Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Quản trị hạn mức tín dụng đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất khẩu cà phê của ngân hàng TMCP phát triển Tp.Hồ Chí Minh (HD Bank)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (770.56 KB, 90 trang )

3

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ HẠN MỨC TÍN DỤNG
TRONG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
1.1 Quản trị
1.1.1. Khái niệm về quản trị
Thuật ngữ quản trị có nghĩa là một phương thức hoạt động hướng tới mục tiêu
được hoàn thành với hiệu quả cao. Phương thức này bao gồm những chức năng hay
hoạt động cơ bản mà nhà quản trị sử dụng, đó là hoạch định, tổ chức, điều khiển và
kiểm soát.
Hoạt động quản trị là những hoạt động tất yếu phát sinh khi con người kết hợp với
nhau để cùng hoàn thành mục tiêu và để thực hiện mục tiêu chung đó xuất hiện yếu
tố quản trị. Hiện nay quản trị là một khái niệm được sử dụng phổ biến trong nhiều
ngành, lĩnh vực như quản trị hành chính (trong các tổ chức xã hội), quản trị kinh
doanh (trong các tổ chức kinh tế). Trong quản trị kinh doanh lại chia ra làm nhiều
lĩnh vực: quản trị tài chính, quản trị nhân sự, quản trị marketing, quản trị sản xuất …
Hiện nay, đang có khá nhiều khái niệm quản trị được sử dụng. Sau đây là một số
khái niệm thông dụng:
Theo Mary Parke Follett: “Quản trị là nghệ thuật đạt được mục đích thông qua
người khác”.
Theo Jame Stoner và Stephen Robbins: “Quản trị là tiến trình hoạch định, tổ
chức, lãnh đạo và kiểm soát những hoạt động của các thành viên trong tổ chức và sử
dụng tất cả các nguổn lực khác của tổ chức nhằm đạt được mục tiêu đề ra”.
Theo Robert Kreitner “Quản trị là tiến trình làm việc với con người và thông qua
con người nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức trong môi trường luôn thay đổi.
Trọng tâm của quá trình này là sử dụng hiệu quả nguồn lực có giới hạn”.
Những định nghĩa về quản trị nêu trên mặc dù được diễn đạt khác nhau, với các góc
độ tiếp cận riêng song có thể thấy chúng có những điểm chung sau:
 Quản trị là một hoạt động cần thiết khách quan khi con người cùng làm việc với
nhau.


4

 Quản trị là hoạt động hướng về mục tiêu (có hướng đích)
 Quản trị là sử dụng có hiệu quả nguồn lực để đạt được mục tiêu.
 Con người đóng vai trò rất quan trọng trong quản trị.
 Hoạt động quản trị chịu sự tác động của môi trường biến động không ngừng.
Từ các điểm chung này ta có thể khái quát quản trị là sự cần thiết phải thiết kế một
bộ máy quản lý hữu hiệu để có thể điều hành, phối hợp hoạt động của toàn bộ tổ chức
hướng tới mục tiêu đã đề ra. Nhà quản trị đạt được mục tiêu của tổ chức bằng cách
sắp xếp, giao việc cho những người khác thực hiện chứ không chỉ tự mình hoàn
thành công việc.
Có hai khái niệm cần được hiểu đúng khi hiểu và quản trị, đó là khái niệm hiệu
quả và hiệu suất. Một hoạt động quản trị được coi là thành công khi đạt được cả hiệu
quả và hiệu suất. Trong quản trị vấn đề rất quan trọng là đạt được hiệu quả.
Hiệu quả: đo lường về sự thích hợp của các mục tiêu được chọn và mức độ chúng
được thực hiện. Như vậy, hiệu quả quản trị trước hết cần chính là làm đúng việc Làm
đúng việc rất quan trọng bởi nó sẽ đưa tổ chức đi đúng hướng. Làm đúng việc cho dù
chưa phải với cách tốt nhất vẫn tốt hơn là không đúng việc cho dù nó làm với cách
tốt nhất.
Các tổ chức sẽ đạt được hiệu quả hơn khi các nhà quản trị chọn được mục tiêu
đúng và hoàn thành chúng.
Từ đây ta có thể có khái niệm hiệu quả, hiệu quả chính là phép so sánh giữa kết
quả đạt được với mục tiêu đúng đắn đã đặt ra.
Tuy nhiên, như trên đã đề cập, một hoạt động quản trị được coi là thành công khi
đạt được hiệu quả (đạt mục tiêu) và hiệu suất (phí tổn thấp). Nếu xác định được mục
tiêu đúng và đạt được mục tiêu nhưng với chi phí quá cao, không chấp nhận được,
thì thực sự hiệu quả quản trị chưa có, điều này thường xảy ra khi ta làm việc chưa
đúng cách hay hiệu suất chưa cao.
Hiệu suất (efficiency): đo lường các nguồn lực được sử dụng để đạt được mục
tiêu. Có thể hiểu đó chính là sự so sánh giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra trong

5

quá trình thực hiện một mục tiêu nào đó. Hiệu suất càng cao khi tỷ lệ giữa kết quả đạt
được trên chi phí bỏ ra càng lớn.
Hiệu suất chỉ có được khi làm việc đúng cách, đúng phương pháp (do things
right). Vì vậy cần chọn đúng cách thức tiến hành công việc. Khi đứng trước nhiều
phương án, nhà quản trị phải so sánh lợi ích và chi phí của từng phương án, cân nhắc
kỹ để chọn được cách giải quyết đạt được kết quả cao mà phí tổn thấp nhất. Có thể áp
dụng các cách sau đây để tăng hiệu suất:
 Giảm thiểu chi phí các nguồn lực ở đầu vào mà vẫn giữ nguyên sản lượng đầu
ra.
 Giữ nguyên các yếu tố đầu vào, gia tăng sản lượng đầu ra.
 Vừa giảm được các chi phí ở đầu vào, vừa tăng sản lượng đầu ra.
Từ những phân tích trên, ta thấy trong thực tế hoạt động quản trị có hiệu quả thực
sự khi ta chọn đúng việc để làm và đúng cách làm để tăng hiệu suất. Hiệu suất gắn
liền với phương tiện và cách thức thực hiện, trong khi hiệu quả gắn liền với mục tiêu
(đúng) và mức độ thực hiện. Hiệu suất là làm việc đúng cách (do things right) trong
khi hiệu quả là làm đúng việc. (Phan Thị Minh Châu, 2011)
1.1.2. Chức năng quản trị
Có nhiều ý kiến khác nhau về sự phân chia các chức năng quản trị: vào thập niên
30 Gulick và Urwick nêu ra bảy chức năng quản trị: hoạch định (Planning), tổ chức
(organizing), nhân sự (Staffing), chỉ huy (Directing), phối hợp (Coordinating), kiểm
tra (Reviewing) và tài chính (Budgeting). Viết tắt các chức năng này thành
POSDCORB.
Henri Fayol thì đưa ra năm chức năng là: hoạch định, tổ chức, chỉ huy, phối hợp,
kiểm tra.
Những năm cuối thập niên 80 trở lại đây, giữa các nhà khoa học và quản trị của
Mỹ có sự bàn luận về số các chức năng quản trị là bốn hay năm chức năng. Gần đây
những tác phẩm về quản trị của các tác giả James Stoner và Stephen Robbins chia
các chức năng quản trị thành bốn chức năng là hoạch định, tổ chức, điều khiển và

6

kiểm soát. Nhìn chung sự phân biệt bốn hay năm chức năng này là do các ý kiến khác
biệt về quản trị nhân sự.
Sau đây là bốn chức năng cơ bản trong đó chức năng điều khiển sẽ bao gồm việc
tuyển dụng, động viên, lãnh đạo đến việc tạo nên một mạng lưới thông tin hữu hiệu
nhằm hoàn thành mục tiêu của tổ chức:
 Hoạch định: là chức năng quản trị có mục đích xác lập một mô hình (tham
chiếu) cho tương lai nhờ đó mà ta nhận ra những cơ hội và rủi ro, căn cứ vào đó phải
làm những việc ngay bây giờ để khai thác cơ hội và né tránh rủi ro. Hoạch định liên
quan đến dự báo và tiên liệu tương lai, đến những mục tiêu cần đạt được và phương
thức đạt những mục tiêu đó. Nếu không lập kế hoạch thận trọng và đúng đắn thì dễ
dẫn đến thất bại trong quản trị. Có rất nhiều công ty không hoạt động được hay chỉ
huy động được một phần công suất chỉ vì không hoạch định hay hoạch định tồi.
Hoạch định cũng có nghĩa là nghĩ cách sử dụng nhân tài, vật lực để khai thác cơ hội,
thời cơ và ngăn chặn hữu hiệu những rủi ro, bất trắc của môi trường.
Hoạch định là quá trình ấn định những mục tiêu, xây dựng và chọn lựa những
biện pháp tốt nhất để thực hiện có hiệu quả những mục tiêu đó. Tất cả những nhà
quản trị từ cấp cao đến cấp thấp đều làm công việc hoạch định. Hoạch định không
những vạch ra con đường để đi tới mục tiêu mà còn chỉ ra giải pháp để giảm thiểu
các rủi ro xây ra trong quá trình hoạt động của một tổ chức.
 Tổ chức: Là chức năng quản trị có mục đích phân công nhiệm vụ, tạo dựng
một cơ cấu, thiết lập thẩm quyền và phân phối ngân sách cần thiết để thực hiện kế
hoạch. Nó sẽ xác định xem ai sẽ hoàn thành nhiệm vụ nào, ở đâu và khi nào thì xong.
Công việc tổ chức thực hiện đúng đắn sẽ tạo nên môi trường nội bộ thuận lợi thúc
đẩy hoạt động đạt mục tiêu, tổ chức kém thì công ty sẽ thất bại cho dù hoạch định tốt.
Tổ chức là một trong những chức năng chung của quản trị liên quan đến hoạt
động thành lập nên các bộ phận trong tổ chức bao gồm các khâu và các cấp, tức là
quan hệ hàng ngang và hàng dọc để đảm nhận những hoạt động cần thiết, xác lập các
mối quan hệ về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm giữa các bộ phận đó.

7

 Điều khiển: Là chức năng quản trị nhằm gây ảnh hưởng, thúc đẩy, hướng dẫn
nguồn nhân lực thực hiện mục tiêu của tổ chức. Chức năng điều khiển liên quan đến
hoạt động thúc đẩy quan hệ cá nhân và nhóm trong mối quan hệ quản trị nhằm xây
dựng một bản sắc văn hóa cho tổ chức. Cuối cùng là quá trình thông tin và truyền
thông trong tổ chức. Lãnh đạo xuất sắc có khả năng đưa tổ chức đến thành công dù
kế hoạch và tổ chức chưa thật tốt, nhưng sẽ chắc chắn thất bại nếu lãnh đạo kém.
Chức năng điều khiển trong quản trị được xác định là quá trình tác động đến con
người, hướng dẫn, thúc đẩy họ sẳn sàng, nhiệt tình thực hiện những nhiệm vụ được
giao.
Nội dung chức năng điều khiển liên quan đến các vấn đề:
- Lãnh đạo con người, hướng họ vào việc thực hiện tốt mục tiêu và nhiệm
vụ của tổ chức.
- Động viên con người trong tổ chức nổ lực làm việc.
- Thông tin hiệu quả, tạo thuận lợi cho con người làm việc với tổ chức.
- Xử lý kịp thời các xung đột xảy ra có liên quan đến tổ chức.
 Kiểm soát: Kiểm soát là chức năng quản trị thúc đẩy thành tích của doanh
nghiệp hướng về hoàn thành mục tiêu. Kiểm soát là để lường trước rủi ro, đánh giá
hoạt động và đo lường kết quả hoạt động … tìm ra các nguyên nhân gây ra sai lệch
và tìm các giải pháp điều chỉnh thích hợp. Chính kiểm soát là chức năng khép kín
một chu kỳ quản trị, mở ra một chu kỳ quản trị mới tạo ra sự liên tục cho quá trình
quản trị và nó là chức năng giúp nhà quản trị biết khi nào phải điều chỉnh hoạt động,
khi nào cần phải có hoạch định mới.
Kiểm soát là công việc của bất kỳ một cấp bậc quản trị nào từ vị chủ tịch hội đồng
quản trị, giám đốc cho đến một đốc công hay một tổ trưởng. Tuy nhiên trong thực
tiễn, khái niệm này vẫn được tìm hiểu theo nhiều cách khác nhau, sau đây là một khái
niệm thông dụng về chức năng kiểm soát: Kiểm soát là quá trình đo, lường kết quả
thực tế và so sánh với những tiêu chuẩn nhằm phát hiện sự sai lệch và nguyên nhân
sự sai lệnh trên cơ sở đó đưa ra biện pháp điều chỉnh kịp thời nhằm khắc phục sự sai

8

lệnh hoặc nguy cơ sự sai lệch, đảm bảo tổ chức đạt được những mục tiêu của nó.
(Phan Thị Minh Châu, 2011)
1.2 . Hạn mức tín dụng đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu
1.2.1. Hạn mức tín dụng
1.2.1.1. Khái niệm tín dụng
Tín dụng (credit) là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị (tài sản) từ
người sở hữu sang người sử dụng trong một khoản thời gian nhất định; khi đến hạn
người sử dụng phải hoàn trả một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu. Như vậy phạm
trù tín dụng
có ba nội dung chính là: tính chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị, tính thời hạn
và tính hoàn trả.
Tín dụng có nhiều loại như: tín dụng nhà nước, tín dụng doanh nghiệp, tín dụng
cá nhân và tín dụng ngân hàng. Trong đó tín dụng ngân hàng là chuyển nhượng tài
sản (vốn) giữa ngân hàng với các chủ thể khác trong nền kinh tế; trong mối quan hệ
này ngân hàng vừa giữ vai trò là người đi vay (con nợ) vừa vai trò là người cho vay
(chủ nợ). Đây là quan hệ tín dụng gián tiếp mà người tiết kiệm thông qua vai trò
trung gian của ngân hàng , thực hiện đầu tư vốn vào các chủ thể có nhu cầu về vốn
trong nền kinh tế.
Từ phân tích trên đi đến khái niệm: Tín dụng ngân hàng là việc ngân hàng thỏa
thuận để khách hàng sử dụng một tài sản (bằng tiền, tài sản thực hay uy tín) với
nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu (tái chiết khấu), cho
thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác. (Nguyễn Văn Tiến, 2010)
Phân biệt tín dụng và cho vay: bất kỳ chuyển giao quyền sử dụng tạm thời (có
hoàn trả) về tài sản đều phản ánh quan hệ tín dụng; mối quan hệ tín dụng này lại
được thể hiện dưới hình thức: cho vay, chiết khấu, bảo lãnh và cho thuê tài chính.
Như vậy nội dung tín dụng là rộng hơn nội dung cho vay, tuy nhiên trong hoạt động
tín dụng, thì cho vay là hoạt động quan trọng nhất và chiếm tỷ trọng lớn nhất tại các
NHTM. Chính vì vậy, thuận ngữ tín dụng và cho vay thường được dung đan xen và

thay thế cho nhau.
9

1.2.1.2. Đặc điểm của tín dụng
Thứ nhất, tín dụng ngân hàng dựa trên cơ sở lòng tin. Ngân hàng chỉ cấp tín dụng
khi có lòng tin vào việc khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích, hiệu quả và có
khả năng hoàn trả nợ vay (gốc, lãi) đúng hạn; còn người đi vay thì tin tưởng vào khả
năng kiếm được tiền trong tương lai để trả nợ gốc và lãi vay.
Thứ hai, tín dụng là sự chuyển nhượng tài sản có thời hạn. Ngân hàng là trung
gian tài chính “đi vay để cho vay” nên mọi khoản tín dụng của ngân hàng đều phải có
thời hạn, bảo đảm cho ngân hàng hoàn trả vốn huy động. Để xác định thời hạn cho
vay hợp lý, ngân hàng phải căn cứ vào tính chất thời hạn nguồn vốn của mình và quá
trình luân chuyển vốn của đối tượng vay. Nếu ngân hàng có nguồn vốn dài hạn ổn
định, thì có thể cấp được nhiều tín dụng dài hạn, ngược lại, nếu nguồn vốn không ổn
định và kỳ hạn ngắn, mà cấp nhiều tín dụng dài thì sẽ rủi ro thanh toán. Mặt khác,
thời hạn cho vay phải phù hợp với chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay thì
người vay mới có điều kiện trả nợ đúng hạn. Nếu ngân hàng xác định thời hạn vay
nhỏ hơn chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay, thì khách hàng không có đủ
nguồn lực để trả nợ khi đến hạn, gây khó khăn cho khách hàng. Ngược lại, nếu thời
hạn cho vay lớn hơn nhu cầu luân chuyển vốn sẽ tạo điều kiện cho khách hàng sử
dụng vốn vay không đúng mục đích, tiềm ẩn rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
Thứ ba, tín dụng phải trên nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi. Nếu không có sự
hoàn trả thì không được coi là tín dụng. Giá trị hoàn trả phải lớn hơn giá trị lúc cho
vay (giá trị gốc), nghĩa là ngoài việc hoàn trả giá trị gốc, khách hàng phải trả cho
ngân hàng một khoản lãi, đây chính là giá của quyền sử dụng vốn vay. Khoản lãi phải
luôn là một con số dương, có như vậy mới bù đắp được chi phí hoạt động và tạo ra
lợi nhuận, phản ánh bản chất hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Thứ tư, tín dụng là hoạt động tiềm ẩn rủi ro cao cho ngân hàng. Việc thu hồi tín
dụng phụ thuộc không những vào bản thân khách hàng, mà còn phụ thuộc vào môi
trường hoạt động, ngoài tầm kiểm soát của khách hàng như sự biến động và giá cả,

lãi suất, tỷ giá, lạm phát, tăng trưởng kinh tế, thị trường, thiên tai …Khi khách hàng
10

gặp khó khăn do môi trường kinh doanh thay đổi, dẫn đến khó khăn trong việc trả nợ,
điều này khiến cho ngân hàng gặp rủi ro tín dụng.
Thứ năm, tín dụng phải trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện. Quá trình đề
nghị vay và cho vay diễn ra trên cơ sở những căn cứ pháp luật chặt chẻ như: Hợp
đồng tín dụng, khế ước vay tiền, hợp đồng bảo đảm tiền vay, bảo lãnh …, trong đó
bên đi vay phải cam kết hoàn trả vô điều kiện khoản vay cho ngân hàng khi đến hạn.
Từ các đặc điểm trên cho thấy, tín dụng ngân hàng phải bảo đảm được hai nguyên
tắc cơ bản sau:
 Vay vốn phải được sử dụng đúng mục đích
 Vốn vay phải được hoàn trả cả gốc và lãi đúng thời hạn đã cam kết trong hợp
đồng.
1.2.1.3. Vai trò tín dụng
Đối với nền kinh tế
Vai trò kinh tế cơ bản của tín dụng ngân hàng là luân chuyển vốn từ những người
(cá nhân, hộ gia đình, công ty và chính phủ) có nguồn vốn thặng dư đến những người
thiếu hụt. Nhu cầu vay vốn không chỉ để đầu tư kinh doanh mà còn dùng để thỏa mãn
nhu cầu tiêu dùng trước mắt. Việc luân chuyển vốn từ người tiết kiệm sang người sử
dụng vốn có vai trò quan trọng với nền kinh tế vì giúp cho lượng vốn được sử dụng
vào các kênh đầu tư tạo ra của cải cho nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng không giới hạn chỉ trong chức năng truyền thống là luân
chuyển vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu mà còn giúp phân bổ hiệu quả các nguồn lực tài
chính trong nền kinh tế. Thông qua tín dụng ngân hàng mà vốn được chuyển tới
những người có các dự án đầu tư hiệu quả nhưng thiếu vốn. Kết quả là, kinh tế tăng
trưởng, tạo công ăn việc làm.
Thông qua việc đầu tư vốn tín dụng vào những ngành nghề, khu vực kinh tế
trọng điểm sẽ thúc đẩy sự phát triển của các ngành, nghề đó, hình thành trên cơ cấu
hiện đại, hợp lý và hiệu quả.

11

Tín dụng ngân hàng góp phần lưu thông tiền tệ, hàng hóa, điều tiết thị trường,
kiểm soát giá trị đồng tiền và thúc đẩy quá trình mở rộng giao lưu kinh tế giữa các
nước.
Tín dụng ngân hàng mang lạ nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước thông qua
thuế thu nhập và lãi từ ủy thác đầu tư vốn của chính phủ.
Tín dụng ngân hàng là kênh truyền tải vốn tài trợ của nhà nước đến nông nghiệp
nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo, ổn định chính trị, xã hội.
Đối với khách hàng
Tín dụng ngân hàng đáp ứng kịp thời nhu cầu về số lượng và chất lượng vốn cho
khách hàng. Với các ưu điểm như an toàn, thuận tiện, nhanh chóng, dể tiếp cận và có
khả năng đáp ứng được nhu cầu vốn lớn, tín dụng ngân hàng thỏa mãn được nhu cầu
đa dạng của khách hàng.
Tín dụng ngân hàng giúp nhà đầu tư nắm bắt được những cơ hội kinh doanh,
doanh nghiệp có vốn để mở rộng sản xuất, các cá nhân có đủ khả năng tài chính để
trang trải cho các khoản chi tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống
Tín dụng ngân hàng ràng buộc khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi trong thời
gian nhất định như thỏa thuận. Do đó, buộc khách hàng phải nổ lực, tận dụng hết khả
năng của mình để sử dụng vốn vay hiệu quả, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất, mang
lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng.
Đối với ngân hàng
Tín dụng là hoạt động truyền thống, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản có
và mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng (từ 70 đến 90%). Mặc dù tỷ trọng
của các hoạt động tín dụng đang có xu hướng giảm, nhưng tín dụng ngân hàng vẫn
luôn là nghiệp vụ sử dụng vốn quan trọng nhất đối với mỗi ngân hàng.
Thông qua hoạt động tín dụng mà ngân hàng đa dạng hóa được danh mục tài sản
có, giảm thiểu rủi ro.
Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng mở rộng được các loại hình thức dịch
vụ khác, như thanh toán, thu hút tiền gửi, kinh doanh ngoại tệ, tư vấn …


12

1.2.1.4. Phân loại tín dụng
Kinh tế thị trường ngày càng phát triển, xu hướng tự do hóa càng sâu sắc thì các
ngân hàng càng phải nghiên cứu đưa ra các hình thức tín dụng đa dạng nhằm đáp ứng
tốt nhất nhu cầu của khách hàng, từ đó đa dạng hóa danh mục đầu tư, thu hút khách
hàng, tăng lợi nhuận, thực hiện phân tán rủi ro và đứng vững trong cạnh tranh. Chính
vì vậy ngân hàng cung cấp rất nhiều loại tín dụng, cho nhiều đối tượng khách hàng
với những mục đích sử dụng khác nhau. Để tránh nhầm lẫn và có cái nhìn tổng quát
về các loại tín dụng, ta phân loại tín dụng theo một số tiêu chí sau:
Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn đến một năm và được sử dụng
để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động tạm thời của các doanh nghiệp như: bổ sung ngân
quỹ, ứng trước tiền hàng, đảm bảo yêu cầu thanh toán đến hạn, duy trì hàng tồn kho
… phục vụ nhu cầu tiêu dung cá nhân và hộ gia đình. Đây là loại tín dụng có mức rủi
ro thấp vì thời hạn hoàn vốn nhanh, tránh được các rủi ro về lãi suất, lạm phát cũng
như sự bất ổn của môi trường, vì thế lãi suất thường thấp hơn các loại tín dụng khác.
Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời gian từ trên 1 năm đến 5 năm và sử
dụng chủ yếu để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới trang thiết bị,
mở rộng sản xuất và xây dựng công trình vừa và nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh.
Tín dụng trung dài hạn còn là nguồn quan trọng hình thành nên vốn lưu động thường
xuyên của các doanh nghiệp, đặc biết là đối với doanh nghiệp mới thành lập.
Tín dụng dài hạn: là tín dụng có thời hạn trên 5 năm, đáp ứng cho nhu cầu đầu
tư dài hạn như: xây dựng cơ bản (nhà xưởng, dây chuyền sản xuất …), xây dựng cơ
sở hạ tầng (đường xá, cảng biển, sân bay …), cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô
lớn. Do thời hạn đầu tư thường kéo dài, nên tín dụng dài hạn thường áp dụng hình
thức giải ngân nhiều lần theo tiến độ dự án. Nhìn chung, tín dụng dài hạn chịu rủi ro
rất lớn, bởi vì thời hạn càng dài thì những biến động không dự tính có thể xảy ra càng
lớn.
a) Căn cứ vào bảo đảm tín dụng

Tín dụng có bảo đảm: là tín dụng có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc có bảo lãnh
của người thứ ba. Hình thức tín dụng này áp dụng đối với những khách hàng không
13

đủ uy tín, khi vay vốn phải có tài sản đảm bảo hoặc có người bảo lãnh. Tài sản đảm
bảo hoặc bảo lãnh của người thứ ba là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm nguồn
thu dự phòng khi nguồn thu chính (dòng tiền) của con nợ thiếu hụt, tạo áp lực buộc
con nợ phải trả nợ, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng.
Tín dụng không có đảm bảo: là tín dụng không có tài sản cầm cố, thế chấp hay
không có bảo lãnh của người thứ ba. Loại tín dụng này áp dụng cho những khách
hàng truyền thống, có hệ số tín nhiệm cao.
b) Căn cứ mục đích tín dụng
Tín dụng bất động sản: đây là các khoản tín dụng đầu tư vào bất động sản, bao
gồm:
 Tín dụng ngắn hạn cho xây dựng và mở rộng đất đai.
 Tín dụng dài hạn để mua đất đai, nhà cửa, căn hộ, cơ sở dịch vụ, trang trại và
bất động sản ở nước ngoài.
Tín dụng công thương nghiệp: đây là các khoản tín dụng cấp cho các doanh
nghiệp để trang trải các chi phí như mùa màng hóa, nguyên vật liệu, trả thuế và chi
trả lương.
Tín dụng nông nghiệp: đây là khoản tín dụng cấp cho các hoạt động nông
nghiệp, nhằm trợ giúp các hoạt động trồng trọt, thu hoạch mùa màng và chăn nuôi
gia súc.
Tín dụng tiêu dùng: là khoản tín dụng cấp cho các cá nhân, hộ gia đình để mua
sắm hàng hóa tiêu dùng đắt tiền như xe hơi, xe máy, trang thiết bị trong nhà …
c) Căn cứ vào chủ thể vay vốn
Tín dụng doanh nghiệp (tín dụng bán buôn) : gọi là bán buôn vì những doanh
nghiệp thường vay vốn với khoản vay có giá trị lớn.
Tín dụng cá nhân, hộ gia đình (tín dụng bán lẻ): gọi là bán lẻ vì những cá nhân
thường vay với những khoản vay có giá trị nhỏ nhằm vào mục đích tiêu dùng.

Tín dụng cho các tổ chức tài chính: là các khoản tín dụng cấp cho các ngân
hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác. Những
14

khoản đi vay này trở thành nguồn vốn của ngân hàng đi vay, nên chúng có thể dùng
để trả nợ hay cho vay.
d) Căn cứ phương thức hoàn trả nợ vay
Tín dụng trả góp: là loại tín dụng mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi
vay định kỳ thành những khoản bằng nhau. Loại tín dụng này áp dụng cho những
khoản vay lớn và có thời hạn dài.
Tín dụng hoàn trả một lần: là loại tín dụng mà khách hàng chỉ trả vốn gốc và lãi
vay một lần khi đến hạn. Loại tín dụng này áp dụng cho những khoản vay nhỏ và có
thời hạn ngắn.
Tín dụng hoàn trả theo yêu cầu: là loại tín dụng mà khách hàng có thể hoàn trả
nợ vay bất cứ khi nào. Loại tín dụng này thường áp dụng cho những khoản vay thấu
chi, thẻ tín dụng.
e) Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng
Tín dụng bằng tiền: là tín dụng mà hình thái giá trị của nó là bằng tiền. Tín dụng
bằng tiền gọi là cho vay
Tín dụng bằng tài sản: là tín dụng mà hình thái giá trị của nó là bằng tài sản.
Hình thức tín dụng này là cho thuê tài chính.
Tín dụng bằng uy tín: là tín dụng mà hình thái giá trị của nó là bằng uy tín. Hình
thức tín dụng này chính là bảo lãnh ngân hàng.
f) Căn cứ vào xuất xứ tín dụng
Tín dụng trực tiếp: là hình thức tín dụng, trong đó ngân hàng cấp vốn cho khách
hàng có nhu cầu vay vốn, đồng thời khách hàng hoàn trả nợ vay trực tiếp cho ngân
hàng.
Tín dụng gián tiếp: là hình thức cấp tín dụng thông qua trung gian như: tín dụng
ủy thác, tín dụng thông qua tổ chức đoàn thể.
Tín dụng khác: bao gồm các khoản tín dụng khác chưa được phân loại ở trên (ví cụ:

tín dụng kinh doanh chứng khoán). (Nguyễn Văn Tiến, 2010)


15

1.2.1.5. Hạn mức tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường hoạt động cho vay của NHTM rất đa dạng và phong
phú với nhiều hình thức khác nhau (có nhiều loại tín dụng khác nhau). Việc áp dụng
từng loại cho vay tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế của đối tượng sử dụng vốn tín dụng
nhằm sử dụng và quản lý tín dụng có hiệu quả và phù hợp với sự vận động cũng như
đặc điểm kinh tế khác nhau của đối tượng tín dụng.
Từ khái niệm về tín dụng, phân biệt, đặc điểm, vai trò và phân loại tín dụng được
nêu ở phần trên, ta có thể nói một cách khái quát về hạn mức tín dụng như sau: Hạn
mức tín dụng là một cam kết tín dụng tối đa được duy trì trong một thời hạn nhất
định mà ngân hàng và khách hàng thỏa thuận thông qua hợp đồng tín dụng.
1.2.2. Hạn mức tín dụng đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu
Hoạt động xuất khẩu ngày càng đa dạng, phức tạp và có sự cạnh tranh gay gắt, vai
trò hỗ trợ của các NHTM là cực kỳ quan trọng. Các ngân hàng không chỉ hỗ trợ về
mặt tài chính (cấp tín dụng) để hoàn tất nghĩa vụ thanh toán và sản xuất trong quan
hệ kinh tế đối ngoại mà còn hỗ trợ về mặt kỹ thuật, bảo đảm các quá trình thanh toán
cho những hoạt động chu chuyển với nước ngoài, đồng thời đảm nhận những rủi ro
gắn liền với những hoạt động đó.
Dựa vào nhiều tiêu thức phân loại cho vay (hình thức cấp tín dụng) trong thực tế
như sau:
Căn cứ vào tiêu thức mục đích.
Căn cứ vào tiêu thức thời hạn tín dụng.
Căn cứ vào tiêu thức mức độ tín nhiệm của NHTM đối với khách hàng.
Căn cứ vào tiêu thức hình thái của cho vay.
Căn cứ vào tiêu thức hoàn trả nợ vay.
Căn cứ vào tiêu thức phương thức cho vay.

Từ đó, có thể rút ra khái quát về hạn mực tín dụng giành cho hoạt động kinh doanh
xuất khẩu là hạn mức tín dụng mà ngân hàng cho khách hàng DN sử dụng để phục vụ
cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu.
16

Hạn mức tín dụng được các DN sử dụng phục vụ cho hoạt động kinh doanh xuất
khẩu thông thường dưới các hình thức như sau:
 Cho vay thực hiện hàng xuất khẩu theo L/C đã mở
Mỗi lô hàng giao ra nước ngoài đều đòi hỏi một nhu cầu vốn trong quá trình sản
xuất và vận chuyển. Nhà xuất khẩu có thể dựa vào L/C đã mở để đề nghị ngân hàng
cấp một khoản tín dụng nhằm thực hiện xuất hàng theo các điều khoản đã qui định
của L/C.
 Chiết khấu hối phiếu
Chiết khấu hối phiếu là một hình thức tín dụng của ngân hàng cấp cho khách hàng
dưới hình thức mua lại hối phiếu trước khi đến hạn thanh toán. Chiết khấu hối phiếu
tạo điều kiện thuận lợi cho nhà xuất khẩu nhận được tiền sớm hơn nhằm đáp ứng nhu
cầu về vốn đối với khoản tín dụng cung ứng hàng đã cấp cho nhà nhập khẩu. Cơ sở
để xác định khối lượng tín dụng này là giá trị của hối phiếu sau khi đã trừ đi giá trị
chiết khấu và lệ phí nhờ thu mà ngân hàng chiết khấu hưởng.
 Chiết khấu chứng từ thanh toán theo hình thức tín dụng chứng từ
Để đáp ứng nhu cầu vốn, nhà xuất khẩu sau khi giao hàng xong có thể thương
lượng với ngân hàng để ngân hàng thực hiện chiết khấu bộ chứng từ hoặc ứng trước
tiền trước khi bộ chứng từ được thanh toán. Như vậy đối với nhà xuất khẩu thì L/C
không chỉ là công cụ bảo đảm thanh toán mà còn là công cụ bảo đảm tín dụng.
 Cho vay trên cơ sở bộ chứng từ thanh toán theo phương thức nhờ thu
Hầu hết các ngân hàng sẵn sàng cấp các khoản thấu chi cho các khách hàng xuất
khẩu thực hiện các hợp đồng mà thời hạn thanh toán lên đến 6 tháng. Khi một ngân
hàng xử lý các chứng từ gửi bằng cách chuyển chúng cho một ngân hàng đại lý ở
nước ngoài để nhờ thu, ngân hàng thường sẳn sàng cung cấp một khoản ứng trước
theo một tỷ lệ phần trăm thỏa thuận tính trên các khoản nhờ thu tồn đọng còn chưa

nhận được tiền. Trong một số trường hợp, vật đảm bảo được chấp nhận cho khoản
ứng trước sẽ là các chứng từ gửi hàng đem lại quyền kiểm soát hàng hóa cùng với
các tờ hối phiếu đang trong quá trình nhờ thu. Phương thức này cũng có nhiều điểm
tương tự như hình thức chiết khấu bộ chứng từ và thanh toán theo phương thức tín
17

dụng chứng từ. Tuy nhiên, trong trường hợp bộ chứng từ thanh toán theo phương
thức nhờ thu thì một số ngân hàng sẽ sử dụng cụm từ “Ứng trước tiền hàng xuất
khẩu” Đối với hình thức này, vì mức độ rủi ro rất cao nên lãi xuất cũng cao hơn so
với các hình thức khác, ngoài ra khách hàng cũng cần có tài sản đảm bảo.
 Bao thanh toán quốc tế (Factoring quốc tế)
Bao thanh toán quốc tế là một dạng tài trợ xuất khẩu của ngân hàng bằng việc mua
bán các khoản nợ ngắn hạn trong giao dịch thương mại giữa các ngân hàng tài trợ và
doanh nghiệp xuất khẩu, theo đó ngân hàng thực hiện tối thiểu một trong số các chức
năng sau: Cho vay và ứng trước tiền, quản lý sổ sách liên quan đến các khoản phải
thu, thu nợ các khoản phải thu, bảo đảm rủi ro không thanh toán của nhà nhập khẩu.
Hay nói một cách khác, bao thanh toán quốc tế là một loại dịch vụ tài chính trọn
gói bao gồm sự kết hợp giữa tài trợ vốn hoạt động kinh doanh xuất khẩu, bảo hiểm
rủi ro tín dụng, theo dõi các khoản phải thu và dịch vụ thu hộ.
 Thuận nhận ngân hàng (Banker’s acceptance)
Khi hối phiếu được ký phát cho ngân hàng, bằng việc ký chấp nhận hối phiếu ngân
hàng đã cam kết chi trả vô điều kiện một số tiền nhất định vào một ngày nhất định
trong tương lai. Do đó, hối phiếu này trở thành một công cụ có thể giao dịch trên thị
trường. Đây chính là nghiệp vụ thuận ngân hàng, một hình thức tài trợ của ngân hàng
cho nhà xuất khẩu, để họ có thể sử dụng hối phiếu đã được chấp nhận bằng cách
chiết khấu, hay bán trên thị trường.
Lợi ích đối với các doanh nghiệp trong việc sử dụng hạn mực tín dụng giành cho
hoạt động kinh doanh xuất khẩu là có được nguồn tín dụng sẳn sàng khi cần, còn lợi
ích đối với ngân hàng là thúc đẩy mối quan hệ lâu dài. Hạn mức tín dụng nói chung
và hạn mức tín dụng đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu nói riêng yêu cầu khách

hàng phải cung cấp thường xuyên các doanh số bán hàng, thu nhập, tài sản có, nợ
phải trả,các hoạt động của công ty …hạn mức tín dụng là phương thức hữu hiệu
nhằm giảm chi phí ngân hàng trong việc sàn lọc và thu thập thông tin. (Nguyễn Minh
Kiều, 2011)

18

1.3 Quản trị hạn mức tín dụng đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu cà phê
1.3.1 Quản trị hạn mức tín dụng
Hoạt động tín dụng của ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản có và
mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng. Ngân hàng cấp hạn mức tín dụng
cho khách hàng với nhiều hình thức: cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, cho thuê
tài chính, chiết khấu chứng từ có giá, tài trợ xuất nhập khẩu, tài trợ dự án, … Mặc dù
tỷ trọng của các hoạt động tín dụng đang có xu hướng giảm, nhưng tín dụng ngân
hàng vẫn luôn là nghiệp vụ sử dụng vốn quan trọng nhất đối với mỗi ngân hàng. Vì
vậy yếu tố quản trị được đề cập liên quan mật thiết đến việc cấp hạn mức tín dụng
như sau:
a) Hoạch định hạn mức tín dụng
Hoạch định hạn mức tín dụng được biểu hiện bởi các chính sách tín dụng. Một
trong những biện pháp quan trọng để các khoản tín dụng ngân hàng đáp ứng được
các tiêu chuẩn pháp lý và đảm bảo an toàn là việc tiến hành hoạch định một “chính
sách tín dụng an toàn và hiệu quả”. Chính sách tín dụng cung cấp cho cán bộ tín dụng
và nhà quản lý một khung chỉ dẫn chi tiết để ra các quyết định tín dụng và định
hướng danh mục đầu tư tín dụng của ngân hàng. Thông qua kết cấu danh mục tín
dụng của một ngân hàng, ta có thể biết được chính sách tín dụng của ngân hàng này
là như thế nào. Nếu một chính sách tín dụng hoạt động không hiệu quả thì phải tiến
hành kiểm tra hoặc phải được tăng cường quản lý bởi ban lãnh đạo ngân hàng.
Việc hoạch định các chính sách tín dụng thường dựa trên các yếu tố sau:
 Mục đích của danh mục tín dụng ngân hàng, bao gồm các đặc điểm của một
danh mục tín dụng, những kỳ hạn tín dụng, các độ lớn tín dụng, chất lượng tín dụng,

đối tượng khách hàng nòng cốt, khách hàng mục tiêu …
 Phân cấp thẩm quyền cho vay đối với từng cán bộ tín dụng và từng hội đồng
tín dụng (quy định mức cho vay tối đa, các loại tín dụng được phép và chữ ký của
người có trách nhiệm)
 Phân cấp chịu trách nhiệm hàng ngày trong công việc và báo cáo thông tin
trong nội bộ phòng tín dụng.
19

 Quy trình tiếp nhận, kiểm tra, đánh giá và ra quyết định đối với đơn xin vay
của khách hàng.
 Hồ sơ bắt buộc đối với từng đơn xin vay, và những gì phải được lưu giữ tại
ngân hàng (ví dụ như các báo cáo tài chính, hợp đồng bảo đảm tín dụng …)
 Phân cấp chịu trách nhiệm trong nội bộ ngân hàng, cụ thể ai là người chịu
trách nhiệm duy trì và kiểm tra hồ sơ tín dụng.
 Chỉ dẫn nhận, định giá và hoàn tất hồ sơ bảo đảm tín dụng.
 Quy định chính sách và quy trình ấn định mức lãi suất tín dụng, mức phí và
các điều kiện hoàn trả nợ vay.
 Quy định những tiêu chuẩn chất lượng áp dụng chung cho tất cả các loại tín
dụng.
 Quy định giới hạn tín dụng tối đa cho một khách hàng
 Quy định lĩnh vực hoạt động chính của ngân hàng, từ đó hướng tín dụng vào
lĩnh vực này.

 Các phương án ưu tiên trong việc phát hiện, phân tích và xử lý tín dụng có vấn
đề.
Tùy theo đặc điểm cụ thể của từng ngân hàng, nhà quản lý có thể bổ sung thêm
những quy định cho phù hợp. Ví dụ, có ngân hàng quy định không cấp một số loại tín
dụng nhất định, nhưng lại quy định ưu tiên đối với một số loại tín dụng khác.
Chính sách tín dụng ngân hàng mang lại nhiều ưu điểm trong quá trình thực hiện
cho vay. Trước hết, đối với cán bộ tín dụng họ biết họ cần phải làm các bước như thế

nào khi tiến hành một khoản cho vay và biết được trách nhiệm của mình đến đâu; đối
với ngân hàng, thông qua chính sách tín dụng, ngân hàng có thể đạt được một danh
mục tín dụng đa mục đích, như làm tăng khả năng sinh lời, kiểm soát được tìm ẩn rủi
ro và đám ứng được các đòi hỏi từ phía nhà quản lý. Bất kỳ một sự ngoại lệ nào trong
chính sách tín dụng cũng phải được quy định đầy đủ, các lý do tại sao lại có sự ngoại
lệ cũng phải liệt kê.

20

b) Tổ chức thực hiện chính sách tín dụng
Sau khi đã hoạch định xong các chính sách tín dụng, cần đưa các chính sách này
vào áp dụng trong thực tế. Điều kiện để có thể áp dụng được hiệu quả phải có cơ cấu
tổ chức, nhân sự và các nguồn lực khác hợp lý và tuân thủ theo các giai đoạn được
khái quát như sau:
 Giai đoạn một: Tiếp cận và thu thập thông tin
Đây là giai đoạn mà bộ phận chịu trách nhiệm chính là chuyên viên quan hệ khách
hàng. Chuyên viên quan hệ khách hàng tiếp cận và thu thập thông tin để khai thác
nhu cầu vốn thực tế của khách hàng tiềm năng. Tìm hiểu, kiểm tra, xác minh về mục
đích sử dụng vốn vay, phương án sản xuất kinh doanh/dự án đầu tư… Hướng dẫn
khách hàng về điều kiện tín dụng, hồ sơ vay vốn ngân hàng … và thu thập hồ sơ liên
quan để xem xét về việc cấp hạn mức tín dụng.
 Giai đoạn hai: Thẩm định
Sau khi xem xét hồ sơ, bộ phận thẩm định sẽ phân tích, đánh giá về tư cách của
khách hàng, tình hình tài chính của khách hàng, tính khả thi của phương án sản xuất
kinh doanh hoặc dự án đầu tư, tài sản đảm bảo nợ vay, khả năng quản lý và kiểm soát
rủi ro … về những tiềm lực của khách hàng để từ đó xác định hạn mức cần thiết cho
khách hàng.
Đây là giai đoạn phân tích và xem xét đánh giá đúng được chất khả thi thực sự của
dự án về mặt kinh tế đứng trên góc độ của ngân hàng. Đánh giá một cách chính xác
và trung thực khả năng trả nợ của khách hàng để làm căn cứ quyết định cho vay.

Thẩm định là một trong những giai đoạn rất quan trọng trong toàn bộ qui trình tín
dụng.
Sau khi phân tích đánh giá được mức độ rủi ro của dự án khi quyết định cho vay sẽ
có đề xuất trình cấp lãnh đạo phê duyệt.
 Giai đoạn ba: phê duyệt hạn mức tín dụng
Cấp lãnh đạo phê duyệt hạn mức dựa trên tờ trình/báo cáo thẩm định (nếu cần thiết
sẽ lập tổ tái thẩm định) quyết định hạn mức cấp tín dụng cho khách hàng.
 Giai đoạn bốn: Thực hiện
21

Sau khi phê duyệt, bộ phận quản lý và hỗ trợ tín dụng hoặc bộ phận quản lý tín
dụng/quan hệ khách hàng (tùy thuộc vào từng ngân hàng) chịu trách nhiệm soạn thảo
và ký kết các hợp đồng, tiến hành công chứng, đăng ký giao dịch đảm bảo …để thực
hiện giải ngân vốn cho khách hàng.
Mỗi giai đoạn trong quy trình để thực hiện các chính sách tín dụng trong thực tiễn
là một khâu riêng biệt nhưng có quan hệ gắn bó với nhau. Trong đó, thẩm định là một
trong bốn giai đoạn đóng vai trò rất quan trọng nên thường được chi tiết hóa thành
một quy trình riêng gồm các bước như xem xét hồ sơ, thu thập thông tin bổ sung,
thẩm định tính khả thi, ước lượng rủi ro và rút ra kết luận sau cùng về khả năng thu
hồi nợ trước khi cho vay.
Việc thiết lập và không ngừng hoàn thiện quy trình tổ chức thực hiện chính sách
tín dụng có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng. Về mặt
hiệu quả, nhằm góp phần nâng cao chất lượng và giảm thiểu rủi ro tín dụng. Về mặt
quản trị thì quy trình tổ chức thực hiện chính sách tín dụng có các tác dụng làm cơ sở
cho việc phân định trách nhiệm và quyền hạn của từng bộ phận liên quan trong hoạt
động tín dụng, thiết lập các hồ sơ và thủ tục vay vốn về mặt hành chính, chỉ rõ mối
quan hệ giữa các bộ phận liên quan trong hoạt động tín dụng.
c) Kiểm tra đánh giá việc thực hiện chính sách
Kiểm tra đánh giá việc thực hiện chính sách tín dụng là bước kết thúc quá trình
quản trị hạn mức tín dụng. Để thực hiện hoàn chỉnh bước này các ngân hàng sử dụng

rất nhiều các quy trình khác nhau. Tuy nhiên, những nguyên lý chung được áp dụng
bao gồm:
Nguyên lý 1: Tiến hành kiểm tra tất cả các loại tín dụng theo định kỳ nhất định, ví
dụ, đối với các khoản tín dụng nhỏ và vừa thì định kỳ kiểm tra có thể là 30, 60, hay
90 ngày; đối với những khoản tín dụng lớn thì phải kiểm tra thường xuyên hơn.
Nguyên lý 2: Xây dựng kế hoạch, chương trình, nội dung quá trình kiểm tra một
cách thận trọng và chi tiết, bảo đảm rằng những khía cạnh quan trọng nhất của mỗi
khoản tín dụng phải được kiểm tra bao gồm:
22

 Kế hoạch trả nợ của khách hàng, nhằm bảo đảm rằng khách hàng không chậm
trễ trong việc trả nợ theo kế hoạch.
 Chất lượng và điều kiện của tài sản đảm bảo tín dụng
 Đầy đủ và hợp lệ của hợp đồng tín dụng, bảo đảm rằng ngân hàng có đầy đủ
thẩm quyền hợp pháp để sở hữu các tài sản bảo đảm tín dụng đối với người vay
trước tòa án nếu cần thiết.
 Đánh giá điều kiện tài chính và những dự báo về người vay xem đã thay đổi,
trên cơ sở đó xem xét lại nhu cầu tín dụng của người vay thay đổi như thế nào.
 Đánh giá xem khoản tín dụng có còn tuân thủ chính sách cho vay của ngân
hàng và các tiêu chuẩn do cơ quan quản lý đặt ra.
Nguyên lý 3: Kiểm tra thường xuyên các khoản tín dụng lớn, bởi vì nếu các “đại
gia” bị vỡ nợ sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến điều kiện tài chính của ngân hàng.
Nguyên lý 4: Quản lý chặt chẽ và thường xuyên các khoản tín dụng có vấn đề, tăng
cường kiểm tra giám sát khi phát hiện những dấu hiệu không lành mạnh liên quan
đến khoản tín dụng ngân hàng.
Nguyên lý 5: Tăng cường kiểm tra tín dụng khi nền kinh tế có những biểu hiện đi
xuống, hoặc những ngành nghề sử dụng nhiều tín dụng của ngân hàng có biểu hiện
những vấn đề nghiêm trọng trong phát triển (ví dụ như xuất hiện đối thủ cạnh tranh
mới, hay có sự áp dụng công nghệ mới đòi hỏi phải có sản phẩm mới và các phương
pháp phân phối mới).

Kiểm tra tín dụng không phải là công việc thừa, lãng phí, mà rất cần thiết để hình
thành chính sách cho vay của ngân hàng một cách lành mạnh. Nó không những giúp
cho nhà quản lý nhận ra vấn đề một cách nhanh chóng, mà còn có tác dụng kiểm tra
thường xuyên xem cán bộ tín dụng có chấp hành đúng chính sách cho vay của ngân
hàng. Với lý do này, đồng thời tăng cường tính khách quan của công tác kiểm tra tín
dụng, hầu hết các ngân hàng lớn đều thành lập phòng “kiểm tra tín dụng” độc lập với
“phòng tín dụng”. Kiểm tra tín dụng giúp cho hội đồng quản trị và ban giám đốc điều
hành trong việc đánh giá toàn bộ tiềm ẩn rủi ro đối với ngân hàng.

23

1.3.2 Quản trị hạn mức tính dụng đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu
Những hoạt động tín dụng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn của các DN nhằm phục
vụ cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu với nhiều hình thức khác nhau như: cho vay
thực hiện hàng xuất khẩu theo L/C đã mở, chiết khấu hối phiếu, chiết khấu chứng từ
thanh toán theo hình thức tín dụng chứng từ và cho vay trên cơ sở bộ chứng từ thanh
toán theo phương thức nhờ thu. Là một thành viên hoạt động trong các lĩnh vực quốc
tế, hoạt động ngân hàng trong tài trợ xuất khẩu đã có đóng góp đáng kể đối với nền
kinh tế đất nước trên nhiều phương diện, đóng góp ngày càng lớn vào thu nhập quốc
gia, và điều quan trọng hơn là hoạt động tài trợ này đã thúc đẩy việc xuất khẩu hàng
hóa mang lại một nguồn thu nhập lớn cho quốc gia, tạo điều kiện cho sự phát triển
kinh tế.
Và yếu tố quản trị hạn mức tín dụng đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu là
một nhánh nhỏ trong cây quy trình quản trị hạn mức tín dụng lớn. Vì vậy, phải bao
gồm đầy đủ các bước sau đây:
 Hoạch định hạn mức tín dụng đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu
Hoạch định hạn mức tín dụng đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu thông qua
việc ban hành các chính sách tín dụng cụ thể. Đối với hoạt động kinh doanh xuất
khẩu, mục tiêu cũng không nằm ngoài mục tiêu an toàn và hiệu quả như phần hoạch
định chính sách tín dụng nêu trên. Tuy nhiên, trong phần này ngân hàng phải chú

trọng hơn yếu tố sử dụng vốn phục vụ cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu như sau:
- Mục đích, kỳ hạn, độ lớn tín dụng …phù hợp với đối tượng khách hàng là DN
hoạt động kinh doanh xuất khẩu.
- Phân cấp thẩm quyền cho vay, chịu trách nhiệm, quy trình tiếp cận, kiểm tra
đánh giá …cần chú trọng những khía cạnh căn bản sau đây:
+ Doanh thu và chi phí của hợp đồng xuất khẩu.
+ Rủi ro ngoại hối khi thực hiện hợp đồng xuất khẩu .
- Quy định chính sách và quy trình ấn định mức lãi suất, mức phí và các điều
kiện hoàn trả nợ vay…đối với khách hàng là DN hoạt động kinh doanh xuất khẩu
dựa trên các yếu tố như:
24

+ Tính chất pháp lý, hiệu quả tài chính của hợp đồng xuất khẩu
+ Tình hình tài chính, tài sản đảm bảo (nếu có) của doanh nghiệp xuất khẩu
+ Kỹ năng và trình độ quản lý của người điều hành doanh nghiệp.
- Quy định lĩnh vực hoạt động chính của ngân hàng, từ đó hướng tín dụng vào
lĩnh vực xuất khẩu.
- Quy định những tiêu chuẩn tín dụng, phương án xử lý …giành cho lĩnh vực
xuất khẩu.
Thông qua những yếu tố chung trong chính sách hạn mức tín dụng đối với hoạt
động kinh doanh xuất khẩu, tùy thuộc vào đặc điểm của ngân hàng bổ sung cho phù
hợp theo quy định.
Chính sách tín dụng đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu mang lại sự riêng biệt
trong quá trình cho vay. Thông qua những chính sách tín dụng cụ thể về lĩnh vực
xuất khẩu, ngân hàng cũng nhằm đạt đến những mục đích là khả năng sinh lời, đáp
ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp, kiểm soát rủi ro … như trong phần chính sách
hạn mức tín dụng.
Chính sách tín dụng xuất khẩu của ngân hàng, trước hết, làm cho quá trình vay
diễn ra thống nhất, hạn chế, phòng ngừa rủi ro và nâng cao chất lượng tín dụng, góp
phần đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu vay vốn của khách hàng doanh nghiệp hoạt

động kinh doanh xuất khẩu.
 Tổ chức thực hiện chính sách tín dụng đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu
Đây là quá trình áp dụng chính sách tín dụng đối với hoạt động kinh doanh xuất
khẩu vào thực tế cũng thông qua các giai đoạn như trong phần chính sách hạn mức
tín dụng:
- Giai đoạn một: Tiếp cận và thu thập thông tin
- Giai đoạn hai: Thẩm định
- Giai đoạn ba: phê duyệt hạn mức tín dụng
- Giai đoạn bốn: Thực hiện
Tuy nhiên, vì đây là hình thức cho vay riêng biệt nên trong suốt quá trình tổ chức
thực hiện phải chú trọng vào các yếu tố riêng biệt là hoạt động kinh doanh xuất khẩu.
25

 Kiểm tra đánh giá việc thực hiện chính sách tín dụng đối với hoạt động
kinh doanh xuất khẩu
Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu nhằm mang lại nguồn thu ngoại tệ và mục đích
kinh doanh của ngân hàng thương mại. Những biến động trong nền kinh tế làm suy
yếu một số doanh nghiệp và tăng nhu cầu vốn đối với các doanh nghiệp khác hoạt
động kinh doanh trong lĩnh vực xuất khẩu. Vì vậy quá trình kiểm tra sau khi ký kết
hợp đồng là nghiêm ngặt tuân theo các nguyên lý chung của việc kiểm tra đánh giá
chính sách tín dụng và áp dụng cụ thể cho từng sản phẩm vay.
Như vậy, hạn mức tín dụng (loan commitment) mang lại những lợi ích nhất định
cho cả khách hàng và các tổ chức nếu nhà quản lý đưa ra những hoạch định chính
sách đúng và thực hiện hiệu quả mang tính hiệu suất cao cùng với quá trình kiểm tra
nghiêm ngặt tuân thủ các quy định quy chế của ngân hàng.
1.4 Tổng quan về hoạt động xuất khẩu cà phê
1.4.1 Thực trạng về ngành cà phê Việt Nam hiện nay
Nhu cầu vốn để phát triển cây cà phê là vấn đề lớn cần quan tâm và rất cần sự hỗ
trợ và hợp tác từ phía ngân hàng. Nhận thấy được điều đó, trong những năm qua,
cùng với việc chú trọng đầu tư vốn cho các ngành kinh tế trọng điểm, Ngân Hàng

TMCP Công Thương Việt Nam (Vietinbank) đã tích cực đầu tư vốn cho phát triển
cây cà phê tại các tỉnh Tây Nguyên. Tính đến thời điểm hiện tại, dư nợ cho vay đầu
tư ngành cà phê đạt khoảng 700 tỷ đồng, trong đó có nhiều Chi nhánh tích cực đầu tư
cho dự án phát triển cây cà phê và ngành cà phê như: Vietinbank - Chi nhánh Gia
Lai, Đăk Lăk, Lâm Đồng,…
Tuy nhiên, một thực tế cho thấy các doanh nghiệp sản xuất cà phê đang gặp phải
nhiều khó khăn do chịu tác động từ thiên nhiên, thêm vào đó là sự biến động về giá
cả thị trường ảnh hưởng lớn đến sự phát triển cây cà phê. Mặt khác, tình hình chung
của ngành cà phê toàn cầu tác động không nhỏ đến ngành cà phê nước ta. Bên cạnh
đó, cán cân cung cầu và vận động của giá cả thị trường đã tác động trực tiếp đến
ngành cà phê thế giới và Việt Nam. Giá cà phê trong và ngoài nước liên tục giảm làm
các đơn vị sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu cà phê thua lỗ, không có khả năng
26

thanh toán nhanh. Vì vậy, họ phải dùng tiền vay ngân hàng để bù đắp các khoản chi
phí cho sản xuất kinh doanh, gây mất cân đối về tài chính ở các đơn vị thành viên.
Trước thực trạng đó, các doanh nghiệp cà phê cũng như ngành ngân hàng nói
chung đang phải tính toán rất kỹ để hạn chế rủi ro. Tình trạng chây ỳ, không trả nợ,
trông chờ vào chính sách của Nhà nước trong một số doanh nghiệp ảnh hưởng trực
tiếp đến công tác thu hồi nợ của ngân hàng.
Tuy nhiên, ngân hàng vẫn đang tiếp tục cho vay để hỗ trợ, duy trì chăm sóc các
vườn cà phê và kinh doanh xuất khẩu cà phê đối với các khách hàng sản xuất kinh
doanh tốt. Theo ông Tăng Hải Châu- Phó Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Đăk Lăk
cho biết: “Vốn đầu tư cho doanh nghiệp cà phê không thiếu, chỉ lo doanh nghiệp
không trả được nợ, vì vậy khi xét cho vay, Ngân hàng cần đặc biệt chú trọng xem xét
tính hiệu quả của hợp đồng xuất khẩu bên cạnh các điều kiện vay vốn khác”.
1.4.2 Phương thức giao dịch mua bán trong xuất khẩu cà phê
Trong ngoại thương việc thanh toán giữa các nhà xuất khẩu và nhập khẩu thuộc
hai quốc gia khác nhau phải được tiến hành thông qua ngân hàng bằng những phương
thức thanh toán nhất định. Phương thức thanh toán quốc tế là cách thức thực hiện chi

trả một hợp đồng xuất nhập khẩu thông qua trung gian ngân hàng bằng cách trích tiền
từ tài khoản của người nhận khẩu chuyển vào tài khoản của người xuất khẩu căn cứ
vào hợp đồng thương mại và chứng từ do hai bên cung cấp cho ngân hàng. Việc lựa
chọn phương thức thanh toán quốc tế nào tùy thuộc vào sự thương lượng giữa hai bên
và phù hợp với tập quán cũng như luật lệ trong thanh toán và buôn bán quốc tế. Nhìn
chung trong ngoại thương hiện nay thường sử dụng các phương thức thanh toán như
phương thức chuyển tiền, phương thức nhờ thu, phương thức ghi sổ và phương thức
tín dụng chứng từ.
Như vậy, giao dịch mua bán xuất khẩu cà phê cũng thông qua hình thức giao dịch
thanh toán quốc tế như bình thường thường. Sau đây là một số hình thức thông dụng:
 Tín dụng chứng từ (L/C: Letter of credit): là phương thức thanh toán trong
đó một ngân hàng theo yêu cầu cầu của khách hàng cam kết sẽ trả một số tiền nhất
định cho người thụ hưởng hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong
27

phạm vi số tiền đó nếu người này xuất trình được bộ chứng từ thanh toán phù hợp với
những quy định nêu ra trong thư tín dụng. Một cách đơn giản hơn, phương thức tín
dụng chứng từ là một sự thỏa thuận mà trong đó một ngân hàng (Ngân hàng mở thư
tín dụng) đáp ứng những nhu cầu của khách hàng (người xin mở thư tín dụng) cam
kết hay cho phép ngân hàng khác chi trả hoặc chấp thuận những yêu cầu của người
hưởng lợi khi những điều kiện và điều khoản quy định trong thư tín dụng được thực
hiện đúng và đầy đủ.
Mặt khác khái niệm tín dụng chứng từ còn cho chúng ta thấy rằng tín dụng thư hay
còn gọi là thư tín dụng là văn bản quan trọng nhất trong phương thức thanh toán tín
dụng chứng từ. Thư tín dụng (Letter of credit) gọi tắt là L/C là văn bản pháp lý trong
đó một ngân hàng theo yêu cầu của khách hàng đứng ra cam kết sẽ trả cho người thụ
hưởng một số tiền nhất định nếu người này xuất trình bộ chứng từ phù hợp với những
quy định đã nêu trong văn bản đó.
Như đã trình bày, chúng ta thấy rằng đây là phương pháp thanh toán đảm bảo
quyền lợi cho cả bên xuất và nhập khẩu. Bên xuất khẩu được ngân hàng đứng ra cam

kết trả tiền còn bên nhập khẩu được ngân hàng đứng ra xem xét, kiểm tra bộ chứng từ
nhằm đảm bảo cho bên nhập khẩu nhận đầy đủ, kịp thời và chính xác hàng hóa đặt
mua trước khi trả tiền. Trong phương thức này Ngân hàng đóng vai trò chủ động
trong thanh toán chứ không chỉ làm trung gian đơn thuần như những phương thức
thanh toán khác. Chính vì vậy, hiện nay phương thức này được sử dụng nhiều nhất
trong thanh toán quốc tế.Tuy vậy, phương thức thanh toán tín dụng chứng từ chỉ có
thể sử dụng trong quan hệ thanh toán mậu dịch còn trong thanh toán phi mậu dịch
vẫn phải dùng phương thức chuyển tiền hoặc nhờ thu.
 Phương thức chuyển tiền (Remittance): áp dụng cả trong thanh toán mậu
dịch lẫn phi mậu dịch, nhưng thanh toán phi mậu dịch áp dụng nhiều hơn. Chuyển
tiền là phương thức thanh toán trong đó một khách hàng của ngân hàng (gọi là người
chuyển tiền) yêu cầu ngân hàng chuyển một số tiền nhất định cho người thụ hưởng ở
một địa điểm nhất định.

×