Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

BÀI 1 - TỔNG QUAN VỀ NHÂN HỌC Y TẾ & XÃ HỘI HỌC SỨC KHỎE

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.52 KB, 15 trang )

1


BÀI 1: TỔNG QUAN VỀ NHÂN HỌC Y TẾ & XÃ HỘI HỌC SỨC
KHỎE

Mục tiêu: Sau khi học xong bài này, sinh viên có khả năng:
1.
Trình bày được định nghĩa và đối tượng nghiên cứu của Nhân học y tế và Xã hội
học sức khỏe;
2.
Nêu được sự giống nhau và khác nhau của Nhân học y tế và Xã hội học sức
khỏe;
3.
Trình bày được các phương pháp nghiên cứu cơ bản sử dụng trong Nhân học y
tế và Xã hội học sức khỏe.
f{e
VẤN ĐỀ TỰ TỬ
Thực trạng

24/10/2004
Tỷ lệ tự sát ở Nhật Bản tăng vọt
Con số các vụ tự tử diễn ra ở xứ Phù Tang đã tăng lên mức kỷ lục từ trước tới nay. Hơn
34.000 người nước này đã tự kết liễu đời mình trong năm 2003, tăng hơn 7% so với năm
trước đó.
Tổ chức an ninh quốc gia Nhật Bản cho biết 3/4 trong số những người xấu số đó là đàn
ông, và 1/3 là trên 60 tuổi. Cứ trong 100.000 người lại có 27 người tự tử ở Nhật Bản, một
trong những tỷ lệ cao nhất trên thế giới. Con số này cũng là kỷ lục từ khi cảnh sát bắt đầu
thu thập số liệu về những vụ tự sát từ năm 1978. Một con số kỷ lục là 11.500 người trên 60
tuổi đã tự kết liễu đời mình. Xu hướng tự sát cũng gia tăng ở những người trẻ tuổi hơn.
Trong số những em xấp xỉ 19 tuổi, con số đã nhảy vọt lên 22%. Ở những học sinh tiểu học


và trung học, tỷ lệ tăng tới 60%.
f{e
8/5/2010

Học sinh xứ Hàn dễ trầm cảm, tự tử
Một phần năm học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông ở Hàn Quốc có nguy cơ rơi
vào tình trạng trầm cảm và muốn tìm đến cái chết để giải thoát bản thân.
Con số trên càng làm dấy lên mối lo ngại của cả xã hội Hàn Quốc khi quốc gia này đang
trở thành một trong những nơi có tỉ lệ tự tử cao nhất trên thế giới.
Trong khi tỷ lệ tự tử ở những quốc gia phát triển nhất đã đạt đến đỉnh điểm vào đầu những
năm 1980 thì tình trạng đáng buồn này lại vẫn đang tiếp tục “leo thang” ở Hàn Quốc, một
2


quốc gia với dân số khoảng 50 triệu người. Hiện tỷ lệ tự tử ở Hàn Quốc đạt mức cao nhất
trong thế giới công nghiệp.
Năm 2008, cứ khoảng 100.000 người Hàn Quốc thì có 26 người tự tử. Tỷ lệ này cao gấp
2,5 lần so với Mỹ và cũng cao hơn nhiều so với Nhật Bản, nơi trào lưu tự tử ăn sâu vào văn
hóa.
f{e

17/10/2011
Nạn tự tử ở học sinh Trung Quốc
Một loạt vụ tự sát của học sinh Trung Quốc đang khiến xã hội bị sốc. Căn nguyên của
những việc bi thảm này có thể do áp lực học hành cũng như các vấn đề tâm lý không được
giải quyết.
f{e

21/10/2011
Một học sinh tự tử vì áp lực học tập

Ngày 20-10, dư luận vẫn chưa hết bàng hoàng về việc trước đó, ngày 18-10, một nữ sinh
lớp 11A4 Trường THPT Nguyễn Hữu Cầu (huyện Hóc Môn - thành phố Hồ Chí Minh)
uống thuốc trừ sâu tự tử ngay tại lớp. Theo tìm hiểu thì em nữ này do muốn bênh vực một
bạn trong lớp không hoàn thành bài tập về nhà bị thầy giáo dạy Toán khiển trách nên đã
lên tiếng với thầy giáo trước lớp. Thầy giáo đã đuổi em này ra khỏi lớp. Sau đó em còn lên
gặp thầy hiệu phó để trình bày về việc thầy giáo dạy Toán cho quá nhiều bài tập trong khi
các em còn phải hoàn thành nhiều bài tập của các môn khác nên hầu hết học sinh đều
không làm đầy đủ được. Thầy hiệu phó nói rằng thầy giáo dạy Toán đã làm theo đúng phân
phối chương trình và còn nhấn mạnh là sẽ xử lý em. Em nữ sinh này đã rất lo sợ bị nhà
trường xử lý kỷ luật và sợ bố mẹ biết sẽ buồn. Trong giây phút khủng hoảng, em đã uống
thuốc trừ sâu tự tử.
f{e

11/1/2012
Học sinh nhảy lầu chết trước mặt cô giáo
Bị cô giáo trách mắng nặng nề, một học sinh lớp 12 của một trường THPT tư thục ở huyện
Đông Hưng (Thái Bình) đã nhảy từ tầng 2 xuống đất trước sự chứng kiến của cô giáo dạy
toán và bạn bè. Sau hai ngày điều trị tại bệnh viện, chiều 10/1, em học sinh đã tử vong.
Được biết, sự việc diễn ra ngay trong giờ học chính khóa, cô giáo dạy môn toán sửa một
bài kiểm tra và yêu cầu các học sinh làm sai các lỗi thường gặp chép lại nhiều lần bài kiểm
tra. Em có ý kiến phản đối "không cần chép nhiều lần như vậy " thì bị cô mắng và đuổi ra
khỏi lớp. Sau khi bị đuổi ra khỏi lớp, em học sinh này đã nhảy khỏi hành lang rơi xuống
3


tầng 1. Dù được đưa đi cấp cứu kịp thời nhưng do bị thương quá nặng em học sinh đã tử
vong.
f{e

Nhận định của tổ chức Y tế thế giới (WHO)

• Tính trên toàn thế giới, số người chết do tự tử nhiều hơn tổng số người bị giết và số
người chết do chiến tranh (WHO, 2004).
• Hàng năm có khoảng 1.000.000 người chết do tự tử và có khoảng gấp 10-20 lần số đó
là những người có ý định tử tự nhưng thất bại và những trường hợp tự tử nhưng không
được báo cáo.
(www.who.int/mental_health/prevention/suicide/suicideprevent/en/
)
• Cứ 40 giây có một người chết do tự tử, cứ 3 giây có một người có ý định kết thúc cuộc
sống của mình.
• Tự tử là một trong ba nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên thế giới, đặc biệt trong
nhóm tuổi 15-35.
F Tự tử là một vấn đề y tế công cộng nghiêm trọng mang tính toàn cầu.

Quan điểm của các lĩnh vực nghiên cứu khác nhau về vấn đề tự tử
1. Quan điểm của Tâm lý học: Những người tự tử thường có vấn đề về sức khỏe tâm thần.
Câu hỏi đặt ra: Có phải tất cả những người có vấn đề về sức khỏe tâm thần đều tự tử?
2. Quan điểm của Xã hội học: Những người tự tử thường không chịu được áp lực từ cuộc
sống hoặc họ gặp phải những biến cố bất ngờ nào đó trong cuộc sống. Nếu cá nhân có sự
tương tác tốt với môi trường xã hội xung quanh (hòa nhập xã hội tốt) thì có thể hạn chế
nguy cơ thực hiện hành vi tự tử.
3. Quan điểm của Nhân học: Có những yếu tố thuộc về niềm tin, phong tục, văn hóa thúc
đẩy hành vi tự tử.
4. Quan điểm của Tổ chức y tế thế giới: Rối nhiễu tâm trí có liên quan đến hơn 90% số ca
tự tử; tuy nhiên, tự tử lại có nguyên nhân từ các yếu tố xã hội-văn hóa phức tạp và
thường xảy ra trong các giai đoạn khủng hoảng về kinh tế-xã hội, khủng hoảng gia đình, cá
nhân.
( />)




4


1. Khái niệm và đối tượng nghiên cứu của Xã hội học
Xã hội học ra đời với tư cách là một bộ môn khoa học vào nửa cuối thế kỷ
XVIII nửa đầu thế kỷ XIX. Sự ra đời của xã hội học gắn liền với cuộc cách mạng
Pháp (với những ý tưởng về dân chủ, tự do, bình đẳng v.v ) và cách mạng công
nghiệp (với sự quan tâm về sức khỏe và điều kiện làm việc của công nhân, lao động
trẻ em, những biến đổi về xã hội và công nghệ v.v ). Cha đẻ của xã hội học là nhà
triết học thực chứng luận người Pháp - Auguste Comte. Comte đã dùng thuật ngữ
“xã hội học” để chỉ một lĩnh vực khoa học chuyên nghiên cứu về các quy luật của
sự tổ chức và biến đổi xã hội. Ông là người đầu tiên có công áp dụng phương pháp
nghiên cứu của khoa học thực chứng như quan sát, phân tích, so sánh, thực nghiệm
vào trong lĩnh vực nghiên cứu xã hội học. Ông cũng nêu ra một số quy luật, một số
phạm trù và khái niệm cơ bản của xã hội học mà cho đến nay vẫn được các nhà xã
hội học trên thế giới sử dụng. Chẳng hạn như khái niệm “biến đổi xã hội”, “thiết chế
xã hội”, “trật tự xã hội” v.v Auguste Comte cũng cho rằng bản chất của xã hội học
là ở chỗ sử dụng các phương pháp khoa học để xây dựng lý thuyết và kiểm chứng
giả thuyết. Quan điểm của ông về chủ nghĩa thực chứng khác hẳn với quan niệm
của một số nhà nghiên cứu thế kỷ XIX và thế kỷ XX ở chỗ: ông không đồng nhất
khái niệm thực chứng với khái niệm “kinh nghiệm chủ nghĩa”, hay với việc thu thập
số liệu một cách đơn thuần, không có lý thuyết, thiếu lý luận.
Nói chung, cho đến nay chưa có một định nghĩa nào về xã hội học có thể gọi
là hoàn toàn thỏa mãn do sự đa dạng về quan điểm giữa các nhà nghiên cứu. Mặc
dù vậy, với các quan điểm xã hội học, chúng ta có thể hiểu được các yếu tố như vốn
hiểu biết xã hội, vị trí xã hội của bản thân, thời gian và địa điểm mà chúng ta đang
sinh sống ảnh hưởng đến việc chúng ta nhìn nhận thế giới như thế nào, chúng ta ứng
xử với người khác như thế nào, các cá nhân khác trong xã hội chấp nhận chúng ta ở
mức độ nào.
Để giúp những người quan tâm đến xã hội học hiểu được vai trò của xã hội

học trong hệ thống các khoa học xã hội, các nhà xã hội học đã đưa ra hai câu hỏi
lớn. Câu hỏi thứ nhất là: Cái gì gắn kết xã hội thành một khối thống nhất? Hay nói
cách khác, yếu tố cơ bản nào gắn kết các cá nhân và các nhóm xã hội thành một xã
hội thống nhất? Câu hỏi thứ hai là: Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội là gì? Cá
nhân có hoàn toàn tham gia vào việc xây dựng nên xã hội mà họ đang sống không?
Hay chính xã hội tạo nên hành vi của cá nhân và giới hạn sự lựa chọn của họ? Câu
hỏi thứ nhất gắn liền với quan điểm chức năng về hòa nhập xã hội. Theo đó, các
thiết chế xã hội (kinh tế, nhà nước, gia đình, trường học ) đều thực hiện những
chức năng khác nhau trên cơ sở cùng hoạt động trong một khối thống nhất. Câu hỏi
thứ hai nhấn mạnh đến tầm quan trọng của cấu trúc xã hội. Cấu trúc xã hội là cách
mà con người, các nhóm xã hội, các thiết chế xã hội được tổ chức để phù hợp với
nhau. Cách tổ chức có cấu trúc này ảnh hưởng đến hành vi, hoặc ít nhất là giới hạn
sự lựa chọn của cá nhân.
Từ hai câu hỏi lớn nói trên, chúng ta thấy
rằng, rõ ràng suy nghĩ, hành vi của cá nhân bị tác
động/quyết định bởi các nhóm xã hội/cấu trúc xã
hội mà cá nhân đó là thành viên. Các cá nhân
thuộc về các nhóm xã hội/cấu trúc xã hội khác
nhau sẽ có những suy nghĩ, hành vi khác nhau.
Hình ảnh một cô gái với điếu thuốc lá trên môi
sẽ không có gì xa lạ với chúng ta nếu đó là một
cô gái phương Tây da trắng, tóc vàng; nhưng đó sẽ là hình ảnh “nghịch” mắt đối với
người phương Đông. Hay như trong Hình 1: Quan điểm, cách nghĩ của người
phương Tây và người phương Đông, bên trái biểu hiện cho phương Tây, bên phải
biểu hiện cho phương Đông, chúng ta cũng thấy điểm khác nhau rất rõ ràng trong
việc thể hiện quan điểm và cách nghĩ giữa người phương Tây và người phương
Đông khi mà người phương Tây luôn nói thẳng vào vấn đề, còn người phương
Đông thì thường “vòng vo tam quốc” chứ rất hiếm khi nói thẳng.
Cấu trúc xã hội bao gồm các yếu tố văn hóa, phân tầng xã hội, vị thế xã hội,
vai trò xã hội, nhóm xã hội, và thiết chế xã hội. Những yếu tố này sẽ được phân tích

chi tiết hơn trong bài 3 - Cấu trúc xã hội và sức khỏe.
Như vậy, chúng ta có thể tạm thời sử dụng định nghĩa xã hội học sau: Xã hội
họ c là ngành khoa học nghiên cứu về xã hội và hành vi xã hội của con người. Một
lần nữa, định nghĩa này lại nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tìm hiểu, phân tích
hành vi của con người trong những bối cảnh xã hội cụ thể, bởi nó bị quyết định rất
lớn từ cấu trúc xã hội đặc thù. Mối quan hệ giữa con người và xã hội được xã hội
học nghiên cứu trên các phương diện như cấu trúc xã hội, hành động xã hội, thiết
chế xã hội với các nguyên nhân và hệ quả xã hội của chúng.
Do sự đa dạng về quan điểm trong xã hội học nên đối tượng nghiên cứu của xã
hội học cũng rất đa dạng. Trong lịch sử phát triển của khoa học xã hội học đã xuất
hiện nhiều quan niệm khác nhau về đối tượng nghiên cứu của nó. Chẳng hạn như
Max Weber, nhà xã hội học người Đức, nhấn mạnh rằng xã hội học là khoa học
nghiên cứu về hành vi xã hội và hành động xã hội. Ông cho rằng các cách giải thích
xã hội học phải xuất phát từ việc hiểu lý do tại sao con người lại hành động theo
cách mà họ chọn. Theo Weber, nhà xã hội học phải lý giải các hiện tượng xã hội
chứ không chỉ là quan sát chúng, và cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của hành động từ góc
độ của người hành động chứ không phải từ cách phân tích của nhà nghiên cứu.
Một bậc thầy trong ngành xã hội học là nhà xã hội học người Pháp, Emile
Durkheim, cho rằng đối tượng nghiên cứu của xã hội học là các sự kiện xã hội và
quá trình xã hội như tương tác xã hội, trao đổi xã hội, phân tầng xã hội. Theo
Durkheim, nhà xã hội học phải quan sát sự kiện xã hội từ bên ngoài, nghiên cứu
chúng như nghiên cứu hiện tượng vật lý. Sự kiện là một cái gì có sẵn, khách quan
đ

i v

i ngư

i nghiên c


u. Không th


hi

u s


ki

n xã h

i căn c


vào ý ngh
ĩa m
à m

i
Hình 1: Quan điểm, cách nghĩ của người
phương Tây và người phương Đông
6


người gán cho nó, ý nghĩa thực sự của sự kiện xã hội chỉ có thể phát hiện ra bằng
con đường tìm tòi một cách khách quan, khoa học.
Xã hội học cũng nghiên cứu mối tác động qua lại giữa con người với các sự
kiện xã hội, quá trình xã hội và các tổ chức xã hội và nghiên cứu sự tác động trở lại
của các quá trình, hiện tượng xã hội đối với đời sống của con người. Nói cách khác,

chúng ta có thể định nghĩa: xã hội học nghiên cứu các sự kiện xã hội và nguyên
nhân xã hội của các sự kiện xã hội đó. Theo E. Durkheim, một vấn đề xã hội được
coi là sự kiện xã hội khi sự kiện đó phát triển trong xã hội và chiếm một tỷ lệ nhất
định nào đó. Khi một vấn đề xã hội đã phát triển thành một sự kiện xã hội thì nó
không còn phụ thuộc vào cá nhân, nó ở bên ngoài cá nhân, và cho dù muốn hay
không muốn thì cá nhân mỗi người cũng không thể thay đổi được sự kiện xã hội đó.
Và cũng như ở phần trên cũng đã đề cập, khi đã trở thành sự kiện xã hội thì nó phải
được giải thích bằng các nguyên nhân xã hội, chứ không thể lý giải sự kiện xã hội
bằng quan điểm của cá nhân hay bằng các quan niệm thông thường. Các nguyên
nhân xã hội thường xuất phát từ chính “hình dạng” của cấu trúc xã hội đó. Để tìm
được các nguyên nhân xã hội, các nhà khoa học liên tục đặt ra những câu hỏi nghiên
cứu và thực hiện các nghiên cứu để trả lời cho những câu hỏi đó.
Cũng giống như các ngành khoa học xã hội khác, xã hội học cũng phát triển
trong nó các phân ngành gọi chung là các phân ngành xã hội học chuyên biệt. Có
thể kể ra đây một số phân ngành như: xã hội học gia đình, xã hội học y tế (xã hội
học sức khỏe), xã hội học kinh tế, xã hội học đô thị, xã hội học nông thôn, xã hội
học về giới, xã hội học về truyền thông đại chúng, an sinh xã hội, công tác xã hội,
v.v Mỗi ngành học này có lĩnh vực nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu riêng, tuy
nhiên điều đó không có nghĩa là chuyên gia của các ngành học này hoạt động một
cách độc lập. Các chuyên gia của từng lĩnh vực vẫn có sự phối hợp liên ngành với
nhau trong hoạt động nghiên cứu. Chẳng hạn như khi nghiên cứu về hoạt động
chăm sóc sức khỏe tại gia đình ở khu vực nông thôn thì chuyên gia của ba ngành
chuyên biệt là xã hội học gia đình, xã hội học y tế và xã hội học nông thôn có thể
phối hợp với nhau để cùng thực hiện nghiên cứu này.

2. Khái niệm và đối tượng nghiên cứu của Nhân học
Nhân học là một ngành khoa học xã hội và được coi là có quan hệ “chị em”
với ngành xã hội học. Mối quan tâm chính của các nhà nhân học là tìm hiểu về văn
hóa, tức là tìm hiểu về cuộc sống tổng thể của con người. Văn hóa bao gồm (1) các
sản phẩm do con người tạo ra, như công cụ lao động, nghệ thuật, và vũ khí; (2) cấu

trúc, tức là tìm hiểu các khuôn mẫu tương tác/ứng xử giữa các các nhân; (3) quan
điểm và giá trị, đặc biệt là tìm hiểu xem niềm tin tác động thế nào tới cuộc sống của
con người; và (4) phương thức giao tiếp, đặc biệt là tìm hiểu về ngôn ngữ. Trước
đây, nhân học tập trung tìm hiểu các bộ tộc người. Các nhà nhân học thường đến
7


sống cùng với các bộ tộc trong một thời gian dài để tìm hiểu cuộc sống của các bộ
tộc. Cho đến nay, không còn bộ tộc nào “chưa được khám phá” nên các nhà nhân
học chuyển hướng sang nghiên cứu các nhóm người trong xã hội công nghiệp hóa.
Khi nhân học và xã hội học cùng nghiên cứu về một nhóm người, các nhà nhân học
thường hướng sự tập trung của mình vào tìm hiểu về các sản phẩm do con người tạo
ra, về ngôn ngữ, và đặc biệt là về mối quan hệ gia đình.
Nhân học được định nghĩa là ngành khoa học về con người, nghiên cứu tất cả
các khía cạnh của con người thông qua khảo cổ học, ngôn ngữ, hành vi xã hội, văn
hóa, sự phát triển về mặt sinh học
Nhân học thường được phân ra thành 4 phân ngành (sub-fields) cơ bản là
Nhân học thể chất (Physical Anthropology), Nhân học văn hoá (Cultural
Anthropology) hay còn gọi là Nhân học xã hội (Social anthropology) hoặc Nhân
học văn hoá-xã hội (Socio-cultural anthropology), Khảo cổ học (Archeology) và
Ngôn ngữ học (Linguistics). Nhưng khoảng từ sau Thế chiến II trở lại đây, nhiều
phân ngành nhân học ứng dụng mới (branches) đã hình thành như Nhân học sinh
thái và môi trường, Nhân học y tế, Nhân học kinh tế, Nhân học đô thị, Nhân học
phát triển v.v Tuy có những khác biệt về đối tượng, mục đích và cách tiếp cận
nghiên cứu cụ thể nhưng tất cả các phân ngành của nhân học đều có mối quan hệ
với nhau, đều cố gắng hiểu bản chất sinh học và văn hoá của con người, đều nhấn
mạnh tới vai trò của văn hoá và các cách tiếp cận mà chúng sử dụng đều mang tính
so sánh.
Nhân học thể chất
Nhân học thể chất (Physical anthropology) là phân ngành đầu tiên và sớm nhất

của nhân học. Phân ngành này chủ yếu nghiên cứu các khía cạnh khác nhau của bản
chất sinh học của con người. Cụ thể, đó là sự tiến hoá về mặt sinh học, tâm lý và sự
thích nghi của con người; những điểm giống và khác nhau về mặt sinh học và ứng
xử giữa con người và các loài linh trưởng khác; đặc điểm cấu tạo thể chất của con
người và mối quan hệ của nó với môi trường, chế độ ăn uống v.v
Trước Thế chiến II, Nhân học thể chất chủ yếu chú trọng vào việc nghiên cứu
nguồn gốc, quá trình tiến hoá của con người và việc phân loại các chủng tộc người.
Nhưng từ sau Thế chiến II, khi thuyết phân biệt chủng tộc bị bác bỏ, các nhà nghiên
cứu nhân học thể chất tập trung vào nghiên cứu các dạng thức tương đồng và dị biệt
về sinh học của con người như những tương đồng và dị biệt về mặt hoá học trong hệ
thống miễn nhiễm dịch của con người, mối tương quan giữa sự phát triển của cơ thể
con người và dinh dưỡng v.v Thuộc chuyên ngành này còn có các nhà linh trưởng
học chuyên nghiên cứu các động vật có họ hàng gần nhất với con người cũng như
các nhà cổ nhân học tìm tòi dưới lòng đất xương và hoá thạch của tổ tiên xa xưa
nhất của loài người.
Nhân học văn hoá-xã hội
8


Trong khi Nhân học thể chất nghiên cứu bản chất sinh học của con người thì
trọng tâm của Nhân học văn hoá-xã hội là nghiên cứu những đặc trưng văn hoá của
con người, cụ thể là những tương đồng và khác biệt của các nền văn hoá, sự chi
phối của văn hoá tới cách ứng xử của con người trong những môi trường tự nhiên,
kinh tế-xã hội khác nhau mà trong đó con người sống và biến đổi nó, vai trò của văn
hoá trong quá trình phát triển v.v
Văn hoá thường được phân chia một cách quy ước ra thành văn hoá vật chất
hay văn hoá vật thể gồm mô hình kiến trúc nhà ở, kiểu cách trang phục và loại hình
thực phẩm và văn hoá tinh thần hay văn hoá phi vật thể gồm ngôn ngữ, mô hình tổ
chức xã hội, các phong tục tập quán như cưới xin, ma chay, chữa bệnh v.v Nhưng
cách phân chia này chỉ là tương đối. Ví dụ, những đồ thờ tự vừa có ý nghĩa văn hóa

vật thể, vừa có ý nghĩa tâm tinh; âm nhạc là một bộ phận của văn hóa phi vật thể,
nhưng người ta không thể tạo ra âm nhạc mà không có các nhạc cụ. Đó là chưa kể,
một số nhạc cụ có ý nghĩa tinh thần đặc biệt. Nhân học y tế là một tiểu phân ngành
của Nhân học văn hóa-xã hội.
Ngôn ngữ học
Trọng tâm nghiên cứu của phân ngành này là ngôn ngữ với tư cách là một
thành tố tối quan trọng của văn hoá. Cụ thể, nó nghiên cứu nguồn gốc, sự phát triển,
mối quan hệ, bản sắc riêng được thể hiện ở hệ thống từ vị cơ bản, thanh điệu, ngữ
âm, cấu trúc ngữ pháp của các ngôn ngữ và vai trò của ngôn ngữ trong văn hoá. Bên
cạnh đó, các nhà nhân học ngôn ngữ cũng có những đóng góp vào việc biên soạn ra
hệ thống chữ viết cho các ngôn ngữ không có hệ thống chữ viết. Điều cần lưu ý là
ngoài việc áp dụng các phương pháp nghiên cứu của nhân học, ngôn ngữ học có các
lý thuyết và phương pháp nghiên cứu riêng của mình đó là các lý thuyết và phương
pháp của ngôn ngữ học.
Khảo cổ học
Khảo cổ học được coi là ngành nghiên cứu về quá khứ của con người. Thông
qua nghiên cứu phân tích các di vật để tìm hiểu các vấn đề có liên tới lịch sử về
nguồn gốc và văn hoá của con người nhất là ở thời tiền sử. Cũng như Nhân học
ngôn ngữ, ngoài việc áp dụng các phương pháp nghiên cứu của nhân học, khảo cổ
học còn có những phương pháp nghiên cứu riêng chẳng hạn như các phương pháp
phân tích và xác định niên đại của các di vật khảo cổ. Khảo cổ học không chỉ cung
cấp thông tin về đời sống con người trong quá khứ mà còn có thể cung cấp thông tin
về những vấn đề sức khỏe, nguyên nhân bệnh tật và tử vong.

3. Điểm giống nhau và khác nhau giữa Xã hội học và Nhân học
Nghiên cứu về xã hội loài người là mối quan tâm của nhiều ngành khoa học,
trong đó có Xã hội học và Nhân học. Như đã đề cập ở phần trên, trong Nhân học có
9



4 phân ngành là Nhân học thể chất, Nhân học văn hoá-xã hội, Khảo cổ học, và
Ngôn ngữ học. Trong 4 phân ngành này, chỉ có Nhân học văn hóa-xã hội (sau đây
sẽ gọi tắt là Nhân học) có những đặc điểm gần với Xã hội học. Cho đến nay các nhà
khoa học của hai ngành này vẫn chưa tìm hiểu hết được điểm giống nhau và khác
nhau giữa hai ngành khoa học này nên vẫn còn những tranh luận tiếp tục diễn ra
giữa các nhà khoa học. Tuy nhiên, xét một cách tổng thể thì cả Nhân học và Xã hội
học đều nghiên cứu về xã hội loài người và hành vi của con người trong các bối
cảnh xã hội khác nhau cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi đó.
Điểm khác biệt thực sự có thể nhìn thấy rõ ràng giữa hai ngành khoa học này
chính là ở phương pháp nghiên cứu
1
. Trong khi Xã hội học thường sử dụng phương
pháp định lượng (là các con số thống kê, các cuộc điều tra/khảo sát trên diện rộng)
trong nghiên cứu thì Nhân học chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính
(là việc đặt câu hỏi vì sao, như thế nào… và nhận được những câu trả lời mang tính
giải thích, lý giải). Hiện nay, các nhà xã hội học có xu hướng sử dụng kết hợp cả hai
phương pháp định lượng và định tính khi thực hiện các nghiên cứu của mình.
Một vài điểm khác biệt nhỏ giữa hai ngành này có thể chỉ ra đó là:
Xã hội học Nhân học

Phạm vi nghiên cứu từ một cộng
đồng nhỏ cho đến toàn quốc hoặc
trên toàn thế giới.

Nghiên cứu cấu trúc xã hội bao gồm
cả nguồn gốc, sự phát triển, và cách
tổ chức.

Nghiên cứu và phân tích sự kiện xã
hội dựa trên các thống kê định lượng.



Phạm vi nghiên cứu thường là những
cộng đồng nhỏ.

Tìm hiểu ý nghĩa của hành vi và
tương tác giữa các thành viên trong
cộng đồng.

Tìm hiểu yếu tố văn hóa của các
nhóm xã hội theo từng nghiên cứu
trường hợp dựa trên các thông tin
định tính.

4. Phương pháp nghiên cứu trong Nhân học và Xã hội học
Có hai loại phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong các nghiên cứu nhân
học và xã hội học, đó là nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng. Sự lựa
chọn phương pháp nghiên cứu phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có xét đến đặc
điểm của chính vấn đề nghiên cứu. Ví dụ, nghiên cứu về mối quan hệ giữa sự phân
bố thu nhập và tình trạng sức khoẻ bệnh tật trong xã hội thì chắc chắn chúng ta phải
sử dụng số liệu thống kê định lượng. Trong khi một nghiên cứu khác về cách thức
làm việc của một tổ chức hay một cộng đồng thì có thể sử dụng phương pháp
nghiên cứu định tính tại thực địa. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp người ta sử

1
Xem chi tiết trong mục 4.
10


dụng các hai phương pháp này trong cùng một nghiên cứu. Các yếu tố khác cần

xem xét khi lựa chọn phương pháp nghiên cứu bao gồm: kinh phí thực hiện, thời
gian, nhân lực, sự đồng ý tham gia nghiên cứu của đối tượng nghiên cứu, đạo đức
nghiên cứu, và các yếu tố môi trường - xã hội khác. Các phương pháp nghiên cứu
định lượng và định tính sẽ được trình bày cụ thể và chi tiết hơn trong môn Phương
pháp nghiên cứu khoa học. Trong môn học này, chúng tôi chỉ giới thiệu tóm tắt về
hai phương pháp nghiên cứu này để người đọc hình dung được các phương pháp
được sử dụng trong nghiên cứu Nhân học và Xã hội học.
4.1. Phương pháp nghiên cứu định lượng
Các phương pháp nhằm thu thập và xử lý những thông tin có thể lượng hoá
bằng các con số được gọi chung là nghiên cứu định lượng. Trong nghiên cứu định
lượng có nhiều kỹ thuật/phương pháp để thu thập thông tin. Ví dụ, có thể dùng
phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi/phiếu phỏng vấn hoặc nghiên cứu các báo cáo
thống kê có sẵn để biết trong một xã có bao nhiêu hộ gia đình, bao nhiêu trẻ em
dưới 6 tuổi, bao nhiêu trẻ em được tiêm chủng vắc xin phòng bệnh, bao nhiêu trẻ
em chưa được tiêm chủng, bao nhiêu trẻ em bị suy dinh dưỡng, v.v… Thông dụng
nhất là phương pháp điều tra chọn mẫu, phương pháp thăm dò ý kiến bằng phiếu
điều tra và một số phương pháp khác.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu định tính
Phương pháp định tính thu thập và xử lý những thông tin khó lượng hoá thành
con số về đặc điểm, tính chất và trạng thái của sự vật, hiện tượng. Ví dụ, tìm hiểu
xem người nghèo đối phó với bệnh tật như thế nào, tại sao họ không đi khám chữa
bệnh sớm mà để đến lúc bệnh nặng mới chạy chữa, họ suy nghĩ như thế nào và có
thái độ ra sao đối với các biện pháp phòng ngừa bệnh tật ở cộng đồng. Những thông
tin này có xu hướng mô tả, diễn giải về sự kiện, cho biết nguyên nhân và động cơ
của hành vi của các cá nhân chứ không xác định rõ bằng con số của các hiện tượng
đó. Trên thực tế, ta rất khó xác định chính xác bằng con số về mức độ nguy cơ của
sự lây nhiễm bệnh của các nhóm người mà chỉ có thể biết nhóm này có nguy cơ
cao, nhóm kia có nguy cơ thấp. Nhưng cụ thể cao là bao nhiêu, thấp là bao nhiêu
chỉ mang tính chất tương đối do vậy chúng ta thường phân thành từng loại. Những
thông tin như vậy được gọi là thông tin định tính. Nghiên cứu nhằm thu thập được

thông tin định tính được gọi là nghiên cứu định tính.
Các phương pháp thông dụng của nghiên cứu định tính là phỏng vấn sâu các
cá nhân, thảo luận nhóm tập trung, nghiên cứu trường hợp, quan sát tham dự và một
số phương pháp khác. Các nghiên cứu Nhân học chủ yếu sử dụng phương pháp định
tính.
4.3. Kết hợp các phương pháp nghiên cứ u
Mỗi phương pháp nghiên cứu đều có những ưu điểm và nhược điểm của nó.
Ví dụ, các phương pháp nghiên cứu định lượng giúp ta thu thập được thông tin của
11


một nhóm lớn gồm nhiều người, trên phạm vi rộng lớn và các thông tin có thể được
tính toán để quy nạp rút ra kết luận cho số đông. Đặc biệt nhờ sự lượng hoá mà ta
có được những thông tin có thể biểu diễn bằng các con số và có thể tính toán để tìm
ra những công thức, những hệ số cần thiết. Trong khi đó phương pháp nghiên cứu
định tính giúp ta thu thập được những thông tin chuyên sâu, cho biết rõ tính chất,
sắc thái, trạng thái của sự vật. Hơn nữa bản chất của sự vật, hiện tượng luôn có tính
hai mặt: lượng và chất không tách rời nhau. Do vậy, trong các nghiên cứu chúng ta
nên kết hợp sử dụng cả hai loại phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính để
thu thập được các thông tin một cách đầy đủ và toàn diện về vấn đề nghiên cứu.
Việc sử dụng nhiều loại phương pháp khác nhau giúp ta thu thập được đầy đủ thông
tin về hành vi, hoạt động và những yếu tố tác động cùng hệ quả của chúng trong
những nhóm người hay cộng đồng xã hội nhất định.
Các nghiên cứu Xã hội học hiện nay có xu hướng sử dụng kết hợp cả hai
phương pháp định lượng và định tính để thu thập thông tin về vấn đề cần nghiên
cứu. Bảng dưới đây sẽ tóm tắt lại các đặc điểm của hai phương pháp nghiên cứu
định lượng và định tính :
Định tính Định lượng
• Cung cấp thông tin sâu • Đo lường mức độ xuất hiện
• Hỏi “Tại sao?”; “Như thế nào?” • Hỏi “Bao nhiêu?”

• Tìm hiểu động cơ • Tìm hiểu hành động
• Thông tin mang tính chủ quan • Thông tin mang tính khách quan
• Mang tính tìm kiếm/khám phá • Cung cấp bằng chứng khẳng định
• Thông tin mang tính lý giải vấn đề • Thông tin mang tính mô tả vấn đề

5. Khái niệm và đối tượng nghiên cứu của Xã hội học sức khỏe
Trong khi các cách tiếp cận truyền thống về sức khỏe và bệnh tật tập trung vào
khía cạnh sinh học và hành vi của cá nhân, thì xã hội học lại nhấn mạnh vào các
nguyên nhân xã hội của sức khỏe và bệnh tật như ảnh hưởng của các điều kiện sống
và làm việc. Các nhà xã hội học sức khỏe tìm kiếm các khuôn mẫu xã hội của bệnh
tật như sự khác biệt về tình trạng sức khỏe giữa nam giới và phụ nữ, giữa người
giàu và người nghèo và tìm kiếm sự giải thích mang tính xã hội hơn là sự lý giải
về sinh học hay tâm lý học.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, sức khỏe là trạng thái hoàn toàn khỏe mạnh về
thể chất, tinh thần, và xã hội chứ không phải chỉ bao gồm tình trạng không có bệnh
hay thương tật. Định nghĩa về sức khỏe này rõ ràng không chỉ đề cập đến trạng thái
có bệnh hay không có bệnh về mặt thể chất, mà ở đây đã nhắc đến các yếu tố về
tinh thần và xã hội. Như vậy, sức khỏe của con người không chỉ phụ thuộc vào yếu
12


tố sinh học mà còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố về tâm lý và các yếu tố xã hội
khác. Đây chính là điểm mà các nhà xã hội học tập trung vào khi nghiên cứu về sức
khỏe.
Trong lịch sử hình thành và phát triển của ngành học này cũng đã có rất nhiều
quan điểm khác nhau. Ban đầu là những quan điểm thiên về y học. Mặc dù các nhà
xã hội học cũng cố gắng đi theo con đường riêng của mình nhưng về cơ bản họ vẫn
có chung quan điểm với những người làm trong ngành y. Nổi bật lên là hai quan
điểm sau đây: Thứ nhất, các nhà xã hội học cho rằng đau ốm/bệnh tật là một biểu
hiện của sự lệch chuẩn và bác sĩ chính là người phù hợp nhất để giải quyết vấn đề

này. Với quan điểm này chúng ta có thể hiểu đau ốm/bệnh tật có thể là nguồn gốc
của một sự chống đối về chính trị hoặc một phản ứng xã hội trước các yếu tố xã hội
khác. Thứ hai, theo các nhà xã hội học thì các vấn đề xã hội như nghiện rượu hay
trầm cảm được xác định là vấn đề của cá nhân - tức là lệch chuẩn hoặc không thể tự
mình vượt qua - và cần được chữa trị , chủ yếu là bằng cách cho uống thuốc chứ
không phải bằng cách tìm hiểu và cải thiện môi trường sống của cá nhân.
Đến những năm 1980, các nhà xã hội học bắt đầu chuyển hướng, thay vì đề
cao mô hình y học, họ bắt đầu đặt ra những câu hỏi đối với mô hình này. Theo quan
điểm của các nhà y học, cá nhân bị bệnh hay bị bệnh hay bị ốm là do nhiễm khuẩn
hoặc nhiễm vi-rút. Tuy nhiên, các bác sĩ lại không thấy một thực tế rằng cá nhân là
thành viên của một nhóm xã hội, việc cá nhân bị nhiễm khuẩn hay nhiễm vi-rút là
có thể xảy ra, nhưng nếu chỉ do nhiễm khuẩn hay vi-rút thì chưa đủ để phát triển
thành bệnh. Phát hiện này của các nhà xã hội học đặc biệt được khẳng định trong
trường hợp bệnh lao phổi, trường hợp bệnh mà điều kiện sống và làm việc của cá
nhân có vai trò rất lớn trong việc quyết định việc nhiễm khuẩn của cá nhân có khả
năng phát triển thành bệnh hay không.
Quan điểm chủ chốt của các nhà xã hội học sức khỏe là chính các đặc điểm về
xã hội của cá nhân mới thực sự là yếu tố đóng vai trò quyết định tình trạng sức khỏe
của họ. Chẳng hạn như nghề nghiệp, giới, tình trạng hôn nhân đều là những yếu tố
có tác động đến sức khỏe của cá nhân. Các nhà xã hội học rất chú ý đến phát hiện
rằng bệnh tật và cảm giác bị ốm không phải do các yếu tố thuộc về sinh học quyết
định. Thêm vào đó, họ cũng rất quan tâm đến việc tìm hiểu mối quan hệ giữa các
điều kiện xã hội với tư cách vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của bệnh tật. Khi tìm
hiểu về sức khỏe và bệnh tật, các nhà xã hội học chú ý nhiều hơn đến các điều kiện
xã hội dẫn đến tình trạng sức khỏe và bệnh tật của các cá nhân trong xã hội. Khi đối
mặt với một người bệnh, các nhà xã hội học sẽ không đặt câu hỏi vì sao cá nhân đó
bị ốm, mà họ sẽ tìm hiểu về nhóm xã hội mà người bệnh đó là thành viên, tìm hiểu
những điều kiện trong nhóm đã làm cho thành viên đó bị ốm. Không giống như
quan điểm của các nhà tâm lý học coi xã hội là một tập hợp các cá nhân đơn lẻ kết
hợp thành các nhóm, các nhà xã hội học cho rằng xã hội là một tập hợp các cấu trúc

13


mà trong đó các thành viên tương tác với nhau để tạo ra các mối quan hệ với các
thành viên trong nhóm mình hoặc với các nhóm xã hội khác. Đối với các nhà xã hội
học, yếu tố làm cho cá nhân bị bệnh, họ được chữa trị như thế nào, và họ tử vong vì
nguyên nhân gì không thể giải thích bằng đặc điểm về tính cách hay bằng yếu tố
sinh học của họ. Điều mà các nhà xã hội học chú ý ở đây là vị trí xã hội của họ
trong hệ thống các mối quan hệ có thể tạo ra cơ hội tiếp cận với các nguồn lực để có
được một chất lượng cuộc sống tốt.
Theo định nghĩa về đối tượng nghiên cứu của xã hội học là nghiên cứu sự kiện
xã hội và nguyên nhân xã hội, xã hội học sức khỏe coi vấn đề sức khỏe là một sự
kiện xã hội. Theo đó, đối tượng nghiên cứu xã hội học sức khỏe là nguyên nhân xã
hội của sức khỏe/bệnh tật và hệ quả xã hội của tình trạng sức khỏe. Như đã đề cập
trong phần trên, nguyên nhân xã hội bắt nguồn từ chính cấu trúc/bối cảnh xã hội mà
cá nhân đang sinh sống. Các nguyên nhân xã hội ảnh hưởng tới vấn đề sức khỏe có
thể là sự bất bình đẳng trong tiếp cận các dịch vụ y tế giữa các nhóm xã hội; quá
trình đô thị hóa dẫn đến nhiều nguy cơ về sức khỏe cho nhóm người nhập cư; các
yếu tố về niềm tin, giá trị, phong tục tập quán ảnh hưởng đến hành vi chăm sóc sức
khỏe của người dân… Bên cạnh nghiên cứu các nguyên nhân xã hội, xã hội học sức
khỏe cũng tìm hiểu các hệ quả xã hội mà tình trạng sức khỏe/bệnh tật có thể tạo ra
để từ đó đề xuất các giải pháp góp phần thay đổi/phát triển mới các chính sách xã
hội. Ví dụ như các nghiên cứu xã hội học về vấn đề kì thị đối với người có HIV cho
thấy những hậu quả xã hội có thể xảy ra nếu hiện tượng kì thị còn tồn tại. Tất cả các
bằng chứng khoa học đó đã góp phần làm cho Luật phòng chống HIV/AIDS được
ban hành và có hiệu lực. Hay như gần đây là đóng góp của các nghiên cứu xã hội
học vào việc cung cấp bằng chứng giúp cho Luật phòng chống tác hại thuốc lá ra
đời và sẽ có hiệu lực trong năm 2013.
6. Khái niệm và đối tượng nghiên cứu của Nhân học y tế
Nhân học y tế là một phân ngành nhân học ứng dụng tìm cách sử dụng lý

thuyết của nhân học để giải thích và giải quyết các vấn đề về y tế và sức khỏe. Nhân
học y tế phát triển với tư cách là một tiểu phân ngành độc lập (sub-discipline) từ
những năm 1950 và nhanh chóng trở thành một trong những lĩnh vực nghiên cứu
lớn nhất thuộc phân ngành này. Nhân học y tế một mặt tập trung vào mối quan hệ
tương tác giữa các yếu tố xã hội, văn hóa, và sinh học, mặt khác cũng tìm hiểu cách
ứng xử với tình trạng bệnh tật của các nhóm xã hội khác nhau. Tuy vậy phải mãi
đến cuối thập kỷ 60, đầu những năm 70 của thế kỷ trước, Nhân học y tế mới được
đề cập đến một cách hệ thống và đưa ra được một khung lý luận cho bộ môn này
(Alland 1970). Cho đến nay, có nhiều cách định nghĩa khác nhau về nhân học y tế
tùy thuộc vào trọng tâm quan tâm của các nhà nhân học. Ví dụ, Foster và Anderson
định nghĩa nhân học y tế là “một phân ngành văn hoá-sinh học (biocultural
discipline) quan tâm tới cả khía cạnh sinh học và văn hoá-xã hội của ứng xử con
người và những cách mà các nhân tố này tương tác với nhau ảnh hưởng tới sức
14


khỏe và bệnh tật trong suốt tiến trình lịch sử của nhân loại” (Foster và Anderson
1998). Theo định nghĩa này, đối tượng của Nhân học y tế là nghiên cứu những ảnh
hưởng tổng hợp của các nhân tố sinh học và văn hoá-xã hội tới sức khỏe và bệnh tật
cũng như cách ứng xử đối với sức khỏe và bệnh tật của con người trong các xã hội
khác nhau. Mục đích nghiên cứu của Nhân học y tế là cung cấp sự hiểu về các vấn
đề có liên quan tới sức khỏe, bệnh tật và cách điều trị của con người trong các xã
hội cụ thể cũng như đóng góp trực tiếp vào việc giải quyết các vấn đề này.

Kết luận
Bài này giới thiệu tới người đọc khái niệm cơ bản về Nhân học, Nhân học y tế,
về Xã hội học, Xã hội học sức khỏe được sử dụng trong môn học Nhân học y tế và
Xã hội học sức khỏe. Để có thể lập được các kế hoạch can thiệp trong các chương
trình y tế công cộng thì việc phân tích các yếu tố văn hóa-xã hội đóng vai trò rất
quan trọng.

Bài này cũng giúp người đọc hiểu được điểm giống nhau và phân biệt được sự
khác nhau giữa hai ngành Xã hội học và Nhân học, theo đó, Xã hội học và Nhân
học đều tìm hiểu hành vi xã hội của con người trong các bối cảnh xã hội cụ thể và
đều cố gắng lý giải những yếu tố văn hóa-xã hội ảnh hưởng tới hành vi đó.

15


Tài liệu tham khảo
1. Cecil G Helman (2002). Culture, Health and Illness. 4th edition. Oxford
University Press.
2. John Germov (2005). Second opinion: An introduction to Health Sociology. 3rd
edition. Oxford University Press.
3. Kevin White (2002). An Introduction to the Sociology of Health and Illness.
Sage Publications Ltd.
4. Trường Đại học Y tế công cộng (2003). Giáo trình Xã hội học sức khỏe. Tài liệu
lưu hành nội bộ.
5. Trường Đại học Y tế công cộng (2005). Giáo trình Nhân học y tế ứng dụng và
Phương pháp nghiên cứu định tính.



×