
Xuất phát từ chính sách hỗ trợ nông dân được giao đất sản xuất nông nghiệp,
lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và làm muối, từ năm 2008, Chính phủ đã miễn giảm
thuỷ lợi phí cho người dân theo quy định của Nghị định số 154/2007/NĐ-CP ngày
15/10/2007 của Chính phủ, sau đó được thay thế bằng Nghị định số 115/2008/NĐ-
CP ngày 14/11/2008 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số
điều của Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi.





5
Việc nghiên cứu và ban hành chính sách thuỷ lợi phí phù hợp từng giai đoạn
phát triển của đất nước là thực sự cần thiết như đã được đề cập ở trên. Ngoài việc
giúp có được một khoản kinh phí đáng kể cho công tác vận hành, duy tu bảo dưỡng
công trình, nếu chính sách thuỷ lợi phí phù hợp, chúng ta sẽ nâng cao được ý thức
của người nông dân trong việc sử dụng nước có ý thức, tiết kiệm và nâng cao trách
nhiệm, vai trò của họ trong việc gìn giữ, bảo vệ công trình thuỷ lợi.
Về bản chất, thuỷ lợi phí thực chất là chính sách của nhà nước đối với nông
dân, vì khi nhà nước hỗ trợ cho công ty khai thác công trình thuỷ lợi phần thiếu hụt
do mất mùa không thu được thuỷ lợi phí, hoặc thu ở mức quy định thấp chính là nhà
nước hỗ trợ nông dân để sản xuất lương thực. Ở từng giai đoạn phát triển sẽ có
chính sách thuỷ lợi phí tương ứng, thu hay miễn, giảm là giải pháp cụ thể của Chính
phủ nhằm mục đích đáp ứng bài toán phát triển tổng thể kinh tế xã hội, phù hợp với
từng giai đoạn, và bài toán được đặt ra đối với chính sách thủy lợi phí sẽ là:
- Nếu quy định thu thuỷ lợi phí, Nhà nước sẽ giảm nguồn kinh phí đáp ứng cho
vận hành, duy tu bảo dưỡng, sửa chữa công trình.
- Ngược lại, nếu giảm hoặc không thu, Nhà nước phải hỗ trợ hoặc chi phí
nhiều hơn cho công tác quản lý vận hành, khai thác công trình thuỷ lợi.
Là một cán bộ làm việc tại Tổng cục Thuỷ lợi - Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, cơ quan chuyên nghiên cứu, tham mưu đề xuất giúp Bộ và giúp Chính
phủ ban hành các cơ chế, chính sách trong lĩnh vực quản lý, khai thác công trình
thuỷ lợi, bao gồm cả cơ chế chính sách về tài chính trong quản lý, khai thác công
trình thuỷ lợi và chính sách về thuỷ lợi phí, học viên lựa chọn và thực hiện đề tài
luận văn thạc sĩ “Nghiên cứu chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động
tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp” nhằm đóng góp một phần nhỏ bé của
mình vào việc nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất một số giải pháp đổi
mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả của chính sách thuỷ lợi phí.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Từ lâu, chính sách thuỷ lợi phí đã được Chính phủ, các Bộ ngành và chính

quyền các địa phương rất quan tâm, nhằm đảm bảo một khoản kinh phí nhất định để
đáp ứng cho công tác vận hành, duy tu bảo dưỡng, sửa chữa các công trình thuỷ lợi.
Có thể liệt kê ra một số các công trình, tài liệu nghiên cứu có liên quan đến chính




6
sách thuỷ lợi phí như sau:
- Quản lý thuỷ nông trong nền kinh tế thị trường, Đoàn Thế Lợi, sách do Nhà
xuất bản nông nghiệp – 2004.
- Thuỷ lợi phí và chính sách thuỷ lợi phí trong nền kinh tế thị trường và hội
nhập kinh tế quốc tế - Đề tài cấp Bộ, Trung tâm nghiên cứu Kinh tế, Viện Khoa học
Thuỷ lợi thực hiện năm 2007-2008.
- Nghiên cứu xây dựng giá nước tại hệ thống thuỷ lợi hồ Núi Cốc – tỉnh Thái
Nguyên – Trung tâm nghiên cứu kinh tế, Viện Khoa học Thuỷ lợi thực hiện năm
2002.
- Nghiên cứu mô hình quản lý thuỷ lợi hiệu quả và bền vững phục vụ nông
nghiệp và nông thôn, Trung tâm nghiên cứu kinh tế, Viện Khoa học Thuỷ lợi thực
hiện năm 2006-2008.
- Nghiên cứu xây dựng hệ thống các chỉ tiêu khoản mục chi phí hợp lý trong
sản xuất 1m
P
3
P nước để tính giá nước lấy từ công trình thủy lợi cho các mục đích sử
dụng khác nhau, Trường Đại học Thuỷ lợi thực hiện, năm 2006-2007.
- Nghiên cứu tính giá thành 1m
P
3
P nước tưới tiêu của hệ thống thuỷ lợi sáu trạm

bơm Bắc Nam Hà, Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam 2007-2008.
- Nghiên cứu những vấn đề phát sinh từ chính sách miễn, giảm thuỷ lợi phí,
Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, thực hiện năm
2008-2009.
Tuy vậy, những nghiên cứu này chủ yếu tiến hành vào trong giai đoạn nhà
nước đang thực hiện thu thuỷ lợi phí hoặc chính sách miễn thuỷ lợi phí đang được
thực hiện ở giai đoạn đầu chưa thực sự hoàn thiện, nên chưa thể hiện được nhiều và
toàn diện. Mặc dù vậy, các tài liệu này sẽ là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị để
học viên tiến hành nghiên cứu này.
II. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
1. Mục đích:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn chính sách thuỷ lợi phí, luận văn sẽ
kiến nghị, luận chứng những giải pháp bảo đảm hiệu quả của chính sách thuỷ lợi




7
phí, nhằm góp phần nghiên cứu đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
của công tác quản lý, khai thác công trình thủy lợi trong thời gian tới. Để đạt được
mục đích này, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận, quá trình hình thành và thực thi chính sách thuỷ lợi
phí ở Việt Nam.
- Phân tích, xác định những mặt được, những mặt còn hạn chế và tác động chủ
yếu của chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong sản xuất nông nghiệp đối với hoạt
động quản lý, khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi.
- Kiến nghị đề xuất một số giải pháp, góp phần nâng cao hiệu quả khai thác
các hệ thống công trình thuỷ lợi hiện có.
2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu: Đánh giá tổng thể trên phạm vi cả nước, có tập trung

nghiên cứu điển hình tại 1 tỉnh.
Do thuỷ lợi phí là chính sách nhạy cảm, có tác động đến nhiều đối tượng dùng
nước, phạm vi của luận văn này chỉ tập trung nghiên cứu, đánh giá các tác động của
thuỷ lợi phí trong tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp, trên cơ sở hoạt động của
các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi.
III. CÁCH TIẾP CẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu đã nêu trên, cách tiếp cận và
phương pháp nghiên cứu trong luận văn được sử dụng như sau:
- Cách tiếp cận: được vận dụng theo phương pháp từ dưới lên, từ đối tượng
hưởng lợi; tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi, tổ chức hợp tác dùng nước;
cơ quan nghiên cứu; cơ quan quản lý nhà nước về quản lý, khai thác công trình thuỷ
lợi.
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp khảo sát từ thực tế quản lý, khai thác ở một số hệ thống công
trình thuỷ lợi;
+ Áp dụng triệt để nguyên tắc tiếp cận từ dưới lên;
+ Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, khái quát hoá;
+ Phương pháp chuyên gia.




8
IV. CÁC KẾT QUẢ DỰ KIẾN ĐẠT ĐƯỢC
- Cơ sở lý luận quá trình hình thành và thực thi chính sách thuỷ lợi phí;
- Những tác động chủ yếu của chính sách thuỷ lợi phí trong sản xuất nông
nghiệp tới hoạt động quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi;
- Đề xuất định hướng chính sách thuỷ lợi phí phù hợp đối với sản xuất nông
nghiệp.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và áp dụng

trong việc nghiên cứu, sửa đổi bổ sung chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí và các
chính sách về tài chính trong quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi.
V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Từ các vấn đề đã được trình bày ở trên sẽ hình thành nội dung nghiên cứu.
Những nội dung này được thể hiện trong bố cục của luận văn như sau:


















9
Chương 1:
THỰC TRẠNG THUỶ LỢI Ở VIỆT NAM
1.1. Tổng quan thực trạng về các hệ thống thuỷ lợi.
Ngành thuỷ lợi giữ một vị trí quan trọng đối với phát triển sản xuất nông
nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Vì vậy, nhân dân ta có
truyền thống và bề dày lịch sử làm thuỷ lợi, xây dựng hệ thống đê điều và mạng lưới

kênh rạch “dẫn thuỷ nhập điền” rộng khắp, nhằm khai thác mặt lợi và hạn chế mặt
hại của nước.
Từ khi giành độc lập, đặc biệt kể từ giai đoạn đất nước thống nhất đến nay,
Nhà nước và nhân dân ta đã đặc biệt quan tâm đến công tác thuỷ lợi. Kết quả đầu tư
thuỷ lợi không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế, mà còn mang ý nghĩa chính trị, xã hội
sâu sắc. Trong phát triển nông nghiệp, thuỷ lợi là biện pháp hàng đầu, nhờ được đầu
tư thuỷ lợi rộng khắp trên mọi vùng đất nước, đã tạo điều kiện đưa khoa học kỹ
thuật trong nông nghiệp, nhất là về giống, về chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ.
Trước đây, nhiều khu vực ở miền núi, Trung bộ, Tây nguyên, Đông Nam bộ hầu hết
dựa vào nước "trời" thì nay phần lớn diện tích gieo trồng lúa, và một phần diện tích
cây trồng cạn đã được tưới nước bằng công trình thuỷ lợi.
Trong quá trình phát triển nông nghiệp nói riêng và kinh tế xã hội nói chung,
công tác thuỷ lợi luôn có vị trí quan trọng và nhận được sự quan tâm đầu tư của Nhà
nước cùng với sự đóng góp công sức vô cùng to lớn của nhân dân. Sự nghiệp phát
triển thuỷ lợi đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần quan trọng cho sự phát
triển của mọi ngành kinh tế - xã hội, tạo điều kiện để nông nghiệp nước ta có những
bước nhảy vọt.
Nhiều thập kỷ qua, cùng với tiến trình phát triển kinh tế, xã hội, Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta đã đầu tư xây dựng nhiều công trình, hệ thống công trình thuỷ
lợi lớn, nhỏ, hình thành nên một cơ sở vật chất hạ tầng hết sức to lớn, phục vụ đa
mục tiêu tưới tiêu cho nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, cắt lũ, giao thông, phát
điện, ngăn mặn giữ ngọt, du lịch , bảo đảm cho sản xuất và đời sống dân sinh. Đặc
biệt, thuỷ lợi đã góp phần ổn định sản xuất, giữ vững và nâng cao năng suất sản
lượng cây trồng, đảm bảo an ninh lương thực, xoá đói giảm nghèo ở nông thôn, đưa




10
nước ta từ một nước thiếu lương thực, trở thành một nước không chỉ ổn định lương

thực mà còn có dư thừa, là một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu trên
thế giới.
Theo kết quả điều tra đánh giá của Cục Thuỷ lợi, đến nay (31/12/2008), trên cả
nước đã hình thành rất nhiều hệ thống công trình thuỷ lợi lớn nhỏ, trong đó có 904
hệ thống thuỷ lợi vừa và lớn có diện tích phục vụ từ 200ha trở lên. Cụ thể số lượng
phân theo các loại diện tích tưới được thể hiện ở 1.1.
Bảng 1.1: Hệ thống công trình thuỷ lợi phân theo diện tích phục vụ
TT Khu vực
Tổng
số
Phân loại theo diện tích phục
vụ
> 2.000 (ha)
200÷2.000 (ha)
1 Miền núi Bắc bộ 78 10 68
2 Đồng bằng trung du Bắc bộ 44 28 16
3 Bắc Trung bộ 227 23 204
4 Duyên hải Nam Trung bộ 51 21 30
5 Tây Nguyên 87 8 79
6 Đông nam Bộ 82 8 74
7 Đồng bằng sông Cửu Long 335 12 323

Tổng cộng 904 110 794
Trong danh mục 110 hệ thống thuỷ lợi có diện tích phục vụ từ 2.000ha trở lên
trên toàn quốc, bao gồm:
- 19 hệ thống thuỷ lợi có diện tích phục vụ từ 2.000 ÷ 3.000 ha.
- 15 hệ thống thuỷ lợi có diện tích phục vụ từ 3.000 ÷ 4000 ha.
- 9 hệ thống thuỷ lợi có diện tích phục vụ từ 4.000 ÷ 5000 ha.
- 13 hệ thống có diện tích phục vụ từ 5.000 ÷ 10000 ha.
- 43 hệ thống có diện tích phục vụ từ 10.000 ÷100.000 ha.

- 11 hệ thống có diện tích phục vụ lớn hơn 100.000 ha.
Tổng số có trên 5000 hồ chứa các loại, với tổng dung tích trữ nước trên 35,34
tỷ m
P
3
P, gồm: 26 hồ chứa thuỷ điện có tổng dung tích trữ là 27,12 tỷ mP
3
P, 2460 hồ chứa




11
thủy lợi có dung tích từ 200 ngàn mP
3
P trở lên và hàng ngàn hồ nhỏ với tổng dung tích
trữ khoảng 8,22 tỷ m
P
3
P, phục vụ cho phát điện, cấp nước sinh hoạt, cấp nước cho các
ngành kinh tế trọng yếu và bảo đảm tưới cho 80 vạn ha đất canh tác; trên 10.000
trạm bơm điện lớn với các loại máy bơm khác nhau, có tổng công suất lắp máy phục
vụ tưới là 250 Mw, phục vụ tiêu là 300Mw.
Ngoài ra, còn có gần 5.000 cống tưới tiêu lớn các loại. Tổng số 126.000km
kênh mương các loại, trong đó có trên 1.000 km kênh trục lớn, cùng với hàng vạn
công trình trên kênh. Trên 26.000 km bờ bao ngăn lũ đầu vụ hè thu ở Đồng bằng
sông Cửu Long, khoảng 3700 km đê sông, trên 2000 km đê biển.
Các hệ thống công trình thuỷ lợi này đã cơ bản đáp ứng được những yêu cầu
thiết yếu trong sản xuất và đời sống dân sinh. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay,
việc biến đổi khí hậu và nước biển dâng đang diễn ra theo chiều hướng cực đoan và

đã có những tác động trực tiếp và rõ nét đối với nước ta đòi hỏi Chính phủ và nhân
dân ta cần có sự quan tâm nhiều hơn nữa trong công tác đầu tư và quản lý khai thác
mới có thể đáp ứng được các mục tiêu, yêu cầu ngày càng lớn hiện nay.
1.2. Tổ chức, quản lý khai thác công trình thuỷ lợi.
Để quản lý, vận hành các hệ thống công trình thuỷ lợi đã có, hiện nay cả nước
hình thành một hệ thống tổ chức quản lý thuỷ nông, khép kín gồn hai cấp bao gồm:
- Các đơn vị quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi thuộc Nhà nước.
- Các tổ chức quản lý thuỷ nông thuộc tập thể, người dân (gọi là tổ chức hợp
tác dùng nước).
Các tổ chức này độc lập hoặc phối hợp với nhau trong việc quản lý, khai thác
hệ thống công trình thuỷ lợi, đảm bảo phục vụ các hoạt động sản xuất và dân sinh
kinh tế.
1.2.1. Số lượng, loại hình các đơn vị quản lý thuỷ nông thuộc nhà nước
Theo quy định tại Điều 9, Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi:
“Công trình thuỷ lợi được xây dựng bằng ngân sách nhà nước hoặc có nguồn gốc từ
ngân sách nhà nước do doanh nghiệp nhà nước quản lý, khai thác và bảo vệ”.
Theo số liệu báo cáo của các địa phương trên toàn quốc, hình thức tổ chức
quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi thuộc nhà nước trên toàn quốc chủ yếu là các




12
doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi. Tuy nhiên, trong từng điều kiện cụ thể,
mỗi địa phương đã quy định những mô hình tổ chức khác nhau. Cụ thể ở các vùng
như sau:
1.2.1.1. Đối với các tỉnh miền núi phía Bắc:
Miền núi phía Bắc bao gồm 15 tỉnh, với những mô hình tổ chức quản lý, khai
thác công trình thủy lợi như sau:
- Các tỉnh không thành lập tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi thuộc

nhà nước gồm: Hà Giang, Lào Cai. Ở các tỉnh này, công trình thuỷ lợi đã được giao
cho cấp huyện, xã quản lý, khai thác. Tỉnh Lào Cai trước kia có thành lập một số
Trạm quản lý khai thác công trình thuỷ lợi trực thuộc huyện nhưng do không có
kinh phí hoạt động nay đã giải tán.
- Các tỉnh có thành lập doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi bao gồm:
Yên Bái, Cao Bằng, Bắc Kạn, Sơn La, Hoà Bình, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Điện
Biên, Lai Châu, Quảng Ninh, Bắc Giang, Phú Thọ. Tuy vậy, mô hình ở tỉnh Bắc
Kạn chưa phù hợp.
- Các tỉnh có đơn vị sự nghiệp tham gia quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi
gồm: Tuyên Quang (Ban quản lý công trình thuỷ lợi Ngòi Là), Yên Bái (Trạm Quản
lý khai thác công trình thuỷ lợi Văn Yên, Lục Yên), Quảng Ninh (Trung tâm ở Hải
Hà, Đầm Hà).
1.2.1.2. Vùng Đồng bằng sông Hồng
Ở các tỉnh vùng Đồng bằng sông Hồng, tổ chức quản lý, khai thác công trình
thuỷ lợi thuộc Nhà nước tương đối giống nhau. 100% các tỉnh có thành lập Công ty
Khai thác công trình thuỷ lợi (Công ty quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi liên
tỉnh, toàn tỉnh hoặc quản lý công trình thuỷ lợi liên huyện hoặc trong phạm vi
huyện). Có 2 doanh nghiệp khai thác công trình thủy lợi quản lý, khai thác công
trình thuỷ lợi liên tỉnh, trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý
(Bắc Nam Hà, Bắc Hưng Hải), 5 hệ thống công trình thuỷ lợi liên tỉnh trực thuộc
các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi thuộc các tỉnh, thành phố (Bắc
Đuống, An Kim Hải, Sông Nhuệ, Thác Huống, Sông Cầu).
Tỉnh Hà Tây (nay đã sáp nhập vào Thủ đô Hà Nội) có 10 Công ty Khai thác




13
công trình thuỷ lợi. Tuy nhiên, theo lộ trình đã được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt, nay chỉ còn 4 công ty là Công ty Khai thác công trình thuỷ lợi Sông Nhuệ,

Sông Đáy, Sông Tích và Mê Linh. Như vậy, Thành phố Hà Nội (mới) hiện nay có 5
công ty khai thác công trình thuỷ lợi. Tỉnh Hải Dương còn có Xí nghiệp Khai thác
công trình thuỷ lợi Thành phố Hải Dương trực thuộc Công ty TNHH MTV quản lý
công trình đô thị Hải Dương.
Trong 11 tỉnh, thành phố thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng có 3 tỉnh, thành
phố thành lập công ty với quy mô toàn tỉnh (Ninh Bình, Hải Dương, Hưng Yên –
trên cơ sở sáp nhập các công ty khai thác công trình thuỷ lợi huyện trước kia), các
tỉnh còn lại thành lập công ty khai thác công trình thuỷ lợi quy mô liên huyện hoặc
quy mô huyện để quản lý các hệ thống công trình thuỷ lợi có tính chất tương tự.
1.2.1.3. Vùng Bắc Trung bộ
Đây là vùng có mô hình tổ chức khá tương đồng với vùng Đồng bằng sông
Hồng. Vùng Bắc Trung bộ có 6 tỉnh, thì 100% các tỉnh có thành lập doanh nghiệp
khai thác công trình thuỷ lợi. Có 3 tỉnh thành lập công ty khai thác công trình thuỷ
lợi có quy mô toàn tỉnh (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế). Các tỉnh còn lại
(Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh) thành lập mô hình công ty khai thác công trình
thuỷ lợi có quy mô liên huyện hoặc quy mô huyện.
Hiện nay, một số huyện ở Nghệ An, Hà Tĩnh và các tỉnh trong vùng này còn có
nơi giao công trình vừa và nhỏ cho huyện hoặc xã trực tiếp quản lý.
1.2.1.4. Vùng Duyên hải Nam Trung bộ
Vùng này bao gồm gồm 6 tỉnh, mô hình quản lý, khai thác công trình thủy lợi
tương đối giống nhau. Ngoại trừ tỉnh Khánh Hoà thành lập hai Công ty khai thác
công trình thuỷ lợi theo quy mô liên huyện (Bắc Khánh Hoà và Nam Khánh Hoà),
các tỉnh trong vùng đều thành lập công ty có quy mô toàn tỉnh, hoạt động khá hiệu
quả. Một số huyện miền núi, công trình thuỷ lợi nhỏ được giao cho huyện hoặc Uỷ
ban nhân dân các xã tự tổ chức mô hình quản lý, khai thác.
1.2.1.5. Các tỉnh Tây Nguyên
Tây Nguyên có 5 tỉnh thì có 4 tỉnh có mô hình tổ chức quản lý, khai thác công
trình thuỷ lợi có quy mô toàn tỉnh. Riêng tỉnh Đắc Nông không có mô hình doanh





14
nghiệp quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi. Chỉ có một Trạm Quản lý khai thác
công trình thuỷ lợi Đắc Mil (thuộc Huyện), quản lý hệ thống công trình thuỷ lợi Đăc
Mil tưới chủ yếu cho cây cà phê và một ít diện tích trồng lúa.
Tỉnh Lâm Đồng có công ty khai thác công trình thuỷ lợi có quy mô toàn tỉnh,
nhưng công ty này đã giải tán và sáp nhập với Ban Quản lý khai thác công trình thuỷ
lợi Thành phố Đà Lạt thành Trung tâm quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi Lâm
Đồng, hoạt động như một đơn vị sự nghiệp có thu.
Cũng giống như các nơi khác, các công trình thủy lợi nhỏ trong khu vực được
giao cho Uỷ ban nhân dân các huyện, xã trong vùng tổ chức các loại hình để quản
lý, khai thác.
1.2.1.6. Các tỉnh Đông Nam bộ
Mô hình quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi khu vực Đông Nam Bộ khá đa
dạng. Tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu không thành lập công ty quản lý khai thác công trình
thuỷ lợi, Chi cục Quản lý thuỷ nông trực tiếp tham gia quản lý, khai thác công trình
thuỷ lợi. Tỉnh Bình Dương có Xí nghiệp quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi trực
thuộc Công ty cấp thoát nước và môi trường Bình Dương. Các tỉnh còn lại đều
thành lập công ty khai thác công trình thuỷ lợi có quy mô toàn tỉnh như Thành phố
Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Phước, Tây Ninh, Ninh Thuận, Bình Thuận hoạt
động khá hiệu quả.
Khu vực này còn có Công ty TNHH Một thành viên Khai thác Thuỷ lợi Dầu
Tiếng – Phước Hoà, quản lý, khai thác Hồ Dầu Tiếng, sắp tới thêm hồ Phước Hoà
phục vụ tưới, cấp nước, xả ngọt đẩy mặn và phòng lũ cho các tỉnh, thành phố: Tây
Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Long An và Bình Phước trực thuộc
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
1.2.1.7. Các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long
Thực tế cho thấy, mô hình quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi vùng Đồng
bằng sông Cửu Long thể hiện sự đa dạng và có nhiều sự biến đổi nhất so với các

vùng khác trong toàn quốc. Toàn vùng có 13 tỉnh, thành phố thì hiện nay chỉ có 5
tỉnh thành lập công ty có quy mô toàn tỉnh gồm Tiền Giang, An Giang, Trà Vinh,
Bến Tre và Sóc Trăng, trong đó Sóc Trăng là mô hình công ty cổ phần, hoạt động




15
chủ yếu là các dịch vụ xây lắp, được Uỷ ban nhân dân tỉnh giao nhiệm vụ quản lý,
khai thác công trình thuỷ lợi trong toàn tỉnh (chủ yếu là cống, bọng, kênh mương).
Một số tỉnh trước kia cũng thành lập công ty khai thác công trình thuỷ lợi như
Đồng Tháp, Vĩnh Long, Bạc Liêu, Cần Thơ nhưng hiện nay đã được giải tán hoặc
chuyển đổi để thành lập trung tâm quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi trực thuộc
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hoặc giao về các huyện thành lập các trạm
quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi chịu sự quản lý về chuyên môn của Chi cục
như Cần Thơ, Vĩnh Long.
Một số tỉnh thành các trạm quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi thuộc các
huyện như Hậu Giang, Cà Mau, Kiên Giang. Tỉnh Long An, trước đây Chi cục Thủy
lợi trực tiếp quản lý, khai thác các công trình thuỷ lợi, kể cả hệ thống thuỷ lợi liên
tỉnh như cống Bắc Đông, Rạch Chanh. Đến năm 2010, tỉnh Long An đã thành lập
Trung tâm quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn.
Ở tỉnh Đồng Tháp, ngoài Chi cục Thủy lợi làm chức năng quản lý nhà nước,
trực tiếp quản lý, vận hành công trình thuỷ lợi do tỉnh quản lý khai thác thì Công ty
Cổ phần Vinaconex 27 cũng tham gia quản lý một số trạm bơm, hoạt động dịch vụ,
Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các huyện quản lý, khai thác công trình
thuỷ lợi do huyện quản lý, khai thác. Các công trình nhỏ, lẻ giao các tổ chức của
người dân trực tiếp quản lý, khai thác.
Tổng hợp số liệu về mô hình tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi
toàn quốc như bảng 1.2.












16
Bảng 1.2: Tổng hợp tổ chức khai thác công trình thuỷ lợi thuộc nhà nước


Thứ
tự


Tên vùng
Số lượng công ty, đơn vị sự
nghiệp QLKCTTL
Tỉnh/liên
tỉnh
Huyện,
liên
huyện
Đơn vị
sự nghệp
1

Miền núi phía Bắc (25/15 tỉnh)
8
13
4
2
Đồng bằng sông Hồng (35/11 tỉnh)
5
30
0
3
Bắc Trung bộ (21/6 tỉnh)
3
18
0
4
Duyên hải miền Trung (7/6 tỉnh)
5
2
0
5
Tây Nguyên (5 tỉnh)
4
0
1
6
Đông Nam Bộ (8/8 tỉnh)
8
0
0
7

Đồng bằng sông Cửu Long (7/13 tỉnh)
5
0
2

Tổng:
38
63
7
Bảng tổng hợp này không bao gồm các Chi cục thuỷ lợi vừa thực hiện chức
năng quản lý nhà nước, vừa tham gia quản lý khai thác như Bà Rịa Vũng Tàu, Kiên
Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Cà Mau, Bà Rịa Vũng Tàu.
1.2.2. Về loại hình hoạt động của doanh nghiệp:
Phân theo phạm vi phục vụ của các doanh nghiệp, hiện nay có các loại hình
chủ yếu sau:
1.2.2.1. Công ty khai thác công trình thuỷ lợi quản lý, vận hành các hệ thống
công trình thuỷ lợi lớn, kỹ thuật phức tạp, kênh trục chính phục vụ tưới tiêu, cấp
nước có tính chất liên tỉnh (gọi tắt là công ty liên tỉnh). Các công ty này do Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn trực tiếp quản lý (như Bắc Nam Hà, Bắc Hưng Hải,
Dầu Tiếng) hoặc do địa phương có diện tích hưởng lợi lớn quản lý như Sông Nhuệ,
Bắc Đuống.
1.2.2.2. Công ty khai thác công trình thuỷ lợi quản lý, vận hành các hệ thống
thủy lợi, kênh trục chính, kênh nhánh các cấp lớn phục vụ tưới tiêu, cấp nước trong
phạm vi toàn tỉnh hoặc có tính chất liên huyện, như công ty của tỉnh Hoà Bình, Lai




17
Châu, Lạng Sơn, Hải Dương, Thái Nguyên, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng

Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Ninh Thuận, Bình Thuận, Tiền Giang, Trà Vinh.
1.2.2.3. Các công ty khai thác công trình thuỷ lợi quản lý, vận hành các hệ
thống công trình thuỷ lợi phục vụ tưới tiêu, cấp nước trong phạm vi huyện hoặc liên
huyện như các công ty của tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Nam, Nam Định, Thái
Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Khánh Hoà.
Phương thức hoạt động của các doanh nghiệp hiện nay được thực hiện theo
quy định của Nghị định số 31/2005/NĐ-CP ngày 11/3/2005 của Chính phủ về sản
xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích và theo quy định khác của pháp luật
hướng dẫn phương thức này. Thực hiện Luật Doanh nghiệp năm 2005, đến nay, hầu
hết các đơn vị chuyển đổi từ loại hình công ty nhà nước hoạt động công ích trong
quản lý khai thác công trình thuỷ lợi sang loại hình Công ty TNHH một thành viên.
Bên cạnh đó, một số nơi có hình thức công ty cổ phần tham gia/được giao
nhiệm vụ quản lý khai thác công trình thuỷ lợi như: Công ty Cổ phần Khai thác
công trình thuỷ lợi Sơn La; Công ty CP Khai thác thuỷ lợi Kon Tum; Công ty Cổ
phần dịch vụ Thuỷ lợi Vĩnh Long (hiện đã không còn tham gia quản lý thuỷ nông);
Công ty Cổ phần Thuỷ lợi Sóc Trăng. Tuy nhiên việc thực hiện cổ phần ở các công
ty này chưa đúng bản chất của vấn đề cổ phần hoá nên hoạt động còn nhiều khó
khăn. Tỉnh Sơn La đang đề xuất chuyển đổi công ty này sang loại hình công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên, 100% vốn thuộc sở hữu nhà nước.
Đến nay, hầu hết, các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi đã được
chuyển đổi thành Công ty TNHH một thành viên theo đúng lộ trình quy định của
Luật Doanh nghiệp năm 2005.
1.2.3. Loại hình các đơn vị quản lý thuỷ nông cơ sở
Bên cạnh các doanh nghiệp, tổ chức quản lý khai thác công trình thuỷ lợi thuộc
nhà nước, còn có các tổ chức của tập thể, cá nhân cùng tham gia. Theo báo cáo tổng
hợp, cả nước có khoảng trên 12.000 tổ chức làm dịch vụ thuỷ nông gồm:
- Hợp tác xã nông nghiệp làm dịch vụ thuỷ lợi hoặc chuyên khâu
- Tổ hợp tác dùng nước:
- Hội dùng nước:





18
- Ban quản lý thủy nông xã (hoặc liên xã):
- Ban tự quản dùng nước thôn bản.
1.3. Một số tồn tại, thách thức của công tác thuỷ lợi hiện nay.
1.3.1. Một số tồn tại của công tác thuỷ lợi
Mặc dù đã phát huy và đạt được nhiều thành tựu trong việc phục vụ sản xuất
và đời sống dân sinh, tuy nhiên công tác thuỷ lợi còn bộc lộ nhiều tồn tại, yếu kém.
Những tồn tại yếu kém trong công tác thuỷ lợi phục vụ sản xuất và đời sống dân
sinh, biểu hiện qua các nội dung sau đây:
Thứ nhất là, các hệ thống công trình phát huy hiệu quả còn ở mức thấp, bình
quân chỉ đạt 70% năng lực thiết kế do nhiều nguyên nhân, như việc chuyển đổi cơ
cấu sản xuất, tốc độ công nghiệp hoá, đô thị hoá, dẫn đến diện tích, mục tiêu phục
vụ không còn như thiết kế ban đầu, hiệu suất sử dụng công trình theo thiết kế thấp.
Thứ hai là, hầu hết diện tích được bảo đảm chủ động tưới, tiêu còn thấp hoặc
tưới tiêu không chắc chắn. Theo chỉ tiêu thiết kế, công trình tưới bảo đảm ở mức
p=75% (đến nay đã có nhiều hệ thống đạt 85%), tiêu ở mức 10%, song trên thực tế
nhiều vùng diện tích còn bị hạn, bị úng ngay cả khi thời tiết, khí hậu chưa nghiêm
trọng như tính toán thiết kế ban đầu. Diện tích không chủ động tiêu tập trung ở các
vùng tiêu bằng trọng lực hoặc nội đồng. Vấn đề tiêu thoát nước nội đồng ở nhiều hệ
thống rất phức tạp.
Thứ ba là, nhiều công trình bị xuống cấp nhanh do một thời gian dài không
được duy tu bảo dưỡng đầy đủ, kịp thời; nhiều công trình có hệ số an toàn theo quy
phạm trước đây còn thấp, có thể gây nguy hiểm khi gặp lũ. Nhiều hệ thống kênh dẫn
chất lượng kém và tình trạng quản lý nước trên kênh tưới không chặt chẽ, dẫn đến
phần đầu kênh thì thừa nước, cuối kênh thiếu nước;
Thứ bốn là, tại các hệ thống thuỷ lợi lớn, diện tích phải bơm tưới, bơm tiêu hỗ
trợ chiếm tỷ lệ khá cao, đặc biệt là những vùng cuối nguồn; tình trạng lãng phí nước

tưới còn phổ biến; mức tiêu hao nhiên liệu, năng lượng lớn; cho phí cho tưới cao;
Thứ năm là, vấn đề ô nhiễm nước trong hệ thống công trình thuỷ lợi do nước
thải, rác thải xả bừa bãi vào hệ thống kênh xảy ra phổ biến; tình trạng vi phạm, xâm




19
hại, lấn chiếm công trình và phạm vi bảo vệ công trình thuỷ lợi xảy ra ở hầu hết các
hệ thống thuỷ lợi chưa được ngăn chặn kịp thời, đặc biệt là ở hệ thống kênh chuyển
nước.
Nguyên nhân của những tồn tại, yếu kém trong công tác thuỷ lợi có nhiều,
nhưng tập trung chủ yếu vào các vấn đề sau:
Một là, công trình thuỷ lợi thường có giá trị lớn, nằm trên địa bàn rộng nên
công tác quản lý và hiệu quả của các công trình thuỷ lợi chịu tác động của nhiều yếu
tố khách quan, như điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội từng vùng, lũ lụt,
hạn hán và các thiên tai khác. Thời tiết, khí hậu diễn biến bất thường có xu hướng
ngày càng bất lợi, vấn đề biến đổi khí hậu và nước biển dâng ngày càng nghiêm
trọng, trong khi tần suất thiết kế các công trình thuỷ lợi ở nước ta còn ở mức thấp
(tưới 75%, tiêu 10%).
Hai là, quá trình thay đổi, chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất từ nông nghiệp sang
đất đô thị, công nghiệp và các mục đích khác trong các hệ thống thuỷ lợi diễn ra rất
nhanh và mạnh mẽ, dẫn đến việc điều hành hệ thống công trình thuỷ lợi rất khó
khăn, việc phát huy hiệu quả không đảm bảo như thiết kế, nhiều hệ thống thuỷ lợi
phải sửa chữa, nâng cấp mới đáp ứng yêu cầu thực tế.
Ba là, rất nhiều công trình thuỷ lợi được đầu tư xây dựng trong điều kiện nền
kinh tế nước ta còn nhiều khó khăn, suất đầu tư còn thấp, do vậy khi thiết kế thường
có diện tích thiên lớn. Nhiều hệ thống thuỷ lợi công trình được xây dựng thiếu kiên
cố, công nghệ xây dựng lạc hậu, chưa được đầu tư đồng bộ từ đầu mối đến mặt
ruộng, nhiều hệ thống công trình thuỷ lợi thiếu trang thiết bị cho công tác quản lý,

vận hành. Việc đầu tư phát triển thuỷ lợi chưa phù hợp, nặng về xây dựng các công
trình mới, nhẹ về củng cố, khôi phục, nâng cấp sửa chữa các công trình đã có. Nhiều
công trình thuỷ lợi hiện nay đã bị xuống cấp, thiếu kinh phí để sửa chữa công trình
hoặc nâng cấp công trình cho phù hợp với mục tiêu nhiệm vụ mới. Bên cạnh đó, đầu
tư cho công tác quản lý còn chưa được coi trọng, do vậy không phát huy hết hiệu
quả của hệ thống.
Bốn là, yêu cầu cấp nước ngày càng cao để đáp ứng với việc ứng dụng các tiến
bộ kỹ thuật trong nông nghiệp; trong khi đó quy hoạch thuỷ lợi tổng thể phục vụ cho




20
đa ngành, đa mục tiêu chưa đáp ứng yêu cầu; chưa tính toán đầy đủ yêu cầu cấp
nước phục vụ sinh hoạt nông thôn, nước cho sản xuất công nghiệp, các làng nghề,
nước cho nuôi trồng thuỷ sản. Do vậy, có nhiều hệ thống công trình thuỷ lợi không
đáp ứng được yêu cầu sản xuất thực tế.
Năm là, việc thực thi Pháp lệnh Khai thác và Bảo vệ công trình thuỷ lợi và
các cơ chế chính sách trong quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi ở nhiều địa
phương chưa tốt. Nhiều văn bản pháp quy được ban hành nhưng khó đi vào cuộc
sống, dẫn đến việc vi phạm diễn ra phổ biến, đặc biệt là vi phạm hành lang bảo vệ
công trình thuỷ lợi, hành vi xả thải vào công trình thuỷ lợi.
Sáu là, nguồn nhân lực phát triển chưa tương xứng với yêu cầu hiện tại. Năng
lực và trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân khai thác công trình thuỷ
lợi chưa đáp ứng được với yêu cầu về công nghiệp hoá và hiện đại hoá quản lý khai
thác công trình thuỷ lợi. Phân bố nhân lực ngành giữa các vùng, miền chưa cân đối,
nhiều nơi rất thiếu cán bộ thuỷ lợi, đặc biệt là các tỉnh vùng trung du, miền núi.
Bảy là, tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi ở nhiều địa phương còn
chưa đồng bộ, khép kín, kể cả hệ thống tổ chức quản lý nhà nước và quản lý khai
thác. Chưa có tổ chức thanh tra chuyên ngành, chế tài xử phạt các hành vi xâm hại

công trình thuỷ lợi còn chưa đủ mạnh. Năng suất lao động chưa cao, thu nhập thấp,
đời sống của cán bộ, công nhân khó khăn và không thu hút được cán bộ kỹ thuật có
năng lực về làm việc cho đơn vị. Nhiều tổ chức quản lý, khai thác công trình thủy
lợi còn tính ỷ lại, thiếu năng động. Tổ chức quản lý thuỷ nông ở cơ sở còn chưa
được quan tâm đúng mức, chưa phát huy được vai trò của cộng đồng tham gia trong
công tác quản lý khai thác công trình thuỷ lợi.
1.3.2. Một số thách thức trong công tác thuỷ lợi sắp tới
Đất nước ngày càng ổn định và phát triển, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là
thời cơ thuận lợi để thuỷ lợi có điều kiện phát triển đi lên. Tuy vậy, bên cạnh những
thời cơ, thuận lợi trong công tác thủy lợi hiện nay cũng đang đứng trước những
thách thức rất lớn, đó là:
Thứ nhất là, nguồn nước ở nước ta phân bố không đều cả theo không gian và




21
thời gian, hệ thống sông lớn chủ yếu bắt nguồn từ nước ngoài, rất lệ thuộc vào khả
năng khai thác, sử dụng nước của quốc gia ở phía thượng lưu; trong khi đó, nước ta
nằm ở vùng hạ lưu, không chủ động được nguồn nước.
Thứ hai là, xu thế biến đổi khí hậu toàn cầu, nhiệt độ trái đất nóng lên, nước
biển dâng cao làm cho thiên tai trên phạm vi toàn cầu xảy ra nhiều hơn, phức tạp
hơn, cường độ tăng mạnh hơn, cực đoan hơn và khả năng tác động không thể lường
hết. Việt Nam được cảnh báo là 1 trong 5 quốc gia sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nhất.
Do biến đổi khí hậu toàn cầu, hiện tượng Elnino, Lanina thường xuyên xuất hiện,
gây lũ lụt, hạn hán liên tiếp. Tình trạng xâm nhập mặn, khan hiếm nước ngọt đã xuất
hiện ngày càng nghiêm trọng.
Thứ ba là, tình trạng ô nhiễm nguồn nước trong các hệ thống công trình thuỷ
lợi ngày càng gia tăng, do nước thải từ các khu công nghiệp được phát triển nhanh,
những làng nghề, khu đô thị tập trung nhiều nơi đã xả trực tiếp nước vào các hệ

thống công trình thuỷ lợi không qua xử lý.
Thứ bốn là, nhu cầu nước cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, nuôi trồng
thuỷ sản, cấp nước dân sinh, đô thị, du lịch, dịch vụ, môi trường và các yêu cầu
dùng nước khác đang tăng cao. Các đối tượng sử dụng nước ngày càng đa dạng, với
yêu cầu chất lượng dịch vụ cao hơn, trong khi nguồn nước đang ngày càng khan
hiếm, cạn kiệt và có nguy cơ bị ô nhiễm. Theo dự báo của Ngân hàng Phát triển
châu Á, đối với Việt Nam, cần phải yêu cầu bảo đảm an ninh lương thực cho dân số
trên 100 triệu người đến năm 2020 và 130 triệu người đến năm 2050, trong khi diện
tích lúa ngày càng giảm, đòi hỏi chất lượng, mức bảo đảm tưới tiêu phải được nâng
cao hơn nữa.
Thứ năm là, mâu thuẫn về lợi ích kinh tế trong quá trình quản lý, vận hành,
điều tiết nguồn nước ở các công trình thuỷ lợi đầu nguồn, giữa việc phục vụ cho
tưới tiêu và phát điện hoặc giữa việc nuôi trồng thuỷ sản hay trồng lúa cũng là một
thách thức trong công tác thuỷ lợi trong thời gian tới.
Trong nhiều thập kỷ qua, Nhà nước và nhân dân ta đã đầu tư, hình thành một
hệ thống cơ sở hạ tầng thuỷ lợi hết sức to lớn, cơ bản đáp ứng những yêu cầu bức
thiết của sản xuất và đời sống dân sinh. Để quản lý, vận hành các hệ thống thuỷ lợi




22
này, chúng ta cũng đã hình thành một hệ thống tổ chức để thực hiện nhiệm vụ quản
lý, khai thác công trình thuỷ lợi. Các công trình thuỷ lợi đã phát huy được vai trò
của mình, tuy nhiên trong thực tế vẫn còn nhiều tồn tại. Công tác thuỷ lợi cũng đứng
trước nhiều khó khăn, thách thức trước mắt đòi hỏi các cơ quan chức năng phải có
các giải pháp cần thiết để biến những khó khăn, thách thức thành cơ hội để phát
triển ngành thuỷ lợi, đáp ứng với yêu cầu phát triển dân sinh, kinh tế xã hội của đất
nước.
Với mục tiêu quản lý, khai thác công trình hiệu quả, đảm bảo an toàn thì việc

ban hành những cơ chế, chính sách, đặc biệt là chính sách về tài chính, mà thuỷ lợi
phí là một trong những chính sách đó, nhằm đáp ứng được yêu cầu tổng thể, phù
hợp với sự phát triển của nền kinh tế, đáp ứng lòng mong mỏi của người dân nhưng
phải theo hướng khai thác, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm và bền vững nguồn tài
nguyên là yêu cầu đặc biệt cần thiết.



















23
Chương 2:
CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ SỰ HÌNH THÀNH CHÍNH SÁCH THUỶ LỢI PHÍ
2.1. Cơ sở khoa học và sự cần thiết của chính sách thuỷ lợi phí.
2.1.1. Khái niệm thuỷ lợi phí:
Thuỷ lợi phí hay định giá nước tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp nói

chung là mô tả việc định giá của dịch vụ cung cấp nước cho các tổ chức, cá nhân
sản xuất nông nghiệp. Đối với việc áp dụng cho tưới tiêu (thuỷ lợi phí), giá nước
nhìn chung được nhìn nhận qua hai loại hàng hoá kinh tế: 1) dịch vụ cung cấp nước
(thời lượng, phân phối và chất lượng của dịch vụ); và 2) nước được phân phối,
thường được xác định bởi khối lượng, nhưng đôi khi cũng đề cập đến vấn đề chất
lượng.
Liên quan đến vấn đề này, chúng ta hãy tìm hiểu, làm rõ thêm vấn đề tại sao
các chính sách không đề cập thuỷ lợi phí là giá, thuế, chi phí, hay lệ phí chi trả cho
dịch vụ về nước đối với sản xuất nông nghiệp mà gọi là phí – thuỷ lợi phí.
Thứ nhất, khái niệm giá, trong đó, chỉ đề cập khái niệm giá thành và giá bán.
Giá thành sản phẩm là toàn bộ chi phí bằng tiền để sản xuất ra một đơn vị sản
phẩm. Như vậy, khái niệm giá thành sản phẩm và chi phí trực tiếp liên quan mật
thiết với nhau, thể hiện những chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất một
đơn vị sản phẩm.
Giá bán được hiểu là số tiền người mua phải trả cho người bán để có/nhận
được sản phẩm hoặc dịch vụ mà người mua mong muốn có. Giá bán chính là thước
đo trao đổi của một hàng hoá cho một hàng hoá khác, được tính bằng tiền. Trong cơ
chế thị trường, giá bán được xác định dựa trên những nguyên tắc mà ở đó cho phép
giá có thể tự do dịch chuyển nhằm đáp ứng cầu của một loại hàng hoá nhất định.
Nếu cung vượt cầu thì giá giảm và ngược lại.
Thứ hai, thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có
nghĩa vụ phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp
luật do Nhà nước ban hành. Đây là một khoản thu chủ yếu của ngân sách mang tính
chất nghĩa vụ bắt buộc. Thuế không được hoàn trả trực tiếp, ngang giá cho người




24
nộp thuế. Một phần số thuế đã nộp cho ngân sách Nhà nước trả về cho người dân

một cách gián tiếp dưới những hình thức đầu tư các công trình cơ sở hạ tầng về giáo
dục, y tế, phúc lợi công cộng, an ninh quốc phòng và xây dựng cơ sở hạ tầng như
đường xá, cầu cống, đê điều.
Thứ ba, khái niệm chi phí được hiểu là tổng nguồn lực (thường được qui ra
tiền) để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó. Sự tiết kiệm hay lãng
phí chi phí sản xuất sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm và hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp. Chi phí bao gồm chi phí biến đổi, là những chi phí thay
đổi cùng với sự thay đổi của sản lượng; và chi phí cố định là những chi phí không
thay đổi khi sản lượng thay đổi.
Thứ tư, lệ phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải nộp khi được cơ quan
nhà nước hoặc tổ chức được ủy quyền phục vụ công việc quản lý Nhà nước được
qui định trong danh mục lệ phí ban hành kèm theo Pháp lệnh Phí và lệ phí. Lệ phí là
khoản thu vừa mang tính chất phục vụ cho đối tượng nộp lệ phí về việc thực hiện
một số thủ tục hành chính vừa mang tính chất động viên sự đóng góp cho ngân sách
Nhà nước.
Thứ năm, phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả khi được một tổ chức,
cá nhân khác cung cấp dịch vụ được qui định trong Danh mục phí ban hành kèm
theo Pháp lệnh Phí và lệ phí. Phí là khoản thu mang tính chất bù đắp chi phí thường
xuyên hoặc bất thường như phí về xây dựng, bảo dưỡng, duy tu của Nhà nước đối
với những hoạt động phục vụ người nộp phí.
Như vậy, xét theo tiêu chí các khái niệm trên, thì định giá nước đối với nông
nghiệp, không thể theo giá thị trường, hoặc lấy tổng chi phí làm ra sản phẩm/dịch vụ
để quy định mức thu đối với những người sản xuất nông nghiệp, vì họ sẽ không thể
chịu đựng nổi. Tuy vậy, ở một số trường hợp vẫn có thể gọi là giá dịch vụ thuỷ lợi
đối với sản xuất nông nghiệp hoặc giá nước đối với sản xuất nông nghiệp. Tất nhiên,
không thể gọi là thuế nước vì tính chất của thuế khác hẳn với giá, chi phí và các loại
phí. Vì thuế là khoản có tính chất bắt buộc tổ chức, cá nhân phải có nghĩa vụ nộp
cho nhà nước khi thực hiện một dịch vụ nào đó mà Nhà nước quy định phải nộp

×