Tải bản đầy đủ (.pdf) (173 trang)

Phát triển công nghiệp văn hóa ở Việt Nam-Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 173 trang )

Học viện chính trị - hành chính quốc gia hồ chí minh




Báo cáo
Tổng hợp Kết quả nghiên cứu
đề tài khoa học cấp bộ năm 2009


phát triển công nghiệp văn hóa ở
việt nam-thực trạng và giải pháp
Mã số: B.09-19





Cơ quan chủ trì
: Viện Văn hóa và phát triển
Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Thị Hơng
Th ký: Đặng Mỹ Dung

8103

Hà Nội, tháng 3 2010

Mục lục
Mở đầu
1
Chơng 1



Đông Nam á tiền sử với nền văn minh lúa nớc
1. Đông Nam á-ngã t đờng của sự giao lu văn hóa tộc ngời
7
1.1. Xác định khu vực văn hóa Đông Nam á
7
1.2. Nghiên cứu văn hóa tộc ngời Đông Nam á - còn để lại nhiều
khoảng trống
8
2. Đông Nam á một khu vực lịch sử văn hóa lúa nớc
11
2.1. Đông Nam á một thực thể địa lý đa dạng mà thống nhất
11
2.2. Đông Nam á- một trong những trung tâm phát sinh chủng tộc
(con ngời và ngôn ngữ)
14
2.3. Đông Nam á - một nền văn minh lúa nớc
16
3. Việt Nam - một Đông Nam á thu nhỏ
42
3.1. Nhận xét chung 42
3.2. Một Đông Nam á thu nhỏ: qua bức tranh văn hóa tộc ngời
44
Chơng 2
Tiếp xúc với văn hoá Trung Hoa, văn hoá ấn Độ: sự hình
thành văn hóa của các quốc gia cổ Đông Nam á

1. Tiếp xúc ngôn ngữ và văn hóa - vai trò, ý nghĩa
54
1.1. Tiếp xúc ngôn ngữ văn hóa là hiện tợng có tính quy luật phổ biến 54

1.2. Sự biến đổi văn hoá và ngôn ngữ trong quá trình tiếp xúc 57
2. Sự hình thành văn hóa của các quốc gia, dân tộc Đông Nam á cổ đại
60
2.1. Văn hóa Trung Hoa và ấn Độ trong mối quan hệ với Đông Nam á
62
2.2. Sự biến đổi văn hóa của các quốc gia, dân tộc Đông Nam á cổ đại
65
3. Quá trình tiếp xúc văn hóa Hán - Việt và văn hóa ấn - Việt
70
3.1. Tiếp xúc văn hóa Hán Việt 70
3.2. Tiếp xúc văn hóa ấn Việt
82
Chơng 3
Sự thống trị của chủ nghĩa thực dân và quá trình tiếp xúc
để hiện đại hóa nền văn hóa của các quốc gia Đông Nam á

1. Bối cảnh lịch sử
88
1.1. Sự thống trị của chủ nghĩa thực dân 88
1.2. Phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Nam á 90
2. Tiếp xúc văn hóa phơng Tây của các quốc gia Đông Nam á
93
2.1. Biến đổi diện mạo văn hóa của các quốc gia Đông Nam á 93
2.2. Vài nét biểu hiện thống nhất mà đa dạng của một số quốc gia
Đông Nam á trong quá trình hiện đại hóa
97
3. Tiếp xúc văn hóa Đông- Tây ở Việt Nam
102
3.1. Khái quát chung
102

3.2. Quá trình tiếp xúc và sự biến đổi văn hóa trên một số lĩnh vực
105
Chơng 4
Con đờng phát triển văn hoá của các quốc gia Đông Nam á
trong bối cảnh toàn cầu hoá

1. Đông Nam á trong bối cảnh toàn cầu hóa
117
1.1. Toàn cầu hóa và tác động đến văn hóa khu vực 117
1.2. Con đờng công nghiệp hóa, hiện đại hóa của các nớc Đông
Nam á
122
2. Văn hóa và phát triển
127
2.1. Về nhận thức 127
2.2. Văn hóa truyền thống trong mô hình phát triển mới của Đông
Nam á
131
3. Việt Nam trong bối cảnh ASEAN
137
3.1. Vị thế của Việt Nam- nhìn từ phơng diện văn hóa 137
3.2. Văn hóa Việt Nam hội nhập và phát triển 140
Kết luận
146
Danh mục tài liệu tham khảo



1
M U


1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện chủ trơng của Đảng làm cho văn hoá thấm sâu vào đời sống
xã hội, đảm bảo sự gắn kết giữa phát triển kinh tế và văn hoá, việc xã hội hoá,
đẩy mạnh các hoạt động sản xuất, kinh doanh sản phẩm văn hoá đã có bớc
tiến mới. Tuy vậy, chúng ta vẫn rất lúng túng để tìm ra cơ chế, giải pháp thích
hợp cho phát triển văn hóa trong bối cảnh mới. Những nghiên cứu lý luận về
mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, trong đó có vấn đề phát triển ngành công
nghiệp văn hóa vẫn cha theo kịp với sự phát triển.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế càng đi vào chiều sâu thì văn hoá
càng nổi lên là một trong những trụ cột chính của sự hợp tác. Những vấn đề
trọng tâm đợc đặt ra đối với các quốc gia, nh: sự đối thoại giữa các nền văn
hoá văn minh, chính sách nhằm bảo vệ, phát huy sự đa dạng văn hoá và vấn
đề xuất nhập khẩu các sản phẩm văn hoá Nhiều nớc đã rất chú trọng đến
phát triển ngành công nghiệp văn hoá, xem đây là một biện pháp hữu hiệu.
Công nghiệp văn hóa không những có khả năng to lớn trong việc truyền bá,
bảo vệ, phát huy bản sắc, giá trị văn hoá dân tộc, mà còn giữ vai trò là một
trong những ngành kinh tế mũi nhọn của nền kinh tế tri thức. Phát triển công
nghiệp văn hoá liên quan đến thị trờng hàng hoá văn hoá, giá trị thơng mại,
liên quan đến chính sách văn hoá, chính sách đầu t, sự thay đổi hệ thống
pháp lý cũng nh hệ thống đánh giá các hoạt động và sản phẩm văn hoá của
mỗi quốc gia trong quá trình hội nhập.
Nhiều nền kinh tế trên thế giới, sự phát triển của ngành công nghiệp
văn hoá đã và đang chiếm tỉ trọng đáng kể của tổng thu nhập quốc dân, thậm
chí trở thành mũi nhọn về xuất khẩu. Trong khi đó ở Việt Nam cả nhận thức
và thực tiễn để phát triển ngành công nghiệp văn hoá còn rất sơ khai. Thực tế
đó đã ảnh hởng lớn đến nhu cầu, khả năng sáng tạo, hởng thụ các giá trị
văn hoá của nhân dân. Thực tế đó cũng làm hạn chế việc tuyên truyền các chủ
trơng, chính sách của Đảng và Nhà nớc về phát triển sâu rộng và nâng cao
chất lợng nền văn hóa dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát


2
triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Không phát triển nền công nghiệp
văn hóa, không những ảnh hởng đến quá trình hiện đại hoá nền văn hoá dân
tộc- mà còn là sự biểu hiện của yếu thế, không cạnh tranh đợc với các sản
phẩm văn hoá của nớc ngoài Nếu không vợt qua đợc những thách thức
này, thì về mặt trái của nó, một mặt chúng ta phải chịu thua thiệt về kinh tế,
mặt khác do tính phụ thuộc càng tăng, điều đó cũng đồng nghĩa là phải đối
diện với những hệ luỵ khôn lờng về văn hoá dới góc độ xây dựng phát triển
con ngời, cũng nh việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong bối
cảnh hiện nay.
Trên đây là những lý do để chúng tôi nghiên cứu đề tài
Phát triển
công nghiệp văn hoá ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp
. Hy
vọng những kết quả đạt đợc sẽ góp phần làm sáng tỏ về phơng diện lý luận
và thực tiễn của phát triển văn hóa gắn với phát triển kinh tế, hiện đại hóa nền
văn hóa nhằm phát triển con ngời, phát triển đất nớc trong thời kỳ mới ở
nớc ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Những nghiên cứu về xây dựng phát triển ngành công nghiệp văn hóa
còn quá ít ỏi. Có thể khái quát về tình hình nghiên cứu nh sau:
Nhóm thứ nhất: Những quan điểm có tính chất chỉ đạo trong đờng
lối chính sách của Đảng và Nhà nớc về xây dựng và phát triển văn hoá
trong cơ chế thị trờng định hớng XHCN, có liên quan đến phát triển ngành
công nghiệp văn hoá (Nghị quyết Hội nghị Trung ơng 4 (khoá VII); Văn
kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII, IX, X; Nghị quyết Trung 5 (khoá VIII); Kết
luận Hội nghị Trung 10 (khoá IX)
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ t của Ban Chấp hành Trung ơng Đảng

(khoá VII) đã bàn đến những khía cạnh kinh tế trong hoạt động và kinh doanh
văn hoá phẩm ở nớc ta
(1)
. Những vấn đề đợc nêu ra trong Nghị quyết: bằng


1
Đảng cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 (khóa VII), 1993, tr.22,23.

3
mọi cách phải đa những giá trị văn hoá của dân tộc và thế giới đến với nhân
dân, mở rộng giao lu văn hoá với nớc ngoài (nh xuất nhập khẩu văn hoá
phẩm, khuyến khích việc trao đổi nghệ thuật với các đoàn nghệ thuật); cấm
sản xuất và phổ biến những tác phẩm, phim ảnh, băng hình có nội dung độc
hại, phản động đồi truỵ Nghị quyết cũng đề ra nhiệm vụ tiếp tục bổ sung và
hoàn chỉnh các quy định về mua, bán tác phẩm, vấn đề thuế; xây dựng và
hoàn chỉnh các văn bản pháp quy về Luật Xuất bản, Luật bảo vệ di tích văn
hoá dân tộc
- Nghị quyết Trung ơng 5 (khoá VIII) Về xây dựng phát triển nền văn
hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc đã đánh giá những mặt tích
cực và tiêu cực của tác động văn hoá đến đời sống tinh thần xã hội, và chỉ ra
khuynh hớng thơng mại hoá đang có ảnh hởng tiêu cực đến phát triển
văn hoá nghệ thuật, chiều theo những thị hiếu thấp kém, làm cho chức năng
giáo dục t tởng và thẩm mỹ của văn học nghệ thuật bị suy giảm(
1
).
- Kết luận của Hội nghị Trung ơng X (khóa IX) đến Nghị quyết Đại
hội X, đã tập trung nhấn mạnh phải bảo đảm sự gắn kết giữa phát triển văn
hóa với phát triển kinh tế, phát triển kinh tế là trọng tâm, phát triển văn hóa
làm nền tảng tinh thần của xã hội.

- Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị Về phát triển văn học, nghệ thuật
trong thời kỳ mới, khẳng định nớc ta đã hình thành thị trờng văn hóa phẩm,
xây dựng, phát triển ngành công nghiệp văn hoá vì một nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển đất nớc, hội nhập quốc tế.
Nhóm thứ hai: Những công trình nghiên cứu có liên quan đến vấn đề
phát triển công nghiệp văn hoá ở nớc ta trên bình diện lý luận và thực tiễn,
nh: vấn đề kinh tế thị trờng và kinh tế thị trờng định hớng XHCN; vai trò
của văn hoá trong quá trình phát triển, phát triển văn hoá trong kinh tế thị
trờng định hớng XHCN ở Việt Nam; sự tác động của toàn cầu hoá đối với
phát triển văn hoá hiện nay; phát triển văn hoá phát triển con ngời và nguồn
nhân lực trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá


1
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm BCH Trung ơng Đảng khóa VIII, năm 1998, tr. 48.

4
* Một số công trình nghiên cứu:
- Kinh doanh Xuất bản phẩm trong cơ chế thị trờng ở Việt Nam (Luận
án của Phạm Thị Nh Tâm - Đại học Kinh tế quốc dân, năm 1994).
- Văn hoá vì phát triển - Phạm Xuân Nam, Nxb CTQG, Hà Nội 1998.
- Chống những biểu hiện của văn hoá, văn nghệ thơng mại; Xã hội hoá
các hoạt động văn hoá và xã hội hoá kinh doanh văn hoá- của Trần Trọng
Đăng Đàn, Nxb Văn nghệ Sở Văn hoá Thông tin TP. Hồ Chí Minh, 1998.
- Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hoá ở nớc ta - Hoàng
Vinh (Nxb Văn hoá Thông tin - Hà Nội 1999).
- Một số nghiên cứu bớc đầu về kinh tế học văn hoá - Lê Ngọc Tòng
(NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2004).
- Hành trình nghiên cứu điện ảnh Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin,
Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch, H, 2007

* Một số đề tài cấp Bộ, cấp Nhà nớc:
- Kinh tế thị trờng định hớng xã hội giai đoạn 2001 - 2004 (Đề tài
cấp Nhà nớc - KX.03.05, đã nghiệm thu).
- Phát triển văn hoá, con ngời và nguồn lực trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá (Đề tài Chơng trình KX. 05, giai đoạn 2001 - 2004,
đã nghiệm thu).
- Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong lĩnh vực vui chơi
giải trí ở khu vực đô thị nớc ta - thực trạng và giải pháp (Đề tài cấp Bộ - Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Phạm Duy Đức chủ nhiệm, đã nghiệm
thu năm 2003).
- Mỹ thuật đơng đại Việt Nam liên ứng với thế giới (nhìn từ Hà Nội)-
Đào Mai Trang, (Đề tài khoa học cấp cơ sở, Bộ Văn hoá Thông tin - Tạp chí
Văn hoá Nghệ thuật), năm 2005.
- Âm nhạc Việt Nam thời kỳ đổi mới thực trạng và giải pháp
- Nguyễn
Đăng Nghị (Đề tài cấp cơ sở - Bộ Văn hoá Thông tin - Tạp chí Văn hoá nghệ
thuật), năm 2005.

5
- Thị trờng văn hoá phẩm ở nớc ta - hiện trạng và giải pháp (Đề tài
cấp Bộ - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Nguyễn Thị Hơng chủ
nhiệm, đã nghiệm thu năm 2006).
- Hoạt động văn hoá và sản phẩm văn hoá trong cơ chế thị trờng định
hớng XHCN ở nớc ta hiện nay (Đề tài độc lập cấp Nhà nớc - Bộ Khoa học
công nghệ, TS. Trần Chiến Thắng chủ nhiệm, nghiệm thu cơ sở năm 2008).
- Nghiên cứu xây dựng và phát triển ngành công nghiệp văn hoá của
Thủ đô Hà Nội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá (Sở
Văn hoá Thông tin Hà Nội - 01 X-12/01-2006-3, Phạm Duy Đức làm chủ
nhiệm, đã có báo cáo tổng kết lần 1, năm 2008).
* Một số bài bài viết:

- Chính sách văn hóa- nhìn từ bản quyền tác giả trong lĩnh vực văn học
nghệ thuật, Nguyễn thị Hơng (Thông tin Văn hóa và Phát triển, số 5, 2005).
- Xây dựng và phát triển ngành công nghiệp văn hoá ở nớc ta - Tô Huy
Rứa (Tạp chí Cộng sản, số 1, tháng 1/2006).
- Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăng-ghen về sản xuất văn hoá và thị
trờng hàng hoá văn hoá - Nguyễn Thị Hơng (Tạp chí Lý luận chính trị, số
10, 2006).
- Xây dựng ngành công nghiệp văn hoá ở nớc ta - Mai Hải Oanh, Tạp
chí Văn hoá - Nghệ thuật, số 6/2006.
- Phát triển ngành công nghiệp văn hóa ở nớc ta trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế- Nguyễn Thị Hơng (Tạp chí Lý luận Chính trị, số 10,
năm 2008).
- Chính sách kinh tế trong văn hóa và phát triển ngành công nghiệp
văn hóa Việt Nam - Nguyễn Thị Hơng (Tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền
thông, số tháng 5/2009).
* Một số Hội thảo khoa học:
- Kỷ yếu Hội thảo Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2010-2020 ở
TP.Hồ Chí Minh ngày 21/2/2009 (Đề tài cấp Nhà n
ớc do PGS,TS. Phạm Duy
Đức chủ nhiệm).

6
- Hội thảo Công nghiệp văn hóa ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp
tại Hà Nội, do Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch tổ chức ngày 30/8/2009.
- Hội thảo Phát triển công nghiệp văn hóa vui chơi giải trí ở nớc ta
hiện nay do Viện Văn hóa phát triển tổ chức ngày 24/11/2009.
Các công trình nghiên cứu trên đây, bớc đầu đã bàn về vấn đề phát
triển ngành công nghiệp văn hoá và thị trờng văn hoá phẩm ở nớc ta trên
các mặt chủ yếu, nh: vấn đề kinh tế trong văn hoá, bản chất của hàng hoá
văn hoá tinh thần và thị trờng hàng hoá văn hoá tinh thần; quản lý thị trờng

văn hoá và cơ chế quản lý thị trờng văn hoá. Tuy cha hoàn thiện, nhng
một số công trình trên đã đa ra quan niệm về công nghiệp văn hóa và cơ cấu
của ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam, phân tích vai trò của công nghiệp
văn hóa đối với việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc. Riêng công trình nghiên cứu phát triển công nghiệp văn hóa Thủ đô
Hà Nội, đã khái quát đợc bức tranh cơ bản về tình hình phát triển công
nghiệp văn hóa Thủ đô trong những năm qua.
Nhóm thứ ba: Một số công trình nghiên cứu về quản lý các hoạt động
văn hoá và cơ chế quản lý văn hoá liên quan đến phát triển ngành công
nghiệp văn hoá trong điều kiện hiện nay ở nớc ta. Những công trình này
gồm các đề tài, sách, hoặc các giáo trình đang đợc sử dụng giảng dạy, nh:
- Đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp công ích ngành văn hoá thông
tin trong nền kinh tế thị trờng ở Việt Nam (Nguyễn Danh Ngà - Nxb Văn
hóa thông tin, Hà Nội, 1997).
- Lợc sử quản lý văn hoá ở Việt Nam (Tập bài giảng của Trờng Đại
học Văn hoá Hà Nội - Hoàng Sơn C
ờng (Nxb VH-TT, Hà Nội 1998).
- Quản lý hoạt động văn hoá - Nguyễn Văn Hy, Phan Văn Tú, Hoàng
Sơn Cờng, Lê Thị Hiền, Trần Thị Diên (Nxb VH TT, Hà Nội 1998).
- Thể chế xã hội trong lĩnh vực văn hoá, văn nghệ ở nớc ta (Đề tài cấp
Bộ - Học viện CTQG Hồ Chí Minh - do GS, TS. Hoàng Vinh chủ nhiệm,
nghiệm thu năm 2000).

7
- Xây dựng thể chế quản lý kinh doanh văn hoá phẩm hiện thời ở nớc
ta. (Đề tài cấp Bộ - Học viện CTQG Hồ Chí Minh - do GS, TS. Hoàng Vinh
chủ nhiệm, nghiệm thu năm 2005).
- Quản lý văn hoá đô thị trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nớc - Lê Nh Hoa, Viện Văn hoá, năm 2000.
- Quản lý nhà nớc đối với thị trờng băng đĩa trong giai đoạn hiện

nay, do TS. Đinh Thị Vân Chi làm chủ nhiệm (Đề tài cấp Bộ, năm 2005).
Nhiều vấn đề đợc bàn đến trong các công trình trên: quan niệm quản
lý, quản lý văn hóa, trình độ khoa học công nghệ và công tác quản lý, những
tác động tích cực và tiêu cực của quản lý văn hóa đến đời sống xã hội. Những
vấn đề này liên quan trực tiếp đến phát triển nền công nghiệp văn hoá.
Nh vậy, các nghiên cứu có liên quan đến vấn đề phát triển ngành công
nghiệp công nghiệp văn hóa ở Việt Nam chỉ mới quan tâm đến các phơng
diện sau:
1/ Những định hớng thể hiện trong chủ trơng, chính sách của Đảng
và Nhà nớc về phát triển văn hoá, thực hiện chính sách kinh tế trong văn hoá,
bảo đảm sự gắn kết giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hoá. Đây là cơ sở
quan trọng cho việc phát triển ngành công nghiệp văn hoá Việt Nam trong cơ
chế thị trờng định hớng XHCN.
2/ Nghiên cứu sự phát triển của văn hoá Việt Nam trớc tác động của
kinh tế thị trờng và toàn cầu hoá; bản chất của sản phẩm hàng hoá văn hoá,
cơ sở lý luận của thị trờng văn hoá phẩm, về quản lý văn hoá và việc xây
dựng, hoàn thiện cơ chế, thể chế quản lý văn hoá ở nớc ta hiện nay
3/ Vai trò của Nhà nớc trong việc tổ chức các hoạt động văn hoá và
các sản phẩm văn hoá trong cơ chế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa,
liên quan đến cơ chế, chính sách phát triển ngành công nghiệp văn hoá và thị
trờng văn hoá phẩm ở Việt Nam.
4/ Nhận thức chung về phơng diện lý luận phát triển công nghiệp văn
hoá, nh: quan niệm công nghiệp văn hóa, cấu trúc của ngành công nghiệp

8
văn hóa ở nớc ta , khảo sát thực trạng phát triển công nghiệp văn hóa ở một
số lĩnh vực, khu vực
5/ Bớc đầu nghiên cứu tính tất yếu, vai trò, ý nghĩa của phát triển
công nghiệp văn hoá đối với việc xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, và những vấn đề đặt ra trong việc xây

dựng, phát triển ngành công nghiệp văn hoá ở nớc ta.
6/ Tìm hiểu một số kinh nghiệm từ các mô hình về phát triển nền công
nghiệp văn hoá của thế giới và khu vực.
Có thể nói cho đến nay, cha có một công trình nào đặt vấn đề nghiên
cứu một cách toàn diện vấn đề công nghiệp văn hoá ở Việt Nam, cả về lý luận
và thực tiễn, chỉ ra tính tất yếu, đặc điểm cũng nh việc khảo sát đánh giá
thực trạng công nghiệp văn hoá ở nớc ta trong quá trình đổi mới đất nớc, đề
xuất các giải pháp phát triển công nghiệp văn hóa trong cơ chế thị trờng định
hớng XHCN, hội nhập quốc tế hiện nay. Dù vậy, những kết quả nghiên cứu
trên đây là cơ sở rất quan trọng cho việc nghiên cứu đề tài.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về xây dựng phát
triển ngành công nghiệp văn hoá, đề tài khảo sát, phân tích và đánh giá thực
trạng phát triển công nghiệp văn hóa ở nớc ta qua một số lĩnh vực, đề xuất
phơng hớng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển công nghiệp văn hóa trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH và chủ động hội nhập quốc tế.
Nhiệm vụ : Làm rõ cơ sở lý luận về phát triển công nghiệp văn hoá ở
Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập
phát triển. Khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt động của ngành công nghiệp
văn hoá nớc ta trong những năm qua trên một số lĩnh vực chủ yếu. Dự báo
xu hớng vận động, phát triển của ngành công nghiệp văn hoá Việt Nam
trong thời gian tới. Xác định phơng hớng, đề xuất những giải pháp khả thi
cho phát triển ngành công nghiệp văn hoá Việt Nam.
5. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu

9
- Đối tợng nghiên cứu: Công nghiệp văn hóa xét theo cơ cấu trong
quan niệm của thế giới hiện nay, bao gồm rất nhiều ngành (quảng cáo, kiến
trúc, giải trí kỹ thuật số, mỹ thuật đồ cổ và thủ công mỹ nghệ, thiết kế mỹ
thuật, điện ảnh và video, in ấn xuất bản, âm nhạc, nghệ thuật biểu diễn, phát

thanh truyền hình và phần mềm vi tính ), do hạn chế, nên phạm vi của đề tài
này không thể nghiên cứu khảo sát toàn bộ các ngành. Đề tài chỉ tập trung
nghiên cứu, khảo sát ba lĩnh vực: Điện ảnh, sàn diễn và âm nhạc.
- Phạm vi khảo sát: Thực trạng nghiên cứu của đề tài đợc khảo sát ở
một số thành phố lớn, đặc biệt là nh Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, nơi
có một số lĩnh vực thuộc công nghiệp văn hóa đang hoạt động khá sôi động.
6. Phơng pháp nghiên cứu
Đề tài đợc thực hiện dựa trên cơ sở phơng pháp luận mácxit và quan
điểm, đờng lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng phát triển nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đề tài đã sử dụng phơng pháp liên/đa
ngành, phối hợp giữa các nhà quản lý văn hóa, các nhà doanh nghiệp, các nhà
kỹ thuật và công nghệ gắn liền với hoạt động của ngành công nghiệp văn hóa
để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra.
1. Nghiên cứu định tính (nghiên cứu lý thuyết): Đề tài dựa trên những
cơ sở lý thuyết về công nghiệp văn hóa, vai trò của công nghiệp này đối với sự
phát triển kinh tế, văn hóa xã hội và thực tiễn phát triển công nghiệp văn hóa
ở một số nớc trên thế giới. Trên cơ sở đó, phân tích, đánh giá, dự báo các yêu
cầu mà mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đặt ra đối với việc xây dựng phát
triển ngành công nghiệp văn hóa ở nớc ta trong bối cảnh mới, đa ra định
hớng và các giải pháp để phát triển.
2. Phơng pháp phân tích SWOT (Điểm mạnh- Điểm yếu- Thời cơ-
Thách thức: Strengths - Weaknesses - Opportunities- Threats) đợc sử dụng
để phân tích nhằm làm rõ những điểm mạnh, điểm yếu của chính sách văn
hóa ở nớc ta, những thuận lợi cũng nh khó khăn trong việc xây dựng và
phát triển ngành công nghiệp văn hóa trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.

10
3. Phơng pháp điều tra xã hội học. Nội dung điều tra tập trung vào 2
vấn đề chính: sử dụng phơng pháp liên ngành, phối hợp giữa các nhà quản lý
văn hóa, các nhà doanh nghiệp, các nhà kỹ thuật và công nghệ gắn liền với

hoạt động của ngành công nghiệp văn hóa; những thuận lợi, khó khăn và yêu
cầu đặt ra đối với phát triển ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam hiện nay.
Địa bàn điều tra: Đề tài dự kiến điều tra chủ yếu ở các thành phố và đô
thị lớn, đặc biệt là Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh.
4. Phơng pháp thống kê - so sánh: Sử dụng các số liệu thống kê để
phân tích và so sánh nhằm đa ra kết luận về thực trạng phát triển ngành công
nghiệp văn hóa ở nớc ta.
5. Phơng pháp dự báo: Kết hợp cả phơng pháp dự báo định tính và
định lợng nhằm dự báo xu hớng phát triển của công nghiệp văn hóa Việt
Nam trong giai đoạn tới.
7. Đóng góp mới về khoa học
- Đề tài tổng hợp các kết quả nghiên cứu về công nghiệp văn hoá từ các
góc độ khác nhau, khái quát quan niệm, bản chất, cấu trúc của công nghiệp
văn hoá - góp phần xây dựng lý thuyết phát triển công nghiệp văn hoá ở Việt
Nam trong bối cảnh hiện nay.
- Làm rõ vai trò của phát triển công nghiệp văn hoá đối với phát triển
kinh tế - xã hội và xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng phát triển công nghiệp văn hoá của nớc
ta hiện nay trên một số lĩnh vực cơ bản, dự báo xu hớng, đề ra một số giải
pháp để phát triển ngành công nghiệp văn hóa nớc ta.
Những kết quả đạt đợc có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu và giảng
dạy, cơ sở cho việc hoạch định chiến lợc phát triển ngành công nghiệp văn
hóa ở nớc ta trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
8. Nội dung nghiên cứu
Chơng 1: Lý luận chung về công nghiệp văn hoá và vai trò của phát
triển công nghiệp văn hoá đối với phát triển kinh tế, xã hội và xây dựng nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc

11
Chơng 2: Thực trạng phát triển ngành công nghiệp văn hoá Việt Nam

từ năm trong những năm qua (qua khảo sát một số lĩnh vực)
Chơng 3: Phơng hớng và giải pháp phát triển công nghiệp văn hoá
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế
9. Lực lợng tham gia nghiên cứu
Tham gia thực hiện đề tài gồm những cán bộ giảng dạy, nghiên cứu của
Viện Văn hoá và phát triển, các nhà khoa học trong, ngoài Học viện, các cơ
quản lý, cơ sở sản xuất, kinh doanh sản phẩm ngành công nghiệp văn hóa.
a. Cơ quan phối hợp:
- Ban Tuyên giáo Trung ơng
- Vụ pháp chế - Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch
- Cục Nghệ thuật biểu diễn
- Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch Hà Nội
- Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh
- Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch Thành phố Đà Nẵng
- Khoa Văn hóa và Phát triển-Học viện Khu vực 2














12

Chơng 1
Lý luận chung về công nghiệp văn hoá và vai trò của
công nghiệp văn hóa đối với phát triển kinh tế-x hội,
xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc

1.1. Quan niệm và cơ cấu của công nghiệp văn hoá
Sự phát triển mới và áp dụng những thành tựu của công nghệ-kỹ thuật
xuất bản, kỹ thuật ghi âm, ghi hình, sắp chữ điện tử, mạng lới truyền thông
và kỹ thuật sốnhững thập kỷ gần đây trong lĩnh vực văn hóa, đã làm cho sản
phẩm văn hóa-nghệ thuật đợc sản xuất ra với khối lợng lớn. Trong nền kinh
tế thị trờng, thực tế đó làm cho nhận thức từ lý thuyết đến thực tiễn về công
nghiệp văn hóa đã đợc bàn thảo khá nhiều.
1.1.1. Quan niệm của thế giới về công nghiệp văn hóa
Công nghiệp văn hóa là gì?
Công nghiệp văn hóa xuất hiện gắn với nền văn hóa đại chúng, bắt đầu
khoảng từ giữa thế kỷ XX.
Văn hóa đại chúng (mass culture), đợc hiểu ngắn gọn là nền văn hóa
của một xã hội đại chúng - xã hội, đợc hình thành trên những điều kiện: sự
gia tăng về số lợng của ngời lao động; sự phát triển của quá trình sản xuất,
tiêu thụ lớn theo cơ chế thị trờng; sự mở rộng không giới hạn không gian nhờ
những tiến bộ về giao thông, thông tin; quá trình đô thị hóa và tập trung dân
c tại các đô thị và đời sống chính trị dân chủ. Nền văn hóa này có đối tợng
thụ hởng là đại đa số dân chúng - cả những ngời không có hoặc có trình độ
giáo dục ở mức độ tơng đối. Những giá trị văn hóa đợc phổ cập, truyền bá
thông qua các phơng tiện thông tin đại chúng nh báo chí, truyền thanh và
ngày nay là truyền hình, internetMột vài thập kỷ trở lại đây, ngời ta không
chỉ nói đến ảnh hởng của nền văn hóa đại chúng Mỹ, nền văn hóa đại chúng
phơng Tây, mà còn nói đến nền văn hóa đại chúng Nhật, Hàn Quốc và
một số nớc khác của châu á. Giờ đây văn hóa đại chúng ngày càng phát
triển đáp ứng, nuôi dỡng nhu cầu của tầng lớp thị dân mới, tầng lớp trung

lu, những ng
ời làm công ăn lơng, tầng lớp có trình độ học thức cao.

13
ở giai đoạn đầu, khi nền văn hóa đại chúng xuất hiện cùng với ngành
công nghiệp văn hóa và những ảnh hởng của nó, đã có những nhận thức khác
nhau về quan niệm và vai trò của công nghiệp văn hóa.
Khái niệm công nghiệp văn hóa xuất hiện đầu tiên ở Mỹ, sau đó là
quan niệm của một số học giả phơng Tây. Những thập kỷ cuối thế kỷ XX,
khi nền văn hóa đại chúng xuất hiện nhiều nớc trên thế giới, thì công nghiệp
văn hóa đợc nhận thức khá đầy đủ từ lý thuyết đến thực tiễn. Thời kỳ đầu khi
công nghiệp văn hóa xuất hiện, có quan niệm xem đây là một bớc thụt lùi
của sáng tạo văn hóa, nhấn mạnh mặt tiêu cực của công nghiệp văn hóa.
Những ý kiến này cho rằng, khác với quá trình sản xuất, thởng thức
các giá trị văn hóa theo phơng thức cổ điển, văn hóa đại chúng không thể
hiện hết chiều sâu, chiều cao trong sáng tạo văn hóa. Công nghiệp văn hóa
làm ra văn hóa đại chúng, là thứ văn hóa phục vụ số đông, không phải là văn
hóa bản gốc mà là văn hóa bản thế (có sự thay thế, hỗ trợ sáng tạo bằng
máy móc). Họ nhấn mạnh, trớc hết những sáng tạo văn hóa bao giờ cũng bắt
đầu từ những cá nhân. Và vì sản phẩm văn hoá đợc sáng tạo mang dấu ấn cá
nhân, có tính độc đáo, tính đơn nhất của nó, nên khác với những sản phẩm
văn hóa đợc sản xuất hàng loạt bởi công nghiệp.
Những học giả ngời Mỹ Max Horkheimer (1895-1973) và Theodor
Adorno (1902-1969) đã quan niệm văn hoá đại chúng giống nh một nhà máy
sản xuất hàng loạt các sản phẩm văn hoá theo một tiêu chuẩn nhất định để lôi
kéo quần chúng vào sự hởng thụ một cách bị động. Nhu cầu giải trí của công
chúng đợc đáp ứng một cách dễ dàng, sẵn có, thông qua việc tiêu dùng
những sản phẩm văn hoá đại chúng. Điều này khiến con ngời trở nên dễ
bằng lòng và thoả mãn, cho dù điều kiện kinh tế có khó khăn thế nào, vì thế
những sản phẩm văn hoá đợc sản xuất hàng loạt đó là một hiểm hoạ đối với

những giá trị nghệ thuật chân chính (cấp cao). Theo họ, chính nền công
nghiệp văn hoá đã kích thích những nhu cầu sai lầm, những thứ đ
ợc tạo ra và
thỏa mãn giá trị kinh tế đã làm hạn chế sự sáng tạo của con ngời. Những đòi
hỏi chân chính của con ngời, ngợc lại, chính là sự tự do, sáng tạo và hạnh

14
phúc thực sự. Chính những ngời làm ngành công nghiệp văn hoá tuyên bố
rằng để thoả mãn nhu cầu giải trí, nhng họ lại che giấu cách thức tiêu chuẩn
hoá những nhu cầu đó và việc xúi giục ngời tiêu dùng thèm muốn những sản
phẩm của ngành công nghiệp ấy. Hậu quả là nền sản xuất hàng loạt đã duy trì
cơ chế thị trờng hàng loạt mà ở đó cá tính và sở thích riêng của cá nhân
ngời tiêu dùng ngày càng không đợc coi trọng và bản thân những ngời tiêu
dùng cũng dễ thay đổi nh chính những hàng hoá mà họ mua.
Tuy nhiên, nếu đặt ra câu hỏi cho thực tế: tại sao các sản phẩm công
nghiệp văn hoá ấy có thể phổ biến đến nh thế không nếu nh mọi ngời
không thích chúng? và nền văn hoá đó có hay không có khả năng tự vận động
trong sự quản lý? Thì chính điều đó đã phủ định luận điểm của Adorno và
Horkheimer về công nghiệp văn hoá. Dù vậy, xét ở góc độ nào đó, quan điểm
của Adorno và Horkheimer cũng đã ảnh hởng đến quá trình nhận thức về văn
hoá đại chúng và công nghiệp văn hoá, nhất là trong thời gian đầu.
Một số học giả phơng Tây có quan niệm công nghiệp văn hóa xuất
hiện là tất yếu do sự phát triển thuần túy của kỹ thuật, chính điều này đã làm
cho ngời tiêu dùng văn hóa không có sự lựa chọn. Họ cho rằng có hàng triệu
ngời tham gia vào công nghiệp văn hoá, các quá trình tái sản xuất cần thiết,
không thể tránh khỏi việc hàng loạt các nhu cầu giống nhau ở các nơi đợc
đáp ứng bởi những sản phẩm giống nhau. Hơn nữa, có sự mâu thuẫn giữa số
lợng ít ỏi của những trung tâm sản xuất và số lợng lớn các vùng tiêu thụ
nằm rải rác khắp nơi, nên đòi hỏi có sự tổ chức và lên kế hoạch của các nhà
quản lý. Và tuy tiêu chuẩn hàng hoá trớc tiên là dựa vào nhu cầu của khách

hàng, hàng hóa văn hóa do ngành công nghiệp đa lại có thể đợc dễ dàng
chấp nhận, nhng trên thực tế, sức mạnh của kỹ thuật hiện đại đối với xã hội
chính là sức mạnh của những kẻ có thế lực về kinh tế chi phối xã hội. Cái mà
công nghiệp văn hóa đạt đ
ợc là sự tiêu chuẩn hoá và quá trình sản xuất hàng
loạt, loại bỏ sự phân biệt giữa tính lô gích của sản phẩm và tính lô gích của hệ
thống xã hội. Bớc nhảy vọt từ điện thoại đến đài phát thanh đã thực sự tách
bạch vai trò của nó. Với dịch vụ thứ nhất, ngời sử dụng vẫn có vai trò chủ

15
động và tự do. Nhng loại hình dịch vụ thứ hai thì biến tất cả những ngời
tham gia sử dụng thành ngời nghe và họ phải theo dõi những chơng trình
truyền thanh gần giống nh nhau.
Một điểm nữa mà giới nghiên cứu nhấn mạnh, đó là sự phụ thuộc lẫn
nhau giữa các ngành công nghiệp về phơng diện kinh tế. Ví dụ nh phụ
thuộc của công ty phát thanh, truyền hình lớn mạnh nhất vào công ty điện lực,
hoặc sự phụ thuộc của công nghiệp điện ảnh đối với nhà băng Nền kinh tế t
bản chủ nghĩa đang phát triển mạnh mẽ kéo theo sự phát triển của ngành công
nghiệp văn hoá với sự xuất hiện hàng loạt những sản phẩm văn hoá đợc sản
xuất hàng loạt. Nhu cầu của công chúng đợc đáp ứng thông qua các sản
phẩm hàng loạt với chất lợng, kiểu loại khác nhau. Ngời tiêu dùng không có
cơ hội để phân loại hàng hoá vì các nhà sản xuất đã làm hộ rồi. Mọi loại sản
phẩm văn hoá dờng nh nằm trong một cấu trúc nhất định. Sự phát triển của
công nghiệp văn hoá đã dẫn đến sự chiếm u thế của những chi tiết kỹ thuật,
kỹ xảo đối với bản thân sản phẩm văn hoá. Tất cả đều đi theo một công thức
nhất định nào đó. Trong công nghiệp văn hoá, sự rập khuôn là điều đơng
nhiên, tất cả đều phải theo một kiểu cách nhất định. Khả năng tiêu thụ, tạo ra
lợi nhuận đợc đặt lên hàng đầu, vì thế cái mới rất khó có cơ hội phát triển.
Nhà sản xuất sẽ rất ngần ngại với những sản phẩm mới cha đợc thử thách
tính hấp dẫn của nó đối với ngời tiêu dùng. Nhà sản xuất phim sẽ ngần ngại

sử dụng kịch bản của những cuốn sách bán không chạy
Ngoài ra, cách nhìn tiêu cực còn chỉ ra sự xuất hiện của ngành công
nghiệp văn hoá làm cho văn hóa có sự trộn lẫn ở những trình độ cao thấp với
nhau. Tính nghiêm túc của loại hình nghệ thuật cao cấp bị tiêu diệt bởi những
tính toán cho hiệu quả kinh doanh. Dù ngành công nghiệp văn hoá nào cũng
xem xét, tính toán đến nhu cầu, sở thích của ngời dân nhng trong hệ thống
ấy, ngời dân không đóng vai trò chủ chốt mà chỉ ở vị trí thứ yếu, là đối tợng
của những tính toán và là bộ phận của công nghiệp máy móc. Khách hàng
không phải là thợng đế, cũng không phải là chủ thể mà chỉ là đối tợng bị
động của nền công nghiệp ấy.

16
Những quan điểm trên cũng khẳng định, ngay cả phơng tiện truyền
thông đại chúng ngày càng phát triển cũng phục vụ cho công nghiệp văn hoá.
Nó không tính đến lợi ích của dân chúng mà nó chạy theo tiếng nói của chủ
nhân nhà t bản công nghiệp văn hoá, động cơ lợi nhuận đợc núp dới vỏ
bọc của hình thức văn hoá, họ theo đuổi mục đích lợi nhuận một cách gián
tiếp. Tính độc lập, sáng tạo của nghệ sĩ khó vợt qua rào cản của hàng loạt
các tác động bên ngoài vận hành theo cơ chế thị trờng chi phối.
Thực ra, những quan niệm trên khi nhấn mạnh mặt tiêu cực của công
nghiệp văn hóa hóa không phải không có lý, nhất là khi hoạt động sản xuất,
kinh doanh các sản phẩm văn hóa chỉ vì mục đích kinh tế. Ngay trong thời kỳ
của mình, C. Mác đã phê phán tình trạng biến văn hoá thành sản phẩm công
nghiệp phục vụ cho sự tìm kiếm lợi nhuận của giai cấp t sản. Bản chất xã hội
đó không thay đổi cả trong thời kỳ bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ hiện nay.
Tuy nhiên, không nên chỉ nhìn thấy mặt tiêu cực của công nghiệp văn
hoá mà cần chỉ rõ cả những mặt tích cực của lĩnh vực này. Ngành công nghiệp
văn hoá có khả năng tác động mạnh mẽ vào đời sống của quảng đại quần
chúng nhân dân, đáp ứng nhu cầu văn hoá đa dạng và phức tạp của xã hội.

Sự phát triển của ngành công nghiệp văn hoá góp phần tạo nên quá trình đa
dạng hoá và dân chủ hoá về tri thức cho xã hội. Nó có khả năng cung cấp và
truyền bá sâu rộng trong đời sống xã hội hàng loạt những thông tin về các lĩnh
vực văn hoá khác nhau, đáp ứng nhu cầu tinh thần của xã hội.
Đến Hội nghị Thợng đỉnh về hoạt động văn hóa đợc tổ chức tại
Stockholm (Thụy Điển) tháng 4-1998, thuật ngữ công nghiệp văn hóa đã đợc
gần 200 quốc gia thông qua. Tuy vậy cũng có nhiều quan niệm khác nhau.
Trong khi UNESCO gọi đây là ngành công nghiệp văn hóa (Cultural
industries) thì Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) gọi là công nghiệp bản
quyền (Copyright industries), ngời Mĩ coi đây là công nghiệp giải trí
(Entertainment industries), Hội đồng Anh lại gọi đây là nền kinh tế sáng tạo
(Creative economy)Gần đây, tại một số Hội thảo quốc tế nh Diễn đàn văn

17
hoá châu á 2003, Thách thức của sản phẩm và dịch vụ văn hoá trong đàm
phán thơng mại quốc tế đối với các nớc châu á (2007), Diễn đàn công
nghiệp văn hoá Trung Quốc - ASEAN (2008), vấn đề công nghiệp văn hoá
là một trong những chủ đề chính. Các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý văn
hoá của các quốc gia đã khẳng định thuật ngữ công nghiệp văn hoá gắn với
tập hợp các ngành kinh tế khai thác và sử dụng hiệu quả tính sáng tạo kỹ năng
sở hữu trí tuệ, sản xuất các sản phẩm và dịch vụ có ý nghĩa văn hoá xã hội.
Có thể nói, dù nhìn ở góc độ nào thì các quan niệm về công nghiệp văn
hóa cũng thờng nhấn mạnh đế hai yếu tố: công nghiệp và sáng tạo. Gọi là
công nghiệp bởi đây thực sự là một ngành kinh doanh hùng mạnh, giàu tiềm
năng. Ngành kinh doanh này dựa trên năng lực sáng tạo của các cá nhân trong
lĩnh vực giải trí thông qua các phơng tiện công nghệ hiện đại. Đây là một hệ
thống liên kết trên phạm vi công nghiệp hoạt động sáng tạo của nghệ sĩ với
công chúng. Chính vì thế theo quan niệm của cỏc t chc nh UNESCO, v
GATT, thỡ Cụng nghip Vn húa (cũn c bit n nh l Cụng nghip sỏng
to), bao gm s sỏng to, sn xut v phõn phi cỏc sn phm v dch v

mang tớnh cht vn húa v thng c bo v bi bn quyn.
Từ những tổng hợp trên, chúng tôi đa ra khái niệm:
Công nghiệp văn hóa là ngành công nghiệp sáng tạo, sản xuất, tái sản
xuất, phổ biến, tiêu dùng các sản phẩm và các dịch vụ văn hoá bằng phơng
thức công nghiệp hoá, tin học hoá, thơng phẩm hoá, nhằm đáp ứng nhu cầu
văn hóa đa dạng của xã hội, các hoạt động đó đợc bảo vệ bởi bản quyền
Đặc trng của ngành công nghiệp văn hoá đợc thể hiện ở những sản
phẩm đợc tạo ra có sự kết hợp chặt chẽ giữa kỹ thuật cao với các giá trị văn
hoá, giá trị kinh tế, các sản phẩm đó phải hớng tới phục vụ số đông. Những
đặc trng bản chất của hệ thống ngành công nghiệp văn hóa bao giờ cũng gắn
với những mô hình sản xuất nhất định. Trong mô hình kinh tế thị trờng t
bản, từ sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng các sản phẩm văn hóa đợc
vận hành theo mô hình sản xuất, kinh doanh hàng hóa thông thờng, nhằm
thu đối đa lợi nhuận.

18
Về cơ cấu của ngành công nghiệp văn hóa
Trong quan niệm của thế giới (nhất là châu Âu), khái niệm công nghiệp
văn hoá thờng gắn với tập hợp các ngành kinh tế khai thác và sử dụng hiệu
quả tính sáng tạo kỹ năng sở hữu trí tuệ, sản xuất các sản phẩm và dịch vụ có
ý nghĩa văn hoá xã hội. Cơ cấu của nó bao gồm nhiều ngành: quảng cáo, kiến
trúc, giải trí kỹ thuật số, mỹ thuật đồ cổ và thủ công mỹ nghệ, thiết kế mỹ
thuật, điện ảnh và video, in ấn xuất bản, âm nhạc, nghệ thuật biểu diễn, phát
thanh truyền hình và phần mềm vi tính Nhờ áp dụng những thành tựu khoa
học công nghệ, đặc biệt điện tử và tin học, mà những ngành nghề trên tập
trung rất nhiều hàm lợng sáng tạo, đáp ứng đợc nhu cầu của đông đảo quần
chúng và đem lại một lợi nhuận khổng lồ.
Tuy nhiên, các quốc gia trên thế giới cũng cha có sự không đồng nhất
về quan niệm và cơ cấu của công nghiệp văn hoá. Các nớc châu Âu đa ra
11 lĩnh vực thuộc ngành công nghiệp văn hoá nh đã nêu trên, nhng một số

nớc châu á lại chỉ đề cập đến 6 hoặc 7 lĩnh vực thuộc lĩnh vực này, nh: điện
ảnh, phát thanh truyền hình, báo chí, xuất bản, in và sản xuất băng đĩa,
quảng cáo và dịch vụ giải trí
1.1.2. Quan niệm công nghiệp văn hóa và cơ cấu công nghiệp văn hóa ở
Việt Nam
Khi thuật ngữ công nghiệp văn hóa không xa lạ với nhiều nớc, thì khái
niệm nay còn rất mới đối với Việt Nam. Nhiều ý kiến nghiên cứu cho rằng
Việt Nam cha có một ngành công nghiệp văn hóa thực sự, chỉ mới đợc hình
thành sau chuyển đổi từ cơ chế kinh tế bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trờng.
Thậm chí đến những năm đầu thế kỷ XXI, khái niệm và vai trò của
công nghiệp văn hoá mới đợc bàn đến trong một vài công trình nghiên cứu.
Tác giả Nguyễn Tri Nguyên cho rằng công nghiệp văn hoá là một trong
những vấn đề của văn hoá đơng đại, gắn liền với quyền sở hữu trí tuệ
1
. Đề
cập cụ thể hơn đến khái niệm, vai trò của công nghiệp văn hoá là bài viết của


1
Nguyễn Tri Nguyên: Văn hoá, tiếp cận lý luận và thực tiễn, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội,
2004.

19
PGS, TS. Tô Huy Rứa: Xây dựng và phát triển ngành công nghiệp văn hoá ở
nớc ta (Tạp chí Cộng sản, số 1, tháng 1/2006) Tác giả quan niệm: Công
nghiệp văn hóa là việc tái sản xuất và truyền bá các dịch vụ văn hóa và sản
phẩm văn hóa đợc tạo ra bằng phơng thức công nghiệp hóa, tin học hóa,
thơng phẩm hóa. Là ngành nghề sản xuất các sản phẩm văn hóa và cung cấp
dịch vụ văn hóa, công nghiệp văn hóa lấy sự thỏa mãn nhu cầu văn hóa của
mọi ngời làm mục tiêu chủ yếu Cũng theo tác giả, cơ cấu của công nghiệp

văn hóa nếu xét theo phạm vi ngành nghề, bao gồm: ngành sáng tạo và biểu
diễn nghệ thuật, dịch vụ tin tức, vui chơi giải trí, đào tạo văn nghệ sỹ và kinh
doanh tác phẩm nghệ thuật, ngành phát hành, xuất bản, ngành phát thanh
truyền hình, điện ảnh, video, quảng cáo
Trong một đề tài nghiên cứu cấp thành phố về lĩnh vực này
1
, nhóm tác
giả đã đa ra khái niệm: Công nghiệp văn hoá là ngành công nghiệp sản xuất
và dịch vụ các sản phẩm văn hoá dựa trên các thành tựu về khoa học kỹ thuật
và công nghệ nhằm đáp ứng nhu cầu văn hoá đa dạng của xã hội. Hội thảo
khoa học gần đây về Công nghiệp văn hóa ở Việt Nam-thực trạng và giải
pháp do Viện Văn hóa Nghệ thuật-Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch tổ chức,
các nhà khoa học cũng nhấn mạnh: Công nghiệp văn hóa là các ngành công
nghiệp sử dụng các sáng tạo cá nhân, công nghiệp và sáng tạo là đặc
trng chủ yếu trong quan niệm về công nghiệp văn hóa.

Về cơ cấu của công nghiệp văn hóa Việt Nam, có ý kiến khẳng định
ngành này chỉ mới ở mức bán công nghiệp hoá, đang tồn tại với nhiều loại
hình: những cơ sở sản xuất các sản phẩm văn hoá là loại hàng hoá có khả
năng kinh doanh và có điều kiện công nghiệp hoá; những đơn vị sản xuất các
sản phẩm văn hoá mang tính bán công nghiệp, không thể điều tiết chỉ bằng
quy luật kinh tế thị trờng; đơn vị sản xuất các sản phẩm hàng hoá văn hóa


1
Nghiên cứu xây dựng và phát triển ngành công nghiệp văn hoá của Thủ đô Hà Nội trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá (Sở Văn hoá Thông tin Hà Nội - 01 X-12/01-2006-3, Phạm Duy Đức
làm chủ nhiệm, đã có báo cáo tổng kết lần 1, năm 2008).

20

mà không thể tự chịu lỗ lãi, thì không thể công nghiệp hoá và nhà nớc phải
có vai trò chủ yếu
(1)
.
Trên thực tế, các loại hình này đang tồn tại, đan xen rất phức tạp.
Ngành sản xuất các sản phẩm văn hoá ở Việt Nam hiện nay mới chỉ là những
cơ sở sản xuất, kinh doanh với quy mô nhỏ, cha xuất hiện và hình thành
những tập đoàn lớn, hay các tổ hợp đa chức năng. Hiện quá trình sản xuất-
phân phối- phổ biến các sản phẩm văn hoá vẫn chủ yếu do các đơn vị nhà
nớc đảm nhiệm. Các đơn vị t nhân chủ yếu tham gia ở khâu lu thông trên
thị trờng, sự tham gia này còn manh mún, tự phát, đặc biệt là cha mang tính
chuyên nghiệp.
Nhìn chung ở nớc ta, sự nhận thức về công nghiệp văn hoá trên cả hai
phơng diện lý luận và thực tiễn đều đang ở trong giai đoạn đầu tiên. Trên cơ
sở kế thừa thành tựu của các nhà nghiên cứu đi trớc, chúng tôi có nhận xét
một cách tổng quát nh sau:
1/ Mặc dù còn có những quan niệm, những ý kiến đánh giá khác nhau,
nhng phải khẳng định rằng: công nghiệp văn hoá thể hiện sự gắn kết giữa sự
phát triển của khoa học kỹ thuật và văn hoá, là phơng thức biểu hiện xu thế
kinh tế và văn hoá thấm sâu vào nhau.
2/ Vai trò của công nghiệp văn hoá không chỉ dừng lại ở việc tạo ra các
hiệu ích kinh tế mà nó còn đem lại những hiệu ích xã hội, nó đáp ứng nhu cầu
văn hoá tinh thần của xã hội, nâng cao trình độ nhận thức, truyền bá thông tin,
thoả mãn nhu cầu văn nghệ, giải trí, thể thao v.v của quảng đại quần chúng.
3/ Trong thời kỳ bùng nổ thông tin và phát triển mạnh của khoa học kỹ
thuật công nghệ hiện nay, công nghiệp văn hoá có vai trò to lớn để phát triển
kinh tế, ổn định chính trị và đáp ứng nhu cầu văn hoá ngày càng gia tăng của
nhân dân. Đồng thời, nó tham gia vào quá trình dân chủ hoá thông tin về mặt
văn hoá. Mặt khác nó cũng tạo ra sự phân hoá sâu sắc cả về kinh tế và văn



1
Mai Hải Oanh: Xây dựng ngành công nghiệp văn hóa ở nớc ta, Tạp chí Văn hóa-nghệ thuật, số 6/2006,
tr. 28-31

21
hoá. Những mâu thuẫn xã hội do sự phát triển công nghiệp văn hoá tạo ra là to
lớn và phức tạp mà các quốc gia cần phải quan tâm giải quyết.
4/ Có thể khái quát công nghiệp văn hoá là ngành công nghiệp sản xuất
và dịch vụ các sản phẩm văn hoá dựa trên các thành tựu về khoa học kỹ thuật
và công nghệ nhằm đáp ứng nhu cầu văn hoá đa dạng của xã hội. Các tiêu chí
để xét những lĩnh vực đợc xem là công nghiệp văn hóa, đó là:
- Sản xuất ra các sản phẩm văn hoá dựa trên thành tựu khoa học kỹ
thuật và công nghệ hiện đại
- Các sản phẩm văn hoá phải hớng tới phục vụ cho số đông
- Các hoạt động của công nghiệp văn hóa đợc bảo vệ bởi bản quyền
5/ Hiện tại, bàn về cơ cấu ngành công nghiệp văn hoá nớc ta, vấn đề
mới chủ yếu bó hẹp trong phạm vi của các ngành/nghề do Nhà nớc đang
quản lý và đóng vai trò sở hữu. Cơ cấu đó bao gồm các lĩnh vực chủ yếu:
- Công nghiệp truyền thông đại chúng (công nghiệp của báo chí, xuất
bản, in ấn, phát hành, quảng cáo, triển lãm, thông tin cổ động)
- Công nghiệp âm nhạc (công nghiệp phục hoạt động ca múa nhạc và
các sản phẩm âm nhạc từ băng, đĩa)
- Công nghiệp điện ảnh (công nghiệp xây dựng phim, hậu kỳ phim và
phát hành phổ biến phim)
- Công nghiệp phục vụ nghệ thuật biểu diễn (công nghệ tham gia vào
khâu âm thanh, ánh sáng, thiết kế sân khấu)
- Công nghiệp mỹ thuật (công nghệ hoá sinh trong sáng tạo và bảo
quản, và công nghiệp tham gia vào khâu phát hành)
- Công nghiệp dịch vụ vui chơi, giải trí (công nghiệp về các sản phẩm

vui chơi trực tiếp và sản phẩm game từ phần mềm)
- Hoạt động kinh doanh thơng mại các vật t chuyên ngành văn hóa
và các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ văn hóa.
Do nội hàm khái niệm và cơ cấu của ngành công nghiệp văn hóa đợc
hiểu nh trên, nên đề tài này chỉ khảo sát thực trạng công nghiệp văn hóa ở
nớc ta trên ba lĩnh vực chủ yếu: Điện ảnh, Sàn diễn và Âm nhạc.

22
1.2. Vai trò của phát triển công nghiệp văn hóa với phát triển
kinh tế-xã hội và xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc
Bàn đến vấn đề này, chúng ta không tránh khỏi những khó khăn. Bởi về
phơng diện nhận thức, khái niệm công nghiệp văn hoá cũng chỉ mới bớc
đầu đợc bàn thảo. Về phơng diện thực tiễn, một số lĩnh vực của đời sống
văn hoá nớc ta mới bớc đầu bớc chập chững vào quá trình hoạt động theo
phơng thức công nghiệp văn hoá. Song xuất phát từ thực tiến phát triển
ngành công nghiệp này của nhiều nớc trên thế giới và từ nhu cầu phát triển
kinh tế, xã hội, văn hoá của nớc ta, công nghiệp văn hóa có vai trò, ý nghĩa
to lớn đối với phát triển kinh tế-xã hội và hiện đại hóa nền văn hóa dân tộc.
1.2.1. Phát triển công nghiệp văn hóa với phát triển kinh tế-xã hội
Trên thế giới từ giữa thế kỷ XX, sự phát triển mạnh mẽ của các nền
công nghiệp văn hóa đã tạo ra một xu thế mới của sự gắn kết của kinh tế và
văn hóa. Có thể nói công nghiệp văn hóa là biểu hiện tập trung mối quan hệ
giữa văn hóa và kinh tế trong phát triển kinh tế thị trờng. Vai trò của công
nghiệp văn hóa đối với phát triển kinh tế kinh tế-xã hội ở nớc ta có thể thấy
trên 2 phơng diện:
Thứ nhất, phát triển công nghiệp văn hóa với phát triển kinh tế-xã hội,
ở nớc ta, chính là giải quyết mối quan hệ giữa văn hoá và kinh tế trong phát
triển kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa.
Quan niệm của Đảng ta tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung

ơng khoá X về Nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc
ta nhấn mạnh: Kinh tế thị trờng là sản phẩm của văn minh nhân loại đợc
phát triển tới trình độ cao dới chủ nghĩa t bản nh
ng tự bản thân kinh tế thị
trờng không đồng nghĩa với chủ nghĩa t bản. Thực tiễn đổi mới ở nớc ta đã
chứng minh đầy sức thuyết phục về việc sử dụng kinh tế thị trờng làm
phơng tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế thị trờng định hớng xã
hội chủ nghĩa là nền kinh tế trong đó các thiết chế, công cụ và nguyên tắc vận
hành kinh tế thị trờng đợc tự giác tạo lập và sử dụng để giải phóng triệt để
sức sản xuất, từng bớc cải thiện đời sống của nhân dân, vì mục tiêu dân giàu,

×