Tải bản đầy đủ (.doc) (190 trang)

Sử dụng công cụ giá cả để cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của các doanh nghiệp sản xuất xi măng ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.65 MB, 190 trang )

MỤC LỤC
L I CAM OANỜ Đ ........................................................................................................3
DANH M C BI U, BI U VÀ S Ụ Ể Ể ĐỒ ƠĐỒ.....................................................................4
DANH M C CH VI T T TỤ Ữ Ế Ắ .......................................................................................5
M UỞĐẦ .......................................................................................................................6
Ch ng 1ươ .....................................................................................................................11
C S LÝ LU N V S D NG GIÁ C C NH TRANH TRONG I U KI N Ơ Ở Ậ Ề Ử Ụ ẢĐỂ Ạ Đ Ề Ệ
H I NH P QU C T C A DOANH NGHI P S N XU T XI M NGỘ Ậ Ố Ế Ủ Ệ Ả Ấ Ă ....................11
1.1S C N THI T PH I S D NG GIÁ C C NH TRANH C A CÁC Ự Ầ Ế Ả Ử Ụ ẢĐỂ Ạ Ủ
DOANH NGHI P S N XU T XI M NGỆ Ả Ấ Ă ...............................................................11
1.2 B N CH T C A GIÁ C V I T CÁCH LÀ CÔNG C C NH TRANH Ả Ấ Ủ Ả Ớ Ư ỤĐỂ Ạ
C A CÁC DOANH NGHI P S N XU T XI M NGỦ Ệ Ả Ấ Ă ..............................................28
1.3 QUÁ TRÌNH S D NG CÔNG C GIÁ C C NH TRANH C A CÁC Ử Ụ Ụ ẢĐỂ Ạ Ủ
DOANH NGHI P S N XU T XI M NGỆ Ả Ấ Ă ...............................................................38
Ch ng 2ươ .....................................................................................................................55
TH C TR NG S D NG CÔNG C GIÁ C C NH TRANH C A CÁC Ự Ạ Ử Ụ Ụ ẢĐỂ Ạ Ủ
DOANH NGHI P S N XU T XI M NG VI T NAMỆ Ả Ấ Ă Ở Ệ .........................................55
2.1 KHÁI QUÁT V TH TR NG XI M NG TH I GIAN QUAỀ Ị ƯỜ Ă Ờ .......................56
2.2 TH C TR NG S D NG CÔNG C GIÁ C C NH TRANH C A CÁC Ự Ạ Ử Ụ Ụ Ả ĐỂ Ạ Ủ
DOANH NGHI P S N XU T XI M NG TH I GIAN QUAỆ Ả Ấ Ă Ờ ...............................68
CH NG 3ƯƠ ..............................................................................................................113
XU T GI I PHÁP T NG C NG S D NG CÔNG C GIÁ C C NH ĐỀ Ấ Ả Ă ƯỜ Ử Ụ Ụ ẢĐỂ Ạ
TRANH TRONG I U KI N H I NH P KINH T QU C T C A CÁC DOANH Đ Ề Ệ Ộ Ậ Ế Ố Ế Ủ
NGHI P S N XU T XI M NG VI T NAMỆ Ả Ấ Ă Ở Ệ .......................................................113
3.1 NH NG NH H NG CHI N L C T NG C NG QUÁ TRÌNH S Ữ ĐỊ ƯỚ Ế ƯỢ Ă ƯỜ Ử
D NG GIÁ C NH TRANH C A DOANH NGHI P S N XU T XI M NGỤ ĐỂ Ạ Ủ Ệ Ả Ấ Ă 113
3.2 CÁC GI I PHÁP C TH T NG C NG S D NG GIÁ C NH TRANH Ả Ụ Ể Ă ƯỜ Ử Ụ ĐỂ Ạ
C A CÁC DOANH NGHI P S N XU T XI M NGỦ Ệ Ả Ấ Ă ...........................................146
3.3 CÁC GI I PHÁP H TR S D NG GIÁ C C NH TRANHẢ Ỗ Ợ Ử Ụ ẢĐỂ Ạ .................171
1
3.4 M T S KI N NGH I V I NHÀ N CỘ Ố Ế Ị ĐỐ Ớ ƯỚ .................................................175


3.5 CÁC I U KI N VÀ GI I H N C A C NH TRANH QUA GIÁ Đ Ề Ệ Ớ Ạ Ủ Ạ .................176
K T LU NẾ Ậ ................................................................................................................180
TÀI LI U THAM KH OỆ Ả ...........................................................................................182
Danh mục các công trình nghiên cứu có liên quan đến bài viết đã được công
bố ..........................................................................................................................184
Phụ lục…………………………………………………………………………..185
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án này là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các kết quả trong luận án là trung thực và chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
Vũ Minh Đức
3
DANH MỤC BIỂU, BIỂU ĐỒ VÀ SƠ ĐỒ
Biểu 1.1 Các yếu tố làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp............................................. 28
Sơ đồ 1.1 Mối quan hệ giữa giá ban đầu và giá được điều chỉnh……………................. 38
Biểu 2.1 Sản lượng xi măng tiêu dùng qua các năm………………………………........ 55
Biểu 2.2 Các doanh nghiệp xi măng thuộc các thành phần kinh tế…………………… 56
Biểu 2.3 Các nhóm doanh nghiệp xi măng theo cấp quản lý………………………….. 57
Biểu 2.4 Các nhóm doanh nghiệp xi măng ở các khu vực địa llý.................................... 59
Biểu 2.5 Sản lượng xi măng sản xuẩt và cung ứng, 1990-2006………………………. 62
Biểu 2.6 Thị phần của các nhóm doanh nghiệp xi măng..……………………………... 62
Biểu đồ 2.1 Thị phần của các nhóm doanh nghiệp xi măng..…………………………… 63
Biểu 2.7 Nhu cầu và sản lượng xi măng sản xuất trong nước.………………………… 64
Biểu đồ 2.2 Tỷ lệ sản lượng xi măng sản xuất trong nước và nhu cầu xi măng ………. 65
Biểu 2.8 Cạnh tranh trên thị trường theo đánh giá của các doanh nghiệp xi măng……. 67
Biểu 2.9 ĐTCT chủ yếu của doanh nghiệp theo đánh giá của các doanh nghiệp XM ... 69
Biểu 2.10 Lợi thế cạnh tranh theo đánh giá của các doanh nghiệp xi măng…………… 69
Biểu 2.11 Giá thành xi măng PCB30 của CTXM Hoàng Thạch..................................... 74

Biểu 2.12 Giá thành xi măng PCB30 của CTXM Bút Sơn……………………………... 75
Biểu 2.13 Giá thành xi măng PCB30 của CTXM Yên Bái……………………………. 76
Biểu 2.14 Giá thành xi măng PCB30 của một số doanh nghiệp……………………… 77
Biểu 2.15 Một số chỉ tiêu chủ yếu của doanh nghiệp xi măng……...…………………. 78
Biểu 2.16 Tìm hiểu ĐTCT của các DNSXXM.……………………………………….. 86
Biểu 2. 17 Các phương pháp định giá ban đầu được áp dụng ở các DNSXXM………. 87
Biểu 2.18 Giá bán xi măng tại một số địa phương……………….…………………….. 91
Biểu 2.19 Giá bán xi măng tại một số địa điểm ở Hà Nội………………………………. 91
Biểu 2.20 Chi phí vận chuyển xi măng………………...………………………………. 93
Biểu 2.21 Giá bán xi măng phân biệt theo phương thức vận chuyển…………………… 94
Biểu 2.22 Giá bán xi măng phân biệt theo khối lượng mua ………………………….. 95
Biểu 2.23 Áp dụng phân biệt giá ở các DNSXXM…………………………………. 96
Biểu 2.24 Thực hiện thay đổi giá ở các DNSXXM…………………………………… 98
Biểu 2.25 Kết hợp các biện pháp ngoài giá với giá cả ở các DNSXXM……………. 99
Biểu 2.26 Phân tích thống kê đánh giá tầm quan trọng của các biện pháp cạnh tranh
ngoài giá……………………………………………………………………… 100
Biểu 3.1 Dự báo nhu cầu xi măng theo các vùng kinh tế.............................................. 119
Biểu 3.2 Dự báo cung cầu xi măng cả nước đến năm 2010………………………… 123
Biểu đồ 3.1 Dự báo nhu cầu và năng lực cung ứng xi măng cả nước đến năm 2010… 123
Sơ đồ 3.1 Tiếp cận ma trận SWOT đối với các doanh nghiệp thuộc TCTXM ………. 132
Sơ đồ 3.2 Tiếp cận ma trận SWOT đối với các công ty XMLD………………. ………. 133
Sơ đồ 3.3 Tiếp cận ma trận SWOT đối với các công ty xi măng địa phương………… 134
Sơ đồ 3.4 Cân nhắc các phản ứng khi ĐTCT thay đổi giá……………………………... 158
Sơ đồ 3.5 Hệ thống thông tin cạnh tranh của doanh nghiệp xi măng…………………… 167
4
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
AFTA Khu vực mậu dịch tự do Đông - Nam - Á
BTA Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ
CPXM Cổ phần xi măng
DN Doanh nghiệp

DNSXXM Doanh nghiệp sản xuất xi măng
DV Dịch vụ
ĐTCT Đối thủ cạnh tranh
HNKTQT Hội nhập kinh tế quốc tế
KD Kinh doanh
NN Nước ngoài
SX và KD Sản xuất và kinh doanh
TM Thương mại
TCTXM Tổng Công ty Xi măng
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
TSCĐ Tài sản cố định
VL Vật liệu
VLXD Vật liệu xây dựng
XD Xây dựng
XM Xi măng
XMLD Xi măng liên doanh
WTO Tổ chức thương mại thế giới
5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Hoạt động trong điều kiện của kinh tế thị trường, doanh nghiệp luôn phải đối
mặt với các lực lượng cạnh tranh. Mức độ cạnh tranh thay đổi theo kiểu cấu trúc và
trình độ phát triển của thị trường ở những giai đoạn nhất định. Doanh nghiệp không
chỉ cần hiểu biết về cạnh tranh mà còn phải thiết lập chiến lược cạnh tranh và sử
dụng các công cụ cạnh tranh thích hợp với điều kiện thị trường mà nó hoạt động.
Giá cả là một trong những yếu tố của marketing hỗn hợp (marketing-mix) và là
công cụ cạnh tranh quan trọng của doanh nghiệp nhằm đạt tới những mục tiêu
marketing nhất định. Trên phương diện lý thuyết, nhiều công trình nghiên cứu của
các tác giả trên thế giới đã đề cập về vấn đề định giá sản phẩm của doanh nghiệp.
Trong đó, những tác phẩm tiêu biểu là: “The Strategy and Tactics of Pricing” của

T.Nagle và R.Holden [65] và “Pricing for Profitability” của J.Daly [47]. Đồng thời,
rất nhiều bài viết đơn lẻ của nhiều tác giả trình bày các nghiên cứu độc lập về định
giá cạnh tranh [14, 35, 36, 39, 42, 44, 45, 48, 59, 60, 67, 80, 82,...]. Điểm chung của những
công trình này là các tác giả sử dụng mô hình toán và mô hình kinh tế lượng để
phân tích và đánh giá nhằm trả lời câu hỏi về định giá tối ưu của doanh nghiệp
trong mối liên hệ ràng buộc với các yếu tố và điều kiện thị trường. Ở một số công
trình khác, các tác giả lại tiếp cận định giá theo quan điểm tài chính, tập trung vào
phân tích khả năng bù đắp chi phí sản xuất và đảm bảo lợi nhuận trong định giá [68,
69, 81, 90]. Ngoài ra, một số tác giả khác nghiên cứu những khía cạnh riêng biệt về
hành vi định giá của doanh nghiệp [38, 39, 41, 54, 55, 74, 79,...]. Mặc dù vậy, chưa có
công trình nghiên cứu nào đề cập trực tiếp về sử dụng giá cả với tư cách là một
công cụ marketing hỗn hợp để cạnh tranh khi doanh nghiệp hoạt động trong các
cấu trúc thị trường cạnh tranh độc quyền và độc quyền nhóm.
6
Trên thực tế, về phía cung, thị trường xi măng Việt Nam thể hiện đặc điểm
của thị trường độc quyền nhóm, trong đó, hai lực lượng cung ứng chủ yếu là Tổng
Công ty Xi măng (TCTXM) và các công ty liên doanh xi măng. TCTXM nắm giữ
42% và các công ty xi măng liên doanh (XMLD) chiếm hơn 38% (xem phụ lục 5).
Mặt khác, thị trường xi măng lại mang đặc điểm của thị trường cạnh tranh độc
quyền với sự hiện diện của các DNSXXM địa phương và ngành. Trong những năm
qua, ngành xi măng được nhà nước bảo hộ, các doanh nghiệp xi măng, đặc biệt là
xi măng quốc doanh được hưởng nhiều ưu đãi và “che chắn” từ phía Nhà nước.
Tình trạng đó làm sai lệch sự hình thành chi phí sản xuất xi măng và phản ánh thiếu
chính xác vị thế cạnh tranh của xi măng trong nước so với xi măng nhập khẩu. Hơn
thế nữa, ở thời điểm hiện tại, vẫn tồn tại ý kiến cho rằng các DNSXXM không cần
phải cạnh tranh về giá bởi vì cung chưa đáp ứng đủ cầu về xi măng. Tuy nhiên,
theo đánh giá mới nhất của bộ Xây dựng và Hiệp hội Xi măng Việt Nam, vào năm
2010, so với nhu cầu sử dụng, cả nước sẽ thừa khoảng 10 triệu tấn xi măng [19].
Chúng ta đều biết nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế (HNKTQT), Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại

Thế giới (WTO). Năm 2006 là thời điểm hội nhập hoàn toàn của nền kinh tế Việt
Nam với khu vực. Việc mở cửa thị trường trong nước dẫn đến sự xâm nhập của xi
măng nhập khẩu và các công ty xi măng nước ngoài, làm thay đổi cơ cấu cung trên
thị trường xi măng. Để tồn tại và tiếp tục phát triển trong môi trường cạnh tranh
khốc liệt, doanh nghiệp không thể không phát huy những lợi thế cạnh tranh, thiết
lập và thực thi chiến lược cạnh tranh thích hợp. Trong những năm sắp tới, sử dụng
giá cả để cạnh tranh càng trở nên bức thiết đối với các DNSXXM ở Việt Nam.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, nghiên cứu sinh đã lựa chọn vấn đề: “Sử
dụng công cụ giá cả để cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của các
doanh nghiệp sản xuất xi măng ở Việt Nam” làm đề tài của luận án.
7
2. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài như trên, một số mục đích nghiên cứu của luận án được xác định
là:
Thứ nhất, làm rõ sự cần thiết sử dụng giá cả để cạnh tranh trong ngành công
nghiệp xi măng, quá trình sử dụng giá cả để cạnh tranh, mối liên hệ giữa giá với
các yếu tố khác thuộc marketing hỗn hợp, điều kiện và giới hạn của cạnh tranh qua
giá.
Thứ hai, phân tích thực trạng sử dụng giá cả để cạnh tranh của các DNSXXM
ở Việt Nam, đánh giá kết quả cũng như những tồn tại và hạn chế của quá trình này.
Thứ ba, đề xuất các giải pháp tăng cường sử dụng giá cả để cạnh tranh trong
điều kiện HNKTQT của DNSXXM ở Việt Nam trong thời gian sắp tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn của sử
dụng giá cả để cạnh tranh trong điều kiện HNKTQT của DNSXXM. Luận án tập
trung nghiên cứu những vấn đề sử dụng công cụ giá cả để cạnh tranh của các
DNSXXM ở Việt Nam từ năm 2000 trở lại đây và định hướng đến năm 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu
Nhằm thực hiện các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, về phương pháp tiếp
cận, nghiên cứu sinh áp dụng cách tiếp cận hệ thống, phép duy vật biện chứng và

duy vật lịch sử, phương pháp đối chiếu một cách toàn diện và nhất quán trong toàn
bộ luận án. Đề thu thập các dữ liệu, các phương pháp nghiên cứu cụ thể được áp
dụng là: Thu thập dữ liệu thứ cấp từ các nguồn thích hợp; Nghiên cứu điều tra
phỏng vấn dựa trên điều tra chọn mẫu các doanh nghiệp sản xuất, phân phối và sử
dụng xi măng ở Việt Nam; Phỏng vấn chuyên sâu các chuyên gia và lãnh đạo
doanh nghiệp sản xuất, phân phối và sử dụng xi măng ở các khu vực khác nhau.
8
Nghiên cứu sinh đã sử dụng phần mềm SPSS phiên bản 13.0 để phân tích và xử lý
dữ liệu sơ cấp được thu thập từ cuộc nghiên cứu điều tra phỏng vấn nói trên.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
(1) Trên cơ sở phân tích các đặc điểm kinh tế-kỹ thuật của ngành xi măng,
các đặc điểm của cấu trúc thị trường xi măng đặt trong bối cảnh Việt Nam đã là
thành viên của WTO, luận án đã chỉ ra tính cấp thiết của việc sử dụng giá cả để
cạnh tranh đối với các doanh nghiệp xi măng trong nước. Trong thời gian sắp tới,
các doanh nghiệp xi măng phải đối mặt với các đối thủ cạnh tranh mới là xi măng
nhập khẩu và các công ty nước ngoài đầu tư vào sản xuất và cung ứng xi măng ở
Việt Nam. Đồng thời, trên phương diện lý luận, luận án làm sáng tỏ bản chất của
cạnh tranh qua giá trong các cấu trúc thị trường độc quyền nhóm và cạnh tranh độc
quyền của thị trường xi măng.
(2) Luận án khái quát hoá bức tranh cạnh tranh trong ngành xi măng và
những đặc điểm quan trọng của cạnh tranh qua giá hiện nay của các doanh nghiệp
xi măng, hình thành cơ sở dữ liệu về cạnh tranh qua giá của các DNSXXM ở Việt
Nam.
(3) Kết quả nghiên cứu của luận án chỉ rõ để cạnh tranh qua giá, chiến lược
cạnh tranh qua giá mà các doanh nghiệp xi măng phải theo đuổi là kiểm soát chi
phí, giảm chi phí và hạ giá thành sản phẩm, coi giá cả là giới hạn cao của chi phí
sản xuất xi măng. Đồng thời, doanh nghiệp xi măng phải thiết lập đồng bộ hệ thống
quản trị cạnh tranh qua giá và hệ thống thông tin cạnh tranh của doanh nghiệp.
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần mục lục, danh mục biểu bảng, bảng chữ viết tắt, mở đầu, kết luận,

danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được bố cục với kết cấu 3 chương:
Chương 1- Cơ sở lý luận về sử dụng giá để cạnh tranh trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế của doanh nghiệp sản xuất xi măng
9
Chương 2-Thực trạng sử dụng giá cả để cạnh tranh của các doanh nghiệp sản
xuất xi măng ở Việt Nam
Chương 3- Đề xuất giải pháp tăng cường sử dụng công cụ giá cả để cạnh tranh
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của các doanh nghiệp sản xuất xi măng ở
Việt Nam
10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỬ DỤNG GIÁ CẢ ĐỂ CẠNH TRANH TRONG
ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
XI MĂNG
1.1 SỰ CẦN THIẾT PHẢI SỬ DỤNG GIÁ CẢ ĐỂ CẠNH TRANH CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT XI MĂNG
1.1.1 Đặc điểm kinh tế-kỹ thuật của ngành xi măng và cấu trúc thị
trường xi măng với việc sử dụng công cụ giá cả để cạnh tranh của các doanh
nghiệp sản xuất xi măng
1.1.1.1 Đặc điểm kinh tế-kỹ thuật của ngành xi măng và việc sử dụng giá cả
để cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất xi măng
(1) Sản xuất xi măng yêu cầu chi phí đầu tư cao, suất đầu tư lớn, chi phí cố
định chiếm tỷ trọng cao trong tổng chi phí, thời gian thu hồi vốn bị kéo dài.
Do các yêu cầu kỹ thuật và công nghệ, sản xuất xi măng đòi hỏi phải xây
dựng nhiều hạng mục công trình và trang bị hệ thống máy móc thiết bị đồng bộ từ
khai thác đá vôi, đất sét, nghiền, trộn nguyên, vật liệu, nung, nghiền trộn clanh-ke
đến đóng bao thành phẩm. Theo tính toán của Bộ Xây dựng, tuỳ thuộc vào quy mô
và công nghệ, suất đầu tư cho 1 tấn xi măng dao động từ 125USD/tấn-220
USD/tấn. Như vậy, với các nhà máy xi măng công suất từ 1 triệu tấn/năm trở lên,
vốn đầu tư đòi hỏi từ 2 000 tỷ VNĐ (thời điểm 2006) trở lên. Chi phí cố định

chiếm tỷ trọng cao trong tổng chi phí sản xuất xi măng là một trong những yếu tố
buộc các DNSXXM phải tăng sản lượng xi măng tiêu thụ, khai thác tối đa công
suất thiết kế để đạt lợi thế kinh tế nhờ quy mô. Tỷ lệ huy động công suất có ý nghĩa
quyết định để doanh nghiệp xi măng giảm chi phí đơn vị sản phẩm. Bởi vì, với tổng
chi phí cố định không đổi trong ngắn hạn, chỉ có tăng khối lượng xi măng được sản
xuất và tiêu thụ, DNSXXM mới có thể giảm chi phí cố định trung bình và chi phí
11
sản xuất đơn vị sản phẩm. Do đó, để xâm nhập và mở rộng thị trường, các doanh
nghiệp quy mô lớn, mới thành lập, thậm chí, ngay cả với DNSXXM đã tồn tại lâu
năm, phải cân nhắc sử dụng công cụ giá.
(2) Sản xuất xi măng tập trung ở một số khu vực địa lý trong khi tiêu dùng xi
măng phân tán ở khắp các khu vực, vùng, miền của đất nước.
Quá trình sản xuất xi măng sử dụng nhiều loại nguyên liệu thô là sản phẩm
của ngành khai khoáng như đá vôi, đất sét, thạch cao, than. Cùng với chi phí cố
định, chi phí nguyên, vật liệu chiếm tỷ trọng cao trong giá thành xi măng. Do đó,
các nhà máy sản xuất xi măng thường được quy hoạch gần nguồn nguyên liệu.
Ngược lại, tiêu dùng xi măng lại phân tán khắp các vùng nhưng tập trung tương đối
ở những khu vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế và mật độ dân cư cao. Sự phân bố
sản xuất và tiêu dùng xi măng nói trên dẫn đến các hệ quả sau đây:
Thứ nhất, chi phí phân phối, đặc biệt là chi phí vận chuyển, dự trữ và bảo
quản xi măng chiếm tỷ trọng cao trong giá bán xi măng. Các DNSXXM phân bố
gần nơi tiêu thụ có lợi thế lớn so với các doanh nghiệp khác nhờ tiết kiệm chi phí
vận chuyển, có thể áp dụng mức giá thấp cạnh tranh với các đối thủ khác ở xa hơn.
Thứ hai, hệ thống phân phối xi măng trở thành yếu tố hỗ trợ tích cực và quan
trọng đối với việc sử dụng giá cả để cạnh tranh. Các biện pháp kết hợp phân phối
và giá cả phải được coi là một bộ phận không thể thiếu trong cạnh tranh về giá cả
của các DNSXXM .
Thứ ba, các công ty xi măng địa phương phục vụ nhóm khách hàng địa
phương khả năng thanh toán thấp có nhu cầu về xi măng chất lượng trung bình. Do
đó, giá cả trở thành công cụ cạnh tranh hữu hiệu trên đoạn thị trường này.

(3) Tồn tại công nghệ khác nhau: lò đứng, lò quay, phương pháp khác nhau:
ướt, khô và bán khô trong sản xuất xi măng ở Việt Nam
12
Công nghệ lò đứng và phương pháp ướt và bán khô là công nghệ của những
năm 1970 và 1980 thế kỷ trước, sản xuất sản phẩm chất lượng thấp và không ổn
định nhưng giá thành sản phẩm cao. Đặc biệt, nếu tính cả chi phí xử lý chất thải,
giá thành xi măng lò đứng sẽ rất cao. Công nghệ lò quay và phương pháp khô là
công nghệ và phương pháp sản xuất hiện đại, chất lượng xi măng cao và ổn định,
chi phí sản xuất thấp hơn. Tuy nhiên, đang tồn tại một nghịch lý ở Việt Nam là sản
xuất xi măng lò đứng, quy mô nhỏ có giá thành hạ hơn so với xi măng lò quay do
việc hạch toán các khoản chi phí không đầy đủ và không chính xác. Một số thiết bị
đã được khấu hao hết về giá trị nhưng còn được sử dụng. Trong khi sản phẩm của
các DNSXXM lò đứng, công suất thấp vẫn được thị trường chấp nhận, do lợi thế
tạm thời về chi phí sản xuất, hiện tại, các doanh nghiệp xi măng địa phương và
ngành hoàn toàn có thể áp dụng mức giá thấp so với giá sản phẩm xi măng cùng
loại của TCTXM và các công ty XMLD. Tuy nhiên, về lâu dài, các doanh nghiệp xi
măng lò đứng, quy mô nhỏ sẽ phải chuyển đổi sang công nghệ lò quay và mở rộng
quy mô sản xuất.
(4) Sản phẩm xi măng có tính đồng nhất cao, chủng loại sản phẩm hẹp.
So với nhiều loại vật liệu xây dựng khác, chủng loại xi măng tương đối hẹp.
Mặc dù có sự phân biệt nhất định, điều dễ nhận thấy là tính đồng nhất của sản
phẩm xi măng rất cao. Sản phẩm xi măng cùng loại của các doanh nghiệp khác
nhau có thể thay thế hoàn toàn trong sử dụng. Chất lượng xi măng được xác định
bằng hệ thống tiêu chuẩn do Nhà nước quy định và thường mang tính quốc gia,
song các tiêu chuẩn này được các nước khác chấp nhận một cách khá dễ dàng. Do
đó, các tiêu chuẩn chất lượng không phải là một rào cản hạn chế sự xâm nhập của
xi măng nhập khẩu. Hiện tại, chủng loại sản phẩm xi măng được phân loại như sau:
- Các loại xi măng pooclăng thông dụng phân biệt bằng mác PC30, PC40,
PC50 theo TCVN 2682-1992 hoặc xi măng pooclăng hỗn hợp PCB30, PCB40,
13

PCB50 theo TCVN 6260-1997; Xi măng pooclăng puzôlan PCpuz 30 TCVN 4033-
1995,... Mỗi mác xi măng được xác định dựa trên hệ thống chỉ tiêu chất lượng như:
độ mịn, hàm lượng kiềm và vôi tự do, thời gian ninh kết, độ ổn định thể tích, hàm
lượng mất khi nung, giới hạn bền nén,...
- Một số loại xi măng đặc biệt: Xi măng pooclăng ít toả nhiệt PCs 30 TCVN
6069- 1999; Xi măng công trình cường độ cao; Xi măng đúc cấu kiện; Xi măng bê
tông tươi; Xi măng xây tô; Xi măng gia cố đất; Xi măng chịu mặn...
Trên thực tế, hơn 90% sản lượng xi măng được sản xuất và cung ứng là xi
măng xám thông dụng PC30, PCB30, PC40 và PCB40 xám. Các loại xi măng màu,
xi măng trắng và xi măng đặc chủng chiếm tỷ trọng rất thấp.
Theo đặc điểm này, việc định giá chủng loại xi măng tương đối đơn giản.
Hầu hết các doanh nghiệp xi măng chỉ sản xuất một hoặc một vài loại xi măng, do
vậy, không cần thiết phải thiết lập hệ thống giá chủng loại sản phẩm và giá chủng
loại xi măng không phải là công cụ cạnh tranh mạnh mẽ.
(5) Sản phẩm xi măng mới ít xuất hiện
Do yêu cầu sử dụng, sản phẩm xi măng cần đạt được sự ổn định cao về chất
lượng sản phẩm mà không đòi hỏi các sản phẩm mới một cách thường xuyên. Hầu
hết sản phẩm xi măng mới chỉ là kết quả của sự thay đổi một số chỉ tiêu kỹ thuật và
đặc tính sản phẩm. Xi măng mới hoàn toàn ít xuất hiện. Điều này do hai yếu tố chủ
yếu sau đây chi phối. Một là, nhu cầu sử dụng xi măng khá ổn định về chủng loại,
tuyệt đại bộ phận là xi măng thông dụng. Trong khi đó, nhu cầu về một số loại xi
măng đặc biệt không cao và không thường xuyên. Khách hàng có thể nhập khẩu
các loại xi măng này. Hai là, để nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, DNSXXM
cần phải hội đủ nhiều điều kiện quan trọng như tiền vốn, đội ngũ kỹ sư, phòng thí
nghiệm, thiết bị và công nghệ. Hơn thế nữa, việc phát triển sản phẩm mới thường
14
đòi hỏi thời gian nhất định kể từ khi thiết kế, chế thử đến đưa sản phẩm mới vào thị
trường. Quá trình này luôn chứa đựng rủi ro.
Từ đó có thể khẳng định rằng, định giá sản phẩm mới trong ngành công
nghiệp xi măng không phải là công việc phổ biến của các DNSXXM. Do đó, doanh

nghiệp xi măng không thể sử dụng giá xi măng mới vào mục đích cạnh tranh một
cách thường xuyên.
1.1.1.2 Cấu trúc thị trường xi măng- tiếp cận từ phía cung và việc sử dụng
giá cả để cạnh tranh
Trên phương diện cung, thị trường xi măng không phải là thị trường cạnh
tranh hoàn hảo hay thị trường độc quyền tuyệt đối mà là sự pha trộn của hai hình
thái: thị trường độc quyền nhóm và thị trường cạnh tranh độc quyền. Điều này
được thể hiện ở các điểm chủ yếu:
(1) Tồn tại nhiều DNSXXM quy mô khác nhau, thuộc các thành phần kinh tế,
cùng tham gia sản xuất đáp ứng nhu cầu xi măng trong nước.
Hiện tại, trên phương diện quy mô sản xuất và công nghệ sử dụng, ngành công
nghiệp xi măng của Việt Nam là sự tập hợp của nhiều DNSXXM được phân biệt
một cách tương đối thành các nhóm:
Thứ nhất, DNSXXM lò đứng công suất từ 80 nghìn tấn -150 nghìn tấn, tạm
gọi là các doanh nghiệp xi măng nhỏ, phân bố rải rác ở nhiều địa phương trong
nước sản xuất xi măng mác thấp và trung bình. Sản phẩm của các doanh nghiệp này
chủ yếu đáp ứng nhu cầu xi măng ở các địa phương và một số ngành. Do gần
nguồn nguyên liệu và thị trường tiêu thụ, các doanh nghiệp xi măng nhỏ có lợi thế
chi phí thấp so với các doanh nghiệp ở ngoài khu vực hoặc địa phương đó. Mặt
khác, sản phẩm của các doanh nghiệp này đều đã có mặt trên thị trường từ nhiều
năm trước, được nhiều nhà phân phối và người tiêu dùng địa phương biết đến. Ở
một mức độ nào đó, các DNSXXM nhỏ cũng có một vài ưu thế. Mặc dù vậy, do
15
những hạn chế về năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm chưa cao, doanh
nghiệp xi măng nhỏ không thể đáp ứng mọi nhu cầu về xi măng của các khách
hàng địa phương hoặc ngành đó. Các doanh nghiệp xi măng lớn vẫn là những nhà
cung ứng chủ yếu đáp ứng nhu cầu xi măng ở địa phương hoặc ngành. Vì vậy, cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp xi măng địa phương và ngành với các DNSXXM khác
vẫn tồn tại.
Thứ hai, các DNSXXM quy mô trung bình (trên 150.000 tấn – 500.000 tấn),

sử dụng công nghệ lò đứng, số lượng không nhiều và phân bố ở một số khu vực.
Về cơ bản, các doanh nghiệp xi măng thuộc nhóm này có những lợi thế tương tự
như doanh nghiệp xi măng quy mô nhỏ. Sản phẩm của nó có thể được tiêu thụ ở
một khu vực hẹp và phải cạnh tranh với sản phẩm xi măng của các doanh nghiệp
khác.
Thứ ba, các DNSXXM lớn có công suất từ 1 triệu tấn trở lên. Đây là những
doanh nghiệp mới được thành lập hoặc được đầu tư mở rộng từ 10 đến 15 năm trở
lại đây, sử dụng công nghệ lò quay. Số lượng các doanh nghiệp thuộc nhóm này
không nhiều và phân bố ở một số khu vực trọng điểm nhưng lại chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng công suất thiết kế toàn ngành. Doanh nghiệp xi măng lớn phải cạnh
tranh với các doanh nghiệp khác trong cùng nhóm. Mặt khác, trong một chừng mực
nhất định, nó cũng phải cạnh tranh với các doanh nghiệp thuộc hai nhóm trên.
Đồng thời, sản phẩm của doanh nghiệp lớn vừa có tính “độc quyền” nhất định nhờ
ưu thế về chất lượng sản phẩm và khả năng cung ứng. Trong điều kiện thị trường
cạnh tranh độc quyền, các DNSXXM cùng sản xuất sản phẩm tương tự nhưng
không giống hệt nhau. Vấn đề đặt ra đối với những doanh nghiệp hoạt động trong
điều kiện thị trường như vậy không phải là có nên sử dụng công cụ giá cả để cạnh
tranh hay không mà là sử dụng như thế nào và ở mức độ nào. Sự khác biệt về
nhiều yếu tố như chi phí sản xuất, chất lượng sản phẩm, dịch vụ khách hàng và
16
cách thức phân phối là cơ sở để doanh nghiệp thực thi các biện pháp cạnh tranh qua
giá theo những cách thức khác nhau. Một số DNSXXM có thể áp dụng mức giá
thấp nhờ lợi thế chi phí thấp trong khi các doanh nghiệp khác có thể áp dụng giá
phân biệt như phân biệt giá theo khối lượng, địa điểm và phương thức giao nhận,
khu vực địa lý và đối tượng khách hàng.
(2) Tồn tại một vài nhóm DNSXXM lớn, chiếm tỷ trọng cao trong tổng sản
lượng xi măng cung ứng, có những ảnh hưởng nhất định giá sản phẩm xi măng.
Các DNSXXM có quy mô lớn, công nghệ hiện tại đều thuộc hai nhóm là
TCTXM và công ty XMLD với nước ngoài. Xu hướng rõ nét trong ngành công
nghiệp xi măng là mở rộng quy mô của các nhà máy hiện có và xây dựng các nhà

máy mới với công suất thiết kế lớn. Các doanh nghiệp xi măng quy mô nhỏ ngày
càng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng khối lượng xi măng cung ứng. Điều đó cho
phép đưa ra nhận dạng hình thái thị trường độc quyền nhóm trên thị trường xi
măng. Trong điều kiện của thị trường độc quyền nhóm, các DNSXXM ý thức được
sự phụ thuộc lẫn nhau trong các kế hoạch marketing. Sản phẩm của các doanh
nghiệp này có thể thay thế hoàn toàn cho nhau trong sử dụng ở người tiêu dùng.
Bất kỳ doanh nghiệp nào điều chỉnh các biến số marketing thuộc tầm kiểm soát
của họ cũng đều có thể gây nên sự phản ứng từ phía các doanh nghiệp cạnh tranh.
Sự tác động qua lại giữa các DNSXXM trên thị trường độc quyền nhóm không thủ
tiêu cạnh tranh bằng giá cả. Trái lại, sử dụng công cụ giá cả để cạnh tranh là một
trong những lựa chọn hàng đầu của các doanh nghiệp thuộc nhóm này. Bởi vì:
Thứ nhất, một số DNSXXM mới xâm nhập thị trường phải cân nhắc áp dụng
mức giá thấp tạm thời lỗ hoặc chưa có lãi để tăng doanh số bán và chiếm lĩnh thị
trường xi măng. Muốn khai thác tính kinh tế nhờ quy mô, doanh nghiệp chỉ có cách
thức duy nhất là tăng khối lượng xi măng tiêu thụ đạt tới mức công suất thiết kế.
17
Mức giá thấp so với ĐTCT là một trong những điều kiện đảm bảo cho DNSXXM
xâm nhập thị trường.
Thứ hai, đối với các DNSXXM lớn đã hoạt động trên thị trường, cùng với thời
gian, doanh nghiệp dần đạt được sự ổn định và tính hiệu quả trong sản xuất. Vì vậy,
doanh nghiệp có thể đạt được lợi thế chi phí thấp.
Thứ ba, tính đồng nhất của sản phẩm xi măng buộc các doanh nghiệp phải
xem xét sử dụng các yếu tố khác như dịch vụ khách hàng, phân phối kết hợp với
giá cả, áp dụng các hình thức phân biệt giá để thu hút khách hàng.
Thứ tư, thay đổi giá một cách linh hoạt trong phạm vi của các quy định hiện
hành về quản lý giá của Nhà nước giúp DNSXXM thích ứng với những thay đổi
thường xuyên trên thị trường xi măng và cạnh tranh với các đối thủ.
1.1.1.3 Cấu trúc thị trường xi măng- tiếp cận từ phía cầu và việc sử dụng giá
cả để cạnh tranh
Tiếp cận từ phía cầu, thị trường xi măng có một số phân khúc chính tuỳ theo

biến số nào được sử dụng làm cơ sở cho phân khúc thị trường. Về lý thuyết, thị
trường xi măng có thể được phân chia theo nhiều biến số khác nhau. Đối với thị
trường người tiêu dùng cá nhân, có các biến số thuộc các nhóm: Địa lý, nhân khẩu,
tâm lý và hành vi tiêu dùng. Đối với thị trường xi măng công nghiệp hay thị trường
người mua có tổ chức, có thể áp dụng các biến số phổ biến làm cơ sở phân đoạn thị
trường như: Địa lý, các đặc điểm của tổ chức, các đặc điểm mua, kiểu mua,… Tuy
nhiên, do những đặc điểm riêng của thị trường xi măng, trên thực tế, thị trường xi
măng thường được phân chia theo một số biến số phổ biến là biến số địa lý, mục
đích sử dụng, … Trong đó, biến số địa lý được sử dụng rất phổ biến và được chấp
nhận một cách rộng rãi. Dựa trên biến số này, thị trường xi măng Việt Nam có 8
phân khúc sau:
18
(1) Khu vực Tây bắc: là khúc thị trường quy mô rất nhỏ đối với cả khách hàng
tổ chức và khách hàng cá nhân, chiếm khoảng 1,5% thị phần. Tuy nhiên, hiện tại
thị trường này có tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh nhưng nhu cầu phân tán,
tuyệt đại bộ phận là khách hàng tổ chức, đặc biệt khách hàng là các công ty xây
dựng thuỷ điện Sơn La. Khách hàng cá nhân có sức mua thấp. Một đặc điểm quan
trọng khác là thị trường xa các trung tâm sản xuất xi măng trong khi địa hình phức
tạp, chỉ có thể vận chuyển xi măng bằng một số phương tiện nhất định, do đó, chi
phí vận chuyển chiếm tỷ trọng cao trong giá bán. Trên khúc thị trường này, cạnh
tranh bằng giá có vai trò quan trọng.
(2) Khu vực Đông bắc: phân khúc thị trường này có quy mô tương đối nhỏ,
chiếm khoảng 8,5% thị phần nhưng tốc độ tăng trưởng nhanh nhờ thành quả phát
triển kinh tế và các dự án đầu tư lớn đang được triển khai ở khu vực này. Nhu cầu
xi măng tương đối tập trung ở một số vùng. Bên cạnh đó, khách hàng xi măng lại
phân tán ở nhiều vùng có điều kiện địa hình khác nhau. Chi phí vận chuyển xi
măng có sự chênh lệch lớn giữa các vùng trong khu vực. Cạnh tranh bằng giá cả có
vị trí quan trọng do có sự chênh lệch về khả năng thanh toán của khách hàng ở các
vùng và về chi phí vận chuyển.
(3) Khu vực ĐỒng bẰng sông HỒng: là một trong những thị trường xi măng

trọng điểm do quy mô lớn, với thị phần lên tới 28%, tốc độ tăng trưởng nhanh cả về
nhu cầu xi măng xây dựng công nghiệp và xi măng xây dựng dân dụng. Vì vậy,
khúc thị trường này thu hút nhiều nhà sản xuất xi măng, cạnh tranh giữa các nhà
sản xuất ngày càng tăng. Điều kiện địa lý khá thuận tiện đảm bảo cho xi măng có
thể được vận chuyển bằng tất cả các loại phương tiện, do vậy, chi phí vận chuyển
xi măng có thể được giảm đáng kể. Đây là khu vực có nhiều khách hàng lớn đòi hỏi
nhu cầu xi măng chất lượng cao và ổn định. Do đó, các hoạt động cạnh tranh chủ
yếu hướng vào cạnh tranh thông qua các phân biệt giá và đảm bảo chất lượng xi
19
măng. Các nhãn hiệu xi măng được ưa dùng là Hoàng Thạch, Bỉm Sơn. Tuy nhiên,
gần đây khách hàng cũng ưa thích một số nhãn hiệu xi măng khác như Bút Sơn,
Nghi Sơn.
(4) Khu vực BẮc Trung bỘ: quy mô thị trường ở mức trung bình, chiếm
khoảng 10,5%, tốc độ tăng trưởng nhanh, tập trung nhiều khách hàng công nghiệp
quan trọng nhưng nhu cầu xi măng dân dụng chiếm tỷ trọng nhỏ do sức mua thấp.
Về mặt địa lý, đây là thị trường ở xa các trung tâm sản xuất, chi phí vận chuyển
chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu giá xi măng. Cạnh tranh bằng giá cả trên cơ sở hạ
thấp chi phí vận chuyển và sử dụng các phân biệt giá là những biện pháp hữu hiệu.
(5) Khu vực Nam Trung bỘ: đây là khúc thị trường tương tự như thị trường
bắc Trung bộ với quy mô tương đối nhỏ, chiếm 8% thị trường xi măng cả nước, tốc
độ tăng trưởng nhanh, xa nơi sản xuất, sức mua không cao, cạnh tranh bằng giá có
vị trí quan trọng.
(6) Khu vực Tây Nguyên: tương tự như khúc thị trường Tây bắc, quy mô của
khúc thị trường rất nhỏ, chỉ chiếm khoảng 2,5%, mặc dù tốc độ tăng trưởng tương
đối nhanh. Khách hàng quan trọng là các công ty xây dựng các công trình thuỷ điện
và đập, hồ chứa, trong khi khách hàng cá nhân có sức mua thấp, không đòi hỏi xi
măng chất lượng cao. Thị trường cách rất xa nơi sản xuất, chỉ vận chuyển xi măng
bằng một vài loại phương tiện trong đó chủ yếu bằng ô tô, do đó, chi phí vận
chuyển cao. Trên khúc thị trường này cạnh tranh bằng giá thông qua giảm chi phí
vận chuyển và các chênh lệch giá có ý nghĩa quan trọng.

(7) Khu vực Đông Nam bỘ: là một trong những thị trường quan trọng, quy mô
lớn, chiếm 26% tổng nhu cầu xi măng cả nước, tốc độ tăng trưởng nhanh, nhu cầu
xi măng vượt quá khả năng cung ứng của các doanh nghiệp sản xuất xi măng ở khu
vực này.Về mặt địa lý, khu vực này ở xa các trung tâm sản xuất xi măng lớn nhưng
khá thuận tiện trong vận chuyển xi măng, chi phí vận chuyển cao, cạnh tranh bằng
20
các phân biệt giá và chất lượng chiếm ưu thế. Khách hàng ở khu vực này ưa thích
một số nhãn hiệu xi măng như Hà Tiên, Holcim. Mặc dù vậy, một số nhãn hiệu xi
măng khác đang dần chiếm được vị thế nhất định như Nghi Sơn, Chinfon.
(8) Khu vực Đồng bẰng sông CỬu Long: so với các đoạn thị trường khác, khúc
thị trường này có quy mô tương đối lớn, vào khoảng 15% nhưng tốc độ tăng trưởng
không cao. Khách hàng chủ yếu là các khách hàng công nghiệp và tập trung ở một
số khu vực nhất định. Cạnh tranh bằng các hình thức phân biệt giá xi măng là biện
pháp có ưu thế.
Ngoài cách tiếp cận nêu trên, thị trường xi măng có thể được phân chia theo
một biến số khác là mục đích sử dụng xi măng. Theo biến số này, thị trường xi
măng gồm các khúc thị trường sau:
(1) Đối với thị trường người tiêu dùng, thị trường xi măng có thể có các phân
khúc chính:
- Xi măng dùng cho xây dựng nhà ở bao gồm nhà kiên cố, bán kiên cố và tạm.
Đối với các nhà kiên cố như nhà cao tầng, biệt thự, xi măng để tạo kết cấu móng và
các cấu kiện bê tông của nhà kiên cố chiếm tỷ trọng lớn, đòi hỏi xi măng chất
lượng cao và ổn định. Do đó, cạnh tranh bằng chất lượng và các phân biệt giá theo
khối lượng, điều kiện và địa điểm giao nhận có ưu thế. Ngược lại, xi măng để xây,
trát chiếm tỷ trọng thấp, thường đòi hỏi loại chất lượng trung bình, giá thấp. Cạnh
tranh về giá có ưu thế. Đối với nhà ở bán kiên cố hoặc nhà tạm, xi măng được dùng
chủ yếu là xi măng chất lượng trung bình và thấp, giá cả là tiêu chuẩn mua quan
trọng khi ra quyết định mua những loại xi măng này. Vì vậy, cạnh tranh bằng giá
có thể được áp dụng.
- Xi măng dùng cho xây dựng các công trình phụ trợ như tường bao, đường,…

thường đòi hỏi các loại xi măng chất lượng trung bình. Cạnh tranh bằng giá cả có vị
trí quan trọng trên khúc thị trường này.
21
(2) Đối với khách hàng là người mua có tổ chức gồm nhiều loại khách hàng
khác nhau với mục đích sử dụng xi măng trong xây dựng rất đa dạng, phong phú
như xây dựng đê, đập, hồ thủy lợi, trạm biến áp, cột điện, … trong các công trình
thuỷ điện, thuỷ lợi, truyền tải điện; xây dựng cầu, đường, cảng, sân bay, nhà ga,…
trong các công trình giao thông; xây dựng nhà cao tầng trong các công trình nhà ở,
khách sạn, trường học, bệnh viện, nhà làm việc; xây dựng nhà xưởng, vật kiến trúc,
… ở các nhà máy. Phần lớn các công trình này là các công trình kiên cố đòi hỏi sử
dụng xi măng với khối lượng lớn, chất lượng cao và đặc biệt cao, độ ổn định cao về
chất lượng sản phẩm. Các công trình xây dựng thường diễn ra trong thời gian dài
và tập trung vào những khoảng thời gian nhất định trong năm. Do đó, cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp xi măng trên khúc thị trường này chủ yếu bằng chất lượng
kết hợp với các phân biệt giá theo khối lượng, địa điểm và phương thức giao nhận,
thời gian,… Mối quan hệ ổn định và bền vững với khách hàng có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong tạo lợi thế cạnh tranh. Đối với các công trình bán kiên cố hoặc
tạm, xi măng được sử dụng thường là loại xi măng chất lượng trung bình, do đó,
cạnh tranh bằng giá cả có ưu thế hơn.
Từ các tiếp cận trên, có thể rút ra hai đặc điểm quan trọng của cầu xi măng
trên thị trường Việt Nam chi phối mạnh mẽ việc sử dụng công cụ giá cả để cạnh
tranh:
Thứ nhất, nhu cầu xi măng tập trung theo các khu vực địa lý rõ rệt do sự chênh
lệch về trình độ phát triển kinh tế giữa các vùng trong khi các nhà máy xi măng lại
được phân bố ở các khu vực gần nguồn nguyên liệu. Nếu hệ thống phân phối xi
măng trong cả nước không được thiết lập hoàn chỉnh, quy hoạch phát triển ngành xi
măng không được thực thi nghiêm túc, có thể xuất hiện tình trạng mất cân đối cục
bộ cung-cầu xi măng. Ở những khu vực mà cung xi măng vượt quá nhu cầu, các
doanh nghiệp xi măng phải cân nhắc sử dụng giá cả để thu hút khách hàng và giữ
thị phần.

22
Thứ hai, khách hàng sử dụng xi măng, đặc biệt là khách hàng cá nhân ở các
khu vực thị trường khác nhau có xu hướng ưa thích một vài nhãn hiệu xi măng
quen thuộc mặc dù một số nhãn hiệu xi măng hoàn toàn thay thế cho nhau trong sử
dụng. Các doanh nghiệp xi măng sở hữu các nhãn hiệu được ưa chuộng có thể áp
dụng mức giá cao hơn trong khi doanh nghiệp có các nhãn hiệu mới xuất hiện trên
thị trường chưa được người sử dụng biết đến và quen dùng một cách rộng rãi lại
phải áp dụng các mức giá hạ hơn để xâm nhập thị trường.
Từ phân tích đặc điểm kinh tế-kỹ thuật của ngành xi măng và thị trường xi
măng, có thể khẳng định rằng sử dụng công cụ giá cả nhằm mục đích cạnh tranh
đối với các DNSXXM là một tất yếu. Sự khác nhau trong quá trình sử dụng giá để
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp xi măng chỉ có thể là ở các hình thức cụ thể và
mức độ áp dụng trên thực tế.
1.1.2 Hội nhập kinh tế quốc tế và sử dụng giá cả để cạnh tranh của các
doanh nghiệp sản xuất xi măng
Hội nhập kinh tế là sự gắn kết nền kinh tế của một nước vào các tổ chức hợp
tác kinh tế khu vực hoặc toàn cầu, trong đó, các thành viên quan hệ với nhau theo
những quy định chung như: Liên minh Châu Âu, Hiệp định chung về thuế quan và
mậu dịch (GATT), Khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á (AFTA)... Trước kia,
khái niệm HNKTQT chỉ được hiểu một cách giản đơn là những hoạt động giảm
thuế, mở cửa thị trường trong nước. Hội nhập kinh tế ngày nay được hiểu là việc
một quốc gia thực hiện chính sách kinh tế mở, tham gia các định chế kinh tế, tài
chính quốc tế, thực hiện tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại, đầu tư... nhằm mục
tiêu mở cửa thị trường cho hàng hóa và dịch vụ, loại bỏ các rào cản đối với trao đổi
thương mại.
HNKTQT là một quá trình tất yếu. Trọng tâm của hội nhập là mở cửa kinh tế,
tạo điều kiện kết hợp tốt nhất nguồn lực trong nước và quốc tế, mở rộng không gian
23
để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể trong phân công lao động và
hợp tác quốc tế. Về thực chất, HNKTQT là quá trình tham gia vào cạnh tranh quốc

tế ngay cả trên thị trường nội địa. Để hội nhập có hiệu quả, các nước phải tăng
cường nội lực, thực hiện những cải cách, điều chỉnh về cơ chế, chính sách, luật lệ,
cơ cấu kinh tế trong nước phù hợp với "luật chơi chung" của quốc tế. Hội nhập hiện
nay chính là nhằm mở rộng các cơ hội kinh doanh, xâm nhập thị trường quốc tế, có
môi trường pháp lý và kinh doanh ổn định dựa trên quy chế, luật lệ của các thể chế
hội nhập,...
Xuất phát từ vị trí của DNSXXM, sử dụng giá cả để cạnh tranh trong điều
kiện HNKTQT càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Điều đó là do những thay
đổi căn bản và nhanh chóng của các điều kiện thị trường trong nước khi Việt Nam
đã trở thành viên của WTO và thực thi các cam kết của Chính phủ Việt Nam trong
khuôn khổ của AFTA và Hiệp định Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ (BTA).
1.1.2.1 Mở cửa thị trường và sự xuất hiện các đối thủ cạnh tranh mới
Trước hết và quan trọng nhất, HNKTQT tất yếu dẫn đến sự xâm nhập thị
trường nội địa của sản phẩm nhập khẩu và công ty nước ngoài. Các DNSXXM
trong nước sẽ phải đối mặt với hai loại ĐTCT tiềm tàng đến từ bên ngoài:
Một là, sản phẩm xi măng nhập khẩu. Cho dù phải chịu thuế suất nhập khẩu
nhất định và chi phí vận chuyển lớn hơn so với xi măng được sản xuất tại chỗ, xi
măng nhập khẩu vẫn là ĐTCT đáng gờm. Đặc biệt ở những vùng giáp biên giới và
khu vực phụ cận, xi măng nhập khẩu có thể tràn vào theo đường nhập khẩu tiểu
ngạch, cạnh tranh trực tiếp với các DNSXXM địa phương đang hoạt động trên thị
trường. Tuy nhiên, thói quen sử dụng một số nhãn hiệu xi măng của người tiêu
dùng trong nước có thể là một cản trở đối với sự xâm nhập của xi măng nhập khẩu.
Hai là, các công ty nước ngoài đầu tư vào ngành công nghiệp xi măng dưới
hình thức liên doanh hoặc mua cổ phần của các công ty xi măng trong nước. Mặc
24
dù việc đầu tư trực tiếp hay gián tiếp cần thời gian nhất định và sự gia tăng số
lượng các công ty XMLD chưa diễn ra ngay lập tức nhưng điều này chắc chắn xảy
ra do Nhà nước chủ trương khuyến khích kể cả đầu tư nước ngoài theo hỡnh thức
liờn doanh hoặc cổ phần trong chiến lược phát triển ngành xi măng.
Trong những năm sắp tới, với sự hiện diện của các sản phẩm xi măng nhập

khẩu, sự tham gia của các doanh nghiệp xi măng mới, cơ cấu cung xi măng sẽ thay
đổi dẫn đến những thay đổi căn bản của cơ cấu cạnh tranh trên thị trường.
DNSXXM trong nước ngay từ lúc này phải chuẩn bị các điều kiện cần thiết để có
thể cạnh tranh “sòng phẳng” với các đối thủ mới. Hiện tại, nếu doanh nghiệp chỉ
chú trọng phát triển theo chiều rộng mà không chú ý đến phát triển theo chiều sâu,
đặc biệt là giảm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm, kiểm soát chi phí, nâng
cao năng suất lao động, các DNSXXM trong nước sẽ ở vào thế bất lợi. Hầu hết các
nghiên cứu từ trước đến thời điểm này đều chỉ ra rằng giá thành sản xuất xi măng
của các nước trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Indonesisa thấp hơn của
Việt Nam [11, 31, 32, 34,…].
1.1.2.2 Thực hiện các cam kết khi tham gia WTO, AFTA và BTA, xoá bỏ
bảo hộ của Nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước nói chung và doanh
nghiệp xi mâng quốc doanh nói riêng.
Theo các cam kết song phương và đa phương, tất cả những bảo hộ của Nhà
nước trái với các quy tắc thương mại quốc tế thông thường sẽ bị bãi bỏ. Trước hết,
chấm dứt các hình thức trợ cấp về vốn đối với doanh nghiệp nhà nước. Thứ hai,
xóa bỏ các ưu đãi khai thác nguyên liệu trong nước và nhập khẩu từ nước ngoài
dành riêng cho doanh nghiệp nhà nước. Hiện tại, theo quy định của Luật khoáng
sản Việt Nam, chỉ có doanh nghiệp nhà nước mới được phép khai thác vùng mỏ
hay vùng nguyên liệu. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh muốn khai thác phải ký
hợp đồng thông qua các doanh nghiệp nhà nước. Thứ ba, quy định về nhập khẩu
25

×