Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Nâng cao khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng của công ty cổ phần tư vấn thiết kế công nghệ xây dựng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.89 KB, 33 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
Đất nước ta đang trên đà phát triển, tình hình kinh tế trong những năm vừa
qua có rất nhiều sự chuyển biến tốt đẹp. Năm 2006, Việt Nam đã chính thức trở thành
thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Để theo kịp với nền kinh
tế thế giới và khu vực thì vấn đề đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng là rất quan trọng,
nó sẽ thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong những năm gần đây, hoạt động đấu thầu xây dựng ở nước ta trong lĩnh
vực xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển hơn bao giờ hết, các công ty xây dựng phải
cạnh tranh trong một môi trường vô cùng khắc nghiệt. Số lượng các doanh nghiệp
xây dựng gia tăng ngày càng nhiều, cả trong nước và ngoài nước. Tuy nhiên, hệ
thống pháp luật về đấu thầu ở nước ta vẫn chưa được hoàn chỉnh, các vấn đề bất cập
xoay quanh nó vẫn còn rất nan giải, các doanh nghiệp phải điều chỉnh hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp mình để thích ứng và tồn tại.
Qua một thời gian tìm hiểu thực tế tại Công ty cổ phần tư vấn thiết kế công
nghệ xây dựng và với những kiến thức đã học đã cho em thấy vai trò của công tác
đấu thầu xây dựng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty là vô cùng quan
trọng, vì vậy em đã quyết định chọn đề tài: “Nâng cao khả năng cạnh tranh trong
đấu thầu xây dựng của công ty cổ phần tư vấn thiết kế công nghệ xây dựng” là
đề tài nghiên cứu của mình.
Nội dung đề tài bao gồm ba chương:
Chương 1: Những lí luận chung về khả năng cạnh tranh và nâng cao khả năng
cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng của doanh nghiệp.
Chương 2. Phân tích thực trạng khả năng cạnh tranh và nâng cao khả năng
cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng của công ty cổ phần tư vấn thiết kế công nghệ
xây dựng.
Chương 3: Những biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh trong đấu thầu
xây dựng của công ty cổ phần tư vấn thiết kế công nghệ xây dựng.
Do trình độ và thời gian có hạn nên đề tài nghiên cứu của em không thể tránh
khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo cũng
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A


Website: Email : Tel (: 0918.775.368
như sự góp ý của các cán bộ trong công ty cổ phần đầu tư thiết kế công nghệ xây
dựng để đề tài của em được hoàn thiện hơn.
Qua đây em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới tất cả nhân viên trong
công ty cổ phần tư vấn thiết kế công nghệ xây dựng đã giúp đỡ, chỉ bảo em hoàn
thành đề tài nghiên cứu này. Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Hoàng
Minh Đường đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn em trong suốt thời gian thực tập vừa qua,
giúp em hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình.
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG 1. NHỮNG LÍ LUẬN CHUNG VỀ KHẢ NĂNG CẠNH
TRANH VÀ NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH TRONG
ĐẤU THẦU XÂY DỰNG CỦA DOANH NGHIỆP.
1.1 TỔNG QUAN VỀ ĐẤU THẦU XÂY DỰNG.
1.1.1. Các khái niệm liên quan đến đấu thầu.
Theo điều 3 tại chương I của quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định
số 88 / 1999 / NĐ – CP ngày 01 tháng 9 năm 1999 của Chính phủ đã nêu rõ nội dung
của một số thuật ngữ về đấu thầu:
- Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của Bên mời
thầu.
- Đấu thầu trong nước là cuộc đấu thầu chỉ có các nhà thầu trong nước tham
dự.
- Đấu thầu quốc tế là cuộc đấu thầu có các nhà thầu trong và ngoài nước tham
dự.
- Xét thầu là quá trình Bên mời thầu xem xét, phân tích, đánh giá xếp hạng các
hồ sơ dự thầu để lựa chọn nhà thầu trúng thầu.
- Dự án là tập hợp những đề xuất để thực hiện một phần hay toàn bộ công
việc, mục tiêu, hoặc yêu cầu nào đó. Dự án bao gồm dự án đầu tư và dự án không có
tính chất đầu tư.
- Bên mời thầu là chủ dự án, chủ đầu tư hoặc pháp nhân đại diện hợp pháp của

chủ dự án, chủ đầu tư được giao trách nhiệm thực hiện công việc đấu thầu.
- Nhà thầu là tổ chức cá nhân trong nước hoặc nước ngoài có năng lực pháp
luật dân sự, đối với cá nhân còn phải có năng lực hành vi dân sự để kí kết và thực
hiện hợp đồng. Năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của nhà thầu
trong nước được xét theo pháp luật Việt Nam, đối với nhà thầu nước ngoài được xét
theo pháp luật của nước nơi nhà thầu mang quốc tịch. Nhà thầu phải đảm bảo sự độc
lập về tài chính của mình.
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nhà thầu là nhà xây dựng trong đấu thầu xây lắp; là nhà cung cấp trong đấu
thầu mua sắm hàng hóa; là nhà tư vấn( có thể là một cá nhân) trong đấu thầu tuyển
chọn tư vấn; là nhà đầu tư trong đấu thầu lựa chọn đối tác đầu tư.
Nhà thầu có thể tham gia dự thầu độc lập( gọi là nhà thầu độc lập) hoặc liên
doanh với các nhà thầu khác( gọi là nhà thầu liên doanh). Trường hợp liên doanh phải
có văn bản thỏa thuận giữa các thành viên tham gia liên doanh về trách nhiệm chung
và riêng đối với công việc thuộc gói thầu và phải có người đứng đầu của liên doanh.
- Gói thầu là toàn bộ dự án hoặc một phần công việc của dự án được phân chia
theo tính chất kỹ thuật hoặc trình tự thực hiện một dự án, có quy mô hợp lý và bảo
đảm tính đồng bộ của dự án.
- Hồ sơ mời thầu là toàn bộ tài liệu do Bên mời thầu lập, bao gồm các yêu cầu
cho một gói thầu được dùng làm căn cứ để nhà thầu chuẩn bị hồ sơ dự thầu và Bên
mời thầu đánh giá hồ sơ dự thầu. Hồ sơ mời thầu phải được người có thẩm quyền
hoặc cấp có thẩm quyền phê duyệt trước khi phát hành.
- Hồ sơ dự thầu là các tài liệu do nhà thầu lập theo yêu cầu của hồ sơ mời
thầu.
- Mở thầu là thời điểm tổ chức mở các hồ sơ dự thầu được quy định trong hồ
sơ mời thầu.
- Đóng thầu là thời điểm kết thúc việc nộp hồ sơ dự thầu được quyết định
trong hồ sơ mời thầu.
- Kết quả đấu thầu là nội dung phê duyệt của người có thẩm quyền hoặc cấp

có thẩm quyền về tên nhà thầu trúng thầu, giá trúng thầu và loại hợp đồng.
- Thương thảo hoàn thiện hợp đồng là quá trình tiếp tục thương thảo hoàn
chỉnh nội dung chi tiết của hợp đồng với nhà thầu trúng thầu để kí kết.
1.1.2. Các hình thức và phương thức đấu thầu xây dựng.
Theo điều 4- Quy chế đấu thầu thuộc nghị định số 88/1999/ NĐ- CP thì đấu
thầu xây dựng cũng như các loại đấu thầu khác được thực hiện theo hai hình thức chủ
yếu đó là:
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Đấu thầu rộng rãi : Là hình thức đấu thầu không hạn chế số lượng nhà thầu
tham gia. Bên mời thầu phải thông báo công khai về các điều kiện, thời gian dự thầu
trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc thông báo trên tờ thông tin về đấu thầu
và trang Web về đấu thầu của Nhà nước và của Bộ, ngành địa phương tối thiểu 10
ngày trước khi phát hành hồ sơ mời thầu. Đấu thầu rộng rãi là hình thức chủ yếu áp
dụng trong đấu thầu.
- Đấu thầu hạn chế: Là hình thức đấu thầu mà Bên mời thầu mời một số nhà
thầu ( tối thiểu là 5) có đủ kinh nghiệm và năng lực tham dự. Trong trường hợp thực
tế chỉ có ít hơn 5, Bên mời thầu phải báo cáo chủ dự án trình người có thẩm quyền
xem xét, quyết định. Chủ dự án quyết định danh sách nhà thầu tham dự trên cơ sở
đánh giá của Bên mời thầu về kinh nghiệm và năng lực các nhà thầu, song phải đảm
bảo khách quan công bằng và đúng đối tượng. Hình thức này chỉ được xem xét áp
dụng khi có một trong các điều kiện sau:
* Chỉ có một số nhà thầu có khả năng đáp ứng được yêu cầu của gói thầu.
* Do nguồn vốn sử dụng yêu cầu phải tiến hành đấu thầu hạn chế.
* Do tình hình cụ thể của gói thầu mà việc đấu thầu hạn chế có lợi thế.
Theo điều 5- Quy chế đấu thầu thuộc nghị định số 88/ 1999/ NĐ- CP thì có ba
phương thức đấu thầu:
- Đấu thầu một túi hồ sơ: Là phương thức mà nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu
trong một túi hồ sơ. Phương thức này được áp dụng đối với đấu thầu mua sắm hàng
hóa và xây lắp.

- Đấu thầu hai túi hồ sơ: Là phương thức mà nhà thầu nộp đề xuất về kỹ thuật
và đề xuất về giá trong từng túi hồ sơ riêng vào cùng một thời điểm. Túi hồ sơ đề
xuất kỹ thuật sẽ được xem xét trước để đánh giá. Các nhà thầu đạt số điểm kỹ thuật
từ 70% trở lên sẽ được mở tiếp túi hồ sơ đề xuất về giá để đánh giá. Phương thức này
chỉ được áp dụng đối với đấu thầu tuyển chọn tư vấn.
- Đấu thầu hai giai đoạn: Phương thức này áp dụng cho những trường hợp sau:
* Các gói thầu mua sắm hàng hóa và xây lắp có giá trị từ 500 tỷ đồng trở lên.
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
* Các gói thầu mua sắm hàng hóa có tính chất lựa chọn công nghệ thiết bị toàn
bộ, phức tạp về công nghệ và kỹ thuật hoặc gói thầu xây lắp đặc biệt phức tạp.
* Dự án thực hiện theo hợp đồng chìa khóa trao tay.
o Giai đoạn 1: Các nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu sơ bộ gồm đề xuất về mặt kỹ
thuật và phương án tài chính ( chưa có giá ) để Bên mời thầu xem xét và thảo luận cụ
thể với từng nhà thầu nhằm thống nhất về yêu cầu và tiêu chuẩn kỹ thuật để nhà thầu
chuẩn bị và nộp hồ sơ dự thầu chính thức của mình.
o Giai đoạn 2: Bên mời thầu mời các nhà thầu tham gia trong giai đoạn thứ
nhất nộp hồ sơ dự thầu chính thức với đề xuất kỹ thuật đã được bổ sung hoàn chỉnh
trên cùng một mặt bằng kỹ thuật và đề xuất chi tiết về tài chính với đầy đủ nội dung
về tiến độ thực hiện, điều kiện hợp đồng, giá dự thầu.
1.1.3 Một số tính chất và nguyên tắc của đấu thầu xây dựng.
- Trong nền kinh tế thị trường hiện nay có rất nhiều công ty xây dựng với quy
mô và năng lực khác nhau. Vì thế để công trình xây dựng đạt được hiệu quả kinh tế
cũng như đảm bảo tính kỹ thuật thì nhà nước đã ban hành quy chế về đấu thầu với
một số tính chất sau:
* Tính bình đẳng:
Trong đấu thầu tính bình đẳng thể hiện ở điểm là mọi nhà thầu đều được tham
gia dự thầu một cách công bằng, tạo lập một môi trường cạnh tranh lành mạnh.
Những nhà thầu tham gia đều có quyền được Bên mời thầu cung cấp đầy đủ các
thông tin cần thiết về gói thầu. Tiêu chuẩn và thang điểm đánh giá được áp dụng

chung cho tất cả mọi nhà thầu. Thực hiện tính bình đẳng trong đấu thầu xây dựng
mang lại hiệu quả kinh tế và chất lượng công trình cho nhà đầu tư, nhà dự thầu và
Bên mời thầu.
* Tính thống nhất: Thể hiện ở chỗ là khi đã hết hạn nộp hồ sơ dự thầu thì
không được thay đổi bất kỳ một yếu tố nào trong hồ sơ tham gia dự thầu vì theo quy
định tất cả những đề xuất về mặt kỹ thuật cũng như về mặt tài chính đều đã được
niêm phong. Tính thống nhất còn thể hiện ở chỗ là mọi hồ sơ của nhà thầu từ nhà
thầu đầu tiên đến nhà thầu cuối cùng đều được đánh giá theo một tiêu chuẩn thống
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhất. Nhà thầu không thay đổi những quy định liên quan tới gói thầu, nếu có sự thay
đổi phải thông báo cho các nhà thầu biết trước khi hết hạn nộp hồ sơ dự thầu. Ngoài
ra việc đấu thầu phải tiến hành theo một lộ trình thống nhất, các bên tham gia đấu
thầu phải tuân theo mọi thủ tục và theo các quy định định sẵn của nhà thầu. Làm tốt
công tác này sẽ giúp đảm bảo tiến độ và kết quả của đấu thầu.
* Tính bảo mật cao: Mọi thông tin về các đề xuất tài chính và kỹ thuật của nhà
thầu phải được nhà mời thầu bảo đảm giữ bí mật, không được tiết lộ ra bên ngoài hay
sao chép trước thời điểm mở thầu. Thang điểm đánh giá hồ sơ dự thầu cũng phải
được bảo đảm bí mật tuyệt đối.
* Tính khách quan: Trong quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu đòi hỏi phải có sự
đánh giá khách quan của Bên mời thầu. Các tiêu chí đánh giá phải được nêu rõ trong
tài liệu đấu thầu và có thang điểm đi kèm. Thông thường Bên mời thầu ngoài việc
xem xét về yếu tố giá cả và kỹ thuật còn phải xem xét các yếu tố khác như hồ sơ năng
lực kinh nghiệm của công ty, năng lực nhân sự, phương thức thanh toán và các điều
khoản bảo hành.
- Một số nguyên tắc của đấu thầu xây dựng:
* Nguyên tắc cạnh tranh công bằng với các điều kiện như nhau: Với mỗi cuộc
đấu thầu đều có sự tham gia của một số nhà thầu đáp ứng được các yêu cầu do nhà
mời thầu đưa ra, tạo ra một môi trường cạnh tranh giữa các nhà thầu. Nhà mời thầu
phải cung cấp đầy đủ các thông tin và các tài liệu đấu thầu là như nhau cho các nhà

thầu, không được có sự thiên lệch về bất cứ bên nào.
* Nguyên tắc công khai và cung cấp đầy đủ dữ liệu : Theo nguyên tắc này tất
cả các giai đoạn từ gọi thầu đến mở thầu Nhà mời thầu phải thực hiện công khai, trừ
những công trình có tính chất đặc biệt thuộc về bí mật quốc gia. Ngoài ra Nhà mời
thầu còn phải có trách nhiệm cung cấp tất cả các thông tin liên quan đến gói thầu như
về quy mô, yêu cầu chất lượng, khối lượng công trình. Thực hiện tốt công tác này sẽ
giúp cho quá trình lập hồ sơ đề xuất về kỹ thuật và phương án tài chính của nhà thầu
sẽ chính xác, quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu lựa chọn nhà thầu vì thế mà đúng đắn
hơn.
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
* Nguyên tắc đánh giá khách quan: Hội đồng xét thầu phải tiến hành đánh giá
đầy đủ các bộ hồ sơ dự thầu và theo cùng một tiêu chuẩn, thang điểm đã được xây
dựng từ trước. Trong quá trình đánh giá không được có bất cứ một sự ưu tiên thiên vị
dành cho một nhà thầu nào đó.
* Nguyên tắc ba bên : Một số gói thầu có yêu cầu kỹ thuật cao thì đòi hỏi có
sự có mặt của ba bên đó là nhà mời thầu, nhà thầu, các nhà chuyên gia tư vấn. Các
chuyên gia tư vấn có vai trò như nhà trọng tài đảm bảo cho quá trình đánh giá hồ sơ,
lựa chọn nhà thầu được diễn ra khách quan, đem lại sự công bằng cho các nhà thầu
tham gia dự thầu. Những sự vi phạm của nhà mời thầu trong quá trình đánh giá cũng
như sự mua chuộc của nhà thầu, sự móc ngoặc liên kết giữa các nhà thầu đều bị xử
phạt.
* Nguyên tắc bảo đảm và bảo lãnh: Theo nguyên tắc này thì các nhà thầu phải
thực hiện một trong các biện pháp đặt cọc, kí quỹ hoặc nộp thư bảo lãnh để bảo đảm
trách nhiệm dự thầu của nhà thầu, hoặc để bảo đảm trách nhiệm thực hiện hợp đồng
của nhà thầu trúng thầu trong một thời gian xác định theo yêu cầu của hồ sơ mời
thầu. Nguyên tắc này giúp bảo đảm lợi ích của cả Bên mời thầu và nhà thầu, nó thể
hiện tính chất nghiêm túc của quá trình thực hiện đấu thầu.
1.1.4 Vai trò của đấu thầu xây dựng.
- Đối với nhà nước: Đấu thầu giúp Nhà nước nâng cao hiệu quả sử dụng

nguồn vốn, hạn chế lãng phí thất thoát vốn chống tiêu cực vào các công trình xây
dựng, đóng góp vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng của nhà nước. Nhà nước thông qua
đấu thầu có thể lựa chọn được nhà thầu có khả năng hoàn thành công trình với
phương án kinh tế hợp lý. Hiện nay theo con số mà Uỷ ban kinh tế và Ngân sách
Quốc hội là khoảng 50% vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Việt Nam bị rút ruột thất
thoát. Có đến 80% các gói thầu thuộc các lãnh vực khác nhau được giới chức thực
hiện hiện theo hình thức chỉ định thầu hoặc đấu thầu hạn chế, ngoài ra còn tình trạng
thông thầu, gian lận cố ý tính sai giảm giá gói thầu để trúng thầu sau đó xin điều
chỉnh gói thầu. Vì vậy việc áp dụng luật mới trong đấu thầu xây dựng là rất cần thiết
để giảm thiểu tình trạng thất thoát vốn nhà nước, các công trình bị rút ruột.
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Đối với doanh nghiệp: Đấu thầu xây dựng tạo lập một môi trường cạnh tranh
công bằng minh bạch mà ở đó nhà thầu nào có năng lực thì nhà thầu đó chiếm vị trí
thượng phong, không còn tình trạng thông thầu, tình trạng khép kín trong đấu thầu
xây dựng, tình trạng cấu kết thông đầu giữa bên mời thầu với nhà thầu, cố tình sắp
đặt để cha mẹ đẻ, cha mẹ vợ hoặc chồng, anh chị em ruột, người thân tham gia các
gói thầu mà bản thân làm bên mời thầu hoặc là thành viên tổ chuyên gia đấu thầu,
thành viên tổ chuyên gia thẩm định kết quả lựa chọn nhà thầu. Đấu thầu giúp chủ đầu
tư có thể lựa chọn được nhà thầu có năng lực đáp ứng được yêu cầu của mình về kỹ
thuật, chất lượng công trình được đảm bảo, thực hiện công trình theo đúng tiến độ,
hiệu quả kinh tế cao.
Đấu thầu xây dựng là hình thức đảm bảo sự công bằng minh bạch cho tất cả
các nhà thầu tham gia. Chính vì thế nó thúc đẩy các nhà thầu ứng dụng khoa học
công nghệ hiện đại, khoa học quản lý hiện đại trong quá trình sản xuất và quản trị,
nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản trị và đội ngũ nhân viên trong doanh nghiệp.
Thông qua đấu thầu các nhà thầu có thể lựa chọn những gói thầu phù hợp với khả
năng của doanh nghiệp mình, đảm bảo chất lượng công trình tăng niềm tin, uy tín với
chủ đầu tư và các đối tác trong tương lai.
1.2 NỘI DUNG CỦA CẠNH TRANH VÀ NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH

TRANH TRONG ĐẤU THẦU XÂY DỰNG VÀ CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ
KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG.
1.2.1 Khái niệm về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh trong đấu thầu
xây dựng.
Thuật ngữ cạnh tranh xuất hiện từ nửa sau thế kỷ XVIII, xuất phát từ “ tự do
kinh tế ” mà Adam Smith đã phát hiện. Nhờ cạnh tranh mà xã hội loài người ngày
càng phát triển về mọi mặt. Cạnh tranh kích thích lòng tự hào, ý chí vươn lên ham
muốn làm giàu, ham muốn khám phá cái mới, nhờ đó mà thúc đẩy khoa học kỹ thuật
phát triển, thúc đẩy sự phát triển của mọi ngành nghề lĩnh vực, mọi doanh nghiệp
không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn phát triển ra phạm vi toàn cầu.
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Có khá nhiều quan niệm về cạnh tranh tồn tại từ trước nửa đầu thế kỷ XX đến
nay của nhiều học giả kinh tế nổi tiếng trên thế giới nhưng tựu chung lại thì cạnh
tranh chính là sự ganh đua, sự phấn đấu, vươn lên không ngừng để giành lấy vị trí
hàng đầu trong một lĩnh vực hoạt động nào đó bằng cách ứng dụng những tiến bộ
khoa- kỹ thuật tạo ra nhiều lợi thế nhất, tạo ra sản phẩm mới, tạo ra năng suất và hiệu
quả cao nhất.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường như nước ta hiện nay, nhà nước chỉ
đóng vai trò quản lý vĩ mô, mọi thành phần kinh tế đều hoạt động và vận hành theo
cơ chế của thị trường: quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh. Trong
đó quy luật cạnh tranh là quy luật tất yếu, là đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị
trường, nếu doanh nghiệp muốn tồn tại, phát triển thì doanh nghiệp phải tìm mọi cách
để hoàn thiện, nâng cao tiềm lực doanh nghiệp về mọi mặt.
Trong cạnh tranh nảy sinh ra những người có khả năng cạnh tranh mạnh,
người có khả năng cạnh tranh yếu hoặc sản phẩm có khả năng cạnh tranh mạnh, sản
phẩm có khả năng cạnh tranh yếu. Khả năng cạnh tranh đó gọi là năng lực cạnh tranh
hay sức cạnh tranh.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp tạo ra được
lợi thế cạnh tranh, có khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh

tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững. Trong đấu
thầu xây dựng thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp chính là thị phần của doanh
nghiệp xây dựng, doanh thu, lợi nhuận từ hoạt động đấu thầu, năng lực tài chính của
doanh nghiệp, nguồn nhân lực có trình độ cao có kinh nghiệm, phương pháp quản lý,
bảo vệ môi trường, uy tín và thương hiệu của doanh nghiệp. Những yếu tố trên tạo
cho doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh có nghĩa là tạo cho doanh nghiệp có khả năng
triển khai các hoạt động với hiệu suất cao hơn đối thủ cạnh tranh, tạo ra giá trị khác
biệt cho khách hàng dựa trên những sự khác biệt hóa trong các yếu tố của chất lượng
hoặc chi phí thấp hoặc cả hai.
Cạnh tranh trong thị trường xây dựng rất khắc nghiệt nó tồn tại ba loại hình
cạnh tranh chủ yếu: cạnh tranh giữa các nhà thầu, cạnh tranh giữa chủ đầu tư và nhà
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thầu, cạnh tranh giữa nhà thầu và người cung cấp các yếu tố đầu vào. Nhưng khắc
nghiệt nhất vẫn là sự cạnh tranh giữa các nhà thầu. Thông qua đấu thầu xây dựng,
nhà thầu nào có năng lực cạnh tranh, có lợi thế hơn hẳn so với các nhà thầu khác sẽ
dành phần thắng.
Vậy ta hiểu cạnh tranh giữa các nhà thầu trong đấu thầu xây dựng là như thế
nào? Đó là quá trình doanh nghiệp tìm kiếm thông tin về đấu thầu, tìm kiếm thị
trường sau đó tiến hành lựa chọn các gói thầu phù hợp với năng lực doanh nghiệp,
đưa ra các giải pháp về tài chính và kỹ thuật các biện pháp thi công để tham gia đấu
thầu. Nếu trúng thầu thì tiến hành kí kết và thực hiện hợp đồng cho tới khi bàn giao
công trình cho chủ đầu tư. Như vậy muốn dành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh gay
go này thì doanh nghiệp phải có thực lực về mọi mặt, không ngừng phát huy điểm
mạnh, phải tạo ra được sự khác biệt đối với các doanh nghiệp khác.
1.2.2 Phương thức cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh trong
đấu thầu xây dựng của các doanh nghiệp.
Trong đấu thầu xây dựng các nhà mời thầu thường căn cứ vào một số tiêu chí
để đánh giá, lựa chọn nhà thầu trúng thầu:
- Giá bỏ thầu

- Biện pháp kỹ thuật, chất lượng công trình.
- Tiến độ thi công
- Năng lực và kinh nghiệm nhà thầu.
- Biện pháp tổ chức thi công, bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh môi trường.
Nhưng trong đó nhà mời thầu thường quan tâm tới bốn yếu tố đó là: giá bỏ
thầu, biện pháp kỹ thuật chất lượng công trình, tiến độ thi công, biện pháp tổ chức thi
công bảo đảm an toàn lao động và vệ sinh môi trường. Chính vì thế các doanh nghiệp
xây dựng thường chú ý tới bốn yếu tố này để nâng cao khả năng thắng thầu của
doanh nghiệp mình.
1.2.2.1 Cạnh tranh bằng giá dự thầu
Trong quá trình tham gia dự thầu, doanh nghiệp xây dựng thường chú ý tới
phương thức dùng giá để cạnh tranh với các nhà thầu khác bởi vì giá dự thầu là một
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trong những yếu tố quyết định tới khả năng thắng thầu của doanh nghiệp. Để đưa ra
được một mức giá bỏ thầu hợp lý doanh nghiệp xây dựng phải tiến hành tìm hiểu thị
trường, tìm hiểu các thông tin liên quan đến dự án, tiến hành đánh giá các yếu tố môi
trường xung quanh. Việc xác định giá bỏ thầu là phức tạp vì nó phụ thuộc vào nhiều
yếu tố như trình độ của người làm công tác xây dựng giá bỏ thầu, trình độ tổ chức quản
lý công ty, kỹ thuật và tiến độ thi công, khả năng áp dụng công nghệ tiên tiến.
Chính sách về giá được áp dụng trong giá bỏ thầu cũng phụ thuộc vào từng
giai đoạn phát triển của doanh nghiệp cũng như mục tiêu mà công ty theo đuổi, năng
lực công ty, địa điểm thực hiện dự án, phong tục tập quán của địa phương nơi triển
khai dự án, quy mô và đặc điểm của dự án. Doanh nghiệp muốn tăng khả năng cạnh
tranh về giá thì phải áp dụng chính sách về giá một cách linh hoạt.
1.2.2.2 Cạnh tranh bằng chất lượng công trình.
Chúng ta có thể nói rằng chất lượng công trình là minh chứng cụ thể và rõ
ràng nhất cho uy tín và năng lực của doanh nghiệp. Thông qua đó nó gây được ấn
tượng tốt cho chủ đầu tư, tạo khả năng thắng thầu cho doanh nghiệp.
Chất lượng công trình được đánh giá dựa trên các đặc trưng kinh tế kỹ thuật,

các chỉ tiêu mà nhà đầu tư đưa ra như tính năng, công dụng, độ bền, tính thẩm mỹ.
Chất lượng công trình không đảm bảo sẽ gây thiệt hại không những về mặt kinh tế
mà còn có thể cả về con người. Chính vì vậy mà doanh nghiệp xây dựng không
ngừng nâng cao chất lượng công trình kể cả những công trình được tổ chức đấu thầu
xây dựng và những công trình đã và đang xây dựng, vừa tạo ra một hình ảnh tốt vừa
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận và đảm bảo
thực hiện được các mục tiêu đề ra.
1.2.2.3 Cạnh tranh bằng tiến độ thi công
Tiến độ thi công được thể hiện ở việc bố trí tổng thể công tác thi công công
trình của doanh nghiệp xây dựng, nó ảnh hưởng tới sự cam kết đối với chất lượng, an
toàn lao động và thời điểm bàn giao công trình cho chủ đầu tư. Cũng thông qua tiến
độ thi công của các nhà thầu xây dựng chủ đầu tư có thể nghiên cứu tìm hiểu các vấn
đề như trình độ quản lý, kỹ thuật thi công, máy móc thiết bị của nhà thầu xây dựng,
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhân lực của nhà thầu. Nếu nhà thầu xây dựng đảm bảo thực hiện đúng tiến độ thi
công, có giải pháp thi công sắp xếp công việc, bố trí thời gian thi công các hạng mục
công trình hợp lý thì sẽ có được lợi thế cạnh tranh, khả năng thắng thầu sẽ cao.
1.2.2.4 Cạnh tranh bằng biện pháp tổ chức thi công, bảo đảm an toàn cho
người lao động và giữ gìn vệ sinh môi trường.
Nếu các nhà thầu tham gia đấu thầu xây dựng mà có cùng số điểm khi đánh giá
trên các tiêu chí: giá dự thầu, chất lượng công trình, tiến độ thi công thì việc lựa chọn
nhà thầu thắng thầu sẽ được căn cứ trên tiêu chí biện pháp tổ chức thi công, bảo đảm
an toàn cho người lao động và giữ gìn vệ sinh môi trường. Hiện nay khoa học công
nghệ rất phát triển, được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực đặc biệt là lĩnh vực
xây dựng vì vậy mà doanh nghiệp xây dựng cần phải có giải pháp phân công bố trí
nhân lực hợp lí sao cho có một biện pháp tổ chức thi công hợp lí tận dụng tối đa máy
móc thiết bị, đảm bảo an toàn cho người lao động tham gia thi công và giữ gìn vệ sinh
môi trường để tạo thêm ưu thế cạnh tranh so với nhà thầu khác.
1.2.3 Những tiêu chí đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp

xây dựng
1.2.3.1 Năng lực tài chính của doanh nghiệp.
Năng lực tài chính là yếu tố rất quan trọng để xem xét tiềm lực của doanh
nghiệp mạnh, yếu như thế nào.
- Nhóm chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp:
* Hệ số khả năng thanh toán hiện hành = Tổng tài sản lưu động / tổng nợ ngắn
hạn.
Nếu hệ số này quá cao tức là doanh nghiệp đã đầu tư vào tài sản lưu động quá
nhiều, không mang lại hiệu quả lâu dài.
* Hệ số khả năng thanh toán tức thời = Tổng vốn tiền mặt/ Tổng nợ ngắn hạn.
Nếu hệ số này cao doanh nghiệp có khả năng lớn nhưng nếu quá cao thì không
mang lại hiệu quả vì tiền mặt không sinh lời.
- Nhóm chỉ tiêu đánh giá cơ cấu nguồn vốn và vốn :
* Tỷ lệ nợ = Tổng nợ phải trả / Tổng vốn (%)
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A

×