Tải bản đầy đủ (.doc) (127 trang)

Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp tại trường THPT Việt Vinh huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (546.94 KB, 127 trang )

LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin được gửi lời
cảm ơn đến:
Các Thầy, Cô giáo, Ban Giám Đốc Học Viện Quản lý giáo dục,
Trung tâm Đào tạo sau đại học - Bồi dưỡng nhà Giáo và Cán bộ quản lý, đã
tận tình giảng dạy, chỉ dẫn tôi trong suốt quá trình tham gia học tập.
Các đồng chí trong Ban giám hiệu, các Thầy, Cô giáo, các bạn đồng
nghiệp, các bậc phụ huynh và các em học sinh, hiện đang công tác, học tập tại
trường Trung học phổ thông Việt Vinh nói riêng và các trường THPT trong
tỉnh Hà Giang nói chung đã tạo điều kiện thuận lợi và nhiệt tình giúp đỡ tôi có
các thông tin cần thiết để phục vụ cho đề tài nghiên cứu của mình.
Gia đình, anh chị em, bạn bè đã luôn động viên, khích lệ giúp tôi vượt
qua khó khăn trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS. TS Lê
Phước Minh, người đã trực tiếp giảng dạy, hướng dẫn, chỉ bảo tận tình trong
suốt quá trình học tập, nghiên cứu hoàn thành văn Thạc sỹ.
Đề tài tuy đã được nghiên cứu kỹ và bản thân tôi đã có nhiều cố gắng,
song do điều kiện thời gian và phạm vi nghiên cứu có hạn. Cho nên, luận văn
khó tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế, kính mong các thầy, cô giáo và các
bạn đồng nghiệp thông cảm, giúp đỡ, đưa ra những chỉ dẫn quý báu để luận
văn được hoàn chỉnh hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 11 năm 2012
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Phi Yến
1
LỜI CAM ĐOAN
Để hoàn thành luận văn, bản thân tác giả đã trực tiếp phát phiếu điều
tra, tìm hiểu, phỏng vấn, gặp gỡ trực tiếp các đồng chí Ban giám hiệu, các
thầy, cô giáo, các bậc phụ huynh và các em học sinh trong trường THPT Việt
Vinh và các trường THPT khác trong tỉnh Hà Giang để thu thập số liệu phục


vụ cho công tác làm luận văn.
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này
là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan
rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các
thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.

2
BẢNG KÝ HIỆU CÁC TỪ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT NỘI DUNG
THPT, THCS Trung học phổ thông, Trung học cơ sở
GDHN Giáo dục hướng nghiệp
TCDN Trung cấp dạy nghề
TCCN Trung cấp chuyên nghiệp
CĐ, ĐH, DN Cao đẳng, Đại học, Dạy nghề
TTGDTX Trung tâm giáo dục thường xuyên
TTKTTH-HN Trung tâm kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp
GD&ĐT Giáo dục và Đào tạo
SHHN Sinh hoạt hướng nghiệp
TVHN Tư vấn hướng nghiệp
CSVC Cơ sở vật chất
ĐDDH Đồ dùng dạy học
CBQL Cán bộ quản lý
SL Số lượng
GV, HS Giáo viên, Học sinh
TW Trung ương
TBCN Tư bản chủ nghĩa
XHCN Xã hội chủ nghĩa
QLGD Quản lý giáo dục
KTNN, KTCN Kỹ thuật nông nghiệp, Kỹ thuật công nghiệp
3

4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Về lý luận
Giáo dục hướng nghiệp cho học sinh THPT chiếm vị trí quan trọng trong
quá trình phát triển xã hội ở bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới nói chung
và ở Việt Nam nói riêng. Đây là bước khởi đầu quan trọng của quá trình phát
triển nguồn nhân lực và góp phần phát triển toàn diện nhân cách của học sinh.
Đó là một bộ phận thiết yếu trong hệ thống hướng nghiệp, dạy nghề của toàn
xã hội, được mở đầu bằng Quyết định số 126 - CP ngày 19/3/1981 của Hội
đồng Chính phủ “Về công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông và việc
sử dụng hợp lí học sinh phổ thông cơ sở và phổ thông trung học tốt nghiệp ra
trường” [13].
Vai trò, tầm quan trọng của công tác giáo dục hướng nghiệp ở bậc trung
học và nhất là bậc THPT đã được thể hiện qua hàng loạt văn kiện của Đảng
và Nhà nước: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng
sản Việt Nam (4/2001) nhấn mạnh: “Coi trọng công tác hướng nghiệp và
phân luồng học sinh trung học, chuẩn bị cho thanh niên, thiếu niên đi vào lao
động nghề nghiệp phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước
và từng địa phương ” [31].
Đảng ta cũng xác định: “Cần tăng cường, đẩy mạnh hơn nữa giáo dục
hướng nghiệp, mở rộng và phát triển các trường dạy nghề…”. Trong báo cáo
Chính trị của Đại hội Đảng lần thứ IX tiếp tục khẳng định: “Ở mọi cấp học,
bậc học, kết hợp dạy và học lý thuyết với thực nghiệm và thực hành, gắn công
tác đào tạo với nghiên cứu khoa học và sản xuất Nhà trường và cơ sở đào
tạo phối hợp với các tổ chức khoa học và các cán bộ kỹ thuật để truyền bá tri
thức sản xuất, chuyển giao công nghệ mới cho nhân dân. Coi trọng công tác
hướng nghiệp và phân luồng cho học sinh Trung học, chuẩn bị cho thanh,
5
thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu

kinh tế trong cả nước và từng địa phương. Nhanh chóng hiện đại hóa một số
trường dạy nghề, tăng tỷ lệ đào tạo trong toàn bộ lao động xã hội, khuyến
khích phát triển hệ thống trường lớp dạy nghề, dân lập, tư thục trang bị cho
thanh niên những kiến thức sản xuất, kỹ năng lao động và năng lực tiếp thu
công nghệ mới, để tạo việc làm, chủ động tìm kiếm cơ hội lập thân, lập
nghiệp” [31].
Luật Giáo dục 2005 xác định rõ mục tiêu của giáo dục phổ thông: “Giáo
dục trung học phổ thông nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết
quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và có những
hiểu biết thông thường về kĩ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy
năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao
đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động” [44].
GDHN là một bộ phận của giáo dục toàn diện nhằm giúp cho học sinh
hiểu được ý nghĩa, tầm quan trọng của việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai.
Các em biết được những thông tin cơ bản về định hướng phát triển kinh tế -
xã hội của địa phương, đất nước và khu vực; về thế giới nghề nghiệp, thị
trường lao động, hệ thống giáo dục nghề nghiệp Trung cấp Dạy nghề
(TCDN), Cao đẳng (CĐ), Đại học (ĐH) ở địa phương và cả nước. Học sinh
có kỹ năng định hướng và lựa chọn tương lai nghề nghiệp của bản thân.
Hiện nay, thế giới đã và đang bước vào nền kinh tế tri thức, Việt Nam
đang trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi sự chuyên môn
hóa trong sản xuất ngày càng ở trình độ cao Vì vậy rất cần nguồn lao động
có trình độ, có năng lực, đáp ứng yêu cầu của toàn xã hội. Để đáp ứng yêu cầu
đó thì hệ thống giáo dục, đặc biệt là giáo dục ở bậc Trung học phổ thông phải
giúp học sinh có định hướng nghề nghiệp rõ ràng, chính xác phù hợp với khả
năng, sở thích của bản thân và phù hợp với yêu cầu của xã hội. Nhằm tránh
6
tình trạng đào tạo lệch lạc, tránh lãng phí trong đào tạo, đồng thời nâng cao
năng suất lao động. Chính vì vậy hệ thống giáo dục của nước ta đã và đang có
sự phân luồng học sinh, quan tâm đến hướng nghiệp cho học sinh THPT, nhất

là ở những lớp cuối cấp.
Trong phương hướng nhiệm vụ năm học 2005 - 2006, Bộ Giáo dục và
Đào tạo (Bộ GD & ĐT) đã chỉ ra: “Cùng với việc nâng cao chất lượng giảng
dạy và học tập ; đẩy mạnh công tác giáo dục hướng nghiệp, thực hiện phân
luồng trong đào tạo, phù hợp với yêu cầu nhân lực của từng địa phương”.
Bắt đầu từ năm học 2006 - 2007 thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ
thông và đổi mới chương trình giáo dục trung học phổ thông, kế hoạch giáo
dục của trường trung học phổ thông ngoài hoạt động dạy học các bộ môn văn
hóa cần có chương trình cụ thể và kế hoạch tổ chức các hoạt động giáo dục
khác trong đó có giáo dục hướng nghiệp ở cả 03 khối lớp 10, 11, 12 với thời
lượng 03 tiết/ tháng. Nhà trường Trung học phổ thông chính là nơi góp phần
không nhỏ cho việc đào tạo những người lao động mới; hướng nghiệp cho
học sinh phổ thông, là bước khởi đầu quan trọng của quá trình phát triển
nguồn nhân lực.
1.2. Về thực tiễn hiện nay
Hiện nay, học sinh phổ thông ra trường thường chọn nghề một cách ngẫu
nhiên, theo cảm tính, thiếu hiểu biết cần thiết về nghề mà mình định lựa chọn.
Nguyên nhân chính là do ngành giáo dục chưa bồi dưỡng cho thế hệ trẻ
những hiểu biết nhất định về các ngành, nghề chủ yếu, nghề cơ bản của quê
hương, đất nước, nhất là nghề truyền thống và phổ biến ở địa phương, đồng
thời chưa tạo cho thế hệ trẻ năng lực và phẩm chất cần thiết để có thể tham
gia lao động ngay khi ra trường.
Từ thực tế đó công tác hướng nghiệp cho học sinh Trung học phổ thông
hiện nay đang là một vấn đề được cả xã hội quan tâm, chiếm một vị trí quan
7
trọng trong việc phân công lao động xã hội, trong phát triển nguồn nhân lực
của cả nước. Thực tế những năm 80 của thế kỷ XX Bộ Giáo dục và Đào tạo
chỉ đạo thực hiện hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các trường phổ thông
trên cả nước. Thế nhưng, trong nhiều năm qua công tác hướng nghiệp ở các
trường THPT nói chung và trường THPT Việt Vinh - tỉnh Hà Giang nói riêng

cũng chưa được quan tâm chú trọng đúng mức, coi đây là môn phụ nên khi
phân công giáo viên phụ trách tổ chức giảng dạy môn học này cũng chỉ phân
công cho những giáo viên thiếu giờ chuẩn. Tổ chức sinh hoạt giáo dục hướng
nghiệp nhà trường mới chỉ dừng ở mức 03 tiết/buổi/tháng, hướng dẫn làm hồ
sơ thi vào Đại học, Cao đẳng dẫn tới hiệu quả của các hoạt động ấy chưa
cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội đối với nhiệm vụ định hướng
nghề nghiệp cho học sinh đạt được mong muốn của chủ trương. Thực trạng ấy
do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân thuộc về quản lý. Nghị quyết
TW II khóa 8 đó chỉ rõ: “Công tác giáo dục hướng nghiệp ở bậc phổ thông
chưa được coi trọng đúng mức” [30]; Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
cũng đã có Chỉ thị số 33/ 2003/ CT-BGD&ĐT ngày 23/7/2003 về việc tăng
cường giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông, trong đó có đánh giá:
“Giáo dục hướng nghiệp hiện nay chưa được các cấp quản lý giáo dục và các
trường học quan tâm đúng mức, còn có địa phương và trường học chưa thực
hiện đầy đủ các nội dung giáo dục hướng nghiệp; chất lượng hoạt động
hướng nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu của học sinh và xã hội, học sinh
phổ thông cuối các cấp học và bậc học chưa được chuẩn bị chu đáo để lựa
chọn nghề nghiệp, lựa chọn ngành học phù hợp với bản thân và yêu cầu của
xã hội” [19].
Về phía học sinh, hầu hết học sinh tốt nghiệp Trung học phổ thông đều
cảm thấy khó khăn khi phải tự lựa chọn nghề nghiệp, các em thường chọn
nghề theo cảm tính: thấy trường nào hay khoa nào hay hoặc ít người thi thì
8
đăng ký làm hồ sơ thi, không cần biết ra trường sẽ xin việc ra sao, không cần
biết nghề nghiệp tương lai như thế nào, liệu có phù hợp với năng lực và phẩm
chất của mình không và cũng không cần biết mình có yêu nghề đó không.
Chính vì thế mà nhiều địa phương trong cả nước đã xảy ra tình trạng thừa
thầy, thiếu thợ.
Để thực hiện được mục tiêu, các yêu cầu về GDHN nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục hướng nghiệp của trường THPT Việt Vinh nói riêng, các

trường THPT nói chung cần phải có những giải pháp nhất định. Vì vậy, vận
dụng vào thực tiễn công tác với vai trò là một cán bộ quản lý, tôi chọn nghiên
cứu đề tài “Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp tại trường
THPT Việt Vinh huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang” làm đề tài luận văn tốt
nghiệp cao học nhằm góp phần phục vụ cho mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực
của địa phương.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, thực trạng giáo dục hướng nghiệp và
quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các trường THPT, vận dụng vào
tình huống cụ thể của trường THPT Việt Vinh, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà
Giang tìm ra những biện pháp nhằm tăng cường quản lý hoạt động giáo dục
hướng nghiệp cho học sinh trường THPT Việt Vinh, và vận dụng vào các
trường THPT khác thuộc tỉnh Hà Giang.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Xác định cơ sở lý luận của đề tài: Vai trò, nội dung và chất lượng,
hiệu quả giáo dục hướng nghiệp đối với học sinh THPT.
3.2. Nghiên cứu thực trạng hoạt động giáo dục hướng nghiệp và biện
pháp giáo dục hướng nghiệp tại trường THPT Việt Vinh tỉnh Hà Giang.
3.3. Đề xuất một số biện pháp khả thi nhằm tăng cường quản lý hoạt
động giáo dục hướng nghiệp tại các trường THPT Việt Vinh tỉnh Hà Giang.
9
Khảo nghiệm tính khả thi của các biện pháp đổi mới đề xuất.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục
hướng nghiệp tại trường THPT Việt Vinh trong giai đoạn 2012 - 2015.
4.2. Khách thể nghiên cứu: Công tác giáo dục hướng nghiệp cho học
sinh ở các trường THPT.
5. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu
5.1. Giới hạn nội dung
Đề tài nghiên cứu chỉ thực hiện trong phạm vi tìm hiểu thực trạng và đề

xuất một số đổi mới biện pháp quản lý để tăng cường chất lượng, hiệu quả
hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh THPT Việt Vinh của tỉnh Hà
Giang, trong mối quan hệ so sánh với một số trường THPT trong và ngoài tỉnh.
5.2. Giới hạn khách thể điều tra: Tổng số đối tượng điều tra: 906 người
- Trong trường THPT Việt Vinh:
+ Cán bộ quản lý: 03 người
+ Giáo viên: 63 người
+ Phụ huynh học sinh: 30 người
+ Học sinh: 300 người
- Các trường THPT khác (có thể trong hoặc ngoài tỉnh Hà Giang)
+ Cán bộ quản lý: 30 người
+ Giáo viên: 100 người
+ Phụ huynh học sinh: 100 người
+ Học sinh: 300 người
5.3. Giới hạn thời gian: từ 6 tháng đến 9 tháng.
5.4. Giới hạn địa giới hành chính: Trường THPT Việt Vinh và một số
trường THPT khác trong và ngoài tỉnh Hà Giang.
10
6. Giả thuyết khoa học
Hiện nay hoạt động quản lý giáo dục hướng nghiệp ở các trường THPT
nói chung và trường THPT Việt Vinh, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang nói
riêng chưa được các cấp quản lý giáo dục quan tâm đúng mức. Các biện pháp
quản lý dựa trên nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về quản lý giáo
dục hướng nghiệp ở các trường THPT, nếu được vận dụng vào trường THPT
Việt Vinh và các trường THPT có bối cảnh tương tự, sẽ góp phần tăng cường
quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp, góp phần đáp ứng yêu cầu đổi mới
giáo dục hướng nghiệp, thực hiện tốt mục tiêu giáo dục toàn diện cho học
sinh của nhà trường.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận

Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa
những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.
Nghiên cứu các Văn kiện của Đảng, Pháp luật của Nhà nước về hoạt
động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh THPT.
Nghiên cứu Văn bản chỉ đạo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở
Giáo dục và Đào về hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh THPT.
Nghiên cứu sách, báo, tạp chí… có liên quan đến đề tài.
7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi.
Phương pháp phỏng vấn, trò chuyện.
Phương pháp chuyên gia.
Phương pháp khảo nghiệm, thống kê toán học.
Quan sát, dự giờ sinh hoạt hướng nghiệp thực tế.
11
8. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
8.1. Về mặt lý luận
Luận văn xác định cơ sở khoa học và thực tiễn, những yếu tố ảnh hưởng
đến hoạt động giáo dục hướng nghiệp đối với học sinh Trung học phổ thông.
Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trường THPT Việt Vinh tỉnh Hà Giang,
nói riêng và hy vọng sẽ áp dụng ở một số trường THPT trong và ngoài tỉnh
Hà Giang.
8.2. Về mặt thực tiễn
Khảo sát đánh giá kết quả nghiên cứu sẽ giúp cho những người làm công
tác giáo dục hướng nghiệp thấy được thực trạng của công tác giáo dục hướng
nghiệp tại trường THPT để từ đó đưa ra một số biện pháp, chủ trương phù
hợp, đồng thời kết quả nghiên cứu cũng có thể vận dụng ngay tại trường và
các trường THPT khác trong và ngoài tỉnh.
12
Chương 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề giáo dục hướng nghiệp
1.1.1. Ở nước ngoài
Lĩnh vực chọn nghề nghiệp đã được nhiều nhà khoa học của nhiều quốc
gia trên thế giới quan tâm nghiên cứu nhằm giúp cho thanh thiếu niên học
sinh có sự chọn lựa nghề nghiệp sao cho phù hợp với năng lực, thể lực, trí
tuệ, hứng thú cá nhân và yêu cầu kinh tế của gia đình, đất nước.
Thế kỷ 19 (năm 1848), những người làm công tác hướng nghiệp ở Pháp
đã xuất bản cuốn sách: “Hướng nghiệp chọn nghề” nhằm giúp đỡ thanh niên
trong việc lựa chọn nghề nghiệp để sử dụng có hiệu quả năng lực lao động
của thế hệ trẻ.
Cộng hòa Pháp là một trong những nước đã phát triển hướng học, hướng
nghiệp và tư vấn nghề sớm nhất trên thế giới. Ngày 25/12/1922 Bộ Công
nghiệp và Thương nghiệp Cộng hòa Pháp đã ban hành Nghị định về công tác
hướng học, hướng nghiệp và thành lập Sở Hướng nghiệp cho thanh niên dưới
18 tuổi. Ngày 24/5/1938 công tác hướng nghiệp đã mang tính pháp lý thông
qua Quyết định ban hành chứng chỉ hướng nghiệp bắt buộc đối với tất cả
thanh niên dưới 17 tuổi trước khi trở thành người làm việc trong các xí nghiệp
thủ công, công nghệ hoặc thương nghiệp. Từ năm 1960, Pháp đã tiến hành
thành lập hệ thống các trung tâm thông tin hướng học và hướng nghiệp từ Bộ
Giáo dục đến khu, tỉnh, huyện và cụm trường. Năm 1975, nước Pháp đã tiến
hành cải cách giáo dục để hiện đại hóa nền giáo dục. Cải cách giáo dục ở
Pháp chú ý đặc biệt chăm lo giảng dạy lao động và nghề nghiệp cho học sinh,
khắc phục khuynh hướng và quan niệm coi giáo dục lao động là một hoạt
13
động giáo dục loại hai (tức là đứng sau các môn khoa học). Nhà trường Pháp
hiện nay đã giảm bớt tính hàn lâm trong việc cung cấp các kiến thức khoa
học, tăng tỉ trọng kiến thức có ý nghĩa thực dụng và ý nghĩa hướng nghiệp để
giúp cho học sinh trung học chuẩn bị đi vào đào tạo và cuộc sống nghề nghiệp.

Ở Liên Xô cũ, công tác hướng nghiệp được nhiều tác giả quan tâm như:
E.A Klimov, V.N. Supkin, V.P Gribanov, V.A Kruchetxki [47]. Nghiên cứu
của các tác giả tập trung vào hứng thú nghề nghiệp, động cơ chọn nghề, các
giá trị về nghề mà học sinh quan tâm, đồng thời đưa ra những chỉ dẫn để giúp
học sinh chọn nghề tốt hơn.
Ở Nhật Bản, đã từ lâu giáo dục Nhật Bản chú ý đến vấn đề hoàn thiện
nội dung, hình thức dạy học kĩ thuật nhằm cung cấp tri thức, rèn luyện kĩ
năng lao động nghề nghiệp và phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh phổ
thông. Chính vì vậy, ở Nhật Bản trong những năm qua, nhiều cuộc cải cách
giáo dục đã được tiến hành với mục đích đảm bảo cho giáo dục phổ thông đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế cụ thể của đất nước. Trong đó có nhiều giải
pháp đã được áp dụng để nâng cao trình độ đào tạo về hướng nghiệp và khoa
học tự nhiên trong các trường phổ thông.
Về giáo dục hướng nghiệp, quan điểm của UNESCO cũng cho rằng giáo
dục trung học là giai đọan mà thế hệ trẻ lựa chọn cho mình con đường bước
vào cuộc sống lao động thực sự. Hướng nghiệp tạo điều kiện cho học sinh lựa
chọn một trong nhiều con đường khác nhau.
1.1.2. Ở Việt Nam
Ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã vận dụng sáng tạo các
quan điểm giáo dục của chủ nghĩa Mác - LêNin vào đào tạo thế hệ trẻ, lớp
người lao động mới. Từ năm 1960, Bác Hồ đã dạy: “Trong việc giáo dục và
học tập phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ
nghĩa, văn hóa, kĩ thuật, lao động và sản xuất” [29]. Người cũng đã sớm tìm ra:
14
Nhà trường xã hội chủ nghĩa là nhà trường:
- Học đi với lao động
- Lý luận đi với thực hành
- Cần cù đi với tiết kiệm
Trong bài báo “Học hay, cày giỏi”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến
một yếu tố mới của giáo dục. Đó là: cung cấp cho học sinh những tri thức cơ

bản về kĩ thuật sản xuất Công nghiệp, Nông nghiệp và những ngành sản xuất
chủ yếu trong xã hội. Đó cũng chính là những nội dung giáo dục kỹ thuật
nghề nghiệp của giáo dục nước ta lúc bấy giờ.
Ngày 19/3/1981, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
126/QĐ-CP về “Công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông và việc sử
dụng học sinh các cấp phổ thông cơ sở và phổ thông trung học tốt nghiệp ra
trường” [13]. Có thể coi quyết định này là một cột mốc quan trọng đối với sự
phát triển giáo dục trong hệ thống nhà trường phổ thông, bởi từ thời điểm ấy,
hướng nghiệp được chính thức coi như là một môn học và đồng thời được coi
như một hoạt động có trong các tiết dạy của các môn học.
Tuy nhiên, vào cuối thập kỷ 80 của thế kỉ XX, do nhiều yếu tố khác
nhau, xu thế tách học với hành, giáo dục với lao động sản xuất ngày càng tăng
lên. Vai trò của công tác hướng nghiệp dần dần bị coi nhẹ, việc học nghề của
học sinh phổ thông ít được quan tâm, nhiều trường học đã tự ý bỏ sinh họat
hướng nghiệp. Nhiều Nghị quyết của Đảng đã nói đến thực trạng này. Từ Đại
hội Đảng lần thứ VIII (1996 ) đến Đại hội Đảng lần thứ XI (2011), Trung
ương Đảng luôn nhấn mạnh đến tăng cường công tác hướng nghiệp, đẩy
mạnh công tác dạy nghề.
Ngày 23/7/2003, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo có Chỉ thị số
33/2003/CT-BGD&DT “Về việc tăng cường giáo dục hướng nghiệp cho học
sinh phổ thông” [19] và tiếp theo đó trong phương hướng nhiệm vụ từng năm
15
học, giáo dục hướng nghiệp được quan tâm chỉ đạo. Trong đổi mới chương
trình giáo dục phổ thông, mục tiêu của cấp học trung học phổ thông là học
sinh học xong cấp trung học phổ thông phải đạt được ở các mặt giáo dục: tư
tưởng, đạo đức, lối sống; học vấn kiến thức phổ thông, hiểu biết kĩ thuật và
hướng nghiệp; kĩ năng học tập và vận dụng kiến thức; thể chất và xúc cảm
thẩm mỹ. Hoạt động giáo dục hướng nghiệp lại được chính thức có trong kế
hoạch giáo dục ở bậc trung học cơ sở và bậc trung học phổ thông.
Trong những năm gần đây, các nhà tâm lý học, giáo dục học, xã hội học,

kinh tế học, chính trị học trong nước đã tiếp cận nhiều vấn đề giáo dục phổ
thông và hướng nghiệp cho học sinh phổ thông ở các khía cạnh khác nhau.
Các tác giả Nguyễn Văn Hộ, Phạm Tất Dong , Đặng Danh Ánh trong
các công trình nghiên cứu về công tác hướng nghiệp đã tập trung vào những
vấn đề như:
- Vấn đề lịch sử phát triển hệ thống công tác hướng nghiệp ở các nước
trên thế giới và ở Việt nam.
- Bản chất khoa học của công tác hướng nghiệp
- Mục đích, nhiệm vụ, vai trò của công tác hướng nghiệp
- Nội dung cơ bản và các hình thức hướng nghiệp.
- Vấn đề tổ chức và điều khiển công tác hướng nghiệp.
Tác giả Phạm Minh Hạc đã chỉ ra rằng muốn có được nguồn nhân lực
phù hợp với cơ cấu đào tạo thì phải: chú trọng giáo dục hướng nghiệp thiết
thực cho học sinh phổ thông, giúp các em chọn nghề phù hợp với sở trường,
trình độ, nhu cầu phát triển của bản thân và yêu cầu phát triển đất nước (Tạp
chí Giáo dục số 50 tháng 2/2003).
Tác giả Đặng Danh Ánh lại đề cập đến quan điểm mới về giáo dục
hướng nghiệp, coi hướng nghiệp là loại hoạt động của nhiều cơ quan khác
16
nhau nhằm giúp cho con người chọn nghề phù hợp với nhu cầu của xã hội và
nguyện vọng, sở trường của cá nhân [2].
Tác giả Nguyễn Toàn nêu rõ mục tiêu của công tác hướng nghiệp là:
“Học sinh phải được trang bị một cách hệ thống những hiểu biết và kỹ năng
lao động cần thiết để lựa chọn nghề nghiệp, để làm được những nghề phổ
thông, những nghề phổ biến ở địa phương hoặc tiếp tục học nghề một cách
thuận lợi, thích nghi nhanh chóng với những thay đổi về việc làm” [52].
Tác giả Nguyễn Văn Hộ đề cập vấn đề: “Thiết lập và phát triển hệ thống
hướng nghiệp cho học sinh Việt Nam” [36].
Tác giả Nguyễn Đức Trí nghiên cứu đến vấn đề: “Tổ chức thực hiện
hoạt động giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề cho học sinh phổ thông phục

vụ mục tiêu đào tạo, gắn liền với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội” [57].
Tác giả Phạm Tất Dong có bài viết: “Công tác hướng nghiệp trong giai
đoạn hiện nay” [26] đã đề cập đến vấn đề: Đổi mới nội dung hướng nghiệp
trong nhà trường hiện nay đang là một yêu cầu ngày càng cấp thiết và xác
định trong những năm tới, công tác hướng nghiệp phải đóng góp hơn nữa vào
việc giải quyết việc làm cho thanh thiếu niên, định hướng thế hệ trẻ vào
những lĩnh vực sản xuất cần phát triển, tạo ra cho mỗi thanh, thiếu niên nhiều
khả năng để tự tạo ra việc làm.
Nhìn chung các công trình của các tác giả đều tập trung vào nghiên cứu
cơ sở lý thuyết và thực tiễn của hoạt động hướng nghiệp với mục đích, ý
nghĩa, nội dung, hình thức tổ chức hướng nghiệp cho học sinh phổ thông.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý
Quản lý là một hiện tượng xã hội xuất hiện rất sớm. Con người trong
hoạt động của mình, để đạt được mục tiêu cá nhân phải dự kiến kế hoạch, sắp
xếp trình tự tiến hành và tác động đến đối tượng bằng cách nào đó theo khả
17
năng của mình. Trong quá trình lao động tập thể càng không thể thiếu được
kế hoạch, sự phân công và điều hành chung, sự hợp tác và quản lý lao động…
Như vậy quản lý tất yếu nảy sinh và nó chính là một phạm trù tồn tại khách
quan được ra đời từ bản thân nhu cầu của mọi chế độ xã hội, mọi quốc gia,
trong mọi thời đại. Có nhiều quan điểm khác nhau về quản lý.
Theo các tác giả nước ngoài
Ở góc độ quản lý với tư cách là một chức năng xã hội dưới dạng chung
nhất thì quản lý được xác định là cơ chế để thực hiện sự tác động có mục đích
nhằm đạt được những kết quả nhất định. Đề cập đến hoạt động quản lý, người
ta thường nhắc đến ý tưởng sâu sắc của K.Marx: “Một nghệ sĩ vỹ cầm thì tự
điều khiển mình còn dàn nhạc thì cần nhạc trưởng” [37].
K.Marx coi việc xuất hiện của quản lý như một dạng hoạt động đặc thù
của con người được gắn liền với sự phân công và hợp tác lao động; quản lý là

kết quả tất yếu của sự chuyển những quá trình lao động cá biệt, tản mạn, độc
lập với nhau thành một quá trình lao động xã hội được tổ chức lại: “Trong tất
cả những công việc mà có nhiều người hợp tác với nhau thì mối liên hệ chung
và sự thống nhất của quá trình tất phải biểu hiện ra ở trong một ý chí điều khiển
và trong những chức năng không có quan hệ với những công việc bộ phận, mà
quan hệ với toàn bộ hoạt động của công xưởng, cũng giống như trường hợp
nhạc trưởng của một dàn nhạc vậy. Đó là một thứ lao động sản xuất cần phải
được tiến hành trong một phương thức sản xuất có tính chất kết hợp” [35].
Theo F.W.Taylo (1856-1915) người Mỹ được coi là “Cha đẻ của Thuyết
quản lý khoa học”, là một trong những người mở ra “Kỷ nguyên vàng” trong
quản lý đã thể hiện tư tưởng cốt lõi của mình trong quản lý là “Mỗi loại công
việc dù nhỏ nhất đều phải chuyên môn hóa và đều phải quản lý chặt chẽ”.
Ông cho rằng “Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm
và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất, rẻ
nhất” [37].
18
Theo quan điểm của lí thuyết hệ thống, quản lý là “Phương thức tác
động có chủ đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý lên hệ thống, bao gồm hệ
thống các quy tắc, các ràng buộc về hành vi đối với mọi đối tượng ở các cấp
trong hệ thống nhằm duy trì tính trội hợp lí của cơ cấu và đưa hệ thống sớm
đạt được những mục tiêu dự kiến” [37].
Theo các nhà nghiên cứu quản lý XHCN thì quản lý là: “Đảm bảo tối đa
sự phù hợp của nhân tố chủ quan hoạt động tự giác của quần chúng nhân dân
với những yêu cầu của các quy luật khách quan, của sự phát triển xã hội”
[43], đây là quan niệm quản lý theo nghĩa rộng. Quan niệm này đã nhấn mạnh
cả yếu tố con người và yếu tố khoa học (tức là nắm vững và hành động phù
hợp với quy luật khách quan) của quản lý.
Theo Omarốp: “Quản lý là tính toán sử dụng hợp lý các nguồn lực (nhân
lực, vật lực, tài lực) nhằm thực hiện các nhiệm vụ sản xuất và dịch vụ với hiệu
quả kinh tế tối ưu” [35].

Theo P. Baranger thì: “Quản lý là cai trị (Gouverner) một tổ chức bằng
cách đặt ra các mục tiêu và hoàn chỉnh các mục tiêu cần phải đạt; là lựa chọn,
sử dụng các phương tiện nhằm đạt các mục tiêu đã định” [37].
Theo Aunapu (Nhật Bản): “Quản lý là một hệ thống xã hội, là khoa học
và nghệ thuật tác động vào hệ thống mà chủ yếu là vào những con người
nhằm đạt các mục tiêu kinh tế, xã hội xác định” [37].
Theo Henry Fayol: “Quản lý - nghĩa là dự kiến, tổ chức, lãnh đạo, phối
hợp và kiểm tra” [37].
Theo H. Koontz: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu nhằm đảm bảo sự
phối hợp những nỗ lực của cá nhân để đạt được những mục đích của nhóm.
Mục tiêu của quản lý là hình thành một môi trường mà trong đó con người có
thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất
mãn cá nhân ít nhất” [39].
19
Theo các tác giả trong nước
Theo Từ điển Tiếng Việt do nhà xuất bản Đà Nẵng. Trung tâm từ điển
học Hà Nội - Đà Nẵng xuất bản 1995, quản lý có nghĩa là:
“Trông coi và giữ gìn theo những yêu cầu nhất định,
Tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định”.
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo “Quản lý một tổ chức là nhằm đạt đến sự
ổn định và phát triển bền vững các quá trình xã hội, quá trình tồn tại của tổ
chức đó” [8, tr.1].
Theo tác giả Trần Kiểm thì: “Quản lý là những tác động của chủ thể
quản lý trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối
các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức một cách tối
ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất” [42, tr.6 ].
Trong giáo trình Khoa học tổ chức và quản lý - một số vấn đề lí luận và
thực tiễn, các tác giả cho rằng: Quản lý là một quá trình lập kế hoạch, tổ chức
hướng dẫn và kiểm tra những nỗ lực của các thành viên trong một tổ chức và
sử dụng các nguồn lực của tổ chức để đạt được những mục tiêu cụ thể.

Đề cập đến vấn đề quản lý, tác giả Đặng Vũ Hoạt và tác giả Hà Thế Ngữ
cho rằng: “Quản lý là một quá trình định hướng, quá trình có mục tiêu, quản
lý một hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định” [46, tr.29].
Tác giả Nguyễn Văn Lê quan niệm. “Quản lý là một hệ thống xã hội, là
khoa học và nghệ thuật tác động vào từng thành tố của hệ thống bằng những
phương pháp thích hợp, nhằm đạt các mục tiêu đề ra cho hệ và từng thành tố
của hệ” [41, tr.6].
Những quan niệm về quản lý trên đây tuy có cách tiếp cận khác nhau,
nhưng có thể nhận thấy chúng đều bao hàm một nghĩa chung, đó là:
20
Quản lý là các hoạt động thiết yếu đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá
nhân, đảm bảo hoàn thành các công việc và là phương thức tốt nhất để đạt
được mục tiêu chung của tập thể.
Quản lý là quá trình tác động có định hướng, có tổ chức của chủ thể
quản lý lên đối tượng quản lý thông qua các cơ chế quản lý, nhằm sử dụng có
hiệu quả cao nhất các nguồn lực trong điều kiện môi trường biến động để hệ
thống ổn định phát triển, đạt được những mục tiêu đã định.
Tóm lại, quản lý là sự tác động có ý thức nhằm điều khiển, hướng dẫn
các quá trình xã hội, những hành vi hoạt động của con người, huy động tối đa
các nguồn lực khác nhau để đạt tới mục đích theo ý chí của nhà quản lý và
phù hợp với quy luật khách quan.
1.2.2. Biện pháp quản lý
Theo Từ điển tiếng Việt “Biện pháp là cách làm, cách giải quyết một
vấn đề cụ thể”. Như vậy, biện pháp là cách làm cụ thể được chủ thể sử dụng
trên cơ sở phương pháp đã được xác định.
Biện pháp quản lí là sự tác động, chỉ huy điều khiển các quá trình xã
hội và hành vi hoạt động của con người để chúng phát triển hợp với quy luật,
đạt được mục đích đã đề ra và đúng ý của người quản lí.
Biện pháp quản lí là những cách thức cụ thể để thực hiện phương pháp
quản lí. Vì đối tượng quản lý rất phức tạp, đòi hỏi những biện pháp quản lý

cũng rất đa dạng linh hoạt. Hơn nữa giữa các biện pháp quản lý có liên quan
chặt chẽ với nhau, tạo thành một hệ thống các biện pháp giúp cho nhà quản lý
thực hiện tốt các phương pháp quản lý của mình, mang lại hiệu quả tối ưu cho
tổ chức.
Như vậy, Biện pháp quản lý là cách làm, cách xử lí, giải quyết những
công việc cụ thể trong từng hoàn cảnh, điều kiện tình huống cụ thể nhằm đạt
được mục tiêu quản lí.
21
1.2.3. Quản lý giáo dục
Giáo dục: “Giáo dục là quá trình đào tạo con người một cách có mục
đích, nhằm chuẩn bị cho con người tham gia đời sống xã hội, tham gia lao
động sản xuất, nó được thực hiện bằng cách tổ chức việc truyền thụ và lĩnh
hội những kinh nghiệm lịch sử, xã hội của loài người” [44].
Mỗi xã hội, mỗi hoàn cảnh lịch sử cụ thể bao giờ cũng có một nền giáo
dục tương ứng, trong đó mục đích, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp và hình
thức tổ chức giáo dục phản ánh quy định của hoàn cảnh lịch sử, của toàn xã
hội đối với giáo dục. Những tinh hoa văn hóa của loài người, của dân tộc đều
được giáo dục chuyển tải tới thế hệ trẻ nhằm giúp họ khả năng tham gia mọi
hoạt động xã hội, góp phần cải tiến và phát triển xã hội. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khi bàn về giáo dục đã chỉ rõ: “Không có giáo dục, không có cán bộ thì
không nói gì đến kinh tế, văn hóa” [29]. Giáo dục là một hoạt động xã hội
rộng lớn, có liên quan trực tiếp đến lợi ích, nghĩa vụ và quyền lợi của mọi
người dân, mọi tổ chức kinh tế xã hội, là động lực phát triển và là nhân tố
quyết định tương lai của mỗi quốc gia. Giáo dục có thể được xem như một hệ
thống có tính xã hội khi xuất phát từ nhiều góc độ khác nhau. Các nhà giáo
dục học quan niệm giáo dục như một hệ thống bao gồm các thành tố: Mục
tiêu giáo dục, nội dung, phương pháp, phương tiện, kết quả giáo dục.
Do mỗi phương thức xã hội đều có một cách quản lý khác nhau, cho nên
khái niệm QLGD đã ra đời và hình thành nên từ nhiều quan niệm khác nhau.
Ở các nước TBCN (Tư bản chủ nghĩa), do vận dụng lý luận quản lý xí

nghiệp vào quản lý cơ sở giáo dục (trường học) nên QLGD được coi như một
loại “xí nghiệp đặc biệt”.
Ở các nước XHCN (Xã hội chủ nghĩa), do vận dụng quản lý xã hội vào
QLGD, nên QLGD thường được xếp trong lĩnh vực quản lý văn hoá tư tưởng
như A.Faraxep đã phân chia trong cuốn sách kinh điển nổi tiếng của mình
22
“Con người trong quản lý xã hội”. Như vậy, QLGD được coi là bộ phận nằm
trong lĩnh vực quản lý văn hoá tinh thần.
Trong cuốn: “Cơ sở lý luận của khoa học QLGD", tác giả M.I.Kônđacốp
định nghĩa "QLGD là tập hợp các biện pháp tổ chức cán bộ, giáo dục, kế
hoạch hóa, tài chính nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan
trong hệ thống giáo dục để tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt
số lượng cũng như chất lượng” [45, tr.22].
Ở Việt Nam, QLGD cũng là một lĩnh vực được các nhà khoa học đặc
biệt quan tâm:
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo thì: “QLGD theo nghĩa tổng quát là hoạt
động điều hành phối hợp của các lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào
tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu xã hội” [6, tr.31]
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “QLGD thực chất là tác động
đến nhà trường, làm cho nó tổ chức tối ưu được quá trình dạy học, giáo dục
thể chất theo đường lối, nguyên lý giáo dục của Đảng, quán triệt được những
tính chất trường trung học phổ thông xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bằng cách
đó tiến tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái chất lượng mới” [50, tr.75]
Tác giả Đỗ Hoàng Toàn quan niệm: “QLGD là tập hợp những biện pháp tổ
chức, phương pháp giáo dục, kế hoạch hoá tài chính, cung tiêu… nhằm đảm bảo
sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục, đảm bảo sự
tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng, cũng như về chất
lượng” [53, tr. 29].
Theo tác giả Trần Kiểm: “QLGD là những tác động có hệ thống, có kế
hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể quản lý ở mọi cấp khác nhau đến

tất cả các mắt xích của toàn bộ hệ thống nhằm mục đích đảm bảo sự hình
thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở quy luật của quá trình giáo dục về sự
phát triển thể lực, trí lực và tâm lực trẻ em” [42, tr.341].
23
Theo PGS. TS. Nguyễn Phúc Châu: “Quản lý giáo dục được hiểu là
những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống và
hợp quy luật, ) của chủ thể quản lý giáo dục đến tất các mắt xích của hệ
thống giáo dục nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả việc tổ chức, huy
động, điều phối, giám sát và điều chỉnh, các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài
lực và thông tin) để hệ thống giáo dục vận hành đạt được mục tiêu phát triển
giáo dục” [21].
Những định nghĩa nêu trên về QLGD tuy có những cách diễn đạt khác
nhau nhưng đều thể hiện một quan điểm chung, đó là.
QLGD là một hệ thống tác động có kế hoạch, có ý tưởng, có mục đích
của chủ thể quản lý lên đối tượng bị quản lý.
QLGD là sự tác động lên tập thể giáo viên, học sinh và các lực lượng giáo
dục trong và ngoài nhà trường, nhằm huy động họ cùng phối hợp, tác động
tham gia các hoạt động giáo dục của nhà trường để đạt mục tiêu đã đề ra.
Từ những vấn đề trên có thể khái quát như sau:
QLGD chính là quá trình tác động có định hướng của nhà QLGD trong
việc vận dụng nguyên lý, phương pháp chung nhất của kế hoạch nhằm đạt
được những mục tiêu đề ra. Những tác động đó thực chất là những tác động
khoa học đến nhà trường làm cho nhà trường tổ chức một cách khoa học có
kế hoạch quá trình dạy học theo mục tiêu đào tạo.
QLGD có thể xem là sự tác động có ý thức nhằm điều khiển, hướng dẫn
các quá trình giáo dục, những hoạt động của cán bộ, giáo viên và học sinh,
sinh viên, huy động tối đa các nguồn lực khác nhau để đạt tới mục đích của
nhà QLGD và phù hợp với quy luật khách quan.
Ngày nay, với quan điểm học thường xuyên, học suốt đời, công tác giáo
dục không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ mà cho mọi người. Do đó, quản lý giáo

dục được hiểu là sự điều hành hệ thống giáo dục quốc dân, các trường trong
24
hệ thống giáo dục quốc dân nhằm thực hiện mục tiêu: Nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Quản lý giáo dục được diễn ra trong phạm
vi toàn quốc, trên địa bàn lãnh thổ (tỉnh, huyện) và quản lý đơn vị cơ sở giáo
dục (quản lý nhà trường).
1.2.4. Hướng nghiệp
Theo Từ điển Tiếng Việt (NXB Đà Nẵng) Trung tâm từ điển học Hà Nội
- Đà Nẵng xuất bản 1995 thì hướng nghiệp được hiểu là: “Thi hành những
biện pháp nhằm đảm bảo sự phân bố tối ưu (có chú ý tới năng khiếu, năng
lực, thể lực) nhân dân theo ngành và loại lao động” hoặc “Giúp đỡ lựa chọn
hợp lý ngành nghề”.
Theo từ điển Giáo dục học: “Hướng nghiệp là hệ thống các biện pháp
giúp đỡ học sinh làm quen tìm hiểu nghề, lựa chọn, cân nhắc nghề nghiệp với
nguyện vọng năng lực sở trường của mỗi người với nhu cầu và điều kiện thực
tế khách quan của xã hội”.
Theo tác giả Phạm tất Dong: “Hướng nghiệp như là một hệ thống tác
động của xã hội về giáo dục, về y học, kinh tế học nhằm giúp cho thế hệ trẻ
chọn được nghề vừa phù hợp hứng thú, năng lực, nguyện vọng, sở trường của
cá nhân, vừa đáp ứng nhu cầu nhân lực của các lĩnh vực sản xuất trong nền
kinh tế quốc dân”.
Các nhà Luật gia thì hiểu hướng nghiệp là: các phương tiện y học, giáo
dục và tổ chức pháp quyền nhằm xác định cho mỗi công dân có nghề và nơi
làm việc. Nội dung vạch rõ các yếu tố ảnh hưởng tới việc chọn nghề, hình
thành tổ chức và hình thành công tác giáo dục hướng nghiệp, thể chế hóa quá
trình hướng nghiệp.
Các nhà giáo dục học cho rằng: Hướng nghiệp là một hoạt động của các
tập thể sư phạm, của các cán bộ thuộc các cơ quan, nhà máy khác nhau, được
tiến hành với mục đích giúp cho học sinh chọn nghề đúng đắn phù hợp với
25

×