Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Đánh giá năng suất và chất lượng của một số tổ hợp ngô nếp lai vụ Thu Đông tại Gia Lâm Hà Nội năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 90 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA NÔNG HỌC
&
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
“Đánh giá năng suất và chất lượng của một số tổ hợp ngô nếp
lai vụ Thu Đông tại Gia Lâm- Hà Nội năm 2014”.
Người hướng dẫn : ThS. NGUYỄN VĂN LỘC
Bộ môn : CÂY LƯƠNG THỰC
Người thực hiện : LÊ THỊ LOAN
Lớp : KHCTC
Khóa : 56
Ngành : KHOA HỌC CÂY TRỒNG
HÀ NỘI - 2015
ii
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực tập và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp, ngoài sự cố
gắng của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều tập thể và
cá nhân.
Trước hết tôi xin bày tỏ lời cảm ơn đến thầy Th.s Nguyễn Văn Lộc đã tận
tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành
khóa luận tốt nghiệp.
Tôi xin cảm ơn thầy ThS. Phạm Quang Tuân, các thầy cô, các bác bảo vệ
và các anh chị trong Viện Nghiên cứu và Phát triển Cây trồng, Học viện Nông
nghiệp Việt Nam, đã hết lòng giúp đỡ, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi về vật chất
và tinh thần cho tôi thực hiện đề tài nghiên cứu.
Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn tới các cán bộ công nhân viên của Bộ môn
Cây lương thực đã giúp đỡ và chia sẻ nhiều kinh nghiệm quý báu và tạo nhiều
điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè,
đặc biệt là các bạn trong nhóm thực tập đã động viên giúp đỡ tôi trong suốt thời


gian thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Sinh viên
Lê Thị Loan
i
MỤC LỤC
2.2. Nguồn gốc, phân loại và đặc tính cây ngô nếp 12
2.5. Cơ sở khoa học của đề tài 18
* Giống ngô thụ phấn tự do (OPV-open pollinated variety) 20
* Giống ngô lai (Hybrid maize) 21
4.1. Thời gian sinh trưởng qua các giai đoạn của tổ hợp lai ngô nếp 31
4.2. Động thái sinh trưởng và phát triển của các tổ hợp lai ngô nếp 34
4.3. Đặc điểm hình thái của các tổ hợp lai ngô nếp 38
4.4. Các đặc đặc điểm sinh lý của các tổ hợp lai ngô nếp 43
4.6. Một số đặc tính chống chịu của các tổ hợp lai ngô nếp 49
ii
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1 Danh sách các tổ hợp lai & giống tham gia thí nghiệm 23
Bảng 3.2: Đánh giá chất lượng ngô nếp 30
Bảng 4.1 : Thời gian sinh trưởng của các tổ hợp lai ngô nếp vụ Thu 32
Đông tại Gia Lâm – Hà Nội năm 2014 32
Bảng 4.2: Động thái tăng trưởng chiều cao của các tổ hợp lai ngô nếp vụ Thu Đông tại Gia
Lâm – Hà Nội năm 2014 35
Bảng 4.3: Động thái tăng trưởng số lá của các tổ hợp lai ngô nếp vụ Thu Đông tại Gia Lâm –
Hà Nội năm 2014 37
Bảng 4.4: Đặc trưng hình thái cây của các tổ hợp lai ngô nếp vụ Thu Đông tại Gia Lâm – Hà
Nội năm 2014 40
Bảng 4.5: Đặc điểm hình thái bông cờ các tổ hợp lai ngô nếp 42
vụ Thu Đông tại Gia Lâm – Hà Nội năm 2014 42

Bảng 4.6: Diện tích lá (DTL) và chỉ số diện tích lá ( LAI) qua các thời kì sinh trưởng của các
tổ hợp lai ngô nếp trong vụ Thu Đông tại 45
Gia Lâm – Hà Nội năm 2014 45
Bảng 4.7: Bảng chỉ số SPAD của các tổ hợp lai ngô nếp vụ Thu Đông tại Gia Lâm – Hà Nội
năm 2014 47
Bảng 4.8: Đặc tính chống chịu sâu bệnh của các tổ hợp lai ngô nếp vụ Thu Đông tại Gia Lâm
– Hà Nội năm 2014 50
Bảng 4.9: Các yếu tố cấu thành năng suất của các tổ hợp lai 54
Bảng 4.10: Năng suất bắp tươi và lý thuyết của các tổ hợp lai ngô nếp vụ Thu Đông tại Gia
Lâm – Hà Nội năm 2014 55
Bảng 4.11. Chỉ tiêu chất lượng của các tổ hợp lai ngô nếp vụ Thu Đông tại Gia Lâm – Hà Nội
năm 2014 56
iii
DANH MỤC ĐỒ THỊ
Đồ thị 4.1: Động thái tăng trưởng chiều cao cây của một số tổ hợp lai 36
ngô nếp vụ Thu Đông tại Gia Lâm – Hà Nội năm 2014 36
Đồ thị 4.2: Động thái tăng trưởng số là của các tổ hợp lai ngô nếp vụ Thu Đông tại Gia Lâm –
Hà Nội năm 2014 38
Đồ thị 4.3: Diện tích lá và chỉ số diện tích lá qua các thời kỳ của các tổ hợp lai ngô nếp vụ
Thu Đông tại Gia Lâm – Hà Nội năm 2014 46
Đồ thị 4.4: Chỉ số SPAD của các tổ hợp lai ngô nếp vụ Thu Đông tại 48
Gia Lâm – Hà Nội năm 2014 48
iv
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Từ viết đầy đủ
CP Cổ phần
Cs Cộng sự
CV Coefficient of variation
CTCPGCTTU Công ty cổ phần giống cây trồng trung ương
ĐC Đối chứng

ĐTTM và PTNN ADI Đầu tư thương mại và Phát triển Nông nghiệp ADI
GMO Biến đổi gen
KNKH Khả năng kết hợp
KHKTNN Khoa học kỹ thuật nông nghiệp
LAI Leaf Area Index
LSD Least signifiant diference
NL Nhắc lại
NN & PTNT Nông Nghiệp và Phát triển Nông Thôn
NSBT Năng suất bắp tươi
NSLT Năng suất lý thuyết
OPV Open Pollinated Variety
P
1000
hạt Khối lượng nghìn hạt
TCN Tiêu chuẩn ngành
THL Tổ hợp lai
TPTD Thụ phấn tự do
VNC & PTCT Viện Nghiên cứu và Phát triển Cây trồng
v
Phần I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trên thế giới, Ngô là một trong những cây ngũ cốc quan trọng, diên tích
đứng thứ ba sau lúa mì, lúa nước; sản lượng đứng thứ hai và năng suất cao nhất
trong các cây ngũ cốc. Ngô là cây thức ăn chăn nuôi quan trọng nhất hiện nay:
70% chất tinh trong thức ăn tổng hợp là từ ngô, là thức ăn xanh ủ chua lý tưởng
cho đại gia súc, đặc biệt là bò sữa: 66% sản lượng ngô của thế giới được dùng
làm thức ăn cho chăn nuôi, trong đó các nước phát triển là 76% và các nước
đang phát triển là 57%. Gần đây, ngô còn được dùng làm thực phẩm, người ta
dùng bắp ngô bao tử làm rau vì nó cung cấp hàm lượng dinh dưỡng cao, ngô
nếp, ngô đường (ngô ngọt) được dùng làm quả ăn tươi (luộc, nướng) hoặc đóng
hộp làm thực phẩm xuất khẩu. Ngô là nguyên liệu cho ngành công nghiệp lương

thực – thực phẩm và công nghiệp nhẹ để sản xuất rượu, cồn, tinh bột, dầu,
glucozo, bánh kẹo…. Trong y dược ngô được dùng để trị áp huyết, râu ngô được
dùng làm thuốc.
Ngày nay nhu cầu về ngô ở quy mô toàn cầu ngày càng tăng, bởi lẽ ngô
không chỉ được dùng làm lương thực thực phẩm cho con người và thức ăn trong
chăn nuôi mà ngô còn dùng để chế biến nhiên liệu sinh học (ethanol). Diện tích
năng suất và sản lượng cây ngô thế giới tăng rất nhanh từ năm 1960 đến nay.
Năm 2013, diện tích ngô thế giới đạt mức 184.339.959 ha, cao gấp 1,75 lần,
năng suất đạt 5,5 tấn/ha cao gấp 2,8 lần, sản lượng đạt hơn 1,0 tỉ tấn cao gấp 5
lần so với năm 1961 (FAOSTAT, 2014).
Việt Nam, ngô là cây lương thực quan trọng thứ hai sau cây lúa và là cây
màu quan trọng nhất được trồng ở nhiều vùng sinh thái khác nhau, đa dạng về
mùa vụ gieo trồng và hệ thống canh tác. Cây ngô không chỉ là là nguồn thức ăn
cho chăn nuôi mà còn là cây trồng xóa đói giảm nghèo tại các tỉnh có điều kiện
kinh tế khó khăn. Sản xuất ngô cả nước qua những năm gần đây không ngừng
tăng về diện tích, năng suất và sản lượng. Cụ thể năm 2013, diên tích ngô cả
1
nước đạt 1.172.600 ha, năng suất xấp xỉ 44,3 tạ/ha, sản lượng đạt 5,2 triệu tấn,
là năm có năng suất và sản lượng cao nhất từ trước đến nay (FAOSTAT, 2014).
Tuy nhiên hằng năm Việt Nam vẫn phải nhập khẩu gần 1,5 – 1,7 triệu tấn ngô
để phục vụ nhu cầu trong nước (Tổng cục thống kê, 2012). Ở Việt Nam diện tích
trồng ngô có khả năng mở rộng được ở chân đất sau vụ lúa ở các vùng đồng
bằng, trung du.
Trong đó ngô nếp với đặc trưng là ngon, dẻo, có mùi thơm đặc biệt, tương tự
như gạo nếp, hạt ngô nếp rất dễ tiêu hóa, nó có chứa một số acid amin quan
trọng như: Triptophan, Lysin, Leusin, Tyrosin; Do vậy, ngô nếp thích hợp cho
việc chế biến thức ăn dinh dưỡng, bột ngũ cốc cho trẻ em và người lớn không
giống như các cây ngũ cốc khác, có rất ít chương trình chọn giống đối với ngô
nếp. các nhà chọn giống sẽ quan tâm đến ngô nếp nhiều hơn nếu như nhu cầu về
thị trường trường ngô nếp tăng lên. Hơn nữa phải kết hợp các gen qui định độ

ngọt, mềm dẻo, màu sắc hạt khác nhau và các đặc điểm hữu ích khác nữa để đa
dạng hóa sản phẩm, tăng tiềm năng thị trường. Những nghiên cứu về ngô nếp
hạn chế hơn so với ngô tẻ. Tuy nhiên từ trước đến nay trồng chủ yếu là giống
ngô nếp thuần (bắp nhỏ, đuôi chuột, năng suất thấp,…) mà các giống ngô nếp lai
vẫn chưa được sử dụng nhiều. Ngô nếp lai ngoài đặc tính vốn có thì yếu tố năng
suất cũng cao hơn do: có khả năng chống chịu với điều kiện ngoại cảnh, sâu
bệnh tốt. Tuy nhiên chưa được sử dụng nhiều là do: Phải nhập nội với giá cao;
vấn đề canh tác trong điều kiện khí hậu cụ thể.Vì thế mà cần lai tạo khảo sát các
giống, vật liệu ngô nếp trong nước. Để chọn tạo được giống ngô nếp lai thích
hợp ở Việt Nam thì việc khảo sát và đánh giá các tổ hợp lai là rất quan trọng
nhằm chọn ra tổ hợp triển vọng, dựa trên kết quả và nguồn vật liệu tổ hợp ngô
nếp lai của các nhà chọn tạo giống thì xuất phát từ thực tế trên mà chúng tôi tiến
hành thực hiện đề tài “Đánh giá năng suất và chất lượng của một số tổ hợp
ngô nếp lai vụ Thu Đông tại Gia Lâm- Hà Nội năm 2014”.
2
1.1. Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá khả năng sinh trưởng, năng suất và chất lượng giữa các tổ hợp lai
ngô nếp trong vụ Thu Đông năm 2014 nhằm chọn lọc ra tổ hợp lai ngô nếp ưu tú
triển vọng để phục vụ cho chọn tạo giống ngô nếp lai ở Học Viện Nông Nghiệp
Việt Nam.
1.2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.
- Bổ sung thông tin, dữ liệu khoa học cho công tác chọn tạo giống ngô nếp
ở Việt Nam.
- Xác định được một số tổ hợp ngô nếp lai có triển vọng làm nguồn vật liệu
chọn tạo giống ngô lai.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tiến hành nghiên cứu 9 tổ hợp ngô nếp lai Viện nghiên cứu và Phát triển
cây trồng, Học viện Nông nghiệp Việt Nam lai tạo.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển, mức độ nhiễm sâu bệnh, năng
suất và chất lượng của các tổ hợp ngô nếp lai.
- Thời gian nghiên cứu: Vụ Thu Đông 2014.
3
PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Tình hình sản xuất ngô nếp trên thế giới và Việt Nam
2.1.1. Tình hình sản xuất ngô nếp trên thế giới
Trên thế giới ngô nếp cũng đã được nghiên cứu từ lâu, tuy nhiên do năng
suất thấp và nhu cầu sử dụng trước đây không cao nên nên ít được quan tâm đầu
tư nghiên cứu. Từ hơn nửa thế kỷ nay, ngô nếp được trồng và sử dụng như là
một hàng hóa ở qui mô nhỏ bởi những người nông dân ở một số nước Châu Á
như Thái Lan, Việt Nam, Lào, Myanma, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc
(Theo, Lertrat, K. and N.Thongnarin, 2008,[40]).
Ở Mỹ và các nước phát triển phần lớn sản lượng ngô nếp dùng để chế
biến tinh bột ngô nếp sử dụng trong công nghiệp chế biến thức ăn, bánh kẹo, keo
dán, công nghiệp giấy, ngoài ra nó còn được sử dụng dưới dạng sữa ngô làm gia
vị cho món salad. Tình hình phát triển tại Mỹ: Ngô nếp được trồng nhiều nhất ở
Mỹ, nhưng phần lớn diện tích được trồng ở miền trung ILLinois và Indiana, phía
bắc của Iowa, phía nam của Minnesota và Nebraska (US.Grains Council,
Advanced in Breeding Specialty maize types, 2000/2001) [46]. Việc sản xuất
ngô nếp ở Mỹ với lượng khá lớn, bắt đầu vào những năm 40 của thế kỷ 20. Theo
H.H.Schopmeyer thì sản lượng ngô nếp nếp sản xuất cho công nghiệp ở Iowa
xấp xỉ 356 tấn năm 1942 và 2540 tấn năm 1943 (Schopmeyer, H. H. 1943). Năm
1944, chỉ có 5 giống ngô nếp dùng cho việc sản xuất tinh bột. Năm 1943, tổng
số khoảng 81650 tấn hạt được sản xuất để đáp ứng nhu cầu amylopectin. Từ thế
chiến thứ II đến năm 1971 thì tất cả lượng ngô được trồng ở Mỹ để làm lương
thực và nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Năm 2002, ước tính 1.200.000-
1.300.000 tấn ngô nếp được sản xuất ở Mỹ trên diện tích 200 nghìn ha, chỉ
chiếm 0,5% tổng sản lượng ngô nước này (US Grain Council, 2002) [46].
Những năm gần đây, diện tích ngô nếp hàng năm của Mỹ tăng lên khoảng

290.000 ha. Hầu hết diện tích này được trồng là nếp vàng và nếp trắng. Theo
4
Alexander and Creech, mặc dầu đã trải qua một thời gian khá dài nhưng vẫn gặp
rất nhiều vấn đề trong việc tạo các dòng ngô nếp thương mại (Sprague, G.F. et
al, 1955) như: Ở bang Ohio, việc chọn lọc giống lai của các dạng ngô đặc biệt
rất phức tạp vì thiếu những dạng ngô làm đối chứng. Cả 2 dạng ngô có hàm
lượng lizin cao và ngô nếp đã được đưa ra những năm qua nhưng không có số
liệu về amyloza cao và dầu cao. Tiềm năng sản xuất hạt của những giống lai đặc
biệt này nhìn chung thấp hơn so với ngô tẻ, biến động tùy thuộc vào đất trồng,
trung bình đạt từ 65-75% so với ngô tẻ thường. Theo thông báo của trường đại
học Illinois, đã có một số giống nếp lai điển hình cho năng suất cao hơn những
giống tẻ lai (College of Agricultural of Illinois, 2003). Hiện nay do nhu cầu sử
dụng tăng lên, do vậy các nhà khoa học quan tâm nhiều hơn đến nghiên cứu và
chọn tạo các giống ngô nếp lai có năng suất cao, chất lượng ngon đáp ứng đòi
hỏi của thực tiễn sản suất.
Với biện pháp kỹ thuật nông học, tạo giống cổ truyền và ứng dụng tiến bộ
công nghệ sinh học (tạo giống kháng sâu, bệnh, năng suất cao, chống chịu điều
kiện bất thuận, chất lượng cao hơn hiện nay, chịu đất nghèo đạm). Kết quả trên
có được trước hết là nhờ ứng dụng rộng rãi lý thuyết ưu thế lai trong chọn tạo
giống, đồng thời không ngừng cải thiện các biện pháp kỹ thuật canh tác, đặc biệt
cùng với sự kết hợp phương pháp truyền thống với công nghệ sinh học thì việc
ứng dụng công nghệ cao trong canh tác đã đưa sản lượng ngô thế giới vượt lên
trên lúa mì và lúa nước. Với 52% diện tích trồng giống được tạo ra bằng công
nghệ sinh học, năng suất ngô nước Mỹ năm 2005 đạt hơn 10 tấn/ha trên diện
tích 30 triệu ha. Năm 2007, diện tích trồng ngô chuyển gen trên thế giới đã đạt
35,2 triệu ha, riêng ở Mỹ đã lên ñến 27,4 triệu ha, chiếm 73% trong tổng số hơn
37,5 triệu ha ngô của nước này (GMO. COMPASS). Tuy nhiên với ngô nếp về
sản lượng, năng suất chưa tương xứng với tiềm năng của nó. Diện tích trồng ngô
trắng và ngô nếp trên thế giới là 32 triệu ha và Châu Á là 6,9 triệu ha, năng suất
trung bình mới chỉ đạt 1,7 ha. Phần trăm diện tích trồng ngô ưu thế lai trong đó

5
có ngô nếp ở một số nước Mỹ là 100%, đông Phi 24% còn các quốc gia khác.
Những năm gần đây, nhu cầu sử dụng ngô làm thực phẩm (ngô nếp, ngô đường ,
ngô rau) ngày càng tăng. Xuất khẩu hạt giống và các sản phẩm từ ngô nếp thực
phẩm đã mang lại thu nhập khá cao cho người sản xuất.
Ngô nếp ngày một trở nên quan trọng đối với thị trường Thái Lan và
nhiều nước khác ở Châu Á như Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc và Đài Loan
bởi mùi vị, độ ngọt, mềm dẻo khi sử dụng Bắp tươi. Thị trường xuất khẩu hạt
giống và ngô nếp đông lạnh ở Thái Lan đang có triển vọng, mở rộng cả trong và
ngoài nước (Trường đại học nông nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học
nông nghiệp 4).
Ở Trung Quốc, gần đây họ đã tạo ra giống ngô nếp lai cho năng suất cao
và chất lượng tốt như: Ngô nếp lai đơn màu trắng JYF 101 cho năng suất bắp
tươi trung bình là 15 tấn /ha; Ngô nếp lai đơn màu tím Jingkenou 218 cho năng
suất 12 tấn bắp tươi/ha…(“ New maize hybrids”, Báo cáo tại hội thảo 9 nước
khu vực Châu Á về cây ngô, 2005). Viện nghiên cứu ngô Quảng Tây đã chọn
tạo ra một số giống có năng suất cao và chất lượng tốt như You Mei Tou 601,
606… Đây là những giống có nguồn gốc á nhiệt đới, tương đối phù hợp với điều
kiện Việt Nam và có thể sử dụng làm vật liệu tạo dòng thuần.
2.1.2. Tình hình sản xuất ngô nếp ở Việt Nam
a. Một số kết quả nghiên cứu, chọn tạo giống ngô nếp ở Việt Nam.
Ở Việt Nam, ngô là cây lương thực được trồng phổ biến, nhiều nhất ở
miền núi. Có nhiều loại ngô được xếp vào các hạng ngô tẻ (trắng mềm), ngô nhỏ
(ít tinh bột, ăn cả lõi như rau), ngô nếp (dẻo hạt), ngô vàng (hạt cứng nhưng sản
lượng cao nên dùng cho gia súc), (Các giống ngô mới và kỹ thuật trồng - Nhà
xuất bản Hà Nội).
Theo các nghiên cứu phân loại ngô địa phương thì ngô ở Việt Nam tập
trung chủ yếu vào hai loài phụ chính là đá rắn và ngô nếp. Ngô nếp được phân
bố ở khắp các vùng trong cả nước, với nhiều dạng màu hạt khác nhau: trắng,
6

vàng, tím, nâu, đỏ…Hiện nay, tại Viện Nghiên cứu Ngô đã thu thập và lưu giữ
148 mẫu ngô nếp địa phương. Trong đó: 111 nguồn nếp trắng, 15 nguồn nếp
vàng, 22 nguồn nếp tím, nâu, đỏ (Nguyễn Thị Nhài, 2005).
Việt Nam cũng như các nước trên thế giới, những nghiên cứu chủ yếu vẫn
là ngô tẻ, các nghiên cứu về ngô nếp rất hạn chế. Cho tới nay, chỉ có một số
công trình được công bố:
Công trình của Nguyễn Thị Lâm và Trần Hồng Uy tiến hành phân loài
phụ cho 72 giống ngô nếp địa phương. Trong đó 48 mẫu nếp trắng, 8 mẫu nếp
vàng, 16 mẫu nếp tím. Kết quả cho thấy, biến chủng nếp tím có thời gian sinh
trưởng, chiều cao cây, chiều cao đóng bắp và số lá lớn hơn cả.
Tác giả Ngô Hữu Tình và Nguyễn Thị Lưu đã chọn tạo thành công giống
ngô nếp trắng tổng hợp được công nhận giống quốc gia năm 1989. Giống này có
thời gian sinh trưởng ngắn, khả năng thích ứng rộng, được trồng khá phổ biến ở
Miền Bắc.
Viện khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam dùng phương pháp chọn
lọc chu kỳ từ tổ hợp lai giữa hai giống nếp tổng hợp nhập nội từ Philipin đã tạo
ra giống nếp trắng ngắn ngày S2, năng suất trung bình 20-26 tạ/ha, được công
nhận năm 1989 (Ngô Hữu Tình, 2003).
Tác giả Phan Xuân Hào và cộng sự đã chọn tạo thành công giống ngô nếp
trắng VN2, được công nhận giống quốc gia năm 1997. VN2 được chọn tạo từ
các giống ngô nếp ngắn ngày, năng suất khá, chất lượng tốt, có nguồn gốc khác
nhau: Nếp Tây Ninh, Nếp Quảng Nam – Đà Nẵng, Nếp Thanh Sơn – Phú Thọ và
Nếp S-2 từ Philipin. Đây là giống ngắn ngày, chất lượng dinh dưỡng cao, khả năng
thích ứng rộng, năng suất bình quân đạt 30 tạ/ha (Phan Xuân Hào và cs, 1997).
Phạm Thị Rịnh và cộng sự ở phòng Nghiên cứu Ngô Viện KHKTNN
miền Nam đã tạo được giống ngô nếp dạng nù TPTD cải tiến N1 từ 2 quần thể
ngô nếp nù địa phương ở Đồng Nai và An Giang. N1 đã được công nhận giống
quốc gia năm 2004. Đây là giống ngô nếp ngắn ngày, có tiềm năng năng suất
7
cao 40-50 tạ hạt khô/ha, thích hợp trồng ở các tỉnh phía Nam. Từ năm 2009 đến

năm 2011, Trung tâm Nghiên Cứu Thực Nghiệm Nông Nghiệp Hưng Lộc đã thu
thập, lưu giữ và đánh giá được 855 dòng ngô nếp; 42 dòng nếp ngọt. Kết quả thử
khả năng kết hợp và lai tạo được 392 tổ hợp lai. Khảo sát đánh giá và tuyển
chọn được 21 tổ hợp lai ưu tú, những tổ hợp lai này có thời gian sinh trưởng
ngắn tương đương với đối chứng MX10 và Tím dẻo 926, xác định được 5 tổ hợp
lai triển vọng nhất là VK6; VK10; VK 24; VK36; VK37.
Các tác giả Nguyễn Hữu Đống, Phan Đức Trực, Nguyễn Văn Cương -
Viện Di Truyền Nông nghiệp, và Ngô Hữu Tình - Viện Nghiên cứu Ngô đã
gây đột biến bằng tia gama, kết hợp với xử lý Diethylsulphat ở ngô nếp thu
được một số dòng biến dị có các đặc tính nông học quý so với giống ban đầu
(Nguyễn Hữu Đống và cs, 1997).
Thời gian gần đây, các nhà tạo giống Việt Nam bắt đầu chuyển hướng
sang tạo giống nếp lai và đã tạo được một vài giống nếp lai không quy ước có
triển vọng như: MX2, MX4, MX6, MX10 của Công ty cổ phần Giống cây
trồng Miền Nam, Bạch Ngọc, NL2, nếp Nù của công ty Lương Nông. Ngoài ra,
một số giống nếp lai quy ước được trồng ở các tỉnh phía Nam, phần lớn có
nguồn gốc từ Đài Loan, Thái Lan, và một số công ty giống quốc tế. Đặc biệt là
giống ngô ăn tươi của nước ngoài được ưa chuộng trong sản xuất của công ty
Sygenta Việt Nam có bắp lai đơn Wax 22, Wax 33, Wax 44. Đồng thời Viện
Nghiên cứu Ngô đã thu thập nguyên liệu và tạo ra hàng loạt các dòng thuần
ngô nếp phục vụ chương trình chọn tạo giống ngô nếp lai. Hàng loạt các tổ hợp
nếp lai mới triển vọng đã được tạo ra và đang được thí nghiệm ở nhiều vùng
sinh thái ở Miền Bắc.
Tại Viện nghiên cứu và Phát triển cây trồng thuộc Học Viện Nông Nghiệp
Việt Nam, từ năm 2000-2009 đã tiến hành thu thập được 166 mẫu ngô nếp địa
phương tại các tỉnh miền núi Tây Bắc. Các giống Ngô thu thập một phần bảo tồn,
một phần làm thuần và hiện nay có khoảng 2.500 mẫu giống tự phối S
1
-S
5.

Trong
8
giai đoạn 2003- 2005, Nguyễn Thế Hùng và các cộng sự đã tiến hành lai thử và
đánh giá khả năng kết hợp của 50 tổ hợp lai từ đó đã chọn tạo ra các tổ hợp lai ưu
tú: N8 x N11; N4 x N8; N11 x N14; N2 x N12. Năm 20111, Viện tiện hành đánh
giá khả năng kết hợp của 8 dòng ngô nếp tự phối chọn tạo từ các dòng quần thể ngô
nếp thuộc các nhóm dân tộc khác nhâu (Thái, Mông, Vân Kiều) thông qua mô hình
luân giao Griffing 4. Kết quả cho thấy 3 dòng có khả năng kết hợp chung (GCA)
cao là D2, D4 và D5, có thể sử dụng cho các chương trình lai tạo giống ngô nếp lai
đơn ( Lê Minh Thảo và cộng sự, 2011).Vụ Thu Đông năm 2012 đã chọn tạo dược 4
mẫu giống thụ phấn tự do là D14, D22, D27, D47 và 2 dòng tự phối là D36, D44
có tính trạng vỏ hạt mỏng và các tính tính trạng nông sinh học khác phù hợp có thể
làm vật liệu di truyền trong chọn tạo giống ngô nếp ăn tươi chất lượng cao (Trần
Thị Thanh Hà và cộng sự, 2013).
b.Một số kết quả khảo nghiệm giống ngô nếp lai ở Việt Nam.
Năm 2011, Trung tâm Khảo kiểm nghiệm Giống, sản phẩm cây trồng
Quốc gia tiến hành khảo nghiệm 12 giống ngô nếp lai có nguồn gốc khác nhau
tai miền Bắc Việt Nam. Có 4 giống qua 3 vụ khảo nghiệm cho kết quả triển
vọng là: Tím dẻo 926, Victory 924 (Công ty TNHH Việt Nông), Nếp lai số 5
(Viện nghiên cứu Ngô) và Tố nữ (Công ty TNHH Sao Cao Nguyên). Đây là
những giống ngô nếp lai có thời gian sinh trưởng từ 82 -85 ngày, Năng suất bắp
tươi đạt từ 99,63 – 108,92 tạ/ha; hạt bắp to, dài, mức độ nhiễm sâu bệnh nhẹ,
chất lượng ăn tươi từ tương tương đương đến cao hơn đối chứng Wax 44.
Năm 2012, Trung tâm Khảo kiểm nghiệm Giống, sản phẩm cây trồng Quốc
gia tiến hành khảo nghiệm 2 bộ giống ngô nếp với 26 giống tham gia thí
nghiêm, giống đối chứng là Wax 44 và MX10. Kết quả khảo nghiệm cho thấy,
các giống triển vọng qua 3 vụ khảo nghiệm là HN106 (Công ty CP Giống cây
trồng trung ương), Max one (Công ty CP Giống cây trồng miền nam) và NL77A
(Viện nghiên cứu Ngô). Các giống ngô này có thời gian sinh trưởng từ 92 -95
ngày, dài hơn đối chứng Wax 44 từ 2 -5 ngày; năng suất bắp tươi cao đạt từ

9
101,88 tạ/ha (NL77A) đến 111,12 tạ/ha (HN106). Chất lượng ăn tươi như độ
dẻo, hương thơm các giống tương đương đối chứng Wax 44. Giống qua 2 vụ
khảo nghiệm có triển vọng: VS99 tím, VS10, Fancy111, Cp1003.
Năm 2013, Trung tâm Khảo kiểm nghiệm Giống, sản phẩm cây trồng
Quốc gia tiến hành khảo nghiệm đối với 11 giống ngô nếp được gửi từ 7 đơn vị
khác nhau. Giống NH90 của Công ty CP Giống cây trông trung ương được đánh
giá là có triển vọng qua 3 vụ khảo nghiệm. HN90 có thời gian sinh trưởng 89
ngày, năng suất bắp tươi trung bình đạt 102,69 tạ/ha, cao hơn giống đối chứng
Wax44, chất lượng ăn tươi ngon hơn Wax44. Các giống ADI601 (Công ty
ĐTTM và PTNNADI), Fancy172 (Công ty Advanta India Ltd), HUA601 và
HUA518 (Viện Nghiên cứu và Phát triển Cây trồng – Học viện nông nghiệp
Việt Nam) được đanh giá là có triển vọng qua 2 vụ khảo nghiệm. Các giống này
có chất lượng ăn tươi ngon hơn đối chứng Wax44, năng suất bắp tươi đạt từ
93,55 – 99,44 tạ/ha, đều cao hơn đối chứng. Giống HN92 (Công ty CP
Giống Cây trồng trung ương) qua 1 vụ khảo nghiệm cho thấy có nhiều ưu điểm
nổi trội về năng suất và chất lượng ăn tươi cao hơn đối chứng Wax44.
Công ty sygenta Việt Nam nhập khẩu, khảo nghiệm giống Wax50 tại Việt
Nam cho thấy đây là giống có thời gian từ gieo đến thu bắp tươi ngắn (60 – 62
ngày), sinh trưởng và phát triển tốt, trạng thái cây và bắp tốt, chống chịu khá,
năng suất đạt từ 80 – 100 tạ/ha, chất lượng ăn tươi mềm, dẻo, ngon. Wax50
được công nhận là giống cây trồng mới vào tháng 2/2012.
Tháng 12/2013, giống ngô nếp lai HN90 (Công ty CP Giống cây trồng
trung ương) được công nhận sản xuất thử tại miền Bắc với những ưu điểm nổi
bật như: hình dạng cây đẹp, chống đổ tốt, bắp to và dài, năng suất bắp tươi khá
ổn định từ 90 -100 tạ/ha, ăn tươi ngon.
c. Tình hình sử dụng giống ngô nếp lai tại Việt Nam.
Theo Điều tra của Trung tâm Khảo kiểm nghiệm giống cây trồng trung
ương thì diện tích ngô nếp nước ta chiếm gần 10% diện tích trồng ngô cả nước.
10

Diện tích ngô nếp liên tục tăng, đặc biệt là vùng đồng bằng ven đô thị. Nguyên
nhân chính trước hết do các giống ngô nếp đáp ứng được nhu cầu luân canh tăng
vụ trong cơ cấu nông nghiệp hiện nay, nhưng quan trọng hơn là đáp ứng nhu cầu
xã hội ngày một tăng đối với sản phẩm này.
Sản xuất ngô ở Việt Nam theo kế hoạch của Bộ NN và PTNT phấn đấu
đến năm 2010 đạt 6 - 7 triệu tấn ngô/năm (Trần Hồng Uy và CS, 2004). Để đạt
được mục tiêu, chúng ta cần vượt qua một số trở ngại khách quan như diện tích
đất canh tác ngày càng thu hẹp, khí hậu khắc nghiệt và sâu bệnh ngày một nhiều
hơn thì vấn đề cần giải quyết là từng bước chuyển một phần diện tích sang trồng
các loại ngô rau, ngô quà (ngô nếp), ngô nổ với mục tiêu đáp ứng yêu cầu đòi
hỏi của xã hội, đa dạng các sản phẩm hàng hoá và nâng cao giá trị kinh tế của
sản xuất ngô.
Những năm gần đây, đời sống được cải thiện, nhu cầu của người dân ngày
một đa dạng. Các loại ngô thực phẩm được sử dụng ngày một nhiều, không
những làm lương thực mà còn được chế biến thành các món ăn ưa thích: ngô
chiên, súp ngô, snack ngô, ngô rau bao tử, chế biến tinh bột.
* Vùng trồng ngô nếp:
Ở nước ta, ngô nếp được trồng hầu hết khắp các vùng tên cả nước. Các
vùng núi cao, vùng sâu được người dân sử dụng làm nguồn lương thực chính
dưới dạng xôi ngô hoặc dùng tươi: nướng, luộc. Còn hầu hết các địa phương
khác ngô nếp được xem như thực phẩm làm ăn quà và chế biến đơn giản, dân
giã, được nhiều người ưa thích. Có 2 vùng trồng ngô nếp trọng điểm là các tỉnh
Nam Bộ (An Giang, Bà Rịa Vũng Tàu…) và vùng Đồng Bằng Sông Hồng ( Hà
Nội, Hưng Yên, Hải Dương…).
* Một số giống ngô nếp được sử dụng nhiều hiện nay:
Có rất nhiều giống ngô nếp lai nhập nội và những giống chọn tạo trong
nước. Các giống ngô nếp từ các công ty nước ngoài hiện được trồng phổ biến có
thể kể đến là Wax44, Wax48, King 80, Nếp lai trắng tím Và với kế kết quả
11
chọn tạo, nỗ lực bám sát thị trường một số giống ngô nếp lai sản suất trong nước

cũng được nông dân trồng phổ biến như: Nếp lai số 1, MX2, MX4, MX10,
HN88, HN90…
2.2. Nguồn gốc, phân loại và đặc tính cây ngô nếp
Những nghiên cứu gần đây đã có những phát hiện về nguồn gốc cây ngô
như Rong-lin wang, Adrian Stec, Jody Hey, Lewis Lukens & John Doebly, 1999
cho rằng ngô được thuần hóa từ loài cỏ mexican hoang dại teosinte (Zea mays
ssp. Parviglumis hoặc ssp mexicana). Những bằng chứng khảo cổ học chứng
minh rằng thời gian thuần hóa ngô vào khoảng 5000 đến 10.000 năm trước đây,
mặc dù nguồn gốc gần đây của ngô từ teosinte, những cây này khác biệt sâu sắc
về hình thái. Một điểm khác biệt chủ yếu là teosinte điển hình có nhánh cờ dài
trên đỉnh bông cờ trong khi ngô có nhánh đỉnh cờ ngắn bằng bắp. Phân tích di
truyền nhận thấy rằng teosinte branched 1 (tb1) như là một gen tương hợp rộng
điều khiển sự khác biệt này.
Porcher Michel H và công sự cho biết ngô nếp đã được phát hiện ở
Trung Quốc từ năm 1909. Cây này biểu hiện những tính trạng khác thường các
nhà tạo giống ở Mỹ một thời gian dài sử dụng các tính trạng này là chỉ thị
những gen ẩn trong các chương trình chọn tạo giống ngô. Năm 1922 các nhà
nghiên cứu đã phát hiện nội nhũ của ngô nếp chỉ chứa amylopectin và không có
amylose ngược lại trong ngô thường có chứa cả hai. Đến tận đại chiến thế giới
thứ II nguồn amylopectin chính là từ sắn nhưng khi người Nhật cung cấp các
dòng ngô nếp thì amylopectin được sử dụng chủ yếu từ ngô nếp.
Có giả thuyết cho rằng ngô nếp có nguồn gốc ở Đông Nam Á mà
Trung Quốc, Miến Điện, Philipin là quê hương đầu tiên của nó. Nhưng sau
đó người ta thấy rằng đó là kết quả của một đột biến thông thường của các giống
ngô răng ngựa biểu hiện gen Wx xảy ra đột biến trong điều kiện trồng trọt không
bình thường tạo thành gen lặn wx, chúng có thể xuất hiện ở các vùng khác nhau
trên trái đất (Grebense 1954, dẫn theo Nguyễn Thị Lâm, 1997).
12
Ngô được chia thành một số nhóm chính quan trọng là:
- Ngô bột - Zea mays L. subsp. mays Amylacea Group

- Ngô nổ Zea mays L. subsp. mays Everta Group
- Ngô răng ngựa - Zea mays L. subsp. mays Indentata Group
- Ngô đá - Zea mays L. subsp. mays Indurata Group
- Ngô đường- Zea mays L. subsp. mays Saccharata Group
- Ngô nếp - Zea mays L. ceratina Kuleshov
- Ngô bọc - Zea mays L. var. tunicata Larranxaga ex A. St. Hil
Ngô nếp (Zea mays L.subsp.Ceratina Kulesh) là một trong những loài phụ
chính của loài Zea mays L. Ngô nếp là một dạng của ngô tẻ do biến đổi tinh bột
mà thành. Tinh bột của ngô nếp chứa gần như 100% amilopectin, ngô thường
chỉ chứa 75% amilopectin và 25% amiloza. Amilopectin là dạng tinh bột có cấu
trúc phân tử gluco phân nhánh dựa trên liên kết α.1-4 và α.1-6, ngược lại
amiloza có cấu trúc phân tử gluco không phân nhánh. Khi cho tinh bột ngô nếp
vào dung dịch Iotuakali (KI) thì nó chuyển sang màu cà phê đỏ, còn tinh bột của
của ngô thường thì chuyển sang màu xanh tím.
Đặc tính của ngô nếp được quy định bởi gen đơn lặn wx, trên vị trí của
nhiễm sắc thể số 9 mã hóa tổng hợp tinh bột của hạt, gen này lấn át gen khác để
tạo tinh bột dạng nhỏ. Do vậy, hạt ngô nếp cũng giàu lyzin, triptophan và
protein. Chúng ta có thể sử dụng dung dịch KI nhuộm hạt phấn để xác định hiệu
quả của việc chuyển gen wx vào ngô thường.
Theo Jame L.Brewbaker (Brewbaker, 1998), quá trình chọn lọc tự nhiên
đã xảy ra những đột biến .Trong đó có đột biến 2 là waxy 1 (tinh bột của hạt có
cấu tạo bởi amilopectin) ở Châu Á, từ đột biến này chọn lọc ra được những
giống có vỏ mềm.
Tuy vậy, việc trồng ngô nếp không đơn giản như trồng ngô tẻ. Trong
những năm gần đây khi nghiên cứu về đặc điểm nông học và kỹ thuật canh tác
của ngô nếp Trường Đại học Pennsylvania State University nghiên cứu kỹ thuật
13
trồng ngô nếp cho rằng: trồng ngô có tinh bột hoàn toàn là không dễ dàng vì gen
sáp là lặn, như vậy ngô nếp phải cách ly với ngô thường ít nhất 200m. Nếu trồng
lẫn một số cây ngô thường trên khu ruộng hoặc khu sản xuất có thể làm thay đổi

ngay cả có cách ly tốt và trong chọn lọc hạt gieo cũng cần loại bỏ tất cả hạt ngô
thường lẫn trong lô hạt hoặc hạt ngô nếp đã thay đổi do trôi dạt di truyền. Chất
lượng của ngô nếp cao hơn hạt ngô thường như Collins cho biết cao hơn khoảng
16 %, độ ẩm hạt ngô nếp cao hơn xấp xỉ 1% nhưng khá biến động như Gallais
nghiên cứu độ ẩm hạt tinh bột ngô nếp cao hơn ngô thường 2-3%.
Người ta cho rằng, năng suất của ngô nếp ưu thế lai cũng như ngô có chất
lượng protein cao có năng suất giảm đi so với bình thường. Nhưng những giống
nếp lai và các giống nếp thường khi nấu chín có độ dẻo, mùi vị thơm ngon, giá
trị dinh dưỡng cao. Chính vì vậy ngày nay ngô nếp góp phần không nhỏ trong
đời sống con người, nó được sử dụng làm lương thực và thức ăn chăn nuôi gia
súc, gia cầm. Một số nước ở Châu Á đang sử dụng rất thông dụng như: Hàn
Quốc, Philipin, Thái Lan, Trung Quốc, Việt Nam và nhiều quốc gia khác.
2.3. Tình hình nghiên cứu thời vụ gieo trồng ngô nếp ở Việt Nam
Gieo đúng thời vụ đối với ngô là rất cần thiết, gieo quá sớm gặp hạn, rét
ngô sinh trưởng và phát triển yếu. Đối với vùng cao gieo quá sớm không những
bị rét mà còn có thể bị mưa đá khi ngô mới mọc. Ngược lại gieo quá muộn đối
với ngô ruộng sẽ thu hoạch chậm làm trễ thời vụ cấy lúa. Thời vụ gieo ngô
ruộng thích hợp từ tiết lập Xuân (4/2) đến hết tháng 2 dương lịch (Nguyễn
Mộng,1968) [5]
Ngô là cây nhiệt đới, ưa ấm và ẩm, khi trời lạnh, ngô mọc và phát triển
kém. Tổng tích ôn của ngô khoảng 2000-2200
0
C đố với giống ngô ngắn ngày,
2400-2600
0
C đối với giống dài ngày (Lưu Trọng Nguyên, 1965; Đào Thế Tuấn,
1977; Trần Hữu Miện, 1987) [6], [8], [4].
Nhiệt độ trung bình ngày thích hợp cho ngô 22-28
0
C, dưới 18

0
C hoặc trên
38
0
C đều không thuận lợi cho ngô phát triển và trong thời gian sinh trưởng của
14
ngô không được có quá 23 ngày dưới 10
0
C. Trời càng rét sinh trưởng của ngô
càng kéo dài, trời nóng, ấm thời gian này ngắn lại. hạt ngô rất mẫn cảm với nhiệt
độ, ở trong đất hạt có thể chịu được nhiệt độ 10-20
0
C và chỉ có thể hạ thấp đến
6
0
C. Nhiệt độ đất thích hợp cho hạt nảy mầm từ 15-18
0
C, dưới 15
0
C ngô gieo
15-17 ngày mới mọc, từ 15-20
0
C hạt trong đất chỉ sau 5-7 ngày mọc. Ngô mọc
nhanh hay chậm còn phụ thuộc vào cả nhiệt độ không khí: Nhiệt độ không khí
từ 23-24
0
C chỉ sau 5 ngày mọc, 17-18
0
C sau 9 ngày mọc, 13-14,5
0

C sau 15 ngày
mọc, ở nhiệt độ 8-10
0
C sau 27 ngày mới mọc (Trần Hữu Miện, 1987) [4].
Ngô là cây trồng cạn không đòi hỏi nhiều nước, tuy nhiên trong vòng đời
mỗi cây cũng cần khoảng 200-220 lít nước. Ở thời kỳ đầu, khối lượng chất xanh
của cây chỉ chiếm 1-2% so với cây trưởng thành, diện tích lá nhỏ, cây phát triển
chậm, nên không cần nhiều nước. Ở thời kỳ ngô 7-13 lá cần 35-38m
2
nước/ha/ngày (Trần Hữu Miện, 1987) [4]. Đây cũng là thời kỳ khủng hoảng
nước của ngô. Qua nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy nếu hạn với độ ẩm 40%
độ ẩm tối đa ở thời kỳ trỗ cờ đến kết hạt, sẽ ảnh hưởng tới năng suất nhất. Còn
nếu ẩm độ đất 50-60% thiếu 20% lượng nước cần, ở thời mọc đến 8 lá, không
những không giảm năng suất mà còn có chiều hướng tăng năng suất hơn đầy đủ
nước, bởi lẽ bộ rễ ngô được huấn luyện ngay từ đầu để phát triển xuống tầng đất
sâu dưới lòng đất để hút nước cung cấp cho cây. Tuy vậy ngô cũng là cây rất
nhạy cảm với việc thừa độ ẩm đặc biệt là giai đoạn cây còn nhỏ, khi điểm sinh
trưởng còn nằm dưới mặt đất. Qua nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy nếu giai
đoạn cây con, đất quá ẩm thì ngô bị chết hàng loạt hoặc sinh trưởng chậm, do
đất bí chặt làm cản trở tới sự phát triển của bộ rễ. Thời kỳ 10-15 lá nếu độ ẩm
đất 90-100%, đủ nước nhưng thiếu không khí, lá chuyển sang màu vàng, lá
mỏng, quang hợp giảm 30-35% so với độ ẩm đất 70-80%, cuối cùng năng suất
giảm 15-16% (Trần Hữu Miện, 1987) [4]. Vì vậy việc bố trí thời vụ thích hợp sẽ
né tránh được điều kiện ngoại cảnh bất thuận như hạn hoặc úng. Ở vùng Đông
Bắc, vụ ngô Thu nếu gieo quá sớm gặp mưa nhiều hạt rất dễ bị thối hoặc cây
con sinh trưởng kém.
15
Theo Ngô Hữu Tình (1997) [7] thời vụ gieo ngô ở một số vùng nước ta
như sau:
* Vùng đồng bằng sông Hồng và các tỉnh trung du miền núi phía Bắc: Có 4 vụ

ngô chính là vụ Thu Đông, vụ Đông xuân, vụ ngô Xuân và vụ ngô Hè Thu. Vụ
ngô Xuân gieo 20/1-15/2, thu hoạch vào tháng 5-6. Vụ Xuân Hè ở vùng núi gieo
20/2-10/3, thu hoạch tháng 6-7. Vụ ngô Hè Thu gieo vào 10/4-30/4, thu hoach
vào tháng 8-9. Vụ Thu gieo 15/7-15/8, thu hoạch vào tháng 11-12. Vụ ngô thu
Đông gieo vào 15/8-15/9, thu hoạch giữa tháng 12 đến đầu tháng 1. Vụ Đông
gieo từ 15/9-10/10, thu hoạch vào cuối tháng 1 đầu tháng 2.
* Vùng khu IV cũ: Có các vụ ngô Đông, vụ Đông Xuân và vụ Xuân Hè. Vụ
Đông gieo từ 15/9-15/10, thu hoạch vào cuối tháng 1 đầu tháng 2 năm sau. Vụ
Đông Xuân gieo cuối tháng 9 đầu tháng 10, thu hoạch tháng 2-3 năm sau. Vụ
Xuân Hè gieo cuối tháng 2 đầu tháng 3, thu hoạch tháng 6-7.
* Vùng duyên hải miền Trung có các vụ ngô Đông Xuân và Hè Thu. Vụ
Đông Xuân gieo tháng 12, thu hoạch tháng 4. Vụ Hè thu gieo tháng 4 đầu tháng
5, thu hoạch tháng 8 đầu tháng 9.
* Vùng Tây Nguyên có ngô Hè Thu và ngô Thu Đông. Vụ Hè Thu (chính vụ)
gieo tháng 4-5, thu hoạch tháng 8-9. Vụ Thu Đông gieo tháng 8, thu hoạch tháng
12(tại vùng có tưới). Ở huyện Ea Súp tỉnh Đăk Lăk có vụ Hè Thu (vụ chính)
gieo tháng 4-5, thu hoạch tháng 8-9. Vụ Thu Đông gieo tháng 9-10, thu hoạch
thang12-1. Vụ này diện tích trồng không đáng kể.
* Vùng Đông Nam Bộ: Vụ 1 (Xuân Hè) gieo 10/4-5/5, thu hoạch tháng 8
(vụ chính). Vụ 2 (Thu Đông) gieo 15/8-30/8, thu hoạch tháng 12. Vụ Đông
Xuân (có tưới chủ động) gieo 15/11-5/12.
* Vùng đồng bằng sông Cửu Long có ngô Hè Thu gieo cuối tháng 4 đầu
tháng 5, thu hoạch tháng 8.
16
2.4. Những khó khăn và giải pháp về vụ ngô đông ở Việt Nam
2.4.1. Khó khăn
So với mọi năm, mùa mưa năm nay đến sớm hơn. Lượng mưa lại tập trung
vào tháng 9, tháng 10 trùng vào thời điểm gieo trồng ngô vụ đông, khiến vụ
đông khó lại càng thêm khó. Bên cạnh đó, đầu vụ mưa nhiều nên ngô đông dễ bị
úng.Mưa kéo dài làm chậm thời vụ ảnh hưởng tới năng suất và chất lượng ngô

hạt.Kèm theo sâu bệnh hại nhiều như: sâu ăn lá, sâu đục thân…
Vào giai đoạn trỗ cờ, tung phấn thường gặp thời tiết bất thuận làm giảm
năng suất và chất lượng.
Khó khăn trong việc làm đất.
2.4.2. Biện pháp khắc phục
* Làm đất
Thực hiện triệt để kỹ thuật làm đất tối thiểu, lên luống cao , khoảng cách
trồng hợp lý, đảm bảo mật độ cây trồng và thoát nước tốt khi mưa lũ xảy ra.
* Bố trí giống, cơ cấu và thời vụ gieo trồng
- Về thời vụ: Kết thúc gieo trồng các giống ngô lai đơn trước 30/9, các
giống ngô nếp, ngắn ngày trước 10/10.
- Về cơ cấu giống: Sử dụng các giống có thời gian sinh trưởng ngắn cho
năng suất cao, chất lượng tốt như: NK4300, NK66, NK6654, , B21, CP999,
CP333, B06…, các giống ngô nếp lai HN88, MX4, MX6, MX10…
* Chuyển giao và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật:
Tăng cường công tác chuyển giao và ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào
sản xuất ngô vụ đông.
* Kỹ thuật làm ngô bầu, ngô bánh, ngô mạ, kỹ thuật bón phân, phòng trừ sâu
bệnh, nhất là bệnh nghẹt rễ, huyết dụ ở giai đoạn đầu sâu cắn râu, đục thân giai
đoạn trỗ, sâu ăn lá…
* Đẩy nhanh việc ứng dụng kỹ thuật mới như: quy trình sử dụng phân viên nén
chậm tan.
17
- Làm tốt công tác tiêu úng đầu vụ, đáp ứng yêu cầu nước cho giữa và
cuối vụ đông, để khi gặp những trận mưa lớn đầu vụ đông, hoàn toàn có thể chủ
động rút kiệt nước trong thời gian cho phép. Đồng thời thực hiện các biện pháp
để phòng trừ sâu bệnh kịp thời.
2.5. Cơ sở khoa học của đề tài
2.5.1. Ưu thế lai và ứng dụng trong chọn tạo giống
Ưu thế lai là hiện tượng di truyền, trong đó con lai biểu hiện sức sống, các

đặc tính hình thái, sinh lý, khả năng thích nghi, khả năng chống chịu và năng
suất cao hơn hẳn bố mẹ của nó.
Năm 1876, Chales Darwin lần đầu tiên đã đưa ra lý thuyết về ưu thế lai. Qua
việc nghiên cứu hàng loạt những cá thể giao phối và tự phối ông nhận thấy sự hơn
hẳn của các cây giao phối so với cây tự phối 20%. Sau Darwin, năm 1877 William
James Beal lần đầu tiên tiến hành lai có kiểm soát giữa các giống ngô với mục đích
tăng năng suất bởi ưu thế lai.Mặc dù ông chưa dùng thuật ngữ ưu thế lai song kết
quả ông thu được đã chứng minh sự tồn tại và tầm quan trọng của nó.
Nhà khoa học đi tiên phong trong lĩnh vực chọn tạo giống ngô lai quy ước
là George Herrison Shull. Năm 1904, Shull lần đầu tiên tiến hành tự phối cưỡng
bức ở ngô để thu được các dòng thuần và đã tạo ra những giống lai từ những
dòng thuần này. Năm 1914, chính ông đã đưa vào tài liệu khoa học thuật ngữ
“Heterosis” để chỉ ưu thế lai.
Ngày nay “ưu thế lai” là một cụm từ rất thông dụng với mọi người trong lĩnh
vực nông nghiệp. Nó đã được nghiên cứu rất sâu về mặt lý thuyết và thực nghiệm
nhằm giải thích các hiện tượng và tạo ra giống lai ưu tú ứng dụng trong sản xuất.
Tuy nhiên cho đến nay thì chưa có một công trình nào giải thích được trọn vẹn
các biểu hiện của ưu thế lai, song thuyết tính trội và thuyết siêu trội có lẽ nhận
được sự ủng hộ của nhiều nhà khoa học. Ưu thế lai được biểu hiện ở hầu hết các
tính trạng và được các nhà di truyền chọn giống chia thành 5 dạng biểu hiện:
18

×