Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tiểu luận triết học hy lạp cổ đại và ý nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.38 KB, 16 trang )






TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA – ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM
KHOA QUẢN LÝ CÔNG NGHIỆP
NGÀNH QUẢN TRỊ KINH DOANH
Môn học: Triết học

TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
VÀ Ý NGHĨA
TpHCM 09/12/2015
MỤC LỤC
1. GIỚI THIỆU
1.1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử phát triển nhân loại, Hy Lạp không những được biết đến với
một nền văn minh phát triển rực rỡ mà còn những thành tựu về triết học đáng
kể. Có thể nói, triết học Hy Lạp cổ đại là giai đoạn khởi đầu của triết học nhân
loại và là tiền đề cho toàn bộ hệ thống triết học phương Tây sau này. Triết học
Hy Lạp cổ đại ra đời vào khoảng cuối thế kỷ VII – đầu thế kỷ VI TCN và tồn tại
đến thế kỷ II – III sau CN, trong thời chiếm hữu nô lệ.
Một trong những giá trị của triết học Hy Lạp cổ đại chính là tư tưởng về con
người. Triết học Hy Lạp cổ đại đã góp phần làm sáng tỏ thêm vấn đề con người
và tìm thấy sợi dây liên kết giữa triết học cổ đại với triết học Mác. Từ đó, khẳng
định giá trị khoa học trong tư tưởng triết học Mác về con người. Đồng thời, thấy
được sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
đường lối, chính sách phát triển con người Việt Nam toàn diện cho sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Do vậy, việc nghiên cứu đề tài nhằm tìm hiểu kho tàng lịch sử triết học, kế
thừa và phát huy những giá trị tốt đẹp của triết học Hy Lạp cổ đại. Đặc biệt, đi


sâu vào phân tích cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và duy tâm Hy Lạp cổ
đại. Trong đó, các quan điểm của Trường phái Milet, Héraclite, đa nguyên, nhị
nguyên, Socrate được nghiên cứu một cách chi tiết để thể hiện rõ sự khác biệt
giữa duy vật và duy tâm. Ngoài ra, tìm hiểu vị trí của triết học Hy Lạp cổ đại
trong lịch sử phát triển nhân loại và ý nghĩa đối với hiện nay.
1.2.Phạm vi và phương pháp nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu: giới hạn trong giai đoạn triết học Hy Lạp cổ đại.
- Phương pháp nghiên cứu: phương pháp lịch sử và đối chiếu.
- Bài nghiên cứu với quy mô như một bài tiểu luận nên các vấn đề được đề
cập mang tính khái quát.
2. GIỚI THIỆU TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
2.1.Điều kiện ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại
 Về tự nhiên:
Hy Lạp cổ đại là quốc gia rộng lớn có khí hậu ôn hòa, bao gồm miền Nam
bán đảo Ban Căng, miền ven biển phía Tây Tiểu Á và nhiều hòn đảo ở miền
Egee. Hy Lạp giống như một bàn tay chìa các ngón ra biển Địa Trung Hải trong
1
bản đồ Châu Âu. Hy Lạp có vị trí tự nhiên rất thuận lợi để trồng trọt, chăn nuôi
và các hoạt động giao thương, mua bán.
Phía Đông là lãnh thổ thuộc về châu Á, đây là một nền thương mại kỹ nghệ
cực thịnh và một nền văn hóa phong phú. Trung Bộ có nhiều dãy núi ngang dọc
và những đồng bằng trù phú, có thành phố lớn như Athen. Nam Bộ là bán đảo
Pelopongnedơ với nhiều đồng bằng rộng lớn phì nhiêu thuận lợi cho việc trồng
trọt, phát triển nông nghiệp.
Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, Hy Lạp cổ đại sớm trở nền công thương
nghiệp phát triển, với một nền văn hóa tinh thần phong phú đa dạng. Đồng thời,
Hy Lạp là nơi sinh ra những nhà triết gia nổi tiếng với những triết lý trở nên bất
hủ.
 Về kinh tế:
Hoạt động kinh tế chủ yếu của các thành bang Hy Lạp là nông nghiệp. Nhờ vị

trí thuận lợi, các đô thị ở Hy Lạp đã thu được nhiều kiến thức mới về kỹ thuật
sản xuất. Cùng với đó, tiếp nhận những khái niệm trừu tượng, có khả năng kích
thích hoạt động khái quát của tư duy, chuyển từ thực tiễn đến lý luận, từ nghệ
thuật sang khoa học, từ khoa học sang triết lý.
 Về chính trị - xã hội:
Những nét đặc trưng của xã hội Hy Lạp cổ đại là sự chia phân chia giữa chủ
nô và nô lệ, vai trò khác nhau giữa nam giới và nữ giới, sự ít phân biệt địa vị xã
hôi dựa trên gốc gác ra đời, và sự quan trọng của tôn giáo. Hình thái xã hội Hy
Lạp cổ đại là hình thái chiếm hữu nô lệ.
Lao động bị phân hóa thành lao động chân tay và lao động trí óc. Đất nước bị
chia phân thành nhiều nước nhỏ, mỗi nước lấy một thành phố làm trung tâm.
Trong đó, Sparte và Athen là hai thành phố cổ hùng mạnh nhất, nồng cốt cho
lịch sử Hy Lạp cổ đại.
• Athen Cổ đại là một thành bang hùng mạnh, nằm ở vùng đồng bằng
thuộc Trung bộ Hy Lạp. Athen một trung tâm nghệ thuật, học thuật và
triết học, là địa điểm có Hàn lâm Học viện của nhà văn hào Platôn và
vườn Lyceum của nhà văn hào Arixtốt. Athen cũng là nơi sinh của
Socrate, Pericle, Sophocle và nhiều nhà triết học, nhà văn, nhà chính trị
2
nổi tiếng của thế giới cổ đại. Athen được xem như là cái nôi của nền
Văn minh phương Tây và triết học Châu Âu.
• Sparte nằm trong vùng đồng bằng Laconia là thành bang Hy Lạp nổi
tiếng nhất bán đảo Peloponnesus. Xứ Sparte theo chủ nghĩa quân phiệt
và thành bang này chẳng khác gì một trại lính, với những chiến binh
hết sức tinh nhuệ. Chính vì thế, Sparte theo thiết chế nhà nước quân
chủ, thực hiện sự áp bức rất tàn khốc đối với nô lệ.
Trong thời đại này, Hy Lạp đã xây dựng được một nền văn minh phát triển
với những thành tựu rực rỡ thuộc các lĩnh vực khác nhau. Chúng là cơ sở hình
thành nên nền văn minh phương Tây hiện đại.
Về văn học: để lại một kho tàng văn học thần thoại rất phong phú, những tập

thơ chứa chan tình cảm, những vở kịch hấp dẫn, phản ánh cuộc sống sôi động,
lao động bền bỉ, cuộc đấu tranh kiên cường chống lại những lực lượng tự nhiên,
xã hội của người Hy Lạp cổ đại.
• Về nghệ thuật: để lại các công trình kiến trúc, điêu khắc, hội họa có giá
trị.
• Về luật pháp: đã sớm xây dựng một nền pháp luật và được thực hiện
khá nghiêm tại thành bang Athen.
• Về khoa học tự nhiên: những thành tựu toán học, thiên văn, vật lý…
được các nhà khoa học tên tuổi như Thalés, Pythagore, Heraclite sớm
phát hiện ra.Và đặc biệt, người Hy Lạp cổ đại đã để lại một di sản triết
học vô cùng đồ sộ và sâu sắc.
 Đặc trưng cơ bản của triết học cổ Hy Lạp:
Có thể coi triết học Hy Lạp cổ đại là đỉnh cao của văn minh Hy Lạp, với các
đặc trưng cơ bản:
• Thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp
chủ nô thống trị.
• Sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái, duy vật
và duy tâm, biện chứng và siêu hình, vô thần và hữu thần.
• Gắn bó chặt chẽ triết học với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu
biết về các lĩnh vực khác nhau để hướng tới việc xây dựng thế giới
quan tổng thể, biến triết học thành “khoa học của các khoa học”.
• Ngoài ra, triết học Hy Lạp cũng rất coi trọng vấn đề con người.
3
2.2.Các trường phái triết học Hy Lạp cổ đại
2.2.1. Chủ nghĩa duy vật
Chủ nghĩa duy vật được hình thành từ trường phái Milet trường phái
Heraclite, trường phái Đa nguyên và đạt được đỉnh cao như trong trường phái
Nguyên tử luận.
2.2.1.1. Trường phái Milet
Trường phái duy vật và biện chứng của Milet tự phát đầu tiên trong triết học

Hy Lạp cổ đại, thế kỷ thứ VI TCN. Thời ấy, Milet là một trung tâm thương
mại, hàng hải lớn, điều này tạo điều kiện mở rộng tầm nhìn của con người, kích
thích sự phát triển khoa học và văn hoá (thiên văn, toán học, địa lí, nghệ thuật
tạo hình, triết học). Nơi đây được xem là quê hương của nhiều trường phái triết
học của triết gia nổi tiếng.
Những nhà triết học ở Milet là Thales, Anaxi-mène và Anaximandes không
tin vào thần thoại truyền thống (coi các thần linh là nguyên nhân tạo ra thế giới).
Triết học Milet cho rằng: bản chất duy nhất, bản nguyên của thế giới là một vật
thể xác định hoặc là một chất không xác định, vô hình, vô thuỷ, vô chung, vĩnh
viễn vận động, kết hợp lại hoặc phân rã ra tạo thành thế giới muôn hình vạn
trạng.
Đóng góp quan trọng nhất của trường phái này là đã đặt nền móng do sự hình
thành các khái niệm triết học để các triết gia sau này tiếp tục bổ sung và làm
phong phú thêm những khái niệm đó như khái niệm chất, không gian, sự đấu
tranh của các mặt đối lập… Một điều đáng quý nữa là các triết gia đã xuất phát
từ thế giới để giải thích thế giới, khẳng định thế giới xuất phát từ một thời
nguyên vật chất duy nhất.
2.2.1.2. Trường phái Héraclite
Do ông Héraclite sáng lập, khoảng 535 TCN - 475 TCN, ông xuất thân trong
một gia đình quý tộc ở thành phố Ephetdơ. Về cơ bản, ông là một nhà triết học
duy vật và được coi là ông tổ của phép biện chứng. Ông coi bản nguyên của thế
giới là lửa. Vũ trụ không phải do Thượng Đế hay một lực lượng siêu nhiên nào
đó tạo ra, mà nó là ngọn lửa vĩnh hằng không ngừng bùng cháy và lụi tàn. Tàn
lụi và bùng cháy tức là “quy luật, trật tự” nội tại của chính mình. Ông xem thế
giới “vừa tồn tại vừa không tồn tại”, “không ai tắm hai lần trong một dòng
sông”. Thế giới vật chất “vừa đa dạng vừa thống nhất, vừa mang tính hài hòa
vừa xung đột”.
4
Ngọn lửa trong quan niệm của Héraclite mang tính vật chất là sự so sánh trực
quan cảm tính với logos trừu tượng - cái được dùng để chỉ bản chất lôgic - lý

tính của tồn tại và quy định trật tự, như là “độ” của mọi quá trình. Do vậy, ngọn
lửa mang tính vật chất của Héraclite là “có lý tính” có liên quan tới logos là
“ngọn lửa có lý tính”. Ngọn lửa của Héraclite thể hiện tính cơ động và tính tích
cực của tồn tại, đồng thời cũng thể hiện bản chất ổn định và trật tự bất biến của
thế giới, bản chất mang tính vật chất.
Tuy nhiên, có thể thấy rằng quan niệm duy vật của ông còn rất mộc mạc, thô
sơ. Bởi nó xuất phát từ việc ông chỉ dựa vào quan sát thực nghiệm để kết luận,
khi quan sát Heraclitus đã nhận thấy vai trò rất to lớn của lửa đối với đời sống
của con người và cũng do ảnh hưởng của thần thoại Hy Lạp (nhưng ông có cách
giải thích ngược lại với thần thoại).
Tuy vậy thì quan niệm đó đã góp phần chống lại những tư tưởng mang tính
chất tôn giáo thời bấy giờ. Nó cũng khẳng định quá trình nghiên cứu tư tưởng
không thể không dựa vào việc tìm hiểu nguyên nhân từ thực tiễn cũng như cơ sở
và nguồn gốc của tư tưởng từ thực tiễn.
Như vậy, Héraclite là nhà triết học đã nêu lên các phỏng đoán thiên tài về quy
luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, mà sau này Mác đã đề cập và
đi sâu. Phép biện chứng duy vật chất phát là đóng góp của triết học Héraclite
vào kho tàng tư tưởng của nhân loại. “Thế giới chỉ là ngọn lửa đang bập bùng
cháy suốt ngày đêm”.
2.2.1.3. Trường phái đa nguyên
Empedocle (khoảng 490 - 430 TCN) là một nhà triết học Hy Lạp tiền Socrate
và là một công dân của Agrigentum, một thành phố Hy Lạp nằm trên đảo
Sicilia. Empedocle nổi tiếng nhất sau khi khởi xướng cho thuyết nguồn gốc vũ
trụ tạo bởi bốn nguyên tố cổ điển (đất, nước, lửa và không khí). Ông cũng là
người đề xuất ra khái niệm năng lượng gọi là Tình yêu và Xung đột, nhờ đó mà
các nguyên tố cổ điển có thể hòa trộn hoặc tách rời.
Anaxagora ( khoảng 500 - 428 TCN) là một nhà triết học Hy Lạp cổ đại thời
kỳ tiền Socrate. Ông sinh tại thành phố Clazomenae thuộc Tiểu Á, Anaxagora
là nhà triết học đầu tiên mang triết học từ Lonia tới Athen. Ông đã cố gắng đưa
ra những mô tả khoa học về thiên thực, sao băng, cầu vồng và mặt trời, trong đó

ông mô tả mặt trời là khối lửa có kích thước lớn hơn Peloponnese. Ông coi vật
5
chất là một tập hợp vô tận các nguyên tố sơ khai bất tử, ám chỉ tới tất cả sự sinh
ra và biến mất cho tới sự pha trộn và tách ly.
Học thuyết triết học đa nguyên luận chỉ thừa nhận sự tồn tại của nhiều
nguyên thể khác biệt, độc lập với nhau trong thế giới, thế giới được hợp thành
bởi nhiều bản nguyên.
2.2.1.4. Trường phái nguyên tử luận
Học thuyết này được xây dựng bởi các nhà triết học Hy Lạp cổ đại theo
trường phái nguyên tử luận (Thế kỷ V - IV TCN). Nguyên tử luận đã cấu thành
giai đoạn thứ ba trong sự phát triển của học thuyết về các khởi nguyên, các yếu
tố đầu tiên của Vũ trụ.
Lơxip và Đêmôcrit - những người theo thuyết nguyên tử đều khẳng định rằng
vận động của nguyên tử là vĩnh viễn; vận động vốn có trong nguyên tử. Chân
không là điều kiện chứ không phải nguyên nhân của vận động. Nguyên tử vận
động theo nhiều chiều hướng khác nhau. Động lực vận động vĩnh viễn của
nguyên tử, theo Đêmôcrit, là động lực tự thân, tự nó có sẵn.
Đó là giai đoạn phát triển đầu tiên của nguyên tử luận mà có thể coi đó là giai
đoạn triết học tự nhiên. Khi đó tiến trình tư duy đã đi từ tư tưởng về dạng vật
chất đầu tiên ở trường phái Milet đến tư tưởng về sự đa dạng, phong phú của
các khởi nguyên ở Empêđôclơ và Anaxago và cuối cùng, đến tư tưởng về các
nguyên tử không định tính (không có chất lượng) ở các nhà nguyên tử luận cổ
đại.
Đó là bước chuyển dần dần của quan niệm về các nguyên tố và các khởi
nguyên từ cấp độ tính đơn nhất sang cấp độ tính đặc thù và từ cấp độ tính đặc
thù sang cấp độ tính phổ biến, hơn nữa là toàn bộ sự vận động đó diễn ra trong
khuôn khổ của tư duy triết học tự nhiên hoàn toàn trừu tượng. Muộn hơn, ở
Arixtốt đã xuất hiện sự phản ứng lại ở một mức độ nhất định đối với quan niệm
về các nguyên tố.
2.2.2. Chủ nghĩa duy tâm

Giai đoạn Hy Lạp cổ đại, chủ nghĩa duy tâm được hình thành trong trường
phái triết học Pythagore, trải qua trường phái duy lý Elee và đạt được đỉnh cao
trong trường phái duy tâm khách quan của Platon, tức thế giới ý niệm.
2.2.2.1. Trường phái Pythagore
6
Pythagore (khoảng 580 - 490 TCN) là một nhà triết học người Hy Lạp và là
người sáng lập ra phong trào tín ngưỡng có tên học thuyết Pythagoras. Ông
thường được biết đến như một nhà khoa học và toán học vĩ đại.
Pythagore và những môn đồ đã có những đóng góp quý giá cho sự phát triển
triết học, toán học và thiên văn học. Pythagore coi con số là khởi nguyên và bản
chất của sự vật, là quy luật của vũ trụ, trong khi đó, nhiều trường phái triết học
Hy Lạp cổ đại khác coi khởi nguyên của thế giới là một dạng vật chất cụ thể nào
đó.
Nhưng do quá đề cao vai trò của các con số, biến chúng thành những lực
lượng siêu nhiên, thống trị hiện thực, Pythagore càng phát triển tới đỉnh cao các
quan niệm duy tâm, thần bí. Pythagore tin ở thuyết luân hồi, cho rằng linh hồn
bị giam hãm trong thể xác có thể nhờ tu dưỡng mà trở nên thuần khiết.
Chính trường phái Pythagore đã đặc nền móng ban đầu cho trào lưu duy tâm
thời cổ đại của triết học Hy Lạp.
2.2.2.2. Trường phái Elée
Trường phái Elée (Thế kỷ V – IV TCN) do Xénophane thành lập theo chủ
nghĩa duy vật, nhưng sau đó Parménide phát triển theo chủ nghĩa duy tâm và
được Zeno nhiệt thành bảo vệ và phát huy. Chứng minh bằng phương pháp
phản chứng rằng tồn tại chân thực là duy nhất, không vận động; vì vậy tồn tại
có mâu thuẫn, là không thể tư duy được.
Xénophane (570 – 478 TCN) là bạn của Thales nên chịu ảnh hưởng của nhà
triết học này. Ông cho rằng mọi cái đều từ đất và cuối cùng trở về đất. Đất là cơ
sở của vạn vật. Cùng với nước, đất tạo nên sự sống của muôn loài.
Parménide (500 – 449 BC) xuất thân trong một gia đình trí thức giàu có ở
Elée. Ông cho rằng, “tồn tại” là bản chất chung thể hiện tính thống nhất của vạn

vật trong thế giới. “Tồn tại” là một phạm trù triết học mang tính khái quát cao,
và nhận thức bởi tư duy, lý tính. Quan niệm “tồn tại”đánh dấu một giai đoạn
mới trong phát triển triết học Hy Lạp cổ đại.
Zeno (490 – 430 BC), là người bảo vệ nhiệt thành trường phái Elée. Ông đưa
ra những nghịch lí trong các lập luận phản chứng nhằm bác bỏ khả năng vận
động trong thực tại chân thực: nghịch lí "Asin và con rùa", nghịch lí "mũi tên
bay". Lập luận phản bác vận động như một hiện tượng mâu thuẫn, đã đặt ra vấn
đề ý nghĩa của mâu thuẫn và sự biểu thị vận động vào trong lôgic các khái niệm.
7
2.2.2.3. Trường phái duy tâm khách quan
Platôn (427 - 347 TCN): là người xây dựng hệ thống triết học duy tâm khách
quan hoàn chỉnh đầu tiên của chủ nghĩa duy tâm khách quan, đối lập với thế
giới quan duy vật. Ông đã tiến hành cuộc đấu tranh gay gắt chống lại chủ nghĩa
duy vật, đặc biệt là chống lại những đại biểu của chủ nghĩa duy vật thời bấy giờ
như Héraclite và Đêmôcrit.
• Theo Platôn, giới tự nhiên - thế giới của những vật cảm tính, bắt nguồn
từ những thực thể tinh thần tức là từ những ý niệm, vật thể cảm tính chỉ là
cái bóng của ý niệm.
• Về nhận thức: Ông cho rằng, để nhận thức được chân lý, người ta phải từ
bỏ mọi cái hữu hình cảm tính; “hồi tưởng” lại những gì mà linh hồn bất
tử đã quan sát được trong giới ý niệm. Thuyết “hồi tưởng” thần bí này
được xây dựng trên cơ sở thừa nhận tính bất tử, tính độc lập của linh hồn
với thể xác. - Phép biện chứng của Platôn là phép biện chứng lệ thuộc
vào triết học duy tâm. Do đó, “đường lối Platôn” chống lại “đường lối
Đêmôcrít” trong triết học cổ đại, chống lại thuyết nguyên tử của
Đêmôcrít. Các hiện tượng của tự nhiên bị ông quy thành những quan hệ
toán học.
• Là kẻ thù chính trị của chế độ dân chủ chủ nô Athen, Platôn coi “chế độ
quý tộc” tức là chế độ nhà nước của tầng lớp chủ nô thượng lưu là “nhà
nước lý tưởng”.

Arixtốt (384 - 322 TCN): Ông đã khẳng định: “Bẩm sinh, con người là một
động vật chính trị”. Đây là tư tưởng có ý nghĩa quan trọng trong việc nhận thức
vấn đề con người cho đến tận sau này. Có thể nói, Arixtốt là một trong những
nhà tư tưởng đầu tiên sớm nhận ra tính xã hội của hoạt động con người. Con
người, theo Arixtốt, gồm thể xác và linh hồn. Ông còn cho rằng con người sống
thành xã hội và con người sẽ không là gì cả nếu nằm ngoài cộng đồng, chỉ phụ
thuộc về nguồn gốc,giáo dục, văn hóa. Arixtốt đã xem xét con người không phải
với tư cách cá thể, mà trong mối quan hệ giao tiếp với xã hội. Quan niệm này
của Arixtốt đã đến gần với quan niệm của Mác về bản chất con người: “Trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”.
Sự phê phán của Arixtốt đối với Platôn là một đóng góp quan trọng trong lịch
sử triết học. Arixtốt đã đề ra một loạt luận điểm quan trọng phản bác lại chủ
nghĩa duy tâm của Platôn. Ông thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật
chất; giới tự nhiên là toàn bộ những sự vật có một bản thể vật chất mãi mãi vận
8
động và biến đổi. Do đó, muốn giải thích thế giới vận động, biến đổi thì không
cần đến những ý niệm của Platôn.
Khi phê phán Platôn, Arixtốt đã chống lại những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa duy tâm nói chung, nhưng học thuyết đó của ông cũng chưa vượt qua
được những tư tưởng thần học và mục đích luận. Do đó, nó mâu thuẫn với tất
cả những tiến bộ trong “khoa học bách khoa” của ông, gần gũi với “đường lối
Platôn” và bộc lộ rõ chủ nghĩa duy tâm.
Nhận thức luận của Arixtốt có vai trò to lớn trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ
đại. Bác bỏ thế giới “ý niệm” của Platôn, Arixtốt thừa nhận thế giới vật chất là
đối tượng thực tế của nhận thức, là nguồn gốc của cảm giác. Cảm giác luận và
kinh nghiệm luận trong lý luận về nhận thức của Arixtốt đối lập với thuyết “Hồi
tưởng” duy tâm của Platôn. Nếu Platôn coi nguồn gốc duy nhất của hiểu biết là
do linh hồn bất tử, thì Arixtốt cho rằng không ai cảm giác là không nhận thức
và không hiểu biết gì hết. Ở điểm này, Arixtốt là nhà cảm giác luận duy vật.
2.2.2.4. Triết gia Socrate (469 – 399 TCN)

 Tiểu sử của Socrate
Ông sinh ra tại thành phố Athen, thuộc Hy lạp, và đã sống vào một giai đoạn
thường được gọi là hoàng kim của thành phố này. Thời trẻ, ông nghiên cứu các
loại triết học thịnh hành lúc bấy giờ của các “triết học gia trước Socrate”, đó là
nền triết học nỗ lực tìm hiểu vũ trụ thiên nhiên chung quanh chúng ta.
Ông là nhà tư tưởng nằm giữa giai đoạn bóng tối và giai đoạn ánh sáng của
nền triết học Hy Lạp cổ đại. Ông có tư tưởng tiến bộ, nổi tiếng về đức hạnh với
quan điểm: “Hãy tự biết lấy chính mình”, “Tôi chỉ biết mỗi một điều duy nhất là
tôi không biết gì cả.
 Niềm tin triết học:
Người ta khó phân biệt giữa các niềm tin triết học của Socrate và của Platôn.
Có rất ít các căn cứ cụ thể cho việc tách biệt quan điểm của hai ông. Một số học
giả cho rằng Platôn đã tiếp nhận phong cách Socrate đến mức làm cho nhân vật
văn học và chính nhà triết học trở nên không thể phân biệt được. Một số khác
phản đối rằng ông cũng có những học thuyết và niềm tin riêng. Nhưng do khó
khăn trong việc tách biệt Socrate ra khỏi Platôn và khó khăn của việc diễn giải
ngay cả những tác phẩm kịch liên quan đến Socrates, nên đã có rất nhiều tranh
cãi xung quanh việc Platôn đã có những học thuyết và niềm tin riêng nào. Vấn
đề này còn phức tạp hơn nữa bởi thực tế rằng nhân vật Socrate trong lịch sử có
9
vẻ như nổi tiếng là người chỉ hỏi mà không trả lời với lý do mà ông đưa ra là:
mình không đủ kiến thức về chủ đề mà ông hỏi người khác.
Nếu có một nhận xét tổng quát về niềm tin triết học của Socrate, thì có thể
nói rằng về mặt đạo đức, tri thức, và chính trị, ông đi ngược lại những người
đồng hương Athen. Khi bị xử vì tội dị giáo và làm lũng đoạn tâm thức của giới
trẻ Athen, ông dùng phương pháp phản bác bằng lôgic của mình để chứng minh
cho bồi thẩm đoàn rằng giá trị đạo đức của họ đã lạc đường. Ông nói với họ
rằng chúng liên quan đến gia đình, nghề nghiệp và trách nhiệm chính trị của họ
trong khi đáng ra họ cần lo lắng về “hạnh phúc của tâm hồn họ”. Niềm tin của
Socrate về sự bất tử của linh hồn và sự tin tưởng chắc chắn rằng thần linh đã

chọn ông làm một phái viên có vẻ như đã làm những người khác tức giận, nếu
không phải là buồn cười hay ít ra là khó chịu. Socrate còn chất vấn học thuyết
của các học giả đương thời rằng người ta có thể trở nên đức hạnh nhờ giáo dục.
Ông thích quan sát những người cha thành công nhưng không sinh ra những
đứa con giỏi giang như mình. Socrate lập luận rằng sự ưu tú về đạo đức là một
di sản thần thánh hơn là do sự giáo dục của cha mẹ. Niềm tin đó trong việc ông
không lo lắng về tương lai các con trai của mình.
Socrate thường xuyên nói rằng tư tưởng của ông không phải là của ông mà là
của các thầy ông. Ông đề cập đến một vài người có ảnh hưởng đến ông: nhà
hùng biện Prodicus và nhà khoa học Anaxagora. Người ta có thể ngạc nhiên về
tuyên bố của Socrate rằng ông chịu ảnh hưởng sâu sắc của hai người phụ nữ
ngoài mẹ ông. Ông nói rằng Diotima, một phù thủy và nữ tu xứ Mantinea dạy
ông tất cả những gì ông biết về tình yêu, và Aspasia, tình nhân của Pericle, đã
dạy ông nghệ thuật viết điếu văn. John Burnet cho rằng người thầy chính của
ông là Archelau (người chịu ảnh hưởng của Anaxagora), nhưng tư tưởng của
ông thì như Platôn miêu tả.
 Nghịch lý Socrate:
Nhiều niềm tin triết học cổ xưa cho rằng tiểu sử của Socrate đã được biểu thị
như một “nghịch lý” bởi chúng có vẻ như mâu thuẫn với nhận thức thông
thường. Một số nội dung nghịch lý của Socrate:
• Không ai muốn làm điều ác
• Không ai làm điều ác hay sai trái có chủ ý
• Đạo đức - tất cả mọi đạo đức - là kiến thức
• Đạo đức là đủ cho hạnh phúc
 Nhận thức:
10
Socrate thường nói sự khôn ngoan của ông ấy rất hạn chế để có thể nhận thức
được sự ngu ngốc của ông. Socrate tin rằng những việc làm sai là kết quả của
sự ngu ngốc và những người đó thường không biết cách làm tốt hơn. Một điều
mà Socrate luôn một mực cho rằng kiến thức vốn là “nghệ thuật của sự ham

thích” điều mà ông liên kết tới quan niệm về “Ham thích sự thông thái”. Ông ấy
không bao giờ thực sự tự nhận rằng mình khôn ngoan, dù chỉ là để hiểu cách
thức mà người ham chuộng sự khôn ngoan nên làm để theo đuổi được điều đó.
Điều đó gây nên tranh lụân khi mà Socrate tin rằng con người có thể thật sự trở
nên khôn ngoan. Mặt khác, ông cố gắng vạch ra một đường phân biệt giữa sự
ngu ngốc của con người và kiến thức lý tưởng để diễn tả một phương pháp tiến
đến sự khôn ngoan.
Như vậy, lịch sử triết học cổ đại Hy Lạp là lịch sử hình thành và phát triển
thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm. Nét nổi bật của chủ nghĩa duy
vật Hy Lạp cổ đại là tính chất mộc mạc, thô sơ. Nó khẳng định thế giới vật chất
tồn tại khách quan không phải do thần thánh hoặc một lực lượng siêu nhiên nào
tạo nên. Thế giới vật chất xuất hiện từ vật chất, từ những nguyên thể vật chất
đầu tiên như nước, lửa, không khí, nguyên tử… Do trình độ còn thấp của khoa
học nên các nhà triết học duy vật đương thời chỉ có thể quan sát trực tiếp các
hiện tượng tự nhiên và phỏng đoán để rút ra những kết luận triết học. Tuy vậy,
quan niệm duy vật thô sơ này đã có tác dụng rất lớn trong cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa duy tâm, chống tôn giáo, chống thần học cổ đại. Nhiều nhà triết học
Hy Lạp cổ đại đã nhận thức được và phát hiện nhiều yếu tố của phép biện chứng
như mối quan hệ giữa các sự vật và hiện tượng, sự vận động vĩnh viễn của vật
chất, tính thống nhất của những mặt đối lập của sự vật,…Những yếu tố biện
chứng đó chính là những phỏng đoán thiên tài, chưa được chứng minh một cách
khoa học và cũng chưa được nghiên cứu một cách tự giác. Mác và Ăngghen gọi
đó là phép biện chứng tự phát, ngây thơ nhưng đó là hình thức đầu tiên, hình
thức cổ đại của phép biện chứng. Chủ nghĩa duy tâm trong triết học cổ đại đã có
nhiều trào lưu khác nhau: chủ nghĩa duy tâm chủ quan (trường phái Pythagore),
chủ nghĩa duy tâm khách quan (trường phái Platôn) Chúng thường gắn với tín
ngưỡng, tôn giáo và do đó thường được giai cấp thống trị sử dụng như một
công cụ tinh thần của mình.
3. Ý NGHĨA VÀ HẠN CHẾ
3.1.Ý nghĩa của triết học Hy Lạp cổ đại đối với lịch sử triết học và ngày

nay
11
Dựa trên phân tích các trường phái duy vật và duy tâm, triết học Hy Lạp cổ
đại đã đóng góp rất to lớn vào nền triết học của thế giới. Những điều sau đây thể
hiện ý nghĩa của triết học Hy Lạp cổ đại trong lịch sử nhân loại:
- Các nhà duy vật Hy Lạp cổ đại, bằng cách này hay cách khác, đều đã có
những giải đáp của mình cho vấn đề nguồn gốc, bản chất của con người. Trong
chỉnh thể thống nhất của thế giới, con người được các nhà triết học Hy Lạp cổ
đại khẳng định có mối quan hệ khăng khít, không thể tách rời với giới tự nhiên.
Con người và giới tự nhiên là thống nhất với nhau có cùng nguồn gốc, bản chất.
Như vậy, có thể nói, họ đã bước đầu nhận thấy sự gắn bó giữa con người và
giới tự nhiên. Đây chính là nền tảng cho quan niệm của Mác và Ăngghen sau
này. Mặc dù chưa thoát khỏi tính chất trực quan, nhưng quan niệm của các nhà
triết học duy vật cổ đại Hy Lạp về nguồn gốc, bản chất con người đã đặt nền
móng cho quan niệm đúng đắn về con người trong triết học sau này.
- Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại không chỉ thấy mối quan hệ giữa con người
với tự nhiên, mà họ còn đề cập đến con người trong mối quan hệ với xã hội.
Đây cũng là quan niệm mà sau này Mác đã kế thừa và hoàn thiện.
- Tính nhân văn trong quan niệm của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại về con
người là làm thế nào để con người có được tự do, hạnh phúc. Mỗi triết gia có
thể có cách lý giải riêng của mình về vấn đề này, nhưng sự quan tâm đến nó đã
thể hiện tính nhân văn của triết học Hy Lạp cổ đại, đặc biệt là trong bối cảnh tồn
tại nhiều trắc trở, bất công của xã hội Hy Lạp.
- Khi đánh giá cao tri thức và những hiểu biết của con người, các nhà triết
học Hy Lạp cổ đại đã đề cao những nhà thông thái, coi họ là những người có tri
thức, có hiểu biết sâu rộng. Trong quan niệm của các nhà triết học Hy Lạp cổ
đại, đặc biệt là quan niệm của Socrate đã đánh giá cao vai trò của tri thức, theo
ông có tri thức con người mới có đạo đức, tự do, hạnh phúc.
- Trong nền dân chủ chủ nô, cùng với sự quan tâm đến giới tự nhiên và vũ
trụ, các vấn đề con người và xã hội cũng đã được các nhà triết học Hy Lạp cổ

đại tìm hiểu một cách sâu sắc. Con người với họ không chỉ là chủ thể, mà còn là
một đối tượng nghiên cứu. Thời cực thịnh của sự phát triển xã hội cho phép các
công dân nghĩ về trách nhiệm và quyền lợi tập thể gắn với quyền lợi quốc gia.
Nhà khai sáng đầu tiên trong thế giới cổ đại phương Tây - Prôtago đã khẳng
định: “Con người - thước đo của vạn vật”. Sự khẳng định này lấy con người làm
hệ quy chiếu để giải quyết các vấn đề về tồn tại và nhận thức. Trong sự tự do
mang tính tự ý thức đó, Prôtago xem nghệ thuật tranh luận như là phương thức
12
chứng minh vai trò của chủ thể. Socrate đã chọn cách tiếp cận khác, khi nhấn
mạnh rằng, sự tự do mang tính tự ý thức được đề cao chỉ trong chừng mực nó
được gắn với mục đích đạo đức cao nhất - cái Thiện phổ quát.
3.2.Hạn chế của triết học Hy Lạp cổ đại
- Vũ trụ luận Hy Lạp cổ đại không phải phát sinh từ tinh thần khoa học vật lý,
mà từ tinh thần khoa học huyền bí, còn mang nặng tính chất tình cảm lãng mạn.
Do vậy, trong quan niệm về con người của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại, các
nhà duy vật lẫn duy tâm, vẫn còn có những yếu tố huyền bí, siêu nhiên.
- Bên cạnh những quan niệm duy vật, trong triết học Hy Lạp cổ đại vẫn còn
có những quan niệm duy tâm về nguồn gốc, bản chất con người, quy bản chất
con người chỉ về lĩnh vực tư tưởng và xem bản chất con người là cái được quy
định từ trước, là cái sẵn có trong con người, do Thượng đế quy định.
- Mặc dù mang tính nhân văn trong quan niệm về con người, nhưng các nhà
triết học Hy Lạp cổ đại vẫn còn mang quan điểm bất bình đẳng về con người, họ
chưa hình thành lý luận riêng về tự do, mà chỉ có những cuộc đấu tranh vì tự do,
vì sự tự ý thức của người nô lệ. Cả trong thần thoại lẫn trong tư duy triết học,
tính tự chủ và giá trị người được quan tâm nhiều hơn là khát vọng. Và, nhìn
chung, trong quan niệm về con người, các nhà triết học Hy Lạp cổ đại vẫn còn
có nhiều hạn chế trong việc chỉ ra con đường để thực hiện giá trị con người,
cũng như khát vọng của con người.
- Triết học cổ đại là một thứ chủ nghĩa duy vật nguyên thủy tự phát. Đã là
một chủ nghĩa duy vật tự phát như vậy, thì nó không đủ năng lực giải thích rõ

mối quan hệ giữa tư duy và vật chất. Nhưng sự cần thiết phải làm sáng tỏ vấn đề
đó đã dẫn đến thuyết chủ trương linh hồn tách rời khỏi thể xác được, rồi đến
chỗ quả quyết rằng linh hồn ấy là bất diệt, cuối cùng đến nhất thần giáo. Thế là
chủ nghĩa duy vật cũ đã bị chủ nghĩa duy tâm phủ định. Do quá đề cao tri thức,
nên các nhà triết học Hy Lạp cổ đại chỉ coi trong hoạt hoạt động trí óc, hoạt
động tinh thần, hoạt động nhận thức của con người.
- Triết học thời kỳ Hy Lạp hóa đã đề cập đến con người thuộc cả tầng lớp lao
động, đã đặt ra vấn đề đòi quyền làm người cho nô lệ - điều mà triết học thời kỳ
sơ khai và cực thịnh chưa hề bàn đến. Trước những biến động của lịch sử, vấn
đềtự do của con người cũng được chú ý, nhưng chỉ hướng đến tự do cá nhân.
Chú trọng đến con người cá nhân là điều cần thiết, song việc né tránh những
chủ đề siêu hình và nhận thức luận truyền thống, đắm chìm vào những góc nhỏ
13
của đời thường lại báo hiệu sự suy thoái của triết học sau những thế kỷ đột phá
đầy vinh quang. Đôi khi những thất vọng chưa từng biết đến về cuộc sống chính
trị - xã hội đã đưa đến chỗ hàng loạt khái niệm nền tảng của đạo đức, thẩm mỹ,
như hạnh phúc, cái thiện, điều lợi, cái đẹp… bị lật ngược theo chiều hướng phủ
định, với thái độ dửng dưng, vô cảm, phó mặc, tránh động chạm vào nỗi đau và
sự dằn vặt cá nhân.
14

×