Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020 VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2030

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.76 KB, 54 trang )

QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ VIỆT NAM
ĐẾN NĂM 2020 VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2030
Phần thứ nhất
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020 trình bày tại đại hội đại
biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI đã nêu rõ về vấn đề văn hoá xã hội: “Xây dựng
xã hội dân chủ, kỷ cương, đồng thuận, công bằng, văn minh. Đến năm 2020, chỉ
số phát triển con người (HDI) đạt nhóm trung bình cao của thế giới; Tốc độ tăng
dân số ổn định ở mức khoảng 1%; tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi; đạt 9 bác sỹ và
26 giường bệnh trên một vạn dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; Tập trung
phát triển mạnh hệ thống chăm sóc sức khoẻ và nâng cao chất lượng dịch vụ y
tế. Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư, đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá để phát triển
nhanh hệ thống y tế công lập và ngoài công lập; hoàn chỉnh mô hình tổ chức và
củng cố mạng lưới y tế cơ sở”.
Nhằm đáp ứng nhu cầu bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân,
Bộ Y tế xây dựng quy hoạch phát triển hệ thống cơ sở y tế giai đoạn đến 2020
và tầm nhìn 2030 để cụ thể hoá đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước
trong sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân ở thời kỳ tiền Công nghiệp
hoá - Hiện đại hoá đất nước.
Phát triển y tế theo hướng công bằng, hiệu quả và phát triển. Nhà nước
tiếp tục tăng đầu tư cho hệ thống y tế công lập, đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá
để phát triển nhanh hệ thống y tế ngoài công lập; hoàn chỉnh mô hình tổ chức và
củng cố mạng lưới y tế cơ sở. Nâng cao năng lực của trạm y tế xã, hoàn thiện
bệnh viện tuyến huyện, nâng cấp bệnh viện tuyến tỉnh và tuyến Trung ương.
Tiếp tục phát triển trung tâm y tế chuyên sâu tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh, Huế, Đà Nẵng và Cần Thơ. Xây dựng một số cơ sở khám, chữa bệnh có
tầm cỡ khu vực. Khuyến khích các nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế
thành lập các cơ sở y tế chuyên khoa có chất lượng cao. Khắc phục tình trạng
quá tải ở các bệnh viện, đặc biệt là bệnh viện tuyến Trung ương và tuyến tỉnh.
Đổi mới cơ chế hoạt động, nhất là cơ chế tài chính của các cơ sở y tế công lập
theo hướng tự chủ, công khai, minh bạch. Chuẩn hoá chất lượng dịch vụ y tế,


chất lượng chăm sóc sức khoẻ, chất lượng bệnh viện, từng bước tiếp cận với tiêu
chuẩn khu vực và quốc tế. Đổi mới và hoàn thiện các chính sách bảo hiểm y tế,
khám, chữa bệnh; viện phí phù hợp, Thực hiện tốt chính sách khám, chữa bệnh
cho các đối tượng chính sách, người nghèo, trẻ em, người dân tộc thiểu số và
chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi. Tăng cường đào tạo và nâng cao chất lượng
chuyên môn, y đức, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ y tế. Phát triển
1
mạnh y tế dự phòng, hạn chế các vụ dịch lớn xảy ra. Tiếp tục kiềm chế và giảm
lây nhiễm HIV. Tiếp tục giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng. Nâng cao chất lượng
và bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm. Phát triển nhanh công nghiệp dược và
thiết bị y tế. Phát triển y học dân tộc kết hợp với y học hiện đại. Quản lý chặt
chẽ việc sản xuất và kinh doanh dược phẩm.
Để thực hiện mục tiêu đến năm 2020 và tầm nhìn 2030, nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp, xây dựng con người phát triển toàn diện nâng cao
chất lượng cuộc sống, tạo bước chuyển biến mạnh về phát triển nguồn nhân lực
là một trong ba lĩnh vực then chốt cần tập trung triển khai để làm chuyển động
toàn bộ tình hình kinh tế - xã hội vì vậy đòi hỏi công tác y tế phải có chuyển
biến tích cực và đột phá đi lên, từng bước làm tốt nhiệm vụ Chăm sóc sức khoẻ
nhân dân, góp phần phát triển nguồn nhân lực cho đất nước.
Phần thứ hai
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI
1. Điều kiện tự nhiên:
Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam Á, khí hậu nhiệt đới gió mùa,
chịu ảnh hưởng trực tiếp của kiểu khí hậu gió mùa mậu dịch, thường thấy ở các
vùng vĩ độ thấp.
Đặc điểm khí hậu phía Bắc là sự thay đổi và khác biệt của hai mùa nóng,
lạnh. Từ tháng 5 đến tháng 11 là mùa nóng và mưa; từ tháng 12 đến tháng 4 mùa
lạnh và khô ráo. Giữa hai mùa có hai thời kỳ chuyển tiếp mát mẻ và ẩm thấp, vì
vậy hàng năm có 4 mùa rõ rệt (xuân, hạ, thu, đông)
Đặc điểm khí hậu Phía Nam, phía Đông Nam và Tây Nguyên có khí hậu

nhiệt đới gió mùa điển hình với hai mùa: mùa khô từ tháng 12 đến tháng 5, mùa
mưa từ tháng 6 đến tháng 11. Quanh năm nhiệt độ vùng này cao, khí hậu ít biến
đổi nhiều trong năm.
Đặc điểm khí hậu Miền Trung, chịu ảnh hưởng của khí hậu của cả hai
miền: mùa mưa và mùa khô không cùng lúc với mùa mưa và khô của hai miền
khí hậu còn lại. Mùa hè, trong khi cả nước có lượng mưa lớn nhất, thì miền khí
hậu này lại đang ở thời kỳ khô nhất.
Khí hậu có quan hệ mật thiết đối với sức khoẻ con người. Trong thời kỳ
chuyển mùa, thời tiết thường có biến động lớn, đột ngột.
2. Kinh tế:
Nền kinh tế nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, kinh tế vĩ mô
cơ bản ổn định, duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền
kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển. Tốc độ tăng trưởng
kinh tế bình quân hàng năm trong 5 năm qua (2006 – 2010) đạt 7%. Tổng vốn
2
đầu tư toàn xã hội gấp 2,5 lần so với giai đoạn 2001 – 2005, đạt 42,9% GDP.
Mặc dù trong bối cảnh khủng khoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu,
nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta đạt cao. Quy mô tổng sản
phẩm trong nước (GDP) năm 2010 tính theo giá thực tế đạt 101,6 tỉ USD, gấp
3,26 lần với năm 2000; GDP bình quân đầu người đạt 1.168 USD. Hầu hết các
ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá. Thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện;
đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế hoá thành pháp luật, cơ chế
chính sách, môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện.
Kinh tế phát triển và ổn định là điều kiện tăng đầu tư cho y tế và tăng
cường sức khoẻ cho nhân dân. Theo quy luật chung, khi điều kiện kinh tế càng
phát triển thì tỷ lệ đầu tư cho y tế cũng càng tăng lên.
3. Xã hội:
Bên cạnh những thành quả đạt được trong quá trình chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường theo định hướng XHCN đã nổi lên những vấn đề mang tính xã

hội bức xúc, tỷ lệ thiếu việc làm còn cao, chính sách tiền lương thu nhập chưa
động viên được cán bộ, công chức, người lao động gắn bó, tận tâm với công
việc. Đời sống của một bộ phận dân cư, nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa
còn nhiều khó khăn. Xoá đói giảm nghèo chưa bền vững, tình trạng tái nghèo
còn cao. Chênh lệch giàu nghèo ngày càng gia tăng, các lĩnh vực văn hoá xã hội
có một số mặt yếu kém, chậm được khắc phục, nhất là về giáo dục, đào tạo và y
tế; đạo đức, lối sống trong một bộ phận xã hội xuống cấp. Môi trường ở nhiều
nơi đang bị ô nhiễm nặng; tài nguyên, đất đai chưa được quản lý tốt, khai thác
và sử dụng kém hiệu quả, chính sách đất đai có mặt chưa phù hợp. Thể chế kinh
tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm
nghẽn cản trở sự phát triển. Nền tảng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ.
Các tệ nạn xã hội như bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sức khoẻ và tinh thần phụ nữ. Theo một nghiên cứu của Hội
Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, trong số những phụ nữ đã từng bị chồng đánh có
khoảng 6% đã từng phải vào viện điều trị. Tình hình sử dụng ma tuý, số người
sử dụng ma tuý rất lớn và có vẻ đang tăng lên, theo Bộ Công an, nếu như tháng
6 năm 2010, cả nước có hơn 118.400 người nghiện ma tuý có hồ sơ kiểm soát
thì đến tháng 9, con số này đã tăng lên 131.000. Số người nghiện là công nhân
viên chức, chưa được kiểm tra phát hiện còn rất lớn. HIV/AIDS có liên quan rất
cao với sử dụng ma tuý ở nước ta, ước tính có khoảng 56,9% người nhiễm
HIV/AIDS trong cả nước là do tiêm chích ma tuý.
Phần thứ ba
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG
3
A. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI TÌNH TRẠNG SỨC KHOẺ VÀ HỆ
THỐNG Y TẾ;
1. Dân số và phát triển dân số:
- Theo thống kê dân số năm 2010 cả nước có 86.927.700 người (trong đó
nữ 43.937.000 người chiếm tỷ lệ 50,54%); Tốc độ tăng dân số là 1,05; dân số

nước ta tuy còn trẻ so với một số nước công nghiệp phát triển, nhưng đang có xu
hướng già hoá so với các nước trong khu vực và mất cân bằng giới tính khi sinh
ngày càng cao. Quy mô dân số lớn và tiếp tục tăng, nên mật độ dân số Việt Nam
tăng từ 231 người/km2 năm 1999 lên 262/người/km² năm 2010. Cơ cấu dân số
biến đổi mạnh, tỷ trọng dân số của nhóm dưới 15 tuổi giảm từ 33% năm 1999
xuống còn 24,8% năm 2010. Ngược lại tỷ trọng dân số của nhóm 15 – 59
tuổi( nhóm chủ lực của lực lượng lao động) lại tăng từ 59% năm 1999 lên
65,8% năm 2010 và nhóm dân số từ 60 tuổi trở lên tăng từ 8% năm 1999 lên
9,4% năm 2010. Chỉ số già hoá dân số (Tổng số người trên 60 tuổi/người dưới
15 tuổi) tăng 11% từ 24,5% năm 1999 lên 35,9% năm 2010. Tỷ lệ ngưòi cao
tuổi trong dân số cao sẽ làm tăng nhu cầu đảm bảo các phúc lợi xã hội cũng như
các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cho người già trong thời gian tới. Đồng thời,
nhóm phụ nữ bước vào tuổi sinh đẻ cũng rất lớn sẽ ảnh hưởng nhiều tới nhu cầu
sử dụng dịch vụ sức khoẻ sinh sản và chăm sóc trẻ em.
Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh là một vấn đề quan trọng cần
ưu tiên giải quyết. Tỷ số giới tính khi sinh đã tăng lên trong 10 năm, rõ nét nhất
là trong vòng 5 năm qua. Đến 2010 ước tính đã tăng lên 111 bé trai /100 bé gái.
Các nguyên nhân là tâm lý “ trọng nam khinh nữ”, cha mẹ già thường sống dựa
vào con trai và duy trì dòng họ tộc nối dõi tông đường, kèm theo đó là các biện
pháp chẩn đoán phát hiện giới tính sớm ngày càng phổ biến ở cả cơ sở y tế công
lập và tư nhân.
2. Công nghiệp hoá, đô thị hoá, di cư và thay đổi lối sống:
Công nghiệp ngày càng phát triển, diện tích đất nông nghiệp thu hẹp, tình
trạng người dân lao động ngày càng gia tăng lên thành phố tìm kiếm việc làm vì
vậy, dân số tăng cơ học ở các đô thị ngày càng cao, dân số vùng nông thôn giảm
dần. Số người di cư trong 5 năm qua là 3,3 triệu người, tăng 163 000 người. Sau
10 năm (1999 – 2009) tổng số người di cư tăng lên 1,4 triệu người. Đến nay đã
có 29,6% dân số sống ở khu vực thành thị (năm 1999 là 23,7% ). Sự gia tăng
nhịp độ của cuộc sống là yếu tố nguy cơ cho các bệnh tâm thần, tim mạch và
bệnh không lây nhiễm khác. Công nghiệp hoá tăng nguy cơ tiếp xúc với các yếu

tố gây bệnh nghề nghiệp, tai nạn lao động … Ô nhiễm không khí, ô nhiễm môi
trường, thiếu nước sạch, thiếu các dịch vụ xã hội cơ bản khác do không đáp ứng
kịp nhu cầu tăng dân số đang đe doạ đến sức khoẻ người dân.
3. Sức khoẻ môi trường:
4
Môi trường đang có tác động lớn tới sức khoẻ người dân. Vấn đề nước
sạch và xử lý ô nhiễm nước vẫn cần được ưu tiên.Theo tổng điều tra dân số năm
2009, đến nay đã có 80% hộ gia đình sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh, 54% hộ
gia đình sử dụng hố xí hợp vệ sinh. Những điểm gây ô nhiễm nghiêm trọng cũng
cần phải được giải quyết để giảm nguy cơ đối với sức khoẻ của cả cộng đồng.
Cần có các thể chế để hạn chế và giám sát ô nhiễm do sản xuất và tiêu dùng, để
người dân có thể sống trong môi trường sạch, không ảnh hưởng tới sức khoẻ.
Cùng với quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá, vấn đề ô nhiễm môi
trường đô thị, ô nhiễm không khí và nguồn nước khu dân cư ngày càng nghiêm
trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ người dân. Ô nhiễm không khí đô thị
chủ yếu do giao thông (70%) do quá tải ô tô, xe máy và do các thành phố đang
xây dựng, đô thị hoá một cách mạnh mẽ, có hàng loạt các vấn đề liên quan đến
các bệnh cấp tính và mãn tính nảy sinh do phơi nhiễm ngắn hạn và dài hạn với
các chất gây ô nhiễm không khí.
Môi trường và điều kiện lao động tuy đã được cải thiện đáng kể, nhất là
các nhà đầu tư đã chú ý đến việc nhập các thiết bị thế hệ mới, dây chuyền sản
xuất đồng bộ. Tuy nhiên, tại một số cơ sở sản xuất nội địa vẫn sử dụng dây
chuyền cũ, lạc hậu, không đồng bộ, gây ô nhiễm môi trường làm việc. Đối với
các doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp tư nhân, cơ sở làng nghề, điều kiện lao
động chưa được giám sát hoặc giám sát ở mức rất thấp. Lực lượng lao động lớn
di cư tự do từ nông thôn vào thành thị làm việc với nhiều công việc phức tạp,
điều kiện lao động của những người này không được đảm bảo, có nhiều yếu tố
nguy cơ đối với tình trạng sức khoẻ và bệnh tật trong khi không có hỗ trợ đầy đủ
từ y tế lao động.
Cơ chế thị trường và vấn đề vệ sinh môi trường thành phố: các cơ sở sản

xuất công nghiệp, nông nghiệp, chế biến thực phẩm liên doanh, liên kết với
nước ngoài, tư nhân phát triển ít quan tâm chú trọng đến việc đảm bảo vệ sinh
môi trường gây ô nhiễm tại khu đông dân cư thành phố.
B. THỰC TRẠNG VỀ SỨC KHOẺ NHÂN DÂN VÀ MÔ HÌNH
BỆNH TẬT:
1. Tình trạng sức khỏe
Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình nhưng ở mức thấp, với
tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm trên 6%. Những tác động của khủng hoảng
kinh tế thế giới cũng như thay đổi khí hậu làm chậm quá trình phát triển kinh tế
xã hội, qua đó ảnh hưởng đến việc thực hiện các chỉ tiêu sức khỏe đã đặt ra. Mặc
dầu vậy, trong những năm qua tình trạng sức khỏe của người dân Việt Nam đã
có những cải thiện rõ rệt, thể hiện ở một số chỉ số sức khỏe cơ bản như tuổi thọ
trung bình, tỷ suất tử vong trẻ em, tỷ số tử vong mẹ, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em
dưới 5 tuổi.
1.1. Tỷ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi
5
Tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi cũng giảm nhanh, từ 30‰ (năm 2001)
xuống còn 15,8‰ (năm 2010), đã đạt mục tiêu trong Kế hoạch phát triển kinh tế
xã hội giai đoạn 2006-2010 là giảm tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi xuống còn
16‰.
1.2. Tỷ suất tử vong trẻ em dưới 5 tuổi
Số liệu thống kê của Bộ Y tế cho thấy tỷ suất chết trẻ em dưới 5 tuổi giảm
từ 42‰ năm 2001, xuống 27,5‰ năm 2005 và đến năm 2010 còn 23,8‰, đạt
mục tiêu đề ra cho giai đoạn 2001-2010. Theo mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ,
đến năm 2015, Việt Nam cần giảm tỷ suất này xuống còn 19,3‰. Nếu tiếp tục
giữ được tốc độ giảm tỷ suất này đến năm 2015, Việt Nam sẽ đạt được Mục tiêu
Phát triển Thiên niên kỷ (MDG).
Hình 1: Tỷ suất chết trẻ em dưới 5 tuổi (‰) giai đoạn 2001-2010
1.3. Về tỷ số tử vong mẹ
Về tỷ số chết mẹ, tỷ số này giảm từ 165/100.000 trẻ đẻ sống (năm 2001 -

2002) xuống còn 80/100 000 trẻ đẻ sống (2005) và theo số liệu của Tổng Điều
tra Dân số năm 2009, tỷ số này là 69/100 000 trẻ đẻ sống, năm 2010 là 68/100
000 trẻ đẻ ra sống, đạt so với mục tiêu đề ra trong Chiến lược bảo vệ sức khỏe
nhân dân (70/100 000 trẻ đẻ sống). Tuy nhiên, so với Mục tiêu Phát triển Thiên
niên kỷ là giảm ¾ tử vong mẹ trong giai đoạn từ 1990 đến năm 2015 (tức là
giảm xuống còn 58,3/100 000 trẻ đẻ sống) thì Việt Nam cần tiếp tục nỗ lực để
đạt được mục tiêu đề ra.
1.4. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi
Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi (cân nặng theo tuổi) là một trong
những chỉ tiêu sức khỏe quan trọng. Số liệu điều tra của Viện Dinh dưỡng cho
thấy tỷ lệ này giảm bền vững qua các năm, từ 25,2% năm 2005 xuống 21,2%
năm 2007, 18,9% năm 2009 và 18% năm 2010. Theo kế hoạch, mục tiêu giảm
tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi thể nhẹ cân ở trẻ em Việt Nam là dưới
20% vào năm 2010, tuy nhiên với sự nỗ lực của ngành y tế, sự phối hợp chặt chẽ
của các địa phương và các Bộ ngành và sự phát triển về kinh tế xã hội, năm
2010 đạt được mức 18,0%.
6
Mặc dù Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong cải thiện
sức khỏe người dân, song vẫn còn một số khó khăn, thách thức:
Có sự chênh lệch khá lớn về tình trạng sức khỏe giữa các vùng, miền, thể
hiện ở một số chỉ số như tỷ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi, tỷ lệ suy dinh dưỡng
trẻ em, tỷ số chết mẹ còn cao tại các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng
dân tộc thiểu số Đối với tử vong trẻ em dưới 1 tuổi, mặc dù tỷ lệ này giảm ở
tất cả các vùng, trong đó có các vùng khó khăn, nhưng tỷ lệ ở Tây Nguyên, Tây
Bắc và Đông Bắc vẫn còn cao gấp 1,4 - 1,5 lần so với mức bình quân của cả
nước (kèm theo phụ lục). Chênh lệch giữa vùng Tây Bắc và vùng Đông Nam Bộ
có xu hướng giảm từ 3 lần năm 2005 (33,9‰ và 10,6‰) xuống còn khoảng 2,5
lần năm 2008 (21‰ và 8‰), nhưng mức chênh lệch này vẫn còn rất lớn.
Mức chênh lệch giữa các vùng miền cũng được thể hiện ở tỷ lệ suy dinh
dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi. Mặc dù có sự cải thiện rõ rệt trong giai đoạn 2005-

2009 như đã đề cập ở trên, Tây Nguyên, Tây Bắc vẫn là các vùng có tỷ lệ suy
dinh dưỡng trẻ em cao nhất (kèm theo phụ lục). Tuy nhiên, chỉ số khác biệt giữa
các vùng về tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi giữa 2005 và 2009 cũng đã có xu
hướng giảm khá rõ rệt. Đây có thể là do đầu tư cho y tế ở giai đoạn này tăng khá
mạnh cho các vùng khó khăn (Tây Nguyên, Tây Bắc, Đồng bằng Sông Cửu
Long…) thông qua ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ và các dự án
ODA.
Còn một số lượng lớn trẻ em Việt Nam tử vong hàng năm. Mặc dù tử vong
trẻ em nước ta đã giảm một cách đáng kể nhưng với cơ cấu dân số có tỷ lệ trẻ
em cao (trẻ em dưới 5 tuổi chiếm 6,7% dân số, ước tính khoảng 6.000.000 trẻ và
số trẻ sơ sinh ra đời hằng năm từ 1.200.000 đến 1.500.000) nên số trẻ tử vong
vẫn còn rất cao. Theo đánh giá của UNICEF
1
, hằng năm vẫn có tới 31.000 trẻ
dưới 5 tuổi tử vong, trong đó ước tính khoảng 16.000 là trẻ sơ sinh.
Suy dinh dưỡng trẻ em (thể nhẹ cân) mặc dù được cải thiện rõ rệt, song
vẫn còn cao so với nhiều nước trong khu vực. Suy dinh dưỡng thể thấp còi còn
khá nghiêm trọng với 31,9% trẻ em bị suy dinh dưỡng thể thấp còi. Suy dinh
dưỡng thấp còi đang khá phổ biến tại tất cả các vùng sinh thái trên cả nước
2
. Về
hậu quả, suy dinh dưỡng thấp còi là một dạng suy dinh dưỡng mãn tính, để lại
hậu quả lâu dài về thể chất khi trưởng thành, dễ mắc phải các bệnh khi trưởng
thành như: thừa cân béo phì, đái tháo đường và một số bệnh khác. Suy dinh
dưỡng thấp còi cũng liên quan chặt chẽ đến tử vong của trẻ em. Giảm suy dinh
dưỡng thấp còi sẽ trực tiếp cải thiện tầm vóc, thể lực và trí tuệ người Việt Nam.
Về cơ bản, Việt Nam đạt được tiến độ thực hiện các Mục tiêu phát triển
thiên niên kỷ vào năm 2015 về y tế, đặc biệt là MDG 4 và 5 về sức khỏe bà mẹ -
1


2
 !"#$%"&'&'( )*+',-./ '0 -1  23456
7
trẻ em. Tuy vậy, số lượng bà mẹ và trẻ em tử vong vẫn còn khá lớn, đặc biệt là ở
các vùng khó khăn. Một số vấn đề liên quan đến MDG 6 về phòng chống
HIV/AIDS và một số bệnh khác cũng cần được quan tâm hơn.
2. Cơ cấu bệnh tật, tử vong và gánh nặng bệnh tật:
2.1. Cơ cấu bệnh tật
3
Cơ cấu bệnh tật ở Việt Nam hiện nay đang ở giai đoạn chuyển đổi, với đa
gánh nặng. Tỷ lệ mắc các bệnh truyền nhiễm đã giảm, nhưng một số bệnh lây
nhiễm đang có nguy cơ quay trở lại; tỷ lệ mắc các bệnh không lây ngày càng gia
tăng; tai nạn, chấn thương, ngộ độc tăng nhanh; một số dịch bệnh mới, bệnh lạ
xuất hiện và diễn biến khó lường.
Theo số liệu thống kê từ các bệnh viện trong hệ thống thông tin y tế, tỷ
trọng nhập viện của nhóm các bệnh lây nhiễm chiếm khoảng 55,5% năm 1976
đã giảm xuống 25,2% vào năm 2008. Nhóm các bệnh không lây nhiễm ngày
càng tăng qua các năm, từ 42,6% năm 1976 lên 63,1% năm 2008. Nhóm các
bệnh do ngộ độc, chấn thương, tai nạn vẫn tiếp tục duy trì ở tỷ lệ trên 10%.
Các bệnh có xu hướng giảm: từ năm 2000-2010, nhiều bệnh truyền
nhiễm, đặc biệt là các bệnh có thể dự phòng bằng vác cin (bạch hầu, ho gà, viêm
não), một số bệnh đường tiêu hóa (thương hàn, lỵ trực trùng), viêm màng não đã
có xu hướng giảm rõ so với giai đoạn 10 năm trước đây (1990-1999).
Các bệnh có xu hướng tăng trong những năm gần đây, một số bệnh truyền
nhiễm như thủy đậu, quai bị đã có xu hướng tăng lên rõ rệt tại khu vực phía Bắc
so với giai đoạn 1990-1999. Trong đó bệnh thủy đậu tăng từ 39.753 ca, giai
đoạn 1990 – 1999 lên 129 745 ca giai đoạn 2000 – 2010 (tăng gấp 2,3 lần); bệnh
quai bị tăng 29,8 %. Năm 2010 ghi nhận 25.558 trường hợp mắc bệnh quai bị,
tăng 56,83% so với năm 2009 (mắc 16 297 ca). Trong 4 năm gần đây, số mắc
quai bị đều có xu hướng tăng.

2.2. Gánh nặng bệnh tật
Kết quả của nghiên cứu về gánh nặng bệnh tật và chấn thương đầu tiên ở
quy mô lớn được tiến hành tại Việt Nam được công bố năm 2011
4
. Kết quả cho
thấy tổng gánh nặng bệnh tật ở Việt Nam năm 2008 là 12,3 triệu DALYs, trong
đó gánh nặng bệnh tật ở nam giới chiếm 56% tổng số gánh nặng. Gánh nặng
bệnh tật do tử vong sớm chiếm 56% tổng gánh nặng bệnh tật ở Việt Nam.
Gánh nặng bệnh tật do các bệnh không truyền nhiễm chiếm 66% tổng
gánh nặng bệnh tật ở nam và 77% tổng gánh nặng bệnh tật ở nữ. Chấn thương
không chủ định (18%), các bệnh tim mạch (17%) và các bệnh tâm thần kinh
(14%) là các nhóm nguyên nhân chính của gánh nặng bệnh tật ở nam giới trong
3
7-8&'&0 9,8:;<=>$=!"#$%?@
4
"&'& ,'A-B- 'C.'&'8D 'A 9E':FG: :H &I
J
 8,
J
K
J
'L-&)
3'2M'N&'1%O*P!%Q':HN&'1%!4R66
8
khi ở nữ giới các nhóm nguyên nhân chính của gánh nặng bệnh tật là các bệnh
tâm thần kinh (22%), các bệnh tim mạch (18%) và ung thư (12%).
Ở nam giới, đột quỵ là nguyên nhân hàng đầu của gánh nặng bệnh tật
(10%), tiếp đến là tai nạn giao thông (8%) và các rối loạn do sử dụng rượu (5%).
Ở nữ giới, trầm cảm là nguyên nhân hàng đầu của gánh nặng bệnh tật (12%),
tiếp đến là đột quỵ (10%) và khuyết tật về mắt (4%). Nhiễm khuẩn hô hấp dưới

(viêm phổi) là nguyên nhân chính của gánh nặng bệnh tật ở trẻ em, chiếm 11%
tổng gánh nặng bệnh tật. Tai nạn giao thông và HIV/AIDS chiếm một phần tư
tổng gánh nặng bệnh tật ở nam giới độ tuổi 15-49. Trầm cảm và tai nạn giao
thông chiếm 32% gánh nặng bệnh tật ở nữ giới độ tuổi này. Đột quỵ là nguyên
nhân hàng đầu của gánh nặng bệnh tật ở nam (14%) và nữ (9%) độ tuổi 45-69.
Ở nhóm người 70 tuổi trở lên, đột quỵ gây ra 22% tổng DALYs ở nam và 24%
tổng DALYs ở nữ.
Sự gia tăng của những bệnh không lây nhiễm gây ra sự gia tăng nhanh
chóng chi phí khám chữa bệnh. Chi phí điều trị cho bệnh không lây nhiễm trung
bình cao gấp 40-50 lần so với điều trị các bệnh lây nhiễm do đòi hỏi kỹ thuật
cao, thuốc đặc trị đắt tiền, thời gian điều trị lâu, dễ bị biến chứng. Một ca mổ tim
có chi phí từ 100-150 triệu đồng; một đợt điều trị cao huyết áp hoặc một đợt
điều trị bệnh tiểu đường cấp từ 20-30 triệu đồng Đồng thời, các cơ sở y tế
cũng phải tăng đầu tư các trang thiết bị y tế đắt tiền để phát hiện và điều trị các
bệnh không lây nhiễm, tuyển chọn và đào tạo thêm các bác sĩ chuyên khoa, kéo
theo tăng chi phí dịch vụ. Đây là thách thức lớn đối với hệ thống y tế Việt Nam
trong thời gian tới, đòi hỏi phải có những điều chỉnh chính sách phù hợp nhằm
tăng cường nỗ lực phòng các bệnh này, và tổ chức cung ứng dịch vụ y tế.
3. Tình hình một số bệnh dịch
3.1. Cúm A/H5N1:
Từ đầu năm 2003 đến cuối 2010, Việt Nam đã ghi nhận 119 trường hợp
mắc, 59 trường hợp tử vong, các trường hợp này phân bổ tại 39 địa
phương của 3 khu vực:
- Miền Bắc: mắc 81, tủ vong 34 tại 22 tỉnh/thành phố;
- Miền Nam: mắc 30, tử vong 24 tại 14 tỉnh/ thành phố;
- Miền Trung: mắc 8, tử vong 01 tại 3 tỉnh/ thành phố;
Các trường hợp nhiễm cúm A(H5N1) ở người được ghi nhận đồng thời
với dịch cúm ở gia cầm trên địa bàn.
3.2 Cúm A/H1N1:
Từ đầu năm 2010 đến nay, theo kết quả giám sát cúm trọng điểm Quốc

gia, nước ta ghi nhận sự xuất hiện của 03 phân týp vi rút cúm A(H1N1), cúm
A(H3N2) và cúm B.Vi rút cúm A(H1N1) đã được ghi nhận tại 40 tỉnh, thành
phố với 498 trường hợp mắc có xét nghiệm dương tính, trong đó đã có 13
9
trường hợp tử vong tại 10 địa phương; các trường hợp tử vong chủ yếu có bệnh
mạn tính kèm theo chiếm 61,5%.
3.3. Sốt xuất huyết (SXH):
Trong 5 năm trở lại đây, số mắc sốt xuất huyết liên tục gia tăng, dịch SXH
không chỉ xảy ra ở các tỉnh thuộc khu vực miền Nam và miền Trung mà còn lan
rộng ra cả nước. Tuy nhiên năm 2010, số ca nghi mắc SXH lâm sàng được ghi
nhận 128.831 trường hợp mắc, 109 trường hợp tử vong. So với 2009
(105.370/87), số mắc cả nước tăng 22%, số tử vong tăng 25,3% so với cùng kỳ
2009 đối với từng khu vực:
- Miền Bắc (5 542/0): số mắc giảm 3,3 lần, tử vong giảm 4 trường hợp;
- Miền Nam (74 169/80): số mắc tăng 0,3%, tử vong tăng 6 trường hợp;
- Miền Trung (35 865/24): số mắc tăng 3,1 lần, số tử vong tăng 3 trường
hợp;
- Tây nguyên (13 255/5): số mắc tăng 8,9 lần, tử vong tăng 4 trường hợp;
3.4. Dịch tiêu chảy cấp nguy hiểm (tả):
Sau nhiều năm được khống chế đã bùng phát trở lại vào năm 2007 với tỷ
lệ mắc là 2,24/100 000 dân. Trong giai đoạn từ năm 2000-2009, miền Bắc đã ghi
nhận tổng số 8 304 ca mắc tả, tăng tới 6 lần so với giai đoạn từ 1990-1999 (1194
ca). Riêng năm 2010 cả nước ghi nhận 317 trường hợp tả (không có tử vong) tại
18 địa phương; trong đó 301 trường hợp là người Việt Nam và 16 trường hợp là
người Cămpuchia;
3.5. Bệnh sởi:
Từ cuối năm 2008 và giữa năm 2010 đã bùng phát dịch sởi lớn trên cả
nước. Trong khoảng thời gian 21 tháng, dịch sởi đã xảy ra tại 63/63 tỉnh với 9
434 ca mắc. Lứa tuổi mắc sởi tập trung ở nhóm 1 đến 6 tuổi và 18 đến 26 tuổi.
3.6. Bệnh Rubella:

Theo báo cáo chưa đầy đủ, tổng số ca mắc rubella có tăng so với số mắc
trung bình 5 năm vừa qua. Tại một số bệnh viện nhi, số trẻ bị nhiễm Hội chứng
rubella bẩm sinh cũng có xu hướng tăng hơn so với mọi năm. Cho tới nay,
rubella vẫn chưa nằm trong chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia vì bệnh
không lưu hành phổ biến.
3.7 Bệnh Tay – Chân - Miệng:
Theo báo cáo giám sát của các Viện Vệ sinh dịch tễ/Pasteur năm 2010, cả
nước đã ghi nhận 18 781 trường hợp mắc tay chân miệng tại 47 địa phương
trong đó đã có 52 trường hợp tử vong tại 10 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương. Bệnh tập trung chủ yếu ở nhóm 1-3 tuổi. Đây là bệnh mới và gây nguy
hiểm cho trẻ em.
3.8 Bệnh Sốt rét:
10
Bệnh sốt rét đã được đẩy lùi và giảm thấp ở nhiều địa phương, nơi dịch
lưu hành trước đây. Nếu như năm 2006, số mắc sốt rét là 108,9/100 000 dân thì
đến năm 2010 chỉ còn 62,0/100 000 dân (trên 27% dân số toàn quốc sống trong
vùng sốt rét lưu hành). Tuy nhiên, nguy cơ sốt rét quay trở lại tại một số vùng
miền còn khá lớn, nhất là ở các vùng rừng núi, vùng ven biển nước lợ, vùng dân
tộc ít người, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới.
3.9 Bệnh Lao:
Ở Việt Nam, trong giai đoạn từ 2004 - 2009, tỷ lệ phát hiện lao phổi AFB
dương tính mới trên 100 000 dân giảm dần theo từng năm, ở cả 3 miền Bắc,
Trung, Nam. Riêng khu vực miền Nam ước tính cả năm 2009, tỷ lệ phát hiện lao
phổi AFB dương tính mới tăng trở lại cao hơn năm 2007-2008. Trên toàn quốc,
tỷ lệ phát hiện lao phổi dương tính mới trên 100 000 dân ước tính năm 2009
giảm xấp xỉ 14% so với 2004. Nhiều bệnh nhân lao kháng đa thuốc chưa được
chữa vì thiếu thuốc.
3.10 Dịch HIV/AIDS:
Theo báo cáo của các địa phương, tính đến ngày 30/6/2011, cả nước hiện
có 190 902 người nhiễm HIV còn sống, trong đó có 46 056 bệnh nhân AIDS và

kể từ đầu vụ dịch đến nay có 50 108 người tử vong do HIV/AIDS. Tình hình
dịch HIV/AIDS 6 tháng đầu năm 2011, trên toàn quốc có giảm nhẹ cả số nhiễm
HIV, số bệnh nhân AIDS và số tử vong do HIV/AIDS, số trường hợp nhiễm
HIV phát hiện được báo cáo là 6 146 người, trong đó có 2 477 bệnh nhân AIDS
và 844 người tử vong do HIV/AIDS.
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe
4.1. Tình trạng Vệ sinh an toàn thực phẩm:
Tình trạng ngộ độc thực phẩm vẫn còn phức tạp, hàng năm xảy ra khoảng
gần 200 vụ ngộ độc thực phẩm trên 30 người mắc. Tổng số người ngộ độc thực
phẩm trong cả nước ước tính khoảng 1,2 đến 1,5 triệu người, số người tử vong
do ngộ độc thực phẩm khoảng 35 – 40 người. Tình trạng ngộ độc và tử vong do
các độc tố tự nhiên và hoá chất vẫn chiếm tỷ lệ cao. Tình trạng sử dụng các hoá
chất, phụ gia thực phẩm không đúng quy định trong quá trình nuôi trồng, sơ chế
chế biến thực phẩm vẫn còn khá phổ biến. Trong khi đó năng lực của các chi
Cục An toàn vệ sinh thực phẩm của các tỉnh/thành phố còn yếu do mới được
thành lập, thiếu cơ sở vật chất, phương tiện và nhân lực. Các đơn vị kiểm
nghiệm còn hạn chế về năng lực, chưa đáp ứng được các yêu cầu cấp bách trong
giám sát và xác định nguyên nhân gây ngộ độc thực phẩm.
4.2. Tình trạng sử dụng thuốc lá, rượu, bia:
Tình trạng sử dụng thuốc lá, rượu, bia, vẫn tồn tại trong cộng đồng dân
cư, xã hội, đặc biệt là lớp thanh niên và những người lao động tự do; tiêu thụ
thuốc lá ở Việt Nam đang có chiều hướng gia tăng năm 1998 tỷ lệ hút thuốc lá ở
nam giới là 50%, năm 2005 là 56%. Tỷ lệ vẫn hút thuốc lá vẫn tăng lên từ 2004
11
đến 2009. Bên cạnh gánh nặng về bệnh tật, tử vong do hút thuốc còn tạo ra gánh
nặng về tài chính. Đã có quy định về cấm hút thuốc lá ở nơi công cộng, nơi đông
người nhưng việc thực hiện và các chế tài xử lý không đủ mạnh nên không có
kết quả trên thực tế. Sử dụng rượu bia không hợp lý có ảnh hưởng lớn tới sức
khoẻ thông qua 3 kênh: say rượu, nghiện rượu và ngộ độc do rượu. Tỷ lệ ưống
rượu cao ở nhóm có trình độ học vấn cao. Theo điều tra thanh thiếu niên Việt

Nam, tỷ lệ đã từng uống hết một cốc rươụ/bia trong độ tuổi 14 -17 tuổi năm
2004 là 35% đến năm 2009 đã lên 47,5% đối với tuổi 18 – 21 năm 2004 là 57,9
đến năm 2009 đã lên 66,9%.
4.3. Công nghiệp hóa, đô thị hóa:
Đô thị hóa, công nghiệp hóa nhanh tạo ra những thách thức lớn đối với
công tác chăm sóc sức khỏe. Đến nay đã có 29,6% dân số sống ở khu vực thành
thị so với 23,7% vào năm 1999. Khi Việt Nam trở thành nước công nghiệp, tỷ lệ
dân sống ở thành phố sẽ trên 50%. Đời sống đô thị cùng với nhiều stress là yếu
tố nguy cơ cho các bệnh tâm thần, tim mạch, và bệnh không lây nhiễm khác.
4.4. Ô nhiễm môi trường, không khí, đất và nước:
Nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, các khu công
nghiệp phát triển ngày một nhiều vấn đề ô nhiễm môi trường đô thị, ô nhiễm
không khí, đất và nước ngày một gia tăng ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ
người dân. Ô nhiễm không khí đô thị chủ yếu do giao thông (70%) do quá tải ô
tô, xe máy và do các thành phố đang xây dựng đô thị hoá một cách mạnh mẽ. Có
hàng loạt các vấn đề có liên quan đến sức khoẻ cấp tính và mãn tính do phơi
nhiễm ngắn hạn và dài hạn với các chất gây ô nhiễm không khí.
4.5. Biến đổi khí hậu
Việt Nam là một trong số 10 quốc gia dự báo là sẽ bị ảnh hưởng nặng nề
nhất do biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng. Ngoài ra, các loại thiên tai có
ảnh hưởng rất lớn tới sức khỏe người dân do hậu quả là mất nguồn nước sạch,
nhất là mất diện tích lớn trồng lúa ở Đồng Bằng Sông Cửu Long.
5. Tình hình tai nạn và thương tích:
Số vụ tai nạn, số người bị thương và tử vong do tai nạn, đặc biệt là tai nạn
giao thông ngày càng gia tăng trong vòng 10 năm qua. Tử vong do chấn thương
các loại và tai nạn giao thông đứng hàng đầu trong các nguyên nhân tử vong ở
các bệnh viện hiện nay. Nước ta bình quân mỗi ngày có khoảng 30 người chết
và 70 người bị thương gây tàn tật suốt đời. Bên cạnh tai nạn giao thông là các tai
nạn thương tích xảy ra trong cộng đồng như ngộ độc, cháy nổ, điện giật, chết
đuối… đây là những con số đáng lo ngại và áp lực lớn đối với các cơ sở y tế, đặc

biệt là các cơ sở cấp cứu ngoại khoa, chấn thương chỉnh hình.
C. THỰC TRẠNG HỆ THỐNG CƠ SỞ Y TẾ:
12
Cơ cấu tổ chức bộ máy hệ thống y tế từng bước được hoàn thiện và dần
ổn định ở cả Trung ương và địa phương. Sau một thời gian mạng lưới y tế huyện
bị phân chia thành 3 đơn vị, nay tổ chức tuyến cơ sở đã được điều chỉnh và dần
ổn định. Trung tâm y tế được thành lập thống nhất trên địa bàn cấp huyện thực
hiện hai chức năng y tế dự phòng, khám chữa bệnh và quản lý các trạm y tế xã/
phường; nơi có điều kiện tách riêng bệnh viện và trung tâm y tế chỉ thực hiện
chức năng y tế dự phòng quản lý các trạm y tế xã/phường.
Việc triển khai thực hiện nghị định số 43/2005/NĐ – CP về cơ chế tự chủ
mặc dù còn một số hạn chế cần khắc phục, nhưng đã tạo điều kiện để phát triển
và tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ sở y tế công lập.
Tuy nhiên, trong lĩnh vực quản trị hệ thống y tế còn nhiều vấn đề cần
được đổi mới và hoàn thiện. Trước hết cần tăng cường năng lực quản lý, xây
dựng hoạch định chính sách, chiến lược ngành y tế để đáp ứng tốt hơn nhu cầu
đổi mới của hệ thống y tế theo hướng công bằng, hiệu quả, phát triển. Bộ Chính
trị đã nhận định: “ngành y tế còn chậm đổi mới và còn lúng túng cả về nhận
thức và xây dựng cơ chế hoạt động”. Nhiều chính sách y tế còn chậm đổi mới
hoặc đổi mới chưa cơ bản, chưa đồng bộ.
I. Các cơ sở Y tế dự phòng:
- Tuyến Trung ương:
Các cơ sở y tế dự phòng tuyến Trung ương bao gồm 15 viện và Trung
tâm chuyên ngành thuộc Bộ Y tế (kèm theo phụ lục), thực hiện chức năng
nghiên cứu, đào tạo và chỉ đạo tuyến về các lĩnh vực: dịch tễ, vi sinh, miễn dịch
y học, ký sinh trùng, côn trùng y học, sức khoẻ, nghề nghiệp, tai nạn thương
tích, sức khoẻ môi trường, sức khoẻ trường học; dinh dưỡng cộng đồng và an
toàn vệ sinh thực phẩm.
- Tuyến tỉnh:
Tuyến tỉnh có 63 trung tâm Y tế dự phòng, 63 chi Cục An toàn vệ sinh

thực phẩm, 62 trung tâm phòng chống HIV/AIDS, 13 trung tâm kiểm dịch y tế
quốc tế, 27 trung tâm phòng chống sốt rét, 23 trung tâm phòng chống bệnh xã
hội và 8 trung tâm Sức khoẻ Lao động và Môi trường, Trung tâm giáo dục sức
khoẻ và chăm sóc sức khoẻ sinh sản (kèm theo phụ lục).
- Tuyến huyện:
Tuyến huyện có 712 trung tâm y tế huyện, trong đó có 536 trung tâm y tế
thực hiện chức năng y tế dự phòng, 176 trung tâm Y tế thực hiện chức năng y tế
dự phòng và chức năng điều trị (bao gồm cả bệnh viện).
Đánh giá cơ sở hệ thống y tế dự phòng:
- Cơ sở vật chất còn chật hẹp, tuyến tỉnh có 80% Trung tâm y tế dự phòng
cần nâng cấp sửa chữa và xây mới. Tuyến huyện hầu hết chưa có cơ sở làm việc,
nhu cầu xây mới hiện nay là rất lớn và rất cần thiết đối với công tác y tế dự
phòng, đặc biệt là tuyến huyện;
13
- Trang thiết bị hiện nay còn thiếu nhiều, đặc biệt là các trang thiết bị sử
dụng trong công tác xét nghiệm, chẩn đoán; Tuyến Trung ương chỉ có 1 viện
(Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương), có phòng xét nghiệm an toàn sinh học đạt
cấp 3, các viện Pasteur, Viện Vệ sinh dịch tễ Tây Nguyên đạt cấp 2. Tuyến tỉnh
phần lớn các phòng xét nghiệm chưa đạt yêu cầu về an toàn sinh học cấp 1;
Theo số liệu điều tra năm 2009 tại 44 trung tâm Y tế dự phòng tỉnh/thành phố
70,5% trung tâm chỉ đạt dưới 35% danh mục trang thiết bị xét nghiệm so với
Chuẩn quốc gia trung tâm Y tế dự phòng.
- Nhân lực cho y tế dự phòng còn thiếu về số lượng, chất lượng chưa
cao(tuyến Trung ương đáp ứng được 77% nhu cầu), tuyến tỉnh đáp ứng được
54% nhu cầu; tuyến huyện đáp ứng 41,6% nhu cầu.
- Chế độ chính sách còn nhiều bất cập như chính sách thu hút các nguồn
lực, chính sách khuyến khích đầu tư và sự tham gia của các thành phần kinh tế,
chính sách đãi ngộ đối với cán bộ làm công tác y tế dự phòng, chưa có chính
sách thu hút cán bộ y tế dự phòng làm việc ở vùng sâu, vùng xa; chưa có chính
sách ưu tiên đào tạo cán bộ y tế dự phòng. Việc đào tạo kỹ thuật viên y tế dự

phòng tại các tỉnh chưa được quan tâm.
- Ngân sách đầu tư cho y tế dự phòng, trong 10 năm gần đây ngân sách
đầu tư cho y tế dự phòng trung bình là 17% tổng ngân sách toàn ngành y tế (chi
thường xuyên), trong khi đó nguồn thu phí và lệ phí không đáng kể. Với nguồn
kinh phí hạn hẹp này, các đơn vị y tế dự phòng, đặc biệt là tuyến tỉnh và huyện
hầu như không có đủ kinh phí để triển khai các hoạt động phòng, chống dịch chủ
động.
II. Các cơ sở khám chữa bệnh và phục hồi chức năng:
1. Cơ sở và giường bệnh:
Theo số liệu thống kê đến năm 2010 toàn quốc có 13 598 cơ sở với
252 747 giường bệnh, trong đó có 1 094 bệnh viện ( 44 bệnh viện tuyến Trung
ương với 20 610 giường bệnh, Tuyến tỉnh có 376 bệnh viện, với 105 803
giường; Tuyến huyện có 615 bệnh viện 55 190 giường; các cơ sở thuộc Bộ,
ngành khác có 36 bệnh viện và bệnh viện phục hồi chức năng (không kể Bộ
Quốc phòng và Bộ Công an) với 9 415 giường bệnh; Tính đến năm 2010 có 102
bệnh viện tư nhân và bán công với tổng số giường bệnh là 5 822 giường bệnh
(chiếm 0,7 giường bệnh/10.000 dân). Bệnh viện tư nhân chủ yếu tập trung ở các
Thành phố lớn như Hà Nội có 20 cơ sở với 554 giường bệnh, TP. Hồ Chí Minh
có 31 cơ sở với số giường là 2 407 giường, Đà Nẵng có 4 cơ sở với 328 giường
bệnh, TP. Huế có 4 cơ sở với 339 giường bệnh, Bình Dương có 4 cơ sở với 439
giường bệnh. Ngoài ra các địa phương khác có từ 1 đến 3 cơ sở với số giường
trung bình 50 giường bệnh/1 cơ sở.
Các bệnh viện chuyên khoa thuộc Bộ Y tế và các bệnh viện chuyên khoa
của các thành phố lớn, mang tính khu vực có quy mô từ 100 giường đến 1 000
14
giường, gồm các chuyên khoa ngoại, sản, nhi, lao và bệnh phổi, ung bướu, mắt,
răng – hàm – mặt, tai – mũi – họng, tâm thần, chấn thương chỉnh hình, bỏng, tim
mạch, lão khoa, nội tiết, huyết học và truyền máu, lâm sàng nhiệt đới, điều
dưỡng phục hồi chức năng; bệnh viện y học cổ truyền Trung ương.
2. Phân hạng bệnh viện:

Theo số liệu báo cáo kiểm tra bệnh viện của Cục quản lý Khám chữa bệnh
và Vụ Y Dược học cổ truyền – Bộ Y tế năm 2010 có 1 075/1 094 bệnh viện xếp
hạng cụ thể như sau:
- Tuyến Trung ương: bệnh viện hạng đặc biệt chiếm 8,2%, hạng 1 chiếm
83,3%, hạng 2 chiếm 8,2%
- Tuyến tỉnh/thành phố bệnh viện hạng 1 chiếm 11,8%, bệnh viện hạng 2
chiếm 41,4%, bệnh viện hạng 3 chiếm 44,2%, hạng và chưa xếp hạng chiếm
2,4%;
- Tuyến huyện, quận: Bệnh viện hạng 2 có 4,8%, hạng 3 có 88,4%, hạng 4
và chưa xếp hạng có 6,8%;
- Bệnh viện ngành hạng 1 có 13,8%, hạng 2 có 19,4%, hạng 3 có 52,7%,
hạng 4 và chưa xếp hạng có 13,8%;
- Bệnh viện Trường đại học: Hạng 2 có 16,6%, Hạng 4 và chưa xếp hạng
có 83,4%;
- Bệnh viện tư nhân: 100% xếp hạng 4 và chưa xếp hạng.
3. Về hoạt động chuyên môn khám chữa bệnh:
Những chuyển đổi của hệ thống bệnh viện đã tạo được sự tin tưởng của
người bệnh về chất lượng điều trị tại các bệnh viện, được thể hiện qua các các
khâu khám chữa bệnh như sau:
3.1. Về điều trị ngoại trú:
Tổng số lần khám bệnh (tính cả Trạm y tế xã) của năm 2010 là 202 230
506 lượt. Tổng số bệnh nhân điều trị ngoại trú chiếm khoảng 60% tổng số bệnh
nhân vào viện (năm 2005 chiếm 45%), như vậy tỷ lệ người bệnh đến bệnh viện
ngày càng tăng và bệnh viện cũng có xu hướng sử dụng nhiều hơn hình thức
điều trị ngoại trú.
3.2. Điều trị nội trú:
Công suất sử dụng giường bệnh chung của các bệnh viện trên cả nước
năm 2010 là 116,60% trong đó các bệnh viện Trung ương (124,03%), Ngày điều
trị bình quân bệnh nhân nội trú là 7,35 ngày; Các chỉ số đánh giá hiệu suất hoạt
động của bệnh viện (công suất sử dụng giường bệnh, ngày điều trị bình quân và

chỉ số luân chuyển bệnh nhân) còn ở mức cao so với các nước trong khu vực.
Nguyên nhân dẫn đến quá tải ở tuyến trên là:
15
- Tình trạng xuống cấp của các cơ sở khám chữa bệnh tuyến quận, huyện;
- Giao thông thuận tiện, bệnh nhân có thể vượt tuyến lên bệnh viện tuyến
trên;
- Nhu cầu khám chữa bệnh với chất lượng cao và đa dạng của người dân
tăng, người bệnh có quyền tự lựa chọn nơi khám chữa bệnh, nên nhiều người đã
đến thẳng các bệnh viện lớn có uy tín chuyên môn, không còn tuân thủ tuyến
điều trị và hệ thống chuyển viện.
- Cơ chế tài chính, giá dịch vụ khám chữa bệnh và tác động không mong
muốn của một số chính sách.
- Tâm lý lựa chọn dịch vụ khám chữa bệnh của người dân;
4. Trang thiết bị kỹ thuật và quản lý:
Trong những năm qua, hệ thống bệnh viện đã được củng cố, nâng cấp và
đầu tư phát triển tương đối đồng đều từ tuyến huyện, tuyến tỉnh đến Trung ương
cả về cơ sở hạ tầng và trang thiết bị kỹ thuật. Chính sách quốc gia về trang thiết
bị y tế đến năm 2010 được xây dựng với sự tham gia và đóng góp của các Bộ,
ngành và các đơn vị liên quan, bao gồm các mục tiêu chủ yếu, những giải pháp
tổng thể thuộc lĩnh vực quản lý, sản xuất, kinh doanh, khai thác sử dụng, nghiên
cứu khoa học công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực chuyên ngành kỹ thuật thiết
bị y tế.
Hệ thống kinh doanh sản xuất, nhập khẩu trang thiết bị y tế được mở rộng
Cả nước hiện có 48 đơn vị nghiên cứu chế tạo và sản xuất trang thiết bị y tế với
621 sản phẩm được sản xuất trong nước và được Bộ Y tế cấp giấy chứng nhận
đăng ký lưu hành.
Tuy nhiên, trong lĩnh vực trang thiết bị y tế còn một số vấn đề đáng quan
tâm đó là hiệu quả đầu tư trong lĩnh vực trang thiết bị y tế còn hạn chế; Thiếu
thông tin đầy đủ về trang thiết bị y tế hiện có và công suất sử dụng theo tuyến
làm cơ sở để quản lý nhà nước và hỗ trợ các cơ sở y tế đầu tư hiệu quả trong lĩnh

vực này. Đánh giá công nghệ y tế nhằm lựa chọn công nghệ có chi phí thấp, hiệu
quả cao, phù hợp với nhu cầu vẫn chưa được quan tâm đúng mức.
Các chính sách hỗ trợ ngành công nghiệp sản xuất trang thiết bị y tế và
vật tư tiêu hao trong bối cảnh hội nhập với nền kinh tế thế giới vẫn chưa đầy đủ,
chưa có chiến lược phù hợp với năng lực và nhu cầu nội địa. Trong nước mới
chỉ sản xuất được trang thiết bị y tế thông dụng, hàm lượng công nghệ còn thấp.
Chất lượng của các trang thiết bị y tế sản xuất trong nước chưa ổn định độ chính
xác bền vững và tin cậy còn thấp.
Về xử lý chất thải y tế, trong những năm vừa qua các bệnh viện không
những được phát triển về số lượng mà còn được nâng cao cả về chất lượng phục
vụ. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động của hệ thống bệnh viện còn gặp nhiều
bất cập, các bệnh viện tuyến tỉnh và Trung ương luôn trong tình trạng quá tải,
kinh phí đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng còn hạn hẹp, hệ thống xử lý chất thải độc
16
hại nguy hiểm chưa hoàn thiện, chưa đảm bảo theo yêu cầu quy định của luật
môi trường nhất là hệ thống xử lý nước thải, lượng nước thải được sinh ra ngày
càng nhiều, tỷ lệ thuận với sự gia tăng về số bệnh nhân, gây ra tình trạng ô
nhiễm ngày càng trở lên phức tạp.
III. Mạng lưới y tế cơ sở:
Trong những năm qua ngành y tế đã tập trung vào củng cố hệ thống y tế
xã, phường và y tế thôn bản. Đến 2010, 98,4% số xã có hoạt động của Trạm y
tế; 87,44% số thôn bản có nhân viên y tế thôn bản hoạt động, có 67,8% số xã có
bác sỹ. 73,8% số xã đạt chuẩn quốc gia y tế xã, 96,2% số xã có y sỹ sản nhi hoặc
nữ hộ sinh, 100 % định biên y tế xã được hưởng lương và phụ cấp, đảm bảo
quyền lợi cho nhân viên y tế, với tổng số 11.112 xã và tương đương (1.366
phường, 625 thị trấn, 9.121) có 10.957 xã, phường có Trạm y tế, hiện có 49.589
định biên cán bộ y tế hoạt động, bình quân 4,5 cán bộ y tế/trạm y tế. Thực hiện
chủ trương 100% trạm y tế xã có bác sỹ, trong những năm qua các địa phương
tập trung đào tạo và đưa bác sỹ về tuyến xã, tính đến 2010 có 7.244 bác sỹ về xã
chiếm tỷ lệ 67,8% số xã có bác sỹ. Hiện nay Bộ Y tế đã phân tuyên kỹ thuật cho

tuyến xã nhằm thúc đẩy hoạt động của trạm y tế xã;
IV. Nguồn nhân lực y tế:
1. Mạng lưới đào tạo cán bộ y tế
Mạng lưới các trường đào tạo nhân lực y tế đã được mở rộng, hiện nay có
60/63 tỉnh có cơ sở đào tạo Trung học y tế trở lên, 14 Trường đại học Y Dược
bằng 8% số trường đại học trong cả nước, 5 Khoa y – điều dưỡng, 33 trường
Cao đẳng y tế bằng 14% các trường cao đẳng trong cả nước, 42 Trường trung
cấp; 19 cơ sở đào tạo sau đại học y dược, y tế công cộng; trong đó 17 cơ sở đào
tạo tiến sỹ (10 trường, 7 viện);
Nhìn chung, chất lượng nhân lực y tế đã tăng lên, nhiều loại hình cán bộ y
tế mới được hình thành như cử nhân điều dưỡng, cử nhân y tế công cộng và cử
nhân kỹ thuật y tế. Nhiều cán bộ y tế đã được đào tạo nâng cao trình độ ở bậc
sau đại học như Bác sỹ nội trú, chuyên khoa 1, chuyên khoa 2, thạc sỹ và tiến
sỹ. Đội ngũ khoa học kỹ thuật được tăng cường, thực hiện được nhiều kỹ thuật
hiện đại… công tác đào tạo liên tục đối với cán bộ y tế bắt đầu được triển khai
với nhiều loại hình. Ngành y tế phối hợp với với ngành giáo dục và đào tạo đã
cải tiến chương trình đào tạo, mở thêm nhiều mã ngành mới, ở cả trình độ đại
học, cao đẳng và trung cấp; tăng cường đào tạo sau đại học.
Vấn đề đáng quan tâm là hiện đang có sự mất cân đối về cơ cấu và phân
bổ nhân lực y tế, thiếu nhân lực y tế ở một số chuyên ngành (như y tế dự phòng,
giải phẫu bệnh, tâm thần, lao…) và vùng nông thôn, vùng khó khăn. Nhân lực y
tế có trình độ cao chủ yếu tập trung ở khu vực thành thị và các trung tâm lớn.
Tình trạng dịch chuyển nhân lực y tế từ tuyến dưới lên tuyến trên, về các thành
17
phố lớn, các bệnh viện tuyến trên là báo động, ảnh hưởng đến việc đảm bảo số
lượng nhân lực y tế cần thiết ở nông thôn, miền núi và cơ sở.
Nhu cầu nhân lực y tế hiện nay chưa đáp ứng đủ về số lượng cũng như về
chất lượng. Vấn đề còn đáng quan tâm hơn là phân bổ nhân lực không đồng đều
giữa các vùng miền. Những vùng kinh tế kém phát triển hơn, những vùng núi và
dân tộc ít người, những vùng nông thôn thường thiếu cán bộ y tế hơn các vùng

khác, chất lượng nhân lực ở các khu vực này cũng không bằng các khu vực kinh
tế phát triển hơn, trong khi nhu cầu chăm sóc sức khoẻ ở đây cao hơn. Tình
trạng thiếu nhân lực làm việc ở các chuyên ngành y học dự phòng, cận lâm sàng,
nhi, lao, phong, tâm thần là hiện hữu và có nguy cơ gia tăng, nếu không có chính
sách thích hợp trong đào tạo, tuyển dụng và đãi ngộ. Tình trạng thiếu nhân lực
trình độ đại học rõ hơn trình độ trung cấp, cao đẳng. Quá trình phát triển hệ
thống y tế trong thời gian tới sẽ đặt ra nhiều yêu cầu mới cần giải quyết về nhân
lực. Khả năng đáp ứng của các trường đại học đang ngày càng tốt hơn, song do
mức đầu tư không tăng tương ứng sẽ làm cho chất lượng nhân lực y tế bị ảnh
hưởng. Các cơ sở đào tạo ngoài công lập thì tham gia đào tạo những nghề mà
đàu tư không tốn kém, chưa tham gia đào tạo bác sỹ và dược sỹ đại cho dù cộng
đồng có nhu cầu cao hơn.
2. Tổng số cán bộ y tế đến cuối năm 2010:
- Theo thống kê y tế năm 2010, tổng số cán bộ y tế có 34 4876 người,
trong đó bác sỹ (kể cả Ths, TS.) là 62555, dược sỹ (kể cả Ths, TS) là 7876; Số
còn lại là y sỹ, dược sỹ trung cấp, y tá, dược tá, lương y, xét nghiệm viên, kỹ
thuật viên y, kỹ thuật viên dược:
- Tuyến Trung ương: 40 200 người chiếm 13,07%;
- Tuyến địa phương: 271196 người chiếm 74,75%;
- Các ngành có: 33480 người chiếm 3,36%;
Số lượng nhân lực y tế đã tăng lên những năm qua, năm 2010 số bác sỹ
cho 10 000 dân là 7,2, số y bác sỹ cho 10 000 dân là 13,42. Một bác sỹ phục vụ
số dân là 1390 người, một y bác sỹ phục vụ là 745 người. Hiện nay số nhân lực
y tế trên 10.000 dân của Việt Nam được xếp vào nhóm những nước có tỷ lệ cao,
tăng từ 29,2% năm 2001 lên 35,1% năm 2010. 80% số thôn bản đã có nhân viên
y tế hoạt động, 67,8% số xã có Bác sỹ (kể cả tăng cường và biên chế chính
thức);
So với các nước trong khu vực, Việt Nam có tỷ lệ cán bộ y tế/10.000 dân
thấp hơn Thái Lan, Singapor, Malaixia, Philipin và tương đương Indonexia.
Việc phân bổ nhân viên y tế không đồng đều giữa các vùng miền; Khu vực đồng

bằng sông Cửu Long có số nhân viên y tế thấp nhất, với hơn 40.000 cán bộ y tế /
17,5 triệu dân (đạt tỷ lệ 23,1%). Vì vậy trong những năm tới cần ưu tiên tăng
cường bổ sung nhân viên y tế cho vùng đồng bằng Sông Cửu long.
V. Đầu tư và tài chính y tế:
18
Tổng chi ngân sách nhà nước cho y tế năm 2009 là 60.135,2 tỷ đồng, năm
2010 là: 69.563,2 tỷ, tốc độ tăng là 15,68%
Tỷ lệ tổng chi y tế/ GDP năm 2009 là: 6,55% và năm 2010 là 6,93%
Tỷ lệ ngân sách nhà nước chi y tế/GDP năm 2009 là 2,77% và năm 2010
là 3,09%
Tỷ lệ ngân sách y tế so với tổng chi ngân sách, năm 2009 là: 8,17(%) và
năm 2010 là 9,14(%)
Ngân sách y tế bình quân đầu người năm 2009 là 1.063. 000 đồng và năm
2010 là 1.500 000 đồng;
Trong những năm qua, đặc biệt là những năm gần đây tài chính y tế Việt
Nam có những chuyển biến tích cực. Tổng mức chi của toàn xã hội cho y tế
tăng khá nhanh. Trong giai đoạn 1988 - 2008, tính theo giá so sánh, tốc độ tăng
chi y tế bình quân hàng năm đạt 9,8%. Tổng chi y tế so với GDP tăng qua các
năm và đạt 6,2% GDP năm 2007, cao hơn một số nước trong khu vực. Chi phí y
tế bình quân đầu người năm 2008 là 1.100.000 đồng (khoảng 55 USD).
Tỷ trọng nguồn tài chính công trong tổng chi cho y tế tăng rõ rệt, từ 20%
năm 2000 tăng lên 43% năm 2008. Việt Nam đang phấn đấu đưa tỷ lệ này lên
trên 50%. Quốc hội đã đã quyết định tăng nhanh chi ngân sách nhà nước cho y
tế, tốc độ tăng ngân sách nhà nước cho y tế hàng năm phải cao hơn mức tăng chi
ngân sách nhà nước bình quân. Tỷ trọng chi ngân sách nhà nước cho y tế trong
tổng chi ngân sách nhà nước tăng từ 4,4% năm 2002 lên 7,4% năm 2007 và lên
10,2% năm 2008.
Tỷ lệ tiền của người dân phải chi trả trực tiếp cho y tế đã giảm từ 80%
năm 2000, xuống còn 65% năm 2005 và xuống 52% năm 2008. Tỷ trọng chi cho
y tế dự phòng trong tổng ngân sách nhà nước cho y tế tăng nhưng còn thấp. Việt

Nam đang phấn đấu tối thiểu 30% ngân sách nhà nước cho y tế được phân bổ
cho Y tế dự phòng.
Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế trong dân số năm 2010, số người tham gia
bảo hiểm y tế là 52.407 triệu người, tỷ lệ người có BHYT của Việt Nam ước đạt
khoảng 60,289%. Tổng số thu bảo hiểm y tế là 25.540,58 triệu đồng; Trong đó
người nghèo và dân tộc thiểu số là 5.088 triệu đồng, cận nghèo là 273,79 triệu
đồng, học sinh, sinh viên là 2.493, 65 triệu đồng, trẻ em dưới 6 tuổi là 2.979,72
triệu đồng, tự nguyện là 1.545,96 triệu đồng. Tổng chi bảo hiểm cho khám bệnh
là 18.816, 99 triệu đồng.
Tuy đầu tư của Chính phủ cho y tế tăng nhưng tổng chi ngân sách cho y tế
vẫn còn thấp so với nhu cầu. Ngân sách nhà nước đầu tư cho y tế chưa đáp ứng
được đầu tư phát triển ngành y tế. Tỷ lệ chi tiền túi hộ gia đình vẫn còn cao
(52%). Chi từ quỹ bảo hiểm y tế cho y tế rất thấp, mới chiếm tỷ lệ 17,6% tổng
chi y tế năm 2008. Tổng giá trị viện trợ và vay nước ngoài hàng năm còn chiếm
1,8% tổng chi y tế.
19
Ở các bệnh viện, phương thức chi trả “phí theo dịch vụ” đang bộc lộ
nhiều bất cập, tạo điều kiện cho xu hướng lạm dụng xét nghiệm, thuốc từ phía
cơ sở cung ứng dịch vụ. Bộ Y tế và cơ quan bảo hiểm xã hội Việt Nam đã có
nhiều nỗ lực thử nghiệm và xây dựng phương thức chi trả mới như thanh toán
định suất, chi trả theo trường hợp bệnh. Tuy nhiên, việc áp dụng phương thức
thanh toán mới này cũng cần phải cân nhắc kỹ ưu – nhược điểm và khả năng áp
dụng vào điều kiện của Việt Nam. Ngoài ra, cũng cần phải có đầu tư thoả đáng
để chuẩn hoá hệ thống khám chữa bệnh, đào tạo cán bộ, đồng thời tham khảo
kinh nghiệm quốc tế để tạo ra phương thức chi trả phù hợp và hiệu quả nhất cho
Việt Nam.
Hiện vẫn chưa có giải pháp hữu hiệu kiểm soát chi y tế; Chi y tế bình
quân đầu người của toàn xã hội tăng gấp đôi từ năm 2005 đến năm 2008. Mức
tăng này thể hiện sự tăng đầu tư cho y tế để tăng chất lượng dịch vụ y tế, các cơ
sở khám chữa bệnh ứng dụng nhiều kỹ thuật cao, chất lượng cao, đầu tư các

trang thiết bị hiện đại… Tuy nhiên, mức tăng này cũng một phần là do các yếu
tố khác, sự gia tăng giá điện, nước, lương tối thiểu, người bệnh lựa chọn sử dụng
dịch vụ chưa hợp lý (vượt tuyến), thiếu sự công nhận kết quả xét nghiệm giữa
các cơ sở y tế .
VI. Thuốc và vắc xin:
Khả năng tiếp cận thuốc ở Việt Nam tương đối tốt do có mạng lưới phân
phối thuốc rộng khắp trên toàn quốc. Đến năm 2010, hệ thống phân phối thuốc
Việt Nam có 2.318 doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thuốc và 44.084 cơ sở
bán lẻ thuốc. Số doanh nghiệp đạt GPs ngày càng tăng, hiện có 101 cơ sở sản
xuất đạt tiêu chuẩn GMP, 104 cơ sở đạt GLP. Các cơ sở y tế từ bệnh viện đến
trạm y tế đều có đủ thuốc phù hợp với phân tuyến kỹ thuật. NSNN được phân bổ
mua một số thuốc thiết yếu phục vụ các chương trình mục tiêu quốc gia và cấp
thuốc miễn phí cho các bệnh nhân một số bệnh (lao, bệnh nhân HIV/AIDS, tâm
thần phân liệt, động kinh). Năm 2010, giá trị thuốc sản xuất trong nước đạt
khoảng 919,04 triệu USD, đáp ứng được 48,03% nhu cầu sử dung thuốc trong
nước. Tiền thuốc bình quân đầu người trong năm đạt 22,25 USD.
Công nghiệp bào chế dược phát triển mạnh về số lượng doanh nghiệp và
mặt hàng. Đến nay, sản xuất trong nước đã đáp ứng khoảng 50% tổng nhu cầu
sử dụng thuốc của nhân dân. Các quy định về chất lượng thuốc được rà soát và
sửa đổi để dần dần đạt các tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Việt Nam đã xây dựng
và triển khai tiêu chuẩn thực hành tốt sản xuất (GMP), bảo quản thuốc (GSP),
kiểm nghiệm thuốc (GLP), phân phối thuốc (GDP), thực hành tốt nhà thuốc
(GPP) và thực hành tốt trồng trọt và thu hái cây thuốc (GACP). Hầu hết các
doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn GMP. Việt Nam đã cam kết hài hòa hóa quy định
dược phẩm trong khối ASEAN; sẽ thực hiện việc đăng ký thuốc tuân theo các
hồ sơ kỹ thuật chung ASEAN (ACTD).
20
Sử dụng thuốc (đặc biệt kháng sinh) không hợp lý đang dẫn đến kháng
thuốc trong cộng đồng, tăng tác động có hại của thuốc, cũng như tăng chi phí
thiết yếu cho mua thuốc. Tình trạng tự mua thuốc không có đơn của bác sĩ rất

phổ biến do quy chế bán thuốc theo đơn chưa được thực hiện nghiêm túc. Phác
đồ điều trị chuẩn chưa được xây dựng và cập nhật nên thiếu tiêu chuẩn để kiểm
soát đơn thuốc do bác sĩ chỉ định. Thiếu dược sĩ đại học ở tuyến huyện để tư vấn
dùng thuốc an toàn hợp lý. Bác sĩ chưa có cơ sở thống kê về tình hình kháng
thuốc để làm căn cứ khi kê đơn thuốc, do xét nghiệm vi sinh vẫn chưa được thực
hiện đầy đủ.
Việt Nam đã sản xuất được nhiều loại vắc-xin: lao, bạch hầu, ho gà, uốn
ván, bại liệt, viêm não Nhật Bản, viêm gan B, sởi, tả thương hàn Với tài trợ
của GAVI, Việt Nam đang áp dụng vắc-xin phối hợp 5 trong 1 (bạch hầu- ho gà-
uốn ván- viêm gan B- Hib) trong 5 năm 2010- 2015. Năm 2010, Chính phủ đã
đưa vắc-xin vào danh sách các sản phẩm sẽ được hỗ trợ đặc biệt trong chương
trình quốc gia nâng cao năng suất và chất lượng.
Chương trình tiêm chủng mở rộng các vắc-xin cơ bản đã thực hiện rất
thành công, vắc-xin trong nước về cơ bản đã cung ứng đủ cho Chương trình
tiêm chủng mở rộng, tuy nhiên do kinh phí hạn hẹp nên vẫn còn một số vắc-xin
mới chưa đưa vào tiêm chủng mở rộng.
Trong lĩnh vực máu và các chế phẩm máu, năm 2001, Thủ tướng đã phê
duyệt Chương trình An toàn truyền máu. Với sự hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới,
Việt Nam đã xây dựng được 4 trung tâm truyền máu khu vực ở Hà Nội, Huế, TP
Hồ Chí Minh và Cần Thơ. Năm 2007, Bộ Y tế ban hành Quy chế truyền máu.
Phong trào hiến máu nhân đạo được mở rộng, tỷ lệ máu từ nguồn hiến máu được
sàng lọc đầy đủ theo quy chế truyền máu tăng theo thời gian, năm 2009 đạt 74%
tổng số đơn vị máu thu thập được.
Khó khăn hiện nay là chưa huy động được đủ người hiến máu tự nguyện
để đáp ứng nhu cầu của người bệnh. Khoảng 20% hiến máu thu được từ người
bán máu. Nhiều cơ sở phải tự huy động người hiến máu tại chỗ, không thực hiện
đủ quy chế sàng lọc máu, chưa thực hiện được truyền máu từng phần, nên càng
làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu máu. Ở các địa bàn xa xôi, hẻo lánh, việc
tiếp cận với máu và các chế phẩm máu gặp nhiều khó khăn.
D. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN QUY HOẠCH TỔNG THỂ

PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2010,
ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN 2020 (Theo Quyết định 153/2006/QĐ-TTg ngày
30/6/2006):
1. Tình hình rà soát và xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống y
tế của tỉnh và các đơn vị:
21
* Đối với các tỉnh/Thành phố:
Trước khi có QĐ 153/2006/QĐ-TTg, trên 30% các tỉnh đã xây dựng quy
hoạch phát triển hệ thống y tế của tỉnh, dựa trên chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội của tỉnh trong giai đoạn 2001-2010. Sau khi rà soát và điều chỉnh cũng
như xây dựng quy hoạch mới, đến năm 2010, tất cả các tỉnh trong cả nước đã có
quy hoạch phát triển hệ thống y tế của tỉnh và hiện nay đã có gần 40% tỉnh/TP
(25 tỉnh) đã hoàn thành quy hoạch phát triển hệ thống y tế giai đoạn 2011-2020,
định hướng đến 2030; trên 20 tỉnh tiếp tục thực hiện quy hoạch đến năm 2020 đã
được xây dựng từ những năm 2008-2009. Còn lại gần 20 tỉnh sẽ tiếp tục xây
dựng quy hoạch trong giai đoạn mới.
* Đối với các đơn vị thuộc Bộ Y tế quản lý:
Trước năm 2005, trong số hơn 70 đơn vị trực thuộc, chỉ có một số đơn vị
(chiếm khoảng 20% số đơn vị) có nhu cầu đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn
ngân sách nhà nước mới xây dựng quy hoạch phát triển đơn vị, số còn lại chỉ
xây dựng kế hoạch hoạt động hàng năm. Tuy nhiên đến năm 2010, vẫn còn
khoảng 20 đơn vị y tế Trung ương chưa xây dựng quy hoạch phát triển đơn vị
nên rất khó khăn trong việc đầu tư. Vấn đề xây dựng quy hoạch sẽ cần được đẩy
mạnh trong giai đoạn 2011-2020 nhằm bảo đảm phát triển đơn vị đúng hướng,
đạt hiệu quả cao.
2. Kết quả thực hiện các chỉ số, chỉ tiêu về y tế
a) Về công tác khám chữa bệnh:
So với năm 2005, đến năm 2010, số cơ sở khám chữa bệnh đã tăng khá
nhiều. Trước khi có quy hoạch, cả nước có 13.337 cơ sở khám chữa bệnh, trong
đó tuyến Trung ương 31, tuyến tỉnh 337 và tuyến huyện 1.430 cơ sở y tế với

tổng số 194.713 giường bệnh. Đến 2010, cả nước đã có 13.598 cơ sở khám chữa
bệnh với 252.747 giường bệnh, trong đó có 376 bệnh viện tuyến tỉnh (105.803
giường bệnh); tuyến huyện có 615 bệnh viện (55.190 giường bệnh). Số bệnh
viện chuyên khoa tuyến trung ương tăng từ 16 bệnh viện năm 2005 lên 23 bệnh
viện vào năm 2010; số tăng cao chủ yếu ở tuyến tỉnh, từ 87 bệnh viện chuyên
khoa lên 125 bệnh viện vào năm 2010.
Trong giai đoạn này, nhiều bệnh viện chuyên khoa đã được thành lập mới: năm
2005 cả nước có 46 bệnh viện y dược học cổ truyền thì đến năm 2010 số này đã tăng lên
58 bệnh viện y dược học cổ truyền; số bệnh viện sản nhi, bệnh viện lao, bệnh viện ung
bướu phát triển mạnh một mặt do nhu cầu chăm sóc sức khoẻ ngày càng cao và mặt
khác do biến động từ chính sách đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và nguồn trái phiếu
chính phủ.
Số bệnh viện cũng như số giường bệnh viện ngoài công lập cũng tăng khá nhanh,
từ 36 bệnh viện trên địa bàn của 9 tỉnh/Thành phố với 2.538 giường bệnh đã tăng lên 102
bệnh viện với 5.822 giường bệnh; tuy nhiên các bệnh viện này chủ yếu được thành lập tại
các tỉnh, thành phố lớn. Tuy nhiên so với mục tiêu đề ra trong quy hoạch, giường bệnh
viện tư nhân/vạn dân còn chưa đạt (mới đạt 0,78 giường so với mục tiêu 2 giường/vạn
dân). Nguyên nhân chủ yếu là việc triển khai chính sách đầu tư, ưu đãi (thuế, đất đai) còn
nhiều vướng mắc; quy mô giường bệnh của bệnh viện phần lớn là rất thấp (nhiều bệnh
22
viện chỉ có từ 21 đến 50 giường bệnh) cũng một phần do diện tích đất và thiếu nhân lực
nên các bệnh viện tư nhân chủ yếu lựa chọn các dịch vụ đem lại lợi nhuận cao.
b) Về Y tế dự phòng: Năm 2005, trong hệ thống y tế còn thiếu nhiều cơ sở/đơn
vị ở tuyến tỉnh chịu trách nhiệm về quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm tuyến
tỉnh, sức khỏe lao động và môi trường tuyến tỉnh; phòng, chống HIV/AIDS , y
tế dự phòng tuyến huyện chỉ là các đội y tế dự phòng, đội chăm sóc sức bà mẹ
và trẻ em và kế hoạch hóa gia đình
Trong giai đoạn này, các cơ sở y tế dự phòng có nhiều biến động do việc
triển khai Nghị định 171; 172 và Nghị định 13; 14 của Chính phủ cũng như việc
chuyển quản lý nhà nước về công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình về Bộ Y tế

đã kéo theo hàng loạt các trung tâm dân số ở các tỉnh được thành lập mới theo
Thông tư 05/TTLT-YT-NV. khoảng 1/3 số tỉnh tách Trung tâm y tế huyện
thành Trung tâm y tế dự phòng huyện và bệnh viện huyện; 1/3 số tỉnh giữ
nguyên mô hình Trung tâm y tế huyện và số còn lại vẫn thực hiện theo Nghị
định 01 của Chính phủ mặc dù có thành lập thêm Phòng Y tế thuộc UBND
huyện. Nhìn chung, về tổ chức mạng lưới y tế dự phòng tuyến tỉnh, đặc biệt
tuyến huyện còn chưa hiệu quả, nhiều đầu mối nhưng thiếu nhân lực, cơ sở vật
chất và trang thiết bị, trách nhiệm quản lý còn chồng chéo, chưa rõ ràng.
Tuy nhiên, đánh giá một cách khách quan, năng lực dự báo, giám sát và
phòng chống dịch bệnh của các cơ sở y tế dự phòng đã được cải thiện, trong đó
2 viện đầu ngành là Viện VSDT TW và Viện Pasteur TP HCM đã có phòng xét
nghiệm an toàn sinh học đạt tiêu chuẩn quốc tế cấp 3. Thành lập mới Viện Kiểm
nghiệm ATVSTP và một số trung tâm kiểm nghiệm thuốc. Kết quả phòng chống dịch
bệnh cũng khá khả quan, hầu hết các bệnh dịch và lây nguy hiểm đã được kiểm soát,
khống chế đặc biệt là dịch cúm A (H1N1; H5N1); dịch tiêu chảy cấp nguy hiểm công
tác phòng chống sốt rét, phòng chống HIV/AIDs, phòng chống bệnh lao, bệnh tâm thần
đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng,, tuy nhiên công tác phòng chống và kiểm soát
các bệnh không lây nhiễm còn gặp khá nhiều bất cập.
c) Về y tế cơ sở:
Trong giai đoạn 2006-2010, hầu hết các trạm y tế đã được đầu tư cả về cơ
sở vật chất và cán bộ. Năm 2005, tỷ lệ trạm y tế xã/phường có bác sỹ là 69,4%
thì đến năm 2010, tỷ lệ trạm y tế xã có bác sỹ hoạt động đạt 80% (bao gồm cả
Bác sỹ làm việc tại các phòng khám đa khoa khu vực liên xã và bác sỹ tăng
cường từ tuyến huyện cho trạm y tế); tuy nhiên nếu chỉ tính số trạm y tế có bác
sỹ làm việc tại trạm thì tỷ lệ này chỉ đạt khoảng 70%. Đặc biệt sau khi thực hiện
Nghị định 14/NĐ-CP Quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban
nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thì hầu hết các bệnh viện
huyện đã rút số bác sỹ tăng cường cho trạm y tế và các Phòng khám đa khoa liên
xã được sáp nhập vào bệnh viện huyện nên tỷ lệ bác sỹ hoạt động tại trạm y tế
xã có biến động lớn, chưa bảo đảm sự bền vững. Riêng tỷ lệ y sỹ sản nhi và nữ

hộ sinh công tác tại trạm y tế được duy trì khá tốt qua các năm tại trạm y tế xã,
năm 2005 tỷ lệ này là 93,5% và năm 2010 là 96,2%.
d) Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu sức khoẻ chủ yếu:
23
- Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam trong những năm qua đã tăng
lên đáng kể. Năm 2005 là 71,3 và năm 2009 tuổi thọ trung bình của người Việt
Nam đã đạt 72,8 tuổi.
- Tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi cũng giảm nhanh, từ 30‰ năm 2001
xuống còn dưới 16,0‰ năm 2010.
- Tỷ suất chết trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 27,5‰ năm 2005 xuống còn
23,8‰ vào năm 2010, đạt mục tiêu đề ra cho giai đoạn 2001-2010.
- Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi (cân nặng theo tuổi) giảm bền
vững qua các năm, từ 25,2% năm 2005 xuống còn 18% năm 2010.
E. ĐÁNH GIÁ CHUNG:
1. Thành tựu cơ bản:
Trong những năm qua, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và
Nhà nước, chính quyền các cấp, cùng với sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ trong
toàn ngành y tế và sự phối hợp của các Bộ, Ngành, công tác bảo vệ, chăm sóc
sức khoẻ nhân dân ở nước ta tiếp tục đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Về hệ thống y tế cơ sở: Ngành y tế đã tập trung vào củng cố hệ thống y tế
cơ sở, đặc biệt là hệ thống y tế xã, phường và y tế thôn bản. Tiến bộ đặc biệt
trong những năm qua đối với trạm y tế xã là đã tổ chức khám chữa bệnh cho
người có thẻ bảo hiểm y tế tại xã, phường. Hiện nay, Bộ Y tế đã ban hành phân
tuyến kỹ thuật cho tuyến xã, nhằm thúc đẩy hoạt động của Trạm y tế xã.
Về các cơ sở y tế dự phòng được củng cố và phát triển rộng khắp từ trung
ương đến cơ sở. Các chuyên gia thế giới đánh giá về y tế dự phòng Việt Nam có
hệ thống mạnh từ trung ương đến địa phương.
Nhiều dịch bệnh nguy hiểm được khống chế đầy lùi và thanh toán.
Chương trình mục tiêu quốc gia tiêm chủng mở rộng đạt kết quả tốt, nên các
bệnh truyền nhiễm gây dịch ở trẻ em đã giảm đi đáng kể;

Công tác kiểm dịch y tế biên giới đã triển khai tại hầu hết các cửa khẩu
biên giới, đặc biệt tại các cửa khẩu, sân bay quốc tế đã triển khai tốt việc giám
sát khách xuất, nhập cảnh, ngăn chặn bệnh dịch nguy hiểm có thể lây lan vào
nước ta, đảm bảo an ninh sức khoẻ cho quốc gia.
Công tác Vệ sinh an toàn thực phẩm đã đuợc sự quan tâm của các cấp
chính quyền và sự hưởng ứng của nhân dân. Hoạt động tuyên truyền, giáo dục
cũng như các hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra về an toàn vệ sinh thực
phẩm thực hiện có hiệu quả thông qua sự phối hợp liên ngành. Các hoạt động
trên đã góp phần nâng cao nhận thức của người dân và giảm tỷ lệ các vụ ngộ
độc.
Thành tựu của công tác y tế dự phòng đã góp phần không nhỏ trong sự
nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ cho người dân thể hiện rõ nét trong việc
khống chế tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi dưới 40% (Tỷ suất này tương
24
đương với những quốc gia có thu nhập bình quân đầu người hơn Việt Nam từ 10
đến 20 lần), góp phần tăng tuổi thọ bình quân của người dân hiện nay đạt
khoảng 73 tuổi.
Về cơ sở khám chữa bệnh: Trong các thập kỷ qua, với những thay đổi
kinh tế, xã hội mạng lưới khám chữa bệnh Việt Nam đã được phát triển và luôn
có những đóng góp quan trọng trong sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
Kết quả hoạt động của bệnh viện đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của
ngành y tế, nó không chỉ phản ảnh những thành quả đã đạt được trong công tác
khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ nhân dân mà còn phản ảnh trình độ chuyên
môn và sự phát triển về khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực nghiên cứu và ứng
dụng y học của mỗi quốc gia.
Về cung ứng thuốc và trang thiết bị y tế: Thực hiện chính sách quốc gia
về thuốc và luật dược, Chính phủ và Bộ Y tế đã ban hành nhiều văn bản nhằm
bảo đảm cung ứng đủ thuốc có chất lượng cho người dân và đảm bảo sử dụng
thuốc an toàn, hợp lý. Khả năng tiếp cận thuốc ở Việt Nam tương đối tốt do có
mạng lưới phân phối thuốc rộng khắp trên toàn quốc. Các cơ sở y tế từ bệnh

viện đến trạm y tế đều có đủ thuốc phù hợp với phân tuyến kỹ thuật. Về trang
thiết bị y tế trong những năm gần đây các bệnh viện đã được nhà nước đầu tư
các phương tiện hiện đại, với công nghệ tiên tiến đã giúp cho việc chẩn đoán và
điều trị nhanh chóng, chính xác, an toàn, hiệu quả và ít biến chứng cho người
bệnh. Năng lực sản xuất Trang thiết bị và vật tư y tế trong nước tiếp tục được cải
thiện, tiến tới mục tiêu đáp ứng 60% nhu cẩu sử dụng trong nước với mức chi
phí thấp hơn đáng kể so với với nhập khẩu.
Trong các thập kỷ qua, với những thay đổi về điều kiện chính sách, kinh
tế, xã hội, hệ thống y tế Việt Nam ngày được củng cố phát triển cùng với sự đi
lên của đất nước, đã đóng góp phần quan trọng trong sự nghiệp chăm sóc sức
khoẻ nhân dân.
Theo kế hoạch, mục tiêu giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi thể
nhẹ cân ở trẻ em Việt Nam là dưới 20% vào năm 2010, tuy nhiên với sự nỗ lực
của ngành y tế, sự phối hợp chặt chẽ của các địa phương và các Bộ, ngành và sự
phát triển về kinh tế xã hội, năm 2010 ước tính đạt được mức 18,0%.
Nhìn chung, Việt Nam trong thập kỷ qua đã đạt được các chỉ tiêu cơ bản
về sức khoẻ, tốt hơn so với các nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu
người, góp phần làm tăng đáng kể chỉ số phát triển con người (HDI).
2. Những tồn tại và thách thức:
- Các cơ sở y tế dự phòng: Mặc dù đạt nhiều thành tựu quan trọng, thay
đổi mô hình bệnh tật, bảo vệ hàng chục triệu người khỏi các bệnh dịch nguy
hiểm, công tác y tế dự phòng ở nước ta vẫn còn có nhiều khó khăn:
Về nhận thức, hiện nay y tế dự phòng chưa được quan tâm thích đáng của
xã hội, đôi khi còn được coi là lĩnh vực của riêng ngành y tế. Tổ chức y tế dự
25

×