Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Nâng cao chất lượng tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh VPBank

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (640.55 KB, 61 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đã trải qua một quá trình phát triển ấn tượng trong hai thập niên
gần đây. Sự chuyển dịch dần từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung truyền
thống sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN bắt đầu từ năm 1986 đã
mang lại những cải thiện to lớn về hiệu quả kinh tế và mức sống dân cư.Ngày
nay, nền kinh tế phát triển mạnh mẽ với sự góp mặt của nhiều thành phần kinh tế
khác nhau, đặc biệt các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang giữ vị trí rất quan trọng
trong sự phát triển đó.Tuy nhiên, để đảm bảo sự phát triển bền vững và hiệu quả
nền kinh tế quốc dân đã đề ra, đồng thời để hội nhập với xu hướng hội nhập
quốc tế, các thành phần kinh tế phải biết khai thác toàn diện và hiệu quả mọi
nguồn lực, nhất là phải tận dụng được sự hỗ trợ của hệ thống ngân hàng. Muốn
vậy, ngành ngân hàng phải giải quyết hàng loạt khó khăn mà hiện nay doanh
nghiệp đang gặp phải. Để làm được điều đó đòi hỏi có sự thống nhất chung giữa
bản thân các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng, đặc biệt, các giải pháp của
ngân hành thương mại nhằm nâng cao chất lượng tín dụng mang tính chất quyết
định.
Nhiều ngân hàng cho biết đã tập trung đầu tư cho các doanh nghiệp vừa
và nhỏ vì đối tượng này làm ăn hiệu quả, phù hợp với yêu cầu phát triển và phù
hợp với khả năng nguồn vốn của ngân hàng. Tuy nhiên các doanh nghiệp này
vẫn kêu khó tiếp cận với ngân hàng và thực tế cho thấy nguồn vốn tín dụng ngân
hàng đầu tư cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn chưa nhiều. Một phần là do
khách hàng truyền thống và do mục tiêu của các NHTM chủ yếu là các doanh
nghiệp lớn, tuy nhiên lý do chính là các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta sử
dụng vốn tín dụng còn chưa hợp lý và hiệu quả. Chính vì những cản trở đó, việc
đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa
và nhỏ đang là vấn đề đặc biệt cần quan tâm của NHTM.
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ngân hàng Thương mại Cổ phần các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt
Nam tên viết tắt là: (VPBANK) được thành lập theo Giấy phép hoạt động số


0042/NH-GP của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp ngày 12 tháng
8 năm 1993 với thời gian hoạt động 99 năm. Ngân hàng bắt đầu hoạt động từ
ngày 04 tháng 9 năm 1993 theo Giấy phép thành lập số 1535/QĐ-UB ngày 04
tháng 09 năm 1993. Chiến lược của VPBank được Hội đồng quản trị xác định là
“Phấn đấu đến năm 2010 trở thành ngân hàng hàng đầu khu vực phía Bắc, Ngân
hàng trong top 5 của cả nước, một ngân hàng có tầm cỡ của khu vực Đông Nam
Á về chất lượng, hiệu quả, độ tin cậy ”, trong đó thị trường mục tiêu của
VPBank đó là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, quy mô vừa và nhỏ. VPBank
lấy đối tượng khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ làm trọng tâm đầu tư và
khai thác, vì vậy, vấn đề được quan tâm hàng đầu là hiệu quả cho vay các doanh
nghiệp này. Xuất phát từ thực tế đó, em đã chọn đề tài nghiên cứu : “Nâng cao
chất lượng tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh VPBank ”.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung chuyên đề gồm 3 chương
chính:
• CHƯƠNG I : Lý luận hiệu quả cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ
• CHƯƠNG II : Thực trạng hiệu quả cho vay các doanh nghiệp vừa và
nhỏ tại Ngân hàng VPBank
• CHƯƠNG III : Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay các doanh nghiệp
vừa và nhỏ tại Ngân hàng VPBank
Do trình độ lí luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế cộng với thời
gian nghiên cứu có hạn nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót. Em
rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy giáo và các anh, chị trong Chi
nhánh ngân hàng VP bank để chuyên đề của em được hoàn thiện và đầy đủ
hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN HIỆU QUẢ CHO VAY DOANH
NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1 DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ

1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Để đưa ra khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ thật rõ ràng, đòi hỏi các
nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách cần đứng trên những điều kiện cụ thể
của mỗi một quốc gia cũng như thời điểm nghiên cứu khái niệm. Do mỗi một
quốc gia có một điều kiện kinh tế khác nhau và có những đặc trưng riêng biệt, vì
vậy sự phân loại các doanh nghiệp là không thống nhất ở tất cả các quốc gia trên
thế giới. Ví dụ, một doanh nghiệp đặt trong môi trường kinh tế của nước này
được xem là doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng trong môi trường kinh tế của quốc
gia khác thì lại là doanh nghiệp lớn, hoặc doanh nghiệp rất lớn…Tương tự, tại
một thời điểm trong quá khứ một doanh nghiệp được coi là lớn những đến nay
lại chỉ được coi là có quy mô vừa và nhỏ. Cho nên, khi nói đến doanh nghiệp
vừa và nhỏ thì ta phải hiểu rằng, các doanh nghiệp đó đang nằm tại quốc gia
nào, trong một môi trường kinh tế như thế nào, tại thời điểm nào. Nói cách khác,
khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ có ý nghĩa trong phạm vi một quốc gia,
tại một thời điểm nhất định. Mặc dù vậy, việc đưa ra một khái niệm về doanh
nghiệp vừa và nhỏ cho riêng mình lại đóng một vai trò quan trọng trong chiến
lược phát triển của mỗi quốc gia. Thực tiễn đã chứng minh rằng quốc gia có một
khái niệm kinh tế càng rõ ràng thì các chính sách hỗ trợ đưa ra càng hiệu quả.
Thông thường, khái niệm hay định nghĩa về doanh nghiệp vừa và nhỏ dựa
trên các nhóm chỉ tiêu định tính và định lượng, trong đó, các chỉ tiêu định lượng
đóng vai trò quyết định phân biệt nhóm doanh nghiệp này với các doanh nghiệp
lớn. Có ba chỉ tiêu định lượng thường được dùng độc lập, hoặc kết hợp với
nhau, để xác định mức độ vừa và nhỏ của doanh nghiệp:
• Lượng vốn đầu tư vào máy móc dây truyền sản xuất
• Số lượng lao động
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
• Quy mô sản xuất hoặc doanh thu từ hoạt động kinh doanh.
Xét về mặt định tính, các chỉ tiêu thường được đưa ra là cơ cấu của công
ty, cơ cấu quản lý, ngành nghề kinh doanh, người ra quyết định chính và các rủi

ro có thể xẩy ra. Đối với hầu hết các nước trên thế giới sự phân loại doanh
nghiệp vừa và nhỏ không liên quan đến hình thức sở hữu cũng như tư cách pháp
nhân của doanh nghiệp, tức là khái niệm sẽ được áp dụng chung cho tất cả các
loại hình doanh nhiệp.
Sau đây là một số định nghĩa của một vài quốc gia tiêu biểu trên thế giới:
Trong các nước thuộc cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC), doanh nghiệp
vừa và nhỏ được xếp thành các nhóm cụ thể như sau:
Doanh nghiệp có quy mô vừa nếu có ít hơn 250 nhân viên, doanh thu
hàng năm không vượt quá 50 triệu EUR, hoặc giá trị tổng tài sản không vượt
quá 43 triệu EUR.
Doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có ít hơn 50 công nhân, doanh thu
hàng năm không vượt quá 10 triệu EUR hoặc giá trị tổng tài sản không vượt quá
9 triệu EUR.
Doanh nghiệp cực nhỏ nếu có ít hơn 10 nhân viên, doanh thu hàng năm
nhỏ hơn 1 triệu EUR, hoặc tổng tài sản nhỏ hơn 1,4 triệu EUR.
Tại Nhật Bản, doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm khoảng 99,7% số doanh
nghiệp tại Nhật Bản, 70% số nhân công Nhật làm việc cho những công ty này,
giá trị sản xuất chiếm một nửa tổng giá trị ngành sản xuất. Hoạt động của họ tập
trung vào sản xuất hàng điện tử, kỹ thuật và hóa học; cụ thể như sau:
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bảng 1: Xác định quy mô doanh nghiệp
Các doanh nghiệp vừa
Khu vực Quy mô lao động / Vốn
Sản xuất, khai thác và chế
biến
< 300 người / 100 triệu Yên
Bán buôn < 100 người / 30 triệu Yên
Bán lẻ và dịch vụ < 50 người / 10 triệu Yên
Các doanh nghiệp nhỏ

Khu vực Quy mô lao động / Vốn
Sản xuất < 20 người/5 triệu Yên
Thương mại và dịch vụ < 5 người/dưới 5 triệu Yên

(Nguồn: Thư viện khoa học và kĩ thuật Trung ương)
Tại Indonesia, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò quan trọng trong
nền kinh tế, chiếm trên 90% tổng số doanh nghiệp trong nước,thu hút từ 60% -
70% việc làm tại các doanh nghiệp. Inđônêxia cho rằng doanh nghiệp vừa là
doanh nghiệp có số lượng công nhân từ 20-99 người, vốn tư bản trêm 600 triệu
RP (tiền Inđônêxia) doanh nghiệp nhỏ có số lượng công nhân từ 5-19 người và
vốn tư bản dưới 600 triệu RP còn doanh nghiệp cực nhỏ có số lượng lao động từ
1-4 người (Thư viện khoa học và kĩ thuật Trung ương)
Tại Việt Nam, căn cứ nghị định của chính phủ số 90/2001/NĐ-CP ngày
23 tháng 11 năm 2001về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, Doanh
nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đó đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao
động trung bình hàng năm không quá 300 người. Theo đó, các doanh nghiệp vừa
và nhỏ bao gồm :
Các hộ kinh doanh có thể đăng ký theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP
ngày 03 tháng 02 năm 2000 của Chính phủ về Đăng ký kinh doanh
Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà
nước
Các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật Hợp tác xã.
Như vậy quan niệm của một số quốc gia về thế nào là một doanh nghiệp
vừa và nhỏ đã có sự khác nhau, đồng thời sự phân định này chỉ mang ý nghĩa
tương đối và chủ yếu căn cứ vào qui mô về vốn và lao động của doanh nghiệp
đó.Tuy nhiên, ta có thể thấy rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn dành được

sự quan tâm đặc biệt của các chính phủ, cho dù đó là nước công nghiệp phát
triển hay nước đang phát triển. Quốc gia có nền kinh tế càng phát triển thì sự
phân biệt về doanh nghiệp vừa và nhỏ càng rõ ràng và chi tiết.Mặc dù khái niệm
doanh nghiệp vừa và nhỏ khác nhau ở mỗi quốc gia, nhưng ta có thể kết luận
rằng thuật ngữ doanh nghiệp vừa và nhỏ là hàm ý nói tới một tập hợp các thực
thể kinh tế có quy mô vừa và nhỏ xét trên phương diện vốn và lao động so với
mặt bằng phát triển chung của nền kinh tế ở một quốc gia nhất định.
1.1.2. Đặc điểm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Đã được xếp vào loại doanh nghiệp vừa và nhỏ, thì xét về quy mô vốn và
nguồn nhân lực so với các doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp này luôn bị hạn
chế khiến họ gặp khó khăn về rất nhiều mặt. Có thể kể đến những hạn chế đó là:
Năng lực cạnh tranh yếu, trình độ tay nghề chưa cao, giá lao động đang
tăng lên ảnh hưởng tới giá thành, làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm;
thiếu sự quan tâm kiểm soát chất lượng sản phẩm cùng với những phương pháp
kiểm soát có hiệu quả
Năng suất lao động thấp, mà điều này phần lớn do nhân tố trình độ công
nghệ thấp quyết định.
Ít vốn và thiếu sự hỗ trợ tài chính
Phương pháp quản lý yếu kém, công tác nghiên cứu và phát triển hầu như
không có hoặc nếu có thì cũng được tiến hành rất chậm. Khâu quảng bá thương
hiệu cũng còn hạn chế do chi phí cao.Các doanh nghiệp này thường phải đối mặt
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
với một thực tế là những nhân viên giỏi rất dễ ra đi trước những sự lôi kéo của
các công ty hay tập đoàn lớn
Về vấn đề tiếp cận các nguồn vốn, vấn đề “đầu tiên” có ý nghĩa quyết
định, các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn gặp khó khăn không nhỏ, nhất là các
khoản vay trung hạn, dài hạn từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác.
Đặc biệt, các khoản vay có bảo lãnh rất hiếm khi dành cho các doanh nghiệp vừa
và nhỏ; việc đầu tư vào khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, do nhận thức chưa

thông thoáng, cho nên bị hạn chế rất nhiều. Việc tiếp cận các nguồn vốn của
doanh nghiệp vừa và nhỏ rất hạn chế. Với tỷ trọng hơn 90% trong tổng số các
doanh nghiệp ở hầu hết các nước trên thế giới, đáng lẽ khu vực này phải là
“khách hàng ruột” của các ngân hàng thương mại, song thực tế là tỷ lệ các
doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với ngân hàng lại rất hạn chế. Trong khi đó
nhu cầu vốn kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất lớn bao gồm cả
vốn ngắn hạn và trung dài hạn. Nhu cầu vốn ngắn hạn xuất hiện do tính chất thời
vụ của hoạt động sản xuất kinh doanh đặc biệt đối với các doanh nghiệp thương
mại. Các khoản vay chủ yếu dựa trên những hợp đồng tiêu thụ có sẵn, hoặc các
hợp đồng cung cấp đã ký. Quy mô của khoản vay thường không lớn nhưng các
doanh nghiệp vừa và nhỏ thường vay nhiều lần và với thời hạn ngắn vì vậy nếu
tính theo doanh số cho vay thì con số này khá cao, có thể tương đương với một
doanh ngiệp lớn. Vốn dài hạn dùng để tài trợ tài sản cố định và mở rộng sản
xuất. Hầu hết các doanh nghiệp đều muốn mở rộng phạm vi hoạt động mở rộng
quy mô để có thể trở thành các doanh nghiệp lớn hơn. Để thực hiện các chiến
lược đặt ra, các kế hoạch Marketing, đổi mới công nghệ, doanh nghiệp vừa và
nhỏ đều cần tới nguồn vốn dài hạn.
Để đáp ứng các nhu cầu về vốn, doanh nghiệp vừa nhỏ thường huy động
từ nhiều nguồn khác nhau như:
• Vay từ các cá nhân, tín dụng thương mại
• Vay từ ngân hàng thương mại
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
• Vay từ các quỹ tín dụng
• Vay từ các nguồn khác
Bảng 2 : Các nguồn tín dụng của DNVVN Việt Nam (%)
Nguồn
Khu vực
nông thôn
Khu vực

thành thị
Tổng
Vay từ cá nhân, tín dụng thương mại 72.5 66 70.8
Ngân hàng thương mại 22.5 23.1 22.7
Quỹ tín dụng 3.5 1.2 2.6
Nguồn khác 1.5 9.7 3.9
Tổng 100 100 100
(Nguồn : Phòng thống kê, Bộ Kế hoạch đầu tư, tháng 9 năm 2007)
Thực tế cho thấy, cơ hội cho các DNVVN tiếp cận vốn tín dụng ngân
hàng đang ngày càng được mở ra. Theo báo cáo của các ngân hàng, trong thời
gian gần đây, phần lớn các ngân hàng thương mại đều xác định DNVVN là
khách hàng quan trọng, với các chỉ tiêu phấn đấu đạt tỷ lệ cho vay từ 30 đến
40%. Kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương
cũng có con số tương đồng là 44% số ngân hàng được hỏi cho DNVVN vay với
tỷ trọng vốn khoảng 38% dư nợ. Doanh nghiệp thì cần vốn, ngân hàng thì cần
cho vay, nhưng hai bên vẫn loay hoay tìm đường đến với nhau, nhiều vướng
mắc trong quá trình tiếp cận tín dụng là do vốn thực của các doanh nghiệp luôn
thấp hơn số vốn đăng ký. Ngân hàng luôn "ngán ngẩm" trước tình trạng thiếu
minh bạch trong hồ sơ sổ sách, quan hệ tài sản giữa chủ doanh nghiệp và doanh
nghiệp, cũng như sự thiếu chuyên nghiệp trong xây dựng dự án cũng là trở ngại
khi vay vốn. Theo kết quả điều tra của Cục Phát triển doanh nghiệp (Bộ Kế
hoạch và Đầu tư), hiện có đến 80% lượng vốn cung ứng cho doanh nghiệp nhỏ
và vừa là từ kênh ngân hàng.Tuy nhiên, chỉ có 32,38% những doanh nghiệp này
có khả năng tiếp cận được nguồn vốn của các ngân hàng; 35,24% khó tiếp cận
và 32,38% không tiếp cận được.
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ngoài ra, những vụ án về doanh nghiệp kinh doanh theo kiểu chụp giật,
lừa đảo..., cũng gây áp lực tâm lý cho ngân hàng. Bản thân chỉ tiêu đặt ra, buộc
cán bộ tín dụng phải cho vay đủ doanh số, kế hoạch hằng tháng, nhưng những

chỉ tiêu về cho vay DNVVN nhiều khi là một áp lực thật sự, bởi những vướng
mắc như việc phân loại doanh nghiệp, các chỉ số đánh giá chưa chính xác; hệ
thống thông tin về khách hàng chưa đạt yêu cầu, vì vậy việc xem xét thực trạng
hoạt động kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn, trách nhiệm đối với các khoản
tín dụng nhiều khi chưa rõ ràng..., khiến cán bộ tín dụng ngập ngừng. Trong
trường hợp này, cách làm của các ngân hàng cổ phần đang tỏ ra hiệu quả và
năng động hơn khi xây dựng những gói sản phẩm, được trình bày khá chi tiết, cụ
thể, giúp doanh nghiệp có thể dễ dàng thực hiện những yêu cầu đặt ra. Nếu
doanh nghiệp nào làm ăn bài bản, việc áp dụng những chuẩn mực đề ra cũng
không quá khó khăn, thậm chí, ngân hàng phải đến tận nơi phục vụ. Tuy nhiên,
cách hành xử của một số ngân hàng khai thác khách hàng dựa trên mối quan hệ,
tạo một thông lệ không tốt cho các doanh nghiệp, cũng như sự cạnh tranh không
lành mạnh giữa các tổ chức tín dụng đã dẫn tới việc cho vay chỗ khó vẫn khó
mà chỗ dễ thì lại quá dễ. Các doanh nghiệp này thường tranh thủ chiếm dụng
vốn của nhau thông qua hình thức tín dụng thương mại, hoặc vay từ các cá nhân
bạn bè. Chính những lý do trên cùng với sự cố gắng vươn lên để tồn tại và có
được một chỗ đứng trên thị trường là những lý do khách quan tạo cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ những đặc điểm riêng có của mình.
Với sự đa dạng về ngành nghề và phương thức tiêp cận thị trường, hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất linh hoạt và năng động.
Lĩnh vực kinh doanh của các doanh nghiệp này rất phong phú,vì vậy đây là cơ
hội tốt cho các chủ doanh nghiệp tìm kiếm các lĩnh vực mà ở đó sự cạnh tranh
chưa cao song lại đem lại lợi nhuận nhanh chóng. Hơn nữa, các doanh nghiệp
này dể dàng thay đổi ngành nghề kinh doanh với chi phí thấp bởi lượng vốn bỏ
vào không lớn, vì vậy trước những sự biến động mạnh về cung cầu trên thị
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trường nhóm doanh nghiệp này chịu ảnh hưởng ít hơn, dễ phục hồi hơn so với
các doanh nghiệp lớn.
Về ngành nghề kinh doanh, phải nói rằng do vốn và nhân lực hạn chế, rất

nhiều lĩnh vực mà doanh nghiệp vừa và nhỏ không thể tham gia như các ngành
công nghiệp năng, luyện kim, khai thác mỏ, ngân hàng tài chính … Nhưng bên
cạnh đó lại có những mặt mà doanh nghiệp lớn nếu làm sẽ không đạt hiệu quả
cao như mong đợi. Vì thế, lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp vừa và nhỏ
thường là các ngành công nghiệp nhẹ như : may mặc, chế biến, gia công thô sơ,
xử lý phần thô, sản xuất bao bì, đóng gói ,…Về dịch vụ các doanh nghiệp vừa
và nhỏ thường tập trung vào các lĩnh vực như vận tải nội thành, vui chơi giải trí,
ẩm thực, bảo hành chăm sóc khách hàng … Lĩnh vực thương mại cũng là một
trong những thế mạnh của doanh nghiệp vừa và nhỏ như thu mua nguyên vật
liệu trong và ngoài nước, đại diện bán hàng, tham gia và các kênh phân phối sản
phẩm. Có thể nói rằng các ngành được nêu ở trên thường có số vốn đầu tư ban
đầu ít, sử dụng nhiều vốn chiếm dụng, công nghệ sử dụng ở mức trung bình, lao
động sử dụng chủ yếu là lao động phổ thông có trình độ vừa phải.
Có thể nhận thấy rõ là thị trường của các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ
yếu là phục vụ các doanh nghiệp lớn như làm nhà cung cấp nguyên vật liệu, làm
đại lý bán hàng, kênh phân phối, hoặc là những đoạn thị trường còn bỏ ngỏ, có
quy mô nhỏ và độ sâu hạn chế . Những thị trường này chứa đựng nhiều rủi ro và
không ổn định khiến cho hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trở nên
bấp bênh, sự cạnh tranh vì thế mà trở nên gay gắt. Các nghiên cứu về doanh
nghiệp vừa và nhỏ chỉ ra rằng đối thủ cạnh tranh lớn nhất không phải là các
doanh nghiệp lớn mà chính là các doanh nghiệp có cùng quy mô. Bởi vì, các
doanh nghiệp lớn có thị trường ổn định, nhóm khách hàng mục tiêu thường được
xác định trước. Khi có ý định mở rộng thị trường các doanh nghiệp lớn thường
tìm kiếm những thị trường có quy mô lớn, có chiều sâu, những thị trường nhỏ
thường được bỏ qua hoặc không có khả năng bao quát hết toàn bộ thị trường.
Một lý do khác nữa là lý thuyết cá lớn nuốt cá bé không còn được áp dụng phổ
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
biến bởi vì các doanh nghiệp lớn cũng nhận ra được sự cần thiết của doanh
nghiệp vừa và nhỏ đối với sự phát triển của mình. Trong khi đó các doanh

nghiệp vừa và nhỏ có số lượng đông đảo và đều có mục địch giống nhau là tìm
kiếm những thị trường còn bỏ trống. Các thị trường này quá nhỏ bé để có thể
chứa nhiều doanh nghiệp trong đó cho dù đó là những doanh nghiệp nhỏ. Các
doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng rất nhạy cảm với các thị trường này. Khi một
doanh nghiệp tìm thấy được một thị trường còn bỏ ngỏ và đầu tư vào thị trường
đó thì gần như ngay lập tức có rất nhiều doanh nghiệp khác cũng tham gia vào,
ví dụ như trong lĩnh vực ăn uống, dịch vụ sửa chữa, bảo hành.
Về khả năng cạnh tranh, các DNVVN Việt Nam có nhiều lợi thế, tuy
nhiên vẫn còn nhiều hạn chế và yếu kém:
Thứ nhất, chất lượng và khả năng cạnh tranh về mặt quản lý còn yếu kém.
Đội ngũ chủ DN, giám đốc và cán bộ quản lý DNVVN còn nhiều hạn chế về
kiến thức và kỹ năng quản lý. Số lượng DNVVN có chủ DN, giám đốc giỏi,
trình độ chuyên môn cao và năng lực quản lý tốt chưa nhiều. Một bộ phận lớn
chủ DN và giám đốc DN tư nhân chưa được đào tạo bài bản về kinh doanh và
quản lý, còn thiếu kiến thức kinh tế - xã hội và kỹ năng quản trị kinh doanh, đặc
biệt là yếu về năng lực kinh doanh quốc tế. Từ đó, khuynh hướng phổ biến là
các DN hoạt động quản lý theo kinh nghiệm, thiếu tầm nhìn chiến lược, thiếu
kiến thức trên các phương diện: Quản lý tổ chức, chiến lược cạnh tranh, phát
triển thương hiệu, sử dụng máy tính và công nghệ thông tin. Một số chủ DN mở
công ty chỉ vì có sẵn tiền vốn và thích kinh doanh, trong khi đó thiếu kiến thức
và kỹ năng về kinh doanh, vì vậy đã dẫn đến rủi ro và thất bại.
Thứ hai, năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
cao làm yếu khả năng cạnh tranh của các DNVVN. So sánh giữa sản phẩm trong
nước với các nước như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Philipines,... thì các
sản phẩm sản xuất của các DN Việt Nam có giá thành cao hơn từ 1,58 đến 9,25
lần mặc dù giá nhân công lao động thuộc loại thấp so với các nước trong khu
vực.
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thứ ba, năng lực cạnh tranh về tài chính vẫn còn rất yếu kém. Quy mô

vốn và năng lực tài chính (kể cả vốn của chủ sở hữu và tổng nguồn vốn) của
nhiều DN còn rất nhỏ bé, vừa kém hiệu quả, vừa thiếu tính bền vững. Số lượng
DN nhỏ và vô cùng nhỏ chiếm tỷ lệ khá cao. Kết quả điều tra của Tổng cục
Thống kê cho thấy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện đang chiếm tới 97% số
lượng cơ sở sản xuất kinh doanh của cả nước, 26% tổng đầu tư xã hội và thu hút
khoảng 77% lực lượng lao động phi nông nghiệp nhưng quy mô chủ yếu là nhỏ
và siêu nhỏ. Số DN có vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm tới 44,1%, quy mô lao động
dưới 10 người chiếm 46,6%. Nếu so sánh năm 2006 với năm 2000, số vốn và số
lượng lao động bình quân trong mỗi DN đã giảm từ 26 tỷ đồng và 84 lao động
xuống còn 24 tỷ đồng và 72 lao động (theo số liệu của Tổng cục Thống kê).
Thứ tư, nhận thức và sự chấp hành luật pháp còn hạn chế. Một số khá lớn
DNVVN còn chưa chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, đặc biệt
là các quy định về thuế, quản lý tài chính, quản lý nhân sự, chất lượng hàng hoá
và sở hữu công nghiệp. Tình trạng các DNVVN bị các cơ quan chức năng phàn
nàn, xử phạt vi phạm các chế độ về thuế, tài chính còn phổ biến. Nguyên nhân
của tình trạng vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này cũng là do việc nhận thức,
hiểu biết của DN về luật pháp còn nhiều hạn chế. Tâm lý làm ăn chuôi vẫn còn
khá phổ biến.
Thứ năm, sự yếu kém về thương hiệu đã góp phần làm yếu khả năng cạnh
tranh. Hầu hết các DNVVN ở Việt Nam chưa xây dựng được các thương hiệu
mạnh, chưa khẳng định được uy tín và khả năng cạnh tranh trên thị trường khu
vực và quốc tế. Nhiều DN ở Việt Nam, đặc biệt là các DNVVN chưa có chiến
lược xây dựng thương hiệu, chưa tạo được uy tín về chất lượng sản phẩm và
dịch vụ, do đó khả năng cạnh tranh còn yếu. Theo số liệu khảo sát của VCCI,
chỉ có gần 10% số doanh nghiệp là thường xuyên tìm hiểu thị trường nước ngoài
và trong số này chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nhà nước, doanh
nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu; Khoảng 42% doanh nghiệp tìm hiểu thị
trường nước ngoài không thường xuyên và khoảng 20% doanh nghiệp, chủ yếu
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368

là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không có các hoạt động tìm hiểu thị trường
nước ngoài.
Hội nhập quốc tế đã buộc các DN phải nâng cao khả năng cạnh tranh để
đủ sức đứng vững trên thương trường. Năng lực của các nhà quản lý DN là một
trong những nhân tố quan trọng nhất có ảnh hưởng quyết định đến khả năng
cạnh tranh của DN. Doanh nhân ngày nay cần có những năng lực tổng hợp và ở
mức độ cao hơn hẳn 5 năm trước; trong đó cần đặc biệt chú trọng bồi dưỡng
kiến thức và kỹ năng về xây dựng và phát triển thương hiệu, về chiến lược cạnh
tranh.
Với những đặc điểm nêu trên, sản phẩm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
thường tập trung vào một số dạng sau:
Các sản phẩm thủ công với chủ yếu là các đồ mỹ nghệ có tính cá biệt cao,
do đó mà không thể áp dụng sản xuất hàng loạt. Sản phẩm thủ công thường phục
vụ cho nhóm khách hàng đặc biệt hoặc xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Giá
cả của loại sản phẩm này thường cao do có chi phí sản xuất lớn.
Các sản phẩm được dùng làm nguyên liệu đầu vào cho các công ty lớn với
chức năng như nguyên vật liệu phụ của quá trình sản xuất, thường là : các bộ
phận phụ của một chi tiết lớn như các ngành cơ khí, tự động hoá , công nghiệp ô
tô, máy bay,… với giá cả thấp. Sản phẩm loại này có hàm lượng ký thuật thấp
nhưng lại rất cần thiết cho việc tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh.
Các sản phẩm tiêu dùng khác phục vụ cho nhóm khách hàng bình dân
hoặc lấp chỗ trống trên thị trường Các sản phẩm kiểu này có chất lượng trung
bình, giá cả phải chăng chủ yếu phục vụ những khách hàng dễ tính.
Các sản phẩm dịch vụ mà doanh nghiệp vừa và nhỏ cung cấp thường đa
dạng và có sự khác biệt giữa những doanh nghiệp với nhau. Đối với từng khách
hàng thì dịch vụ được cung ứng cũng khác nhau, giá cả của các dịch vụ cũng rất
phong phú phụ thuộc vào đối tượng khách hàng sử dụng dịch vụ đó : như dịch
vụ bảo hành, dịch vụ vận chuyển, dịch vụ ăn uống giải trí, …
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368

1.1.3. Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã và đang có vai trò quan trọng trong nền
kinh tế của các quốc gia, chúng chiếm tỷ trọng cao và có thể nói hầu hết các
doanh nghiệp hiện nay là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong tất cả các nền kinh tế
đạt tới sự phát triển như hiện nay, doanh nghiệp vừa và nhỏ được xem là yếu tố
cần thiết không thể thiếu cho sự tăng trưởng, giải quyết thất nghiệp và tiến bộ xã
hội. Cho đến nay, vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được khẳng định
trên phạm vi toàn thế giới, được thể hiện cụ thể trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất, doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp phần quan trọng vào tăng
trưởng kinh tế sự gia tăng thu nhập ở các quốc gia. Tại Việt Nam, hiện tại doanh
nghiệp vừa và nhỏ chiếm khoảng 96% trong tổng số khoảng 250.000 doanh
nghiệp đã thành lập trên toàn quốc. Các doanh nghiệp này đang đóng góp
khoảng 25% GDP, 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, tạo ra khoảng 77%
việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn, và 26% lực lượng lao động trong cả
nước. Nhìn ra một số nước trên thế giới, doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng đóng
một vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế. Ngay như ở Mỹ, nơi sinh ra
các tập đoàn hùng mạnh vào bậc nhất thế giới, thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ
vẫn đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Điều này thể hiện ở con số 40% GDP
của nước Mỹ là nhờ sự đóng góp của các doanh nghiệp thuộc khu vực này.
Những doanh nghiệp lớn như Ford hay Microsoft cũng không thể hoạt động đơn
lẻ mà phải có sự hợp tác với các công ty có quy mô vừa và nhỏ. Ở Bungary, theo
thống kê năm 2006 các doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo ra 30.72 % tổng giá trị gia
tăng của nền kinh tế. Năm 2003, doanh thu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
Đài Loan chiếm 36%, kim ngạch xuất khẩu chiếm tới 51%. Nhật Bản cũng là
một quốc gia mà sự đóng góp của các doanh nghiệp vừa và nhỏ giữ một phần
quan trọng trong việc đảm bảo tăng trưởng của nền kinh tế, chiếm 64% doanh số
bán buôn và 76% doanh số bán lẻ. Đây chỉ là những con số đóng góp trực tiếp,
điều quan trọng là doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò lớn trong mối quan hệ
gắn kết với các doanh nghiệp có quy mô lớn hơn
14

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thứ hai, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò to lớn đối với quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xoá đói giảm nghèo, đặc biệt đối với khu vực
nông thôn. Sự phát triển của các doanh nghiệp này ở các vùng nông thôn tạo
điều kiện cho công nghiệp phát triển đồng thời thúc đẩy các ngành thương mại
dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp. Tỷ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân
vì thế được thu hẹp dần. Mặt khác doanh nghiệp vừa và nhỏ thúc đẩy quá trình
đô thị hoá, thu hút và tập trung dân cư vào các vùng trọng điểm. Sự phát triển
của các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn là một kênh thu hút vốn nhàn rỗi mới
trong dân cư bên cạnh những kênh huy động vốn truyền thống. Các doanh
nghiệp vừa và nhỏ cũng tham gia tích cực vào quá trình xoá đói giảm nghèo thể
hiện ở việc tạo ra thu nhập cho người lao động và cung cấp những hàng hoá giá
rẻ cho những người nghèo. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ không chỉ tạo ra
những sản phẩm giá rẻ, phù hợp với mức sống của người dân mà còn tạo ra một
mạng lưới phân phối rộng khắp trải đều trên phạm vi đất nước. Chính vì vậy
những người nghèo có điều kiện nâng cao mức sống của mình.
Thứ ba, mặc dù trong mỗi doanh nghiệp vừa và nhỏ, lượng lao động
không nhiều, nhưng bù vào đó, số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất lớn
nên đã tạo ra một khối lượng việc làm lớn, tạo thu nhập cho người lao động nhất
là những lao động phổ thông trong nền kinh tế. Tại Trung Quốc,theo thống kê
năm 2007, lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng 84,3%
trong tổng số lao động đang làm việc tại các doanh nghiệp.Con số này ở Nhật
Bản là 80%,ở Thái Lan là 73,8% và ở Việt Nam là 77%.
Trong tình hình mà nền kinh tế đang có sự chuyển mình mạnh mẽ bằng
việc tái cơ cấu nền kinh tế, kèm theo đó là những cuộc khủng hoảng kinh tế
trong phạm vi khu vực diễn ra trong những năm gần đây trên thế giới, hầu hết
các doanh nghiệp lớn đều có chính sách cắt giảm lao động với quy mô lớn.
Nhưng ngược lại, tỷ trọng lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ không
ngừng tăng lên đã làm hạn chế phần nào áp lực thất nghiệp đối với nền kinh tế.
Các nước đều nhận thấy rằng sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ là một

15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
giải pháp hữu hiệu nhất cho vấn đề việc làm, nhất là đối với các quốc gia đang
phát triển, nơi mà lượng lao động tham gia vào thị trường tăng theo cấp số cộng
hàng năm. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng là động lực thúc đẩy sự phát triển
của thị trường lao động, qua đó nâng cao trình độ, tay nghề và ý thức lao động.
Việc trả lương phù hợp với năng lực của người lao động là yếu tố làm tăng năng
suất lao động xã hội, chất lượng nguồn nhân lực của quốc gia vì thế được cải
thiện.
Thứ tư khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ hỗ trợ sự phát triển của các
doanh nghiệp lớn thông qua việc cung cấp nguyên vật liệu, thực hiện các hợp
đồng phụ, làm đại lý tạo lập các kênh phân phối sản phẩm. Nói một cách khách
doanh nghiệp vừa và nhỏ là người bán đồng thời là người mua quan trọng của
các doan nghiệp lớn. Một doanh nghiệp lớn, để đảm bảo cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của mình thường phải có được một mạng lưới các nhà cung cấp và
phân phối sản phẩm. Những đối tượng này, không ai khác chính là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Điều này giúp cho các doanh nghiệp lớn làm giảm được sự
ảnh hưởng do biến động thị trường gây ra cả về mặt cung và cầu, giảm chi phí
sửa chữa bảo hành, chi phí quản lý vận chuyển và lưu trữ hàng hoá tạo điều kiện
thuận lợi cho việc giảm giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của sản
phẩm trên thị trường.
Thứ năm, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò như là trung tâm đào
tạo các nhà doanh nghiệp, tạo ra môi trường thuận lợi cho việc đào tạo và phát
triển kỹ năng kinh doanh. Mọi người khi làm quen với môi trường kinh doanh
thường bắt đầu với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Từ những doanh nghiệp vừa và
nhỏ các nhà kinh doanh sẽ được làm quen với sự cạnh tranh, tiếp cận các ký
năng quản lý cơ bản tích luỹ kinh nghiệm cho bản thân. Họ sẽ là người lãnh đạo
các doanh nghiệp này phát triển thành các doanh nghiệp lớn hoặc tự tìm kiếm
các doanh nghiệp lớn để phát triển hơn nữa năng lực của mình. Nguồn nhân lực
về quản lý vì thế được nâng cao cả về chất lượng cũng như số lượng. Các nhà

nghiên cứu kinh tế đã chỉ ra rằng có một mối liên hệ chặt chẽ giữa tỷ lệ người
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
dân làm kinh doanh với sự phát triển của nền kinh tế. Ở Bỉ, với số dân là 10
triệu người thì có đến khoảng 700 nghìn người làm kinh doanh, ở Pháp có 60
triệu dân và số người làm kinh doanh là 2,4 triệu. Trong khi đó ở Việt Nam có
80 triệu dân, số người làm kinh doanh chỉ có khoảng 200 nghìn người.
Thứ sáu, các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm hạn chế sự độc quyền của
các tập đoàn lớn, duy trì tính cạnh tranh lành mạnh của nền kinh tế, đảm bảo
lợi ích chính đáng của người tiêu dùng. Bản thân các doanh nghiệp vừa và
nhỏ cũng cạnh tranh với nhau rất gay gắt nhằm tìm ra một chỗ đứng cho mình
trên thị trường, để tồn tại và hơn nữa phát triển thành các doanh nghiệp lớn.
Chính yếu tố này khiến cho nền kinh tế trở nên năng động hơn, dễ thích nghi
hơn trước những biến động của thị trường trong nước cũng như quốc tế.
Như vậy, doanh nghiệp vừa và nhỏ tuy có nhiều mặt hạn chế nhưng vai
trò của chúng đối với sự phát triển của nền kinh tế là không thể phủ nhận. Cùng
với các doanh nghiệp lớn chúng tạo ra sự cân đối trong nền kinh tế. Một nền
kinh tế nếu chỉ toàn những doanh nghiệp vừa và nhỏ thì sẽ không thể tích tụ và
tập trung vốn cho phát triển hạ tầng cơ sở, đổi mới công nghệ. Ngược lại các
doanh nghiệp lớn sẽ không thể nào phát triển được nếu không có các doanh
nghiệp vừa và nhỏ hỗ trợ. Một nền kinh tế muốn phát triển bền vững và ổn định
thì cần phải đặt vai trò của doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp vừa và nhỏ ngang
tầm với nhau, do đó sự phân định và tăng cường sự hỗ trợ đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ trong thị trường cạnh tranh trở thành vấn đề cấp bách đối với mỗi
quốc gia.
1.2. CHO VAY DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NHTM
1.2.1. Đặc điểm cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ
Ngân hàng thương mại với vai trò là trung gian tài chính quan trọng nhất
của nền kinh tế, thông qua các hoạt động của mình điều tiết và định hướng các
hoạt động đầu tư, trong đó hoạt động tín dụng là một công cụ dùng để hướng các

17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nguồn vốn từ nhiều nguồn khác nhau vào các hoạt động kinh tế hiệu quả. Khái
niệm về hoạt động tín dụng có thể được hiểu như sau:
Hoạt động tín dụng là hoạt động giao dịch về tài sản giữa bên cho vay -
NHTM hoặc các định chế tài chính khác và bên đi vay - các thành phần kinh tế,
dân cư, trong đó bên đi vay được quyền sử dụng tài sản của bên cho vay trong
một thời gian nhất định theo các điều kiện đảm bảo thoả thuận giữa hai bên và
bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả tiền gốc và lãi đúng hạn và đầy đủ.Với một
số lượng ngày càng đông đảo như đã nói ở trên, các DNVVN đang là đối tượng
khách hàng chủ đạo của hầu hết các ngân hàng (cả ngân hàng bán buôn và ngân
hàng bán lẻ). Các ngân hàng thường thành lập riêng một phòng chuyên trách về
đối tượng khách hàng này để có thể nghiên cứu, phục vụ hiệu quả hơn, đồng
thời triển khai một số giải pháp để mở rộng đối tượng khách hàng DNVVN,
trong đó chú trọng hướng hoàn thiện các sản phẩm, đào tạo cán bộ chuyên trách
nhóm khách hàng DNVVN Các ngân hàng thương mại cũng đang đưa ra nhiều
giải pháp để tăng cường sự tiếp cận vốn cho các DNVVN như chia nhỏ nguồn
vốn, chốt hạn mức tín dụng ở một ngưỡng nhất định đối với một khoản vay để
đáp ứng được nhiều nhu cầu nhỏ hơn Có thể nói tiềm năng của khối doanh
nghiệp này đang là hướng đầu tư trọng điểm của các ngân hàng thương mại. Đó
là cam kết của sự phát triển, thể hiện ở sự chuyển động tích cực của tốc độ tăng
trưởng tín dụng cũng như quy mô của các quỹ cho vay trong thời gian qua.
1.2.2. Các hình thức cho vay của Ngân hàng thương mại đối với các
DNVVN
• Căn cứ vào thời hạn tín dụng
Cho vay ngắn hạn là loại cho vay có thời hạn dưới 12 tháng và được sử
dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu
ngắn hạn của cá nhân
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Cho vay trung hạn là loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm, chủ yếu
được sử dụng để đầu tư mua sắm các phương tiện vận tải, một số cây trồng vật
nuôi, hoặc đổi mới thiết bị công nghệ với thời gian thu hồi vốn nhanh
Cho vay dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm(Có thể có những
quy định khác về thời gian trung và dài hạn) và trên 7 năm (đối với các nước
trên thế giới). Loại tín dụng này nhằm phục vụ các công trình xây dựng lớn như
nhà, sân bay, cầu, đường, máy móc có giá trị lớn.
• Căn cứ vào nghiệp vụ của ngân hàng:
Cho vay thấu chi: Cho phép người vay được chi trội trên số dư tiền gửi
thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định ( hạn mức thấu chi ) và trong
khoảng thời gian xác định.
Cho vay trực tiếp từng lần: Ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn
nhất định của chu kì sản xuất kinh doanh.
Cho vay luân chuyển: Dựa trên sự luân chuyển của hàng hóa, ngân hàng
cho khách hàng vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng.
Cho vay theo hạn mức: Trong kì khách hàng có thể vay – trả nhiều lần
song dư nợ ko được vượt quá hạn mức tín dụng mà ngân hàng đã cấp.
Cho vay trả góp: Ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần
trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận.
Cho vay gián tiếp: Ngân hàng thông qua các tổ, hội, nhóm sản xuất để cho
vay.
• Căn cứ vào mục đích
Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm xây
dựng bất động sản
Cho vay công nghiệp và thương mại là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung
vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp thương mại dịch
vụ.
Cho vay nông nghiệp là loại cho vay để trang trải các khoản chi phí trong
sản xuất nông nghiệp như phân bón, giống cây trồng.
19

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Cho vay cá nhân là loại cho vay để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng mua sắm
của cá nhân
• Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
Cho vay không đảm bảo là loại cho vay không có tài sản thế chấp cầm cố
hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản
thân khách hàng
Cho vay có đảm bảo là loại cho vay cần phải có tài sản cầm cố, thế chấp
hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba
1.3. HIỆU QUẢ CHO VAY CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.3.1. Quan điểm về hiệu quả cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Hiệu quả cho vay trước hết phải được hiểu là sự đáp ứng yêu cầu hợp lý
của khách hàng lựa chọn, đồng thời đem lại lợi nhuận cho ngân hàng không chỉ
từ hoạt động cho vay mà còn từ các hoạt động dịch vụ khác, cùng lúc đó tạo
điều kiện thúc đẩy kinh tế và tạo công ăn việc làm. Trên giác độ ngân hàng, hiệu
quả hoạt động tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phù hợp
với khả năng, thực lực và theo hướng tích cực của ngân hàng đảm bảo sự cạnh
tranh trên thị trường, tuân thủ nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Như vậy,
hiệu quả tín dụng được coi là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh mối tương quan
giữa khả năng sinh lợi và rủi ro, phản ánh mức độ thích nghi của ngân hàng
trước sự thay đổi của môi trường, thể hiện sức mạnh của ngân hàng trong cuộc
cạnh tranh trên thị trường. Hiệu quả cho vay phụ thuộc nhiều yếu tố như khả
năng thu hút khách hàng, mức độ an toàn, doanh thu chi phí và lợi nhuận. Để đo
lường hiệu quả người ta căn cứ trên sự so sánh giữa yếu tố đầu vào và yếu tố
đầu ra của kỳ này so với kỳ trước, của đơn vị này so với đơn vị khác, so sánh
với kỳ vọng đặt ra, hoặc so sánh với mặt bằng chung của ngành, lĩnh vực hoạt
động. Trước đây, các ngân hàng có sự phân biệt giữa ngân hàng bán buôn và
bán lẻ, tuy nhiên trong thời gian gần đây, các ngân hàng đã nhận thấy những
tiềm năng tích cực từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, sự phân biệt cũng hầu như
20

Website: Email : Tel : 0918.775.368
không còn nhờ đó chúng ta dễ dàng có sự so sánh về hiệu quả cho vay của mỗi
ngân hàng đối với các doanh nghiệp này.
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cho vay các DNVVN
Để đánh giá về hiệu quả cho vay các DNVVN, chúng ta dùng một số chỉ
tiêu như:
- Tỷ lệ vốn ngắn hạn đã sử dụng cho vay trung dài hạn
- Tỷ lệ khả năng chi trả ( TS có có thể thanh toán ngay/ TS nợ phải
thanh toán ngay)
- Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (Vốn tự có/ TS có rủi ro)
- Tỷ lệ tài sản sinh lời ( Tài sản sinh lãi/ Tổng tài sản bình quân )
- Tỷ lệ nợ quá hạn/ Tổng dư nợ
- Thu lãi doanh nghiệp/ Tổng thu lãi
Đối với ngân hàng thương mại, để đánh giá hiệu quả cho vay người ta
thường căn cứ trên các chỉ tiêu ROA ( đánh giá hiệu quả quản lý ) và ROE (đo
lường mức thu nhập cho các cổ đông ). Tuy nhiên để đánh giá chính xác hơn về
tính hiệu quả cũng như khả năng sinh lời, ngân hàng thường dựa vào tỷ lệ thu
nhập hoạt động cận biên và tỷ lệ ngoài lãi cận biên. Nó chỉ ra khả năng duy trì
sự tăng trưởng của các khoản thu ( chủ yếu thu từ lãi) so với mức tăng chi phí
(chủ yếu chi trả lãi). Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên đo lường mức chênh lệch giữa
thu từ lãi và chi trả lãi mà ngân hàng có thể đạt được thông qua hoạt động kiểm
soát chặt chẽ tài sản sinh lời và tìm kiếm các nguồn vốn rẻ. Ngược lại, tỷ lệ thu
nhập ngoài lãi cận biên đo lường mức chênh lệch giữa nguồn thu ngoài lãi chủ
yếu là thu từ các dịch vụ khác với các chi phí ngoài lãi (gồm tiền lương chi phí
sửa chữa bảo hành, chi phí tổn thất tín dụng ).Để biết được hiểu quả cho vay,
ngân hàng tiến hành tính toán rồi đem so sánh giữa tỷ lệ này ở đầu kì và cuối kì,
giữa năm trước và năm nay, giữa các đơn vị cùng hệ thống cũng như với toàn
ngành. Ngoài biện pháp đó, các nhà điều hành ngân hàng có thể dùng một chỉ
tiêu mang tính truyền thống là chênh lệch lãi suất cơ bản:
21

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chênh lệch LSCB = ( Thu lãi – Chi lãi)/ Tài sản sinh lãi bình quân.
Chênh lệch lãi suất cơ bản không chỉ đo lường hiệu quả đối với hoạt động
huy động và cho vay mà còn đo lường cường độ cạnh tranh trong thị trường của
ngân hàng. Sự cạnh tranh gay gắt có xu hướng thu hẹp mức chênh lệch này và
lãnh đạo ngân hàng có trách nhiệm bù đắp mức chênh lệch này bằng cách tăng
thu từ các hoạt động dịch vụ khác.
Song song với các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời của ngân hàng, để
đánh giá tình trạng rủi ro tín dụng người ta thường căn cứ vào tỷ lệ nợ quá hạn
so với tổng dư nợ, tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ, tình hình tài chính và
phương án sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, xếp hạng tín dụng người
vay hay xem xét mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và người vay. Phân tích
những chỉ tiêu này có ý nghĩa rất quan trọng đối với ngân hàng nhằm mục tiêu
trước hết là đảm bảo an toàn cho chính ngân hàng, sau đó là xem xét đến chất
lượng tín dụng của các khoản cho vay. Quản lý rủi ro tín dụng của các ngân
hàng nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các tổn thất có thể xảy ra, đó cũng chính
là biện pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả cho vay DNVVN
1.3.3.1. Các nhân tố khách quan
Đây là sự tác động mang tính vĩ mô đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
mà trước hết là sự tác động của môi trường pháp lý. Một môi trường pháp lý
chặt chẽ và ổn định sẽ là điều kiện tiên quyết thúc đẩy hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp, tạo ra một điều kiện thuận lợi hơn để doanh nghiệp có điều
kiện vay vốn tại ngân hàng. Một sự thay đổi nào đó trong một nghị định, một
hợp tác thương mại được ký kết hay một sự thỏa thuận kinh tế giữa Chính phủ
các nước đều có thể tác động tới hiệu quả cho vay của ngân hàng đối với doanh
nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng. Ngược lại, sự tác động
của môi trường pháp lý không chặt chẽ hay mang tính kìm hãm có thể gây ra sự
sụt giảm về dư nợ, gây tăng đột ngột các khoản nợ quá hạn, hạn chế khả năng
22

Website: Email : Tel : 0918.775.368
sinh lời của doanh nghiệp, và vì thế hiệu quả cho vay của ngân hàng có thể bị
suy giảm nhanh chóng. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ do lợi thế về quy mô là
những người khắc phục nhanh hơn những tác động của môi trường pháp lý tới
hoạt động của mình so với doanh nghiệp lớn. Và vì vậy cho vay các doanh
nghiệp vừa và nhỏ cũng là một biện pháp làm giảm sự biến động về hiệu quả và
rủi ro cho ngân hàng
Một nhân tố chủ quan nữa có tác động không nhỏ tới hiệu quả cho vay là
môi trường kinh doanh. Tác động của nó tới hiệu quả cho vay của ngân hàng
thông qua các biến số kinh tế như tỷ giá, lạm phát, lãi suất … Các chỉ tiêu này
tác động lên khả năng cho vay, đồng thời tác động trực tiếp lên chi phí của ngân
hàng. Sự tăng lên của tỷ lệ dự trữ bắt buộc hoặc lạm phát sẽ làm giảm khả năng
cho vay và làm tăng chi phí trả lãi cho các nguồn huy động, lãi suất trên thị
trường tăng cũng làm hạn chế tốc độ tăng trưởng của dự nợ đồng thời lại làm
tăng nhanh chi phí trả lãi của các ngân hàng. Đối với doanh nghiệp, các biến số
này có tác động hai mặt, nó thúc đẩy sự phát triển của nhóm doanh nghiệp này
thì lại hạn chế hoạt động của nhóm doanh nghiệp khác. Ví dụ như nếu tỷ giá
tăng thì nhóm doanh nghiệp xuất khẩu sẽ phát triển tốt, trong khi các doanh
nghiệp nhập khẩu lại gặp nhiều khó khăn hơn. Vì thế để đánh giá một yếu tố
thuộc môi trường vĩ mô tác động như thế nào tới hiệu quả cho vay của mình thì
các ngân hàng phải phân loại được các khách hàng chủ yếu mà mình phục vụ, từ
đó có chiến lược đối phó phù hợp.
1.3.3.2. Các nhân tố chủ quan
Từ phía doanh nghiệp: đây là nhân tố tác động quan trọng nhất tới hiệu
quả hoạt động cho vay của ngân hàng, thể hiện thông qua các chỉ tiêu tài chính
doanh nghiệp như khả năng thanh toán, khả năng sinh lời, hệ số nợ, hệ số khả
năng chi trả…Để đạt được mục tiêu của mình, các doanh nghiệp luôn mong
muốn vay được vốn và tìm mọi cách để có được nguồn vốn từ ngân hàng. Tuy
nhiên, trái ngược với các doanh nghiệp vận dụng các hình thức tích cực như tăng
23

Website: Email : Tel : 0918.775.368
hiệu quả hoạt động, trung thực và hợp tác với ngân hàng, thì cũng có nhiều
doanh nghiệp sử dụng các biện pháp không tích cực như làm sai lệch các báo
cáo tài chính theo hướng có lợi cho doanh nghiệp, không cung cấp đầy đủ và
trung thực các thông tin cần thiết cho ngân hàng. Nhiều doanh nghiệp sau khi
vay được tiền thì sử dụng tiền vay sai mục đích, cố tình lừa đảo chiếm dụng vốn
của ngân hàng. Cũng phải thừa nhận một điều là nhiều doanh nghiệp còn yếu
kém trong việc lập dự án, nhiều dự án không nêu được tính khả thi nên rất khó
tạo niềm tin để ngân hàng cho vay vốn. Các đối tượng này thường rơi vào các
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nó không chỉ tác động tới hiệu quả của bản thân món
vay đó mà còn làm mất lòng tin từ phía ngân hàng, khiến cho các ngân hàng
phải áp dụng nhiều biện pháp đảm bảo hơn, vì thế lại tác động trở lại làm bó hẹp
khả năng tiếp cận vốn của các doanh nghiệp khác có đủ năng lực. Mặc dù vậy,
cũng có doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc các yêu cầu của ngân hàng nhưng
cán bộ quản lý có trình độ chuyên môn kém không quản lý và khai thác nguồn
vốn có hiệu quả khiến cho hiệu quả hoạt động cho vay vì thế mà giảm xuống.
Những nhân tố tác động từ phía doanh nghiệp rất khó kiểm soát và đánh giá và
phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm và trình độ phân tích của cán bộ tín dụng cũng
như tinh thần hợp tác của các doanh nghiệp.
Nhân tố từ phía ngân hàng : Đây là các nhân tố chủ quan mà ngân hàng có
thể điều chỉnh và khắc phục được. Nó bao gồm chiến lược phát triển của ngân
hàng, công nghệ ngân hàng, uy tín và kinh nghiệm điều hành, trình độ nghiệp vụ
và đạo đức của cán bộ tín dụng. Chiến lược phát triển của ngân hàng tạo ra một
định hướng chung về khách hàng mục tiêu của ngân hàng, tạo lập các chính sách
hỗ trợ ưu đãi cho nhóm khách hàng đó. Với xu hướng hiện nay, các doanh
nghiệp vừa và nhỏ đã thu được sự quan tâm lớn của các ngân hàng và nhiều
ngân hàng đã thiết lập một chiến lược kinh doanh hướng vào nhóm doanh
nghiệp này. Công nghệ và uy tín của ngân hàng tác động tới chi phí của khoản
vay và khả năng mở rộng quy mô dư nợ, công nghệ càng cao ngân hàng càng có
24

Website: Email : Tel : 0918.775.368
khả năng tiết kiệm chi phí và đưa ra các mức lãi suất cạnh tranh cũng như các
tiện ích mới phục vụ khách hàng. Nhận thức vào đạo đức của cán bộ tín dụng
đóng vai trò quan trọng nhất trong số các nhân tố tác động tới hiệu quả cho vay
từ phía ngân hàng. Như đã nói ở trên nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ tìm mọi
cách để có được nguồn vốn, họ có thể tiếp xúc, móc nối với các cán bộ tín dụng
để đạt được mục đích. Chính vì vậy để giữ được sự trung thành của các nhân
viên, ngân hàng phải có được một chính sách đãi ngộ hợp lý, thường xuyên giáo
dục nhắc nhở các nhân viên về nhận thức, đạo đức nghề nghiệp cũng như ý thức
trách nhiệm của mình.
25

×