Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc sau khi gia nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507.1 KB, 98 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Viết đầy đủ tiếng Việt
ACFTA
Khu vực thương mại tự do ASEAN - Trung
Quốc
ASEAN Hiệp hội các nước Đông Nam Á
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
NDT Đồng nhân dân tệ
USD Đồng đô la Mỹ
WTO Tổ chức thương mại thế giới
NK Nhập khẩu
XK Xuất khẩu
KNXK Kim ngạch xuất khẩu
EHP Chương trình thu hoạch sớm
Sinh viên thực hiện: Phan Thị Trinh Lớp : KTPT 47B
I
Website: Email : Tel : 0918.775.368
GATT Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 1.1: Thuế quan bình quân đối với hàng nhập khẩu của Trung Quốc giai
đoạn 1982 – 2001
Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Trung Quốc giai đoạn
1991 – 2000
Bảng 2.3: Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc giai đoạn
1992 – 2000
Bảng 2.4: Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc giai đoạn
2001 – 2006
Bảng 2.5: Tỷ trọng một số hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong tổng nhập


khẩu của Trung Quốc năm 2005
Bảng 2.6: Cơ cấu các nhóm hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc theo
hình thức buôn bán. Giai đoạn 1991 – 1995
Bảng 2.7: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Trung Quốc giai đoạn
2007 – 2008
Bảng 2.8: Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc năm 2007
Bảng 2.9: Cán cân thương mại của Việt Nam với Trung Quốc
Biểu đồ 2.1: Tốc độ tăng trưởng của kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 1991 – 2000
Sinh viên thực hiện: Phan Thị Trinh Lớp : KTPT 47B
II
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Biểu đồ 2.2: Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn
2001 – 2006
Biểu đồ 2.3: Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản chính của Việt
Nam sang Trung Quốc (2001 – 2006)
Biểu đồ 2.4: Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam sang
Trung Quốc (2001 – 2006)
Biểu đồ 2.5: Các tỉnh chủ yếu nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2006
Biểu đồ 2.6: Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với
Trung Quốc
LỜI CẢM ƠN
Luận văn đuợc thực hiện bởi sự cố gắng nỗ lực của bản thân và sự giúp đỡ
tận tình của cô giáo hướng dẫn thực tập và các cán bộ tại Trung tâm thông tin và
Dự báo Kinh tế - xã hội Quốc gia.
Em xin cảm ơn cô giáo Thạc sỹ Nguyễn Quỳnh Hoa - giảng viên khoa Kế
hoạch và Phát triển đã tận tình hướng dẫn và chỉ bảo trong suốt quá trình thực
hiện Luận văn tốt nghiệp.
Em cũng xin cảm chân thành cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ về mọi mặt của
các cán bộ tại đơn vị thực tập Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - Xã hội
Quốc gia. Đặc biệt là sự giúp đỡ của các cô, chú, anh, chị tại Ban Tổng hợp

trong suốt thời gian thực tập tại Ban.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện: Phan Thị Trinh Lớp : KTPT 47B
III
Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Trung Quốc, nền kinh tế lớn thứ hai khu vực, lớn thứ ba thế giới, theo dự
báo sẽ tiếp tục đà phát triển tốc độ cao đến năm 2020, tiếp tục mở cửa hội nhập
mạnh vào kinh tế khu vực và thế giới, chắc chắn sẽ tác động đến cục diện kinh tế
của Việt Nam nói riêng, kinh tế thế giới nói chung. Sự phát triển tốc độ cao của
nền kinh tế lớn này kéo theo sự gia tăng nhanh chóng nhu cầu tiêu dùng hàng
hóa về số lượng, chất lượng cũng như chủng loại dẫn đến nhu cầu nhập khẩu của
thị trường Trung Quốc ngày càng tăng cao. Do vậy, Trung Quốc được đánh giá
là thị trường xuất khẩu tiềm năng của nhiều nước trong khu vực cũng như các
nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Việt Nam – Trung Quốc là hai nước láng giềng, việc giao lưu kinh tế, văn
hóa giữa hai nước đã có từ lâu đời. Từ năm 1991 đến nay, sau gần 19 năm bình
thường hóa quan hệ, Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại số một, là bạn
hàng nhập khẩu lớn thứ ba của Việt Nam, sau Mỹ và Nhật Bản.
Việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) của hai nước mở ra một
tiềm năng lớn đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung
Quốc. Tuy nhiên, chúng ta cũng gặp không ít khó khăn khi xâm nhập hàng hóa
vào thị trường này trong quá trình hội nhập như: cạnh tranh gay gắt với hàng hóa
của các nước khác và hàng hóa Trung Quốc, hoạt động xuất khẩu phải tuân theo
quy định của WTO; sửa đổi hệ thống luật pháp, chính sách kinh tế và thương
mại… Những vấn đề đó đòi hỏi chúng ta phải nhìn nhận và phân tích một cách
đúng đắn để có được biện pháp tích cực và chủ động nhằm khai thác hiệu quả thị
trường đầy tiềm năng này.
Sinh viên thực hiện: Phan Thị Trinh Lớp : KTPT 47B
1

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đề tài: “Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung
Quốc sau khi gia nhập WTO” nhằm đánh giá khách quan thực trạng xuất khẩu
hàng hóa của Việt Nam vào thị trường Trung Quốc trong thời gian qua, đồng
thời đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu này.
Đề tài tập trung vào nghiên cứu đánh giá tình hình xuất khẩu hàng hóa của
Việt Nam sang Trung Quốc qua hai giai đoạn. Giai đoạn 1: từ năm 1991 đến
2006 và giai đoạn 2 là: hai năm sau khi Việt Nam gia nhập WTO, năm 2007 –
2008.
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục và tài liệu tham khảo, đề tài nghiên
cứu gồm ba chương:
Chương 1: Xuất khẩu hàng hóa và vai trò của xuất khẩu hàng hóa đối với sự
phát triển kinh tế
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường
Trung Quốc từ khi bình thường hóa quan hệ đến nay
Chương 3: Quan điểm và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của Việt
Nam sang Trung Quốc.
Sinh viên thực hiện: Phan Thị Trinh Lớp : KTPT 47B
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I: SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG
HÓA SANG THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC
1.1. Xuất khẩu hàng hoá và vai trò của xuất khẩu hàng hoá đối với phát
triển kinh tế
1.1.1. Khái niệm xuất khẩu hàng hoá
Thế giới đang bước sang một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên hội nhập và phát
triển. Mỗi quốc gia đã tự sản xuất được khối lượng hàng hóa lớn, phong phú và
đa dạng. Để thành công trong nền kinh tế toàn cầu này đòi hỏi các quốc gia cũng
như các nhà kinh doanh không chỉ sản xuất phục vụ cho nhu cầu trong nước mà
cần phải tìm kiếm, mở rộng khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường quốc tế. Để

đưa hàng hóa, dịch vụ của quốc gia này sang phục vụ, buôn bán với quốc gia
khác, các quốc gia cần thực hiện giao dịch buôn bán với nhau. Trên thực tế có
nhiều hình thức thực hiện giao dịch nhưng phổ biến nhất là thông qua hoạt động
xuất khẩu – phương thức đơn giản nhất để các chủ thể kinh tế mở rộng hoạt động
của mình ra thị trường nước ngoài. Vậy xuất khẩu hàng hoá là gì?
Theo “điều 28, mục 1, chương 2, luật thương mại Việt Nam 2005”: Xuất
khẩu hàng hóa là việc hàng hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa
vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan
riêng theo quy định của pháp luật.
Tham gia vào hoạt động xuất khẩu hàng hóa này bao gồm các cá nhân,
doanh nghiệp, tổ chức và chính phủ của các quốc gia. Đây là những chủ thể
không thể thiếu của một nền kinh tế.
Sinh viên thực hiện: Phan Thị Trinh Lớp : KTPT 47B
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.1.2. Các loại hình xuất khẩu hàng hoá
1.1.2.1. Theo hình thức xuất khẩu
* Xuất khẩu trực tiếp:
Xuất khẩu trực tiếp là hình thức giao dịch trong đó người bán (nhà xuất
khẩu) bán hàng trực tiếp cho khách hàng của mình ở thị trường nước ngoài.
Khi doanh nghiệp có đủ khả năng về tài chính, phát triển đủ mạnh để có thể
thành lập một tổ chức hay một đơn vị bán hàng của riêng mình, có thể kiểm soát
trực tiếp, nắm bắt được nhu cầu thị trường về số lượng, chất lượng, giá cả từ đó
có thể làm thoả mãn tốt nhất nhu cầu của thị trường.
Hình thức này đòi hỏi phải có cán bộ có nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập
khẩu có trình độ cao, am hiểu và có kinh nghiệm kinh doanh quốc tế đặc biệt là
nghiệp vụ thanh toán quốc tế thông thạo. Chi phí tiếp thị ở nước ngoài cao nên
đối với những doanh nghiệp có quy mô nhỏ, ít vốn không nên áp dụng hình thức
này.
* Xuất khẩu gián tiếp:

Xuất khẩu gián tiếp là hình thức bán hàng hoá, dịch vụ của công ty ra thị
trường nước ngoài thông qua trung gian (qua người thứ ba) hay nói cách khác
xuất khẩu gián tiếp là cách thức mà nhà sản xuất tiến hành xuất khẩu sản phẩm
của mình ra nước ngoài thông qua dịch vụ của các tổ chức độc lập đặt tại quốc
gia tiếp nhận xuất khẩu.
Hình thức này có ưu điểm:
Sinh viên thực hiện: Phan Thị Trinh Lớp : KTPT 47B
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Giảm chi phí bán hàng, chi phí tiếp thị. Những người trung gian thường có
cơ sở vật chất nhất định, do vậy người uỷ thác giảm được một khoản chi phí cho
việc đầu tư trực tiếp vào nước nhập khẩu.
Người trung gian thường là những người bản địa, am hiểu thị trường, pháp
luật, tập quán buôn bán của địa phương vì vậy họ có thể đẩy mạnh việc kinh
doanh, buôn bán và tránh những rủi ro mà người uỷ thác có thể gặp phải.
Tuy nhiên, hình thức này có nhược điểm là: Chủ thể tham gia kinh doanh
xuất khẩu sẽ mất đi sự liên hệ với thị trường, lợi nhuận bị chia sẻ. Ngoài ra, bên
phía trung gian thường đưa ra những yêu cầu đòi hỏi bên chủ thể xuất khẩu phải
đáp ứng, tạo thế bị động cho bên xuất khẩu.
Hình thức này thường được sử dụng khi xâm nhập vào thị trường mới hoặc
khi mặt hàng khó bảo quản như các mặt hàng tươi sống …
* Gia công xuất khẩu:
Gia công xuất khẩu là hình thức bên nhận gia công sẽ nhập khẩu nguyên
liệu hoặc bán thành phẩm của bên đặt gia công để sản xuất ra thành phẩm rồi
giao lại cho bên đặt gia công và hưởng phí gia công.
Ở Việt Nam hình thức này chủ yếu diễn ra trong lĩnh vực gia công dệt may,
giày dép. Hình thức này tạo điều kiện cho người lao động có công ăn việc làm,
tăng thêm thu nhập và học hỏi kinh nghiệm sản xuất, tiếp cận với công nghệ mới
của nước ngoài. Mặt khác, với hình thức này thị trường tiêu thụ sẵn có vì vậy nó
đem lại lợi ích tương đối lớn đặc biệt là đối với các nước đang phát triển.

Tuy nhiên, nhược điểm của hình thức này là tính bị động cao do toàn bộ
hoạt động của các doanh nghiệp phụ thuộc vào bên đặt gia công về thị trường,
giá bán, giá đặt gia công, nguyên vật liệu, mẫu mã … Nhiều trường hợp bên
Sinh viên thực hiện: Phan Thị Trinh Lớp : KTPT 47B
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngoài lợi dụng gia công để bán máy móc cho nước nhận gia công, sau một thời
gian không đặt gia công nữa gây tổn thất, lãng phí cho bên nhận gia công.
* Buôn bán đối lưu:
Là hình thức giao dịch buôn bán mà trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ
với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua và lượng hàng hoá trao đổi
luôn tương đương với nhau về giá trị. Mục đích của việc xuất khẩu ở đây không
phải là thu về một lượng ngoại tệ mà nhằm thu về một lượng hàng hoá cần thiết
có giá trị xấp xỉ lô hàng xuất khẩu.
Khi tiến hành thực hiện hình thức này các bên cần phải tôn trọng nguyên
tắc cân bằng. Nguyên tắc này được thể hiện:
- Cân bằng về mặt hàng: hàng quý hiếm đổi lấy hàng quý hiếm, hàng ế thừa
đổi lấy hàng ế thừa.
- Cân bằng điều kiện giao dịch: cùng giao dịch FOB - cảng đi hay cùng giao
dịch CIF - cảng đến.
- Cân bằng giá cả: cùng tính cao hơn hay thấp hơn giá cả quốc tế.
- Cân bằng về tổng giá trị hàng hoá mà các bên giao cho nhau.
* Tạm nhập tái xuất:
Đây là hình thức mà hàng hoá xuất khẩu đi qua một số nước trung gian rồi
mới đến nước nhập khẩu và trong đó nước tái xuất sẽ thu được một khoản chênh
lệch giữa khoản tiền bỏ ra để nhập khẩu và khoản tiền thu được khi xuất khẩu.
Ưu điểm của hình thức này là rủi ro ít do nhà xuất khẩu chỉ đóng vai trò
xuất khẩu hàng hoá sang nước thứ hai, nước thứ hai có vai trò là một trung gian
Sinh viên thực hiện: Phan Thị Trinh Lớp : KTPT 47B
6

Website: Email : Tel : 0918.775.368
vì thế rủi ro lúc này được san sẻ. Tuy nhiên lợi nhuận thu được của các nhà xuất
khẩu là thấp do các chi phí về dịch vụ vận tải, bến bãi … là tương đối lớn.
* Xuất khẩu tại chỗ:
Xuất khẩu tại chỗ là hình thức bán hàng cho nước ngoài ngay trên lãnh thổ
nước mình.
Đây là hình thức xuất khẩu mới nhưng ngày càng phát triển trong nền kinh
tế thị trường mở cửa. Loại hình này ở Việt Nam chủ yếu diễn ra dưới hình thức
bán hàng cho các khu chế xuất. Hình thức xuất khẩu này có đặc điểm là hàng
hoá không bắt buộc phải vượt qua biên giới quốc gia mới đến tay của khách
hàng. Ngoài ra, các thủ tục xuất khẩu thì đơn giản hơn, chi phí xuất khẩu cũng
như rủi ro thấp. Tuy nhiên thị trường đối với loại hình này là không lớn, chỉ gồm
những người nước ngoài đi du lịch hoặc làm việc tại nước xuất khẩu tiêu thụ.
Tóm lại, mỗi một hình thức xuất khẩu hàng hóa đều có ưu nhược điểm nhất
định. Vì vậy, để thu được hiệu quả kinh tế cao nhất đòi hỏi mỗi quốc gia, mỗi
nhà xuất khẩu cần có những chiến lược, định hướng lựa chọn phù hợp với sự
phát triển kinh tế, khả năng, năng lực của mình.
1.1.2.2. Theo phương thức xuất khẩu
Gồm có:
* Thương mại chính ngạch
* Thương mại tiểu ngạch
* Buôn bán của cư dân biên giới
Thương mại chính ngạch là hình thức mà các hàng hóa xuất nhập khẩu qua
biên giới theo giấy phép của Bộ Thương mại. Những hàng hóa xuất nhập khẩu
Sinh viên thực hiện: Phan Thị Trinh Lớp : KTPT 47B
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phải được thông qua cửa khẩu quốc tế và quốc gia và phải tuân thủ các thủ tục
xuất khẩu quốc tế.
Còn những hàng hóa xuất nhập khẩu theo giấy phép của Uỷ ban nhân dân

các tỉnh biên giới thì được gọi là thương mại tiểu ngạch.
Hình thức buôn bán thứ 3 là hoạt động trao đổi của cư dân biên giới, do
nhân dân hai vùng biên thực hiện. Các hàng hóa được trao đổi thường do họ tự
sản xuất ra, đem trao đổi trực tiếp. Hình thức thương mại này nhằm đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng của nhân dân vùng biên. Do điều kiện địa hình không thuận lợi,
chi phí vận chuyển hàng hóa từ dưới xuôi lên cao và khó khăn, họ tiến hành trao
đổi hàng hóa ở những chợ vùng biên với giá cả rẻ hơn và hàng hóa sẵn có hơn.
Đối với hình thức này, khối lượng trao đổi hàng hóa thường không nhiều.
1.1.3. Vai trò của xuất khẩu hàng hoá đối với phát triển kinh tế
1.1.3.1. Xuất khẩu hàng hoá phát huy lợi thế so sánh của đất nước
Chúng ta biết rằng, mức độ sẵn có của các yếu tố sản xuất ở các quốc gia
khác nhau và mức sử dụng yếu tố để sản xuất sản phẩm là những nhân tố quan
trọng quyết định sự khác biệt về chi phí so sánh (lợi thế so sánh). Mỗi nước đều
hướng đến chuyên môn hoá sản xuất vào các ngành sử dụng nhiều yếu tố sẵn có
trong nước. Với những ngành này, nếu mặt hàng của nó chỉ giới hạn tiêu thụ
trong nội địa thì không thể khai thác, tận dụng hết lợi thế của nó, và khó có thể
phát triển hơn được. Như vậy, mỗi một quốc gia để có thể phát huy lợi thế so
sánh của mình cần phải tiến hành xuất khẩu hàng hóa đó ra thị trường rộng lớn
hơn – thị trường quốc tế.
Sinh viên thực hiện: Phan Thị Trinh Lớp : KTPT 47B
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.1.3.2.Xuất khẩu hàng hóa đóng góp vào ổn định và tăng trưởng kinh tế
Kết quả hoạt động của ngoại thương của một nước được đánh giá qua “cán
cân thanh toán xuất - nhập khẩu”. Cán cân này tác động trực tiếp đến tổng cầu
của nền kinh tế.
Xuất khẩu thuần (XKT) = Xuất khẩu (XK) - Nhập khẩu (NK).
Xuất khẩu thuần là một bộ phận của tổng cầu:
AD = C + I + G + XKT
Khi cán cân thương mại ở mức xuất siêu (NK > XK) sẽ làm tăng thu nhập

của quốc gia nên làm tăng GDP và nền kinh tế tăng trưởng.
Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa chính là việc tạo điều kiện thuận lợi để bán
được nhiều nhất những hàng hóa mà một quốc gia có lợi thế. Khi doanh số bán
hàng tăng lên, lượng hàng hóa xuất khẩu ra nước ngoài nhiều hơn, nó sẽ tác động
trở lại, đó là nhu cầu mở rộng sản xuất, đẩy mạnh quá trình tạo ra sản phẩm, quy
mô sản xuất của từng mặt hàng, từng ngành nghề, lĩnh vực cũng như quy mô
toàn bộ nền kinh tế được mở rộng, khi đó xuất hiện hiệu ứng tính kinh tế nhờ
quy mô. Khi quy mô sản xuất phát triển sẽ kéo theo sự ra đời của nhiều ngành
hàng mới vừa để bổ trợ cho các ngành xuất khẩu chính, vừa để khai thác các
tiềm năng của đất nước, GDP của nền kinh tế không ngừng tăng lên, quốc gia đạt
được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định.
1.1.3.3. Xuất khẩu hàng hóa góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá
Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới luôn luôn thay đổi một cách
mạnh mẽ, đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Sự
Sinh viên thực hiện: Phan Thị Trinh Lớp : KTPT 47B
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá là tất yếu đối với nước
ta.
Xuất khẩu hàng hóa tạo ra khả năng xây dựng cơ cấu kinh tế mới, năng
động. Sự phát triển các ngành công nghiệp trực tiếp xuất khẩu đã tác động đến
các ngành công nghiệp cung cấp đầu vào cho các ngành xuất khẩu tạo ra “mối
quan hệ ngược” thúc đẩy sự phát triển của các ngành này. Bên cạnh đó khi vốn
tích luỹ của nền kinh tế được nâng cao thì sản phẩm thô sẽ tạo ra “mối liên hệ
xuôi” là nguyên liệu cung cấp cho đầu vào cho các ngành công nghiệp chế biến
và “mối liên hệ xuôi” này được tiếp tục mở rộng. Sự phát triển của tất cả các
ngành này sẽ làm tăng thu nhập của những người lao động, tạo ra “mối liên hệ
gián tiếp” cho sự phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và dịch vụ.
Xuất khẩu hàng hóa tạo ra nguồn thu nhập ngoại tệ đáng kể cho đất nước.

Nguồn thu nhập này vượt xa các nguồn thu nhập khác kể cả vốn vay và đầu tư
nước ngoài. Đối với nhiều nước đang phát triển, xuất khẩu đã trở thành nguồn
tích lũy vốn chủ yếu trong giai đoạn đầu của sự nghiệp công nghiệp hóa. Đồng
thời có ngoại tệ đã tăng khả năng nhập khẩu công nghệ, máy móc thiết bị và
nguyên liệu cần thiết cho sự phát triển của ngành công nghiệp.
1.1.3.4. Xuất khẩu hàng hóa tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn
việc làm cải thiện đời sống nhân dân
Trước hết hoạt động xuất khẩu tạo thêm việc làm, thu hút hàng triệu lao
động và làm tăng thu nhập cho người lao động, nhất là trong các ngành nông
nghiệp, công nghiệp chế biến nông lâm hải sản, công nghiệp dệt - may, giày - da.
Nhiều ngành xuất khẩu đã tạo thêm việc làm phi nông nghiệp cho lao động khu
vực nông thôn, góp phần tăng thu nhập và giảm bớt tình trạng nghèo đói.
Sinh viên thực hiện: Phan Thị Trinh Lớp : KTPT 47B
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Xuất khẩu hàng hóa còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu nhiều sản phẩm
trung gian, một số ngành công nghiệp như dệt – may, sản xuất hàng tiêu dùng
được mở rộng, tạo việc làm cho dân cư thành thị đặc biệt là lao động thanh niên
đang ngày càng gia tăng. Ngoài ra, còn tạo nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm
tiêu dùng thiết yếu phục vụ trực tiếp đời sống và đáp ứng ngày một phong phú
thêm nhu cầu tiêu dùng của người dân.
Xuất khẩu hàng hóa tác động trực tiếp đến sản xuất làm cho cả quy mô và
tốc độ sản xuất tăng lên, các ngành nghề cũ được khôi phục, ngành nghề mới ra
đời tạo thêm việc làm cho người lao động. Xuất khẩu còn giúp nâng cao chất
lượng lao động, nâng cao trình độ chuyên môn, thay đổi phong cách làm việc
theo hướng tích cực.
1.1.3.5. Xuất khẩu hàng hóa nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa và năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Xuất khẩu hàng hóa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước ngày
càng lớn mạnh, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Bởi vì khi

hướng vào thị trường quốc tế làm cho các doanh nghiệp phụ thuộc vào thị trường
thế giới nhiều hơn là thị trường trong nước, do vậy các doanh nghiệp muốn đứng
vững trong cạnh tranh phải dựa vào các tiêu chuẩn quốc tế. Thời kỳ đầu có thể
có sự trợ giúp của Nhà nước, song muốn tiếp tục tồn tại thì phải tự khẳng định
được vị trí của mình. Mặt khác thị trường thế giới rộng lớn sẽ tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp thu được hiệu quả nhờ quy mô sản xuất lớn.
Xuất khẩu hàng hóa còn tạo điều kiện nâng cao khả năng cung cấp đầu vào
cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
Sinh viên thực hiện: Phan Thị Trinh Lớp : KTPT 47B
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.1.4. Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động xuất khẩu hàng hóa
Để thực hiện tốt các hoạt động xuất khẩu hàng hóa thì việc xây dựng được
một hệ thống các chỉ tiêu đánh giá là một vấn đề cần thiết. Thực hiện được điều
này sẽ giúp các cơ quan quản lý nhà nước có cơ sở đánh giá kết quả hoạt động
xuất khẩu, đồng thời giúp các nhà sản xuất tìm ra được mặt hạn chế, yếu kém
trong hoạt động xuất khẩu của mình, từ đó đề ra những giải pháp hữu hiệu để
khắc phục, nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu, đáp ứng mục tiêu, chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội mà quốc gia đã đề ra. Sau đây là những chỉ tiêu cơ bản
để đánh giá hoạt động xuất khẩu của một quốc gia:
1.1.4.1. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa
Kim ngạch xuất hàng hóa của một nước cho biết nước đó đã xuất khẩu
được bao nhiêu hàng hóa, khối lượng và giá trị bao nhiêu.
Nếu kim ngạch xuất khẩu hàng hóa càng cao thì chứng tỏ hoạt động xuất
khẩu của nước đó càng phát triển. Mặt khác nếu kim ngạch xuất khẩu cao và giá
trị của hàng hóa đem xuất khẩu là lớn thì điều đó chứng tỏ quốc gia đó đang thực
hiện chiến lược hướng về xuất khẩu.
1.1.4.2. Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa
Tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa là sự gia tăng về khối lượng và
giá trị hàng hóa được xuất khẩu của một nước trong một khoảng thời gian nhất

định. Sự gia tăng được thể hiện ở quy mô và tốc độ. Quy mô tăng trưởng phản
ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so
sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kỳ.
1.1.4.3. Sự cân bằng trong cán cân thương mại
Sinh viên thực hiện: Phan Thị Trinh Lớp : KTPT 47B
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Cán cân thương mại (cán cân trao đổi) là bảng đối chiếu giữa tổng giá trị
xuất khẩu hàng hóa với tổng giá trị nhập khẩu hàng hóa của một nước với nước
ngoài trong một thời kỳ xác định, thường là một năm.
Tình trạng của cán cân thương mại (thâm hụt hay thặng dư) thể hiện trạng
thái của nền kinh tế; dữ liệu trên cán cân thương mại có thể được sử dụng để
đánh giá khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế của một nước. Thâm hụt
cán cân thương mại là sự mất cân đối giữa xuất khẩu và nhập khẩu, tức là nhập
khẩu vượt quá xuất khẩu. Đối với các nước đang phát triển đang trong thời kỳ
CNH và mở cửa hội nhập kinh tế, thâm hụt là một hiện tượng khá phổ biến. Tuy
nhiên, nếu tình trạng này diễn ra thường xuyên và dai dẳng cho thấy, sự yếu kém
trong điều tiết kinh tế vĩ mô, đặc biệt là yếu kém trong lĩnh vực xuất khẩu và hậu
quả đối với nền kinh tế là rất trầm trọng.
1.1.4.4. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu
Thông qua cơ cấu mặt hàng xuất khẩu ta cũng có thể đánh giá được hiệu
quả hoạt động xuất khẩu của một nước. Khi phần lớn hàng hóa xuất khẩu là
những hàng hóa có hàm lượng công nghệ cao, áp dụng khoa học hiện đại, những
mặt hàng có giá trị gia tăng cao, khi đó hoạt động xuất khẩu sẽ mang lại nguồn
thu lớn cho đất nước. Ngược lại nếu hàng xuất khẩu là các mặt hàng có giá trị
gia tăng, hàm lượng công nghệ ít thì tăng trưởng xuất khẩu là rất khó. Bởi vì, các
hàng hóa dưới dạng thô, chỉ sơ chế thường giá trị rất thấp, cung cầu không ổn
định; hơn nữa nó còn là mầm mống làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên của nước
xuất khẩu. Và cũng thông qua cơ cấu mặt hàng này ta có thể thấy được sự phát
triển của các quốc gia. Những quốc gia phát triển, có trình độ, khoa học hiện đại

thì sẽ sản xuất ra những mặt hàng có hàm lượng công nghệ cao. Ngược lại, các
nước kém phát triển, chủ yếu dựa vào tài nguyên thiên nhiên sẵn có; vì vậy họ sẽ
Sinh viên thực hiện: Phan Thị Trinh Lớp : KTPT 47B
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
xuất khẩu những hàng hóa có nguồn gốc từ thiên nhiên, chỉ qua sơ chế, thậm chí
là sản phẩm thô.
1.1.4.5. Hình thức buôn bán
Khi nước tham gia xuất khẩu chủ yếu qua hoạt động buôn bán chính ngạch
(là hợp đồng xuất khẩu theo giấy phép của Bộ Công Thương lưu thông qua các
cửa khẩu quốc tế và quốc gia, phải chấp hành đẩy đủ các thủ tục theo thông lệ và
tập quán quốc tế) thì sẽ giảm thiểu được những rủi ro trong thương mại, tránh
thiệt hại cho nước mình. Khi tham gia hoạt động buôn bán này, các nhà kinh
doanh xuất nhập khẩu không chỉ tuân thủ những quy định pháp luật của hai nước
mà còn phải tuân thủ theo các thông lệ quốc tế nói chung. Do vậy có thể giảm
thiểu được rủi ro trong các hợp đồng kinh doanh, mang lại hiệu quả cao. Ngược
lại, khi nước tham gia xuất khẩu chủ yếu thông qua hoạt động buôn bán tiểu
ngạch (là hình thức xuất khẩu theo giấy phép của UBND các tỉnh biên giới) thì
rủi ro mang lại là rất lớn, và nó có thể làm giảm đi rất nhiều hiệu quả của hoạt
động xuất khẩu.
1.2. Sự cần thiết phải đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang Trung Quốc
1.2.1. Tổng quan về thị trường Trung Quốc
Thị trường Trung Quốc được đánh giá là thị trường rộng lớn, đầy tiềm
năng. Với số dân đông nhất thế giới lên tới 1,3 tỷ người, chiếm 21% tổng dân số
toàn thế giới. Tổng diện tích là 9,6 triệu km2 (rộng hơn Úc, nhỏ hơn Nga và
canada), độ dài đường biên giới đất liền là 22.143,34 km, đường bờ biển: 14.500
km, giáp với các nước: Afghanistan, Bhutan, Myanmar, Ấn Độ, Kazakhstan, bắc
Triều Tiên, Kyrgyzstan, Lào, Macao, Mông Cổ, Nepal, Pakistan, Nga, Tajikistan
và Việt Nam. Với đặc điểm này, Trung Quốc rất thuận lợi cho việc mở rộng các
Sinh viên thực hiện: Phan Thị Trinh Lớp : KTPT 47B

14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hoạt động buôn bán qua biên giới với các nước láng giềng. Riêng đối với Việt
Nam, xuất khẩu hàng hóa sang Trung Quốc sẽ có những thuận lợi hơn so với các
nước khác. Hai nước Việt – Trung sơn thủy tương liên, văn hóa tương thông, lý
tưởng tương đồng, vận mệnh tương quan đã giúp cho Việt Nam hiểu được cặn kẽ
hơn những nhu cầu, đòi hỏi của thị trường Trung Quốc, từ đó tạo ra một cơ cấu
hàng hóa xuất khẩu hợp lý cho thị trường xuất khẩu này.
1.2.1.1. Nhu cầu nhập khẩu của Trung Quốc
Theo số liệu thu thập được của Cục xúc tiến thương mại – Bộ Công thương Việt
Nam cho biết:
Tổng chi tiêu của người tiêu dùng Trung Quốc năm 2008 đạt 10,4 tỷ nhân
dân tệ tương đương với 1,52 tỷ đôla Mỹ. Hiện nay, các gia đình Trung Quốc
thường gửi tiết kiệm hoặc dùng một nửa tổng thu nhập của mình để đầu tư và
chi cho thực phẩm. Thế hệ trẻ Trung Quốc có mức thu nhập ngày càng cao và có
xu hướng chi khá nhiều vào thời trang và vui chơi giải trí. Vì thế họ chính là
những “thượng đế” mà rất nhiều nhà bán lẻ Trung Quốc nhằm tới.
Khi người tiêu dùng Trung Quốc ngày càng giàu lên nhờ chính sách của
chính phủ nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống và tăng thu nhập bình quân trên
đầu người thì việc quảng bá hình ảnh và hàng hoá cho giới thượng lưu vẫn sẽ
tiếp tục và có xu hướng phát triển hơn, vì những chính sách này sẽ kích thích
người dân tiêu dùng với số lượng hàng hóa nhiều hơn, giá trị cao hơn. Trung
Quốc hiện nay là nước đứng thứ ba trên thế giới chỉ sau Nhật Bản và Hoa Kỳ về
số lượng người tiêu dùng các hàng hóa xa xỉ, chiếm 12% tổng tiêu dùng của thế
giới. Hiện nay, trung bình một năm, thị trường Trung Quốc bán được hơn 2 triệu
đôla Mỹ hàng tiêu dùng xa xỉ và doanh thu bán hàng có xu hướng tăng từ 20-
30% / năm. Theo WB, trong năm 2007, xuất khẩu ròng chỉ chiếm 0,4 % trong
Sinh viên thực hiện: Phan Thị Trinh Lớp : KTPT 47B
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368

GDP của Trung Quốc, trong khi đó tăng trưởng của nước này là 11,5 % nhờ sự
tăng trưởng mạnh mẽ của nhu cầu nội địa. Tăng trưởng xuất khẩu Trung Quốc
giảm từ 28 % quý 1 xuống còn 22% ở quý 4 năm 2007, trong khi đó tốc độ nhập
khẩu lại tăng từ 18 % lên 26 %. Đó phần lớn là do nhu cầu tiêu dùng của thị
trường Trung Quốc ngày càng có chiều hướng tăng mạnh dẫn đến nhu cầu nhập
khẩu của nước này tăng khá cao.
Một điều đáng nói ở đây là nhu cầu tiêu dùng của thị trường Trung Quốc
khá đa dạng và dễ tính do các tầng lớp dân cư khác nhau có thu nhập khác nhau
nên sức mua rất phong phú. Trên thị trường cùng tồn tại các loại hàng hóa có
quy cách, chất lượng khác xa nhau đến mức giá cả chênh lệch hàng chục thậm
chí đến hàng trăm lần. Với sự chênh lệch đó phần nào phản ánh được sức mua
của từng người, từng vùng là khác nhau do sự chênh lệch thu nhập. Năm 2008,
mức chênh lệch về thu nhập giữa người dân thành thị với người nông là 3,28 : 1.
Theo tiêu chuẩn mà quốc tế cùng đồng thuận thì mức chênh lệch về thu nhập
giữa người dân thành thị và nông dân 1,5 :1 là tương đối hợp lý, vượt quá 2,1 : 1
là đã hiếm thấy. Như vậy, mức chênh lệch như hiện nay của Trung Quốc là quá
cao. Thu nhập ảnh hưởng trực tiếp đến sức mua, do vậy sức mua giữa thành thị
và nông thôn cũng rất chênh lệch. Sức mua phần lớn là của dân thành thị như
Thâm Quyến, vào khoảng 1.210 đến 12.097 USD, còn ở nông thôn như các vùng
miền Tây sức mua trung bình từ 1.000 đến 10.000 NDT tức vào khoảng 121 đến
1210 USD. Sức mua của người tiêu dùng Trung Quốc được chia làm ba nhóm
sau:
• Nhóm người tiêu dùng có thu nhập cao: Mức thu nhập trung bình của
nhóm người này là từ 18.840 NDT trở lên. Số lượng này vào khoảng 14 triệu,
chiếm 10% dân số đô thị và 3,5% dân số toàn quốc. Sức mua của nhóm người
Sinh viên thực hiện: Phan Thị Trinh Lớp : KTPT 47B
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
này là 840 tỷ NDT, chiếm 15% tổng sức mua của toàn quốc. Giỏ hàng hóa mà
nhóm này tiêu dùng là những hàng hóa chất lượng cao, hàm lượng công nghệ

cao, kiểu dáng phong phú, đẹp, sang trọng. Giá cả không phải là yếu tố quan
trọng đối với các quyết định tiêu dùng của họ. Vì vậy các nhà sản xuất cho xuất
khẩu cần có mặt hàng cao cấp phục vụ nhu cầu cho tầng lớp dân cư này vì chắc
chắn một điều rằng lợi nhuận thu được từ họ là không nhỏ.
• Nhóm người tiêu dùng có thu nhập trung bình: Thu nhập trung bình của
nhóm người này từ 6.000 – 7.000 NDT, họ chiếm khoảng 445 triệu dân, khoảng
10% dân số nông thôn và 80% dân số thành thị. Sức mua của nhóm người này là
2,89 nghìn tỷ NDT, chiếm gần 55% sức mua của toàn quốc, phần lớn là dân
thành thị. Hàng hóa mà họ lựa chọn là những mặt hàng có chất lượng vừa phải,
hàm lượng công nghệ tương đối cao, mẫu mã đẹp. Giá cả là một nhân tố làm ảnh
hưởng tới quyết định tiêu dùng của nhóm người này. Với khả năng thực tế của
các doanh nghiệp Việt Nam thì đây là nhóm khách hàng tiềm năng cần được
khai thác.
• Nhóm người có thu nhập thấp: là những người có mức thu nhập khoảng
2000 NDT, số lượng này vào khoảng 689 triệu người, chiếm 10% dân thành thị,
80% dân nông thôn. Sức mua của nhóm người này là 1,33 tỷ NDT, chiếm
khoảng 23% sức mua toàn quốc. Ngoài ra, Trung Quốc có khoảng 7% dân số
toàn quốc có thu nhập rất thấp, trung bình khoảng 700 NDT tức 85 USD. Sự lựa
chọn cho tiêu dùng của nhóm người này là những mặt hàng có giá rẻ, chất lượng
đại trà, không quan trọng đến hình thức, mẫu mã.
Chính có sự phân nhóm tiêu dùng khá đa dạng này đã tạo điều kiện lớn cho
các nhà xuất khẩu đưa ra quyết định cho cơ cấu mặt hàng xuất khẩu phù hợp với
từng thị trường của từng vùng. Do vậy, Việt Nam cần tận dụng và khai thác hết
Sinh viên thực hiện: Phan Thị Trinh Lớp : KTPT 47B
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lợi thế so sánh, tiềm năng của nước mình để thu được nguồn lợi nhuận và khả
năng chiếm lĩnh thị trường đối với thị trường đa dạng này.
Một thuận lợi nữa cho những nước xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc
đó là nhu cầu nhập khẩu hàng hóa của Trung Quốc là rất đa dạng và phong phú,

thuộc ba chủng loại chính: dịch vụ; hàng chế tạo và sản phẩm nông nghiệp.
Riêng đối với Việt Nam có thể xuất khẩu sang thị trường này 14 loại mặt hàng,
nhóm hàng có nhiều tiềm năng là: cao su, chè, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, thực vật,
thủy sản, dầu ăn, giày dép, dây cáp điện, sản phẩm nhựa, sản phẩm gỗ, sản phẩm
linh kiện điện tử - điện máy, sắn lát và tinh bột sắn …
Trung Quốc – một thị trường đầy tiềm năng cho hàng hóa Việt Nam. Rau
quả Việt Nam rất được người Trung Quốc yêu thích nhất là các rau quả nhiệt
đới, các loại cây trái vụ với Trung Quốc. Thị trường rau quả Trung Quốc rất lớn,
mỗi năm lên gần 1,1 tỷ USD và có rất nhiều tiềm năng dành cho Việt Nam, nhất
là các tỉnh ở miền Tây Nam Bộ.
Một mặt hàng luôn được quảng cáo là "đặc sản phương Nam" tại các chợ,
nhà hàng Trung Quốc là thuỷ sản. Hàng thuỷ sản Việt Nam bán sang Trung
Quốc rất phong phú về chủng loại: tươi sống, đông lạnh, hàng khô... đều được
tiêu thụ hết. Đặc biệt những mặt hàng như: tôm hùm, cá biển cao cấp, nhuyễn thể
hai mảnh vỏ... được bán với giá cao và bao nhiêu cũng hết. Theo ông Đào Ngọc
Chương - Tham tán thương mại tại Trung Quốc: Việt Nam sẽ đạt mục tiêu 350
triệu USD xuất khẩu thuỷ sản sang Trung Quốc nếu doanh nghiệp làm tốt công
tác chế biến, bảo quản, xây dựng được hệ thống phân phối trên thị trường nước
bạn. Đặc biệt là tại các tỉnh phía Tây.
Cao su thiên nhiên là một thế mạnh tuyệt đối của Việt Nam. Mỗi năm
Trung Quốc cần hơn 2 triệu tấn cao su, nhưng chỉ tự cung cấp chưa được 1/4. Dự
Sinh viên thực hiện: Phan Thị Trinh Lớp : KTPT 47B
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
báo hàng năm, nhu cầu cao su Trung Quốc sẽ tăng 20-25%, nên ngành cao su
Việt Nam có rất nhiều cơ hội phát triển ở thị trường này. Vấn đề của ngành cao
su là phải hạn chế xuất thô, tăng cường công tác chế biến để hướng tới mục tiêu
xuất khẩu 1 tỷ USD trong tương lai.
Ngoài ra, một số mặt hàng khác như: đồ gỗ, gạo, chè và cà phê, dây cáp
điện, giày dép các loại... đều có khả năng đẩy mạnh xuất khẩu vào Trung Quốc.

1.2.1.2. Chính sách thương mại Trung Quốc đối với hoạt động nhập khẩu
Sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc đã có những cải cách hết sức mạnh mẽ
trong chính sách thương mại nhằm đáp ứng những yêu cầu mở cửa nền kinh tế
nói chung và gia nhập WTO nói riêng.
• Mở rộng quyền hoạt động thương mại và phân cấp quản lý hoạt động
thương mại
Cũng như bất kỳ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung nào, hoạt động thương
mại quốc tế của Trung Quốc trước đây dựa trên nguyên tắc độc quyền nhà nước,
theo đó, nhà nước can thiệp trực tiếp vào hoạt động ngoại thương thông qua các
doanh nghiệp nhà nước: năm 1979, cả nước chỉ có 12 công ty xuất nhập khẩu
cấp quốc gia và mỗi công ty được chuyên trách về một lĩnh vực riêng. Vào đầu
thập kỷ 1980, cơ chế này bắt đầu được nới lỏng: năm 1984, Trung Quốc cho
phép thành lập các công ty xuất nhập khẩu cấp tỉnh và thành phố. Đầu năm 1985,
Bộ Ngoại thương đã phê chuẩn việc thành lập thêm 8.000 Tổng công ty hoạt
động trong lĩnh vực ngoại thương. Tất cả các công ty có vốn đầu tư nước ngoài
đã được quyền kinh doanh thương mại trực tiếp mà không cần sử dụng dịch vụ
của một công ty thương mại nào, mặc dù vẫn còn hạn chế về mặt hàng nhập
khẩu. Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực chế tạo cũng được
Sinh viên thực hiện: Phan Thị Trinh Lớp : KTPT 47B
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
quyền hoạt động thương mại trực tiếp mà không cần qua các doanh nghiệp
thương mại chuyên doanh của nhà nước.
Quá trình phi tập trung hóa quản lý thương mại và mở rộng quyền hoạt
động ngoại thương cho doanh nghiệp được đẩy mạnh kể từ khi Trung Quốc tiến
hành đàm phán gia nhập GATT/WTO năm 1986, và đặc biệt là trong thập kỷ
1990.
Kết quả của những năm cải cách chính sách thương mại trên là số lượng các
doanh nghiệp hoạt động thương mại tăng lên nhanh chóng. Vào năm 2000, có
đến 1000 doanh nghiệp tư nhân được quyền xuất nhập khẩu. Số lượng các doanh

nghiệp trong nước được quyền tham gia hoạt động thương mại quốc tế tăng lên
nhanh chóng: từ 1.200 công ty năm 1986 lên 12.000 năm 1996, 13.000 năm
1998 và 35.000 công ty năm 2001. Cùng với 150.000 doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài được quyền đăng ký ngoại thương, hoạt động thương mại quốc tế
của Trung Quốc đã hướng mạnh tới việc đáp ứng những nguyên tắc cạnh tranh
và không phân biệt đối xử của WTO.
Trong các hiệp định gia nhập WTO, Trung Quốc đã cam kết thực hiện đầy
đủ quyền hoạt động thương mại đối với toàn bộ các doanh nghiệp Trung Quốc
cũng như các doanh nghiệp có vốn nước ngoài trong vòng 3 năm. Điều này có
nghĩa là các doanh nghiệp trong và ngoài nước hoạt động trên lãnh thổ Trung
Quốc sẽ nghiễm nhiên được quyền hoạt động thương mại mà không bị ràng buộc
bởi những điều kiện về sở hữu, vốn, lĩnh vực kinh doanh hoặc kinh nghiệm hoạt
động như trước đây.
Sinh viên thực hiện: Phan Thị Trinh Lớp : KTPT 47B
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
• Hệ thống thuế quan
Từ khi tiến hành đàm phán gia nhập WTO, việc cắt giảm thuế quan của
Trung Quốc đã được thực hiện một cách nhất quán và liên tục, vừa làm cho hệ
thống thuế quan phù hợp với chuẩn mực chung của kinh tế thị trường và thông lệ
quốc tế, vừa nhằm mục tiêu giảm thuế suất bình quân đáp ứng yêu cầu của việc
gia nhập WTO. Lịch trình cắt giảm thuế quan của Trung Quốc từ năm 1992 đến
thời điểm trở thành thành viên WTO (2001) như sau:
1/1/1992: Giảm 225 dòng thuế, chiếm 4,4% tổng số các dòng thuế.
1/4/1992: Loại bỏ thuế nhập khẩu đối với 18 nhóm sản phẩm, trong đó 16
nhóm sản phẩm với 168 dòng thuế có mức thuế suất nhập khẩu giảm trong phạm
vi từ 28,6 đến 68%. Hai nhóm sản phẩm còn lại là ô tô mui kín và máy quay
phim, thuế cơ bản đã tăng trong khi thuế theo luật được loại bỏ, nhưng mức thuế
nhập khẩu vẫn giảm nhẹ.
1/1/1993: Giảm 3.371 dòng thuế, chiếm 53,6% trong tổng số làm giảm mức

thuế quan bình quân 7,3%.
1/1/1994: Giảm 2.898 dòng thuế.
1/4/1995: Giảm 19 dòng thuế đối với rượu vang, rượu và thuốc lá từ 120% -
150% xuống còn 80%.
1/4/1996: Giảm 4.971 dòng thuế làm giảm mức thuế quan bình quân từ
35,9% xuống 23%.
1/10/1997: Giảm 4.874 dòng thuế, chiếm 73,5% tổng số, tỷ lệ thuế quan
bình quân giảm còn 17%.
1/1/1999: Giảm 1.014 dòng thuế trong các ngành dệt, đồ chơi và lâm sản từ
0,2 đến 11 điểm phần trăm.
1/1/2000: Giảm 819 dòng thuế đối với các sản phẩm dệt trong phạm vi từ
0,6 – 2 điểm phần trăm. Giảm 202 dòng thuế đối với các hàng hóa chất, máy
móc và các sản phẩm khác (thuế linh kiện chế tạo máy tính cá nhân giảm từ 15%
còn 6%, thuế đánh vào bộ phận ghi dữ liệu giảm từ 18% còn 1%).
Sinh viên thực hiện: Phan Thị Trinh Lớp : KTPT 47B
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1/1/2001: Cắt giảm 3.462 dòng thuế, chiếm 49% tổng số.
Với một lộ trình cắt giảm thuế quan như trên, thuế suất bình quân đối với
hàng nhập khẩu của Trung Quốc đã liên tục giảm xuống và tới thời điểm trở
thành thành viên WTO, mức thuế này chỉ còn bằng 1/3 so với thời điểm khi
Trung Quốc bắt đầu đàm phán gia nhập WTO.
Bảng 1.1: Thuế quan bình quân đối với hàng nhập khẩu của Trung Quốc
giai đoạn 1982-2001
Năm Mức thuế quan bình quân (%)
1982 55,6
1985 43,3
1988 43,7
1991 44,1
1992 43,2

1993 39,9
1994 35,9
1996 23
1997 17
2000 16,4
2001 15,3
Sau khi gia nhập WTO 9,8
Nguồn: Tổng cục hải quan Trung Quốc
Thực hiện nghị định khi gia nhập WTO, Trung Quốc đã cam kết từng bước
hạ thấp mức thuế nhập khẩu hàng hóa và đến năm 2005 còn 10%, trong đó thuế
Sinh viên thực hiện: Phan Thị Trinh Lớp : KTPT 47B
22

×