Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Giải pháp thu hẹp chênh lệch về Phát triển Kinh tế - Xã hội giữa vùng đồng bằng sông Hồng và vùng Bắc Trung Bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 122 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phạm Văn Vận
SV: Hoàng Thị Thu Hằng Lớp: Kế hoạch 48A
1
Formatted: Font: 14 pt
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Bottom: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Top: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
LỜI MỞ ĐẦU

Trong một khoảng thời gian dài, đứng trên góc độ địa kinh tế, đã tồn tại
trong nhiều quốc gia và các yếu tố chính trị không giống nhau như Liên Xô cũ,
Cộng hòa Ả Rập, Ấn Độ, Braxin, Mexico, Nam Phi hay nhiều nước khác một quan
điểm “tăng trưởng kinh tế theo không gian”, tiến tới trải rộng sự phát triển kinh tế
đồng đều trên mọi vùng lãnh thổ của đất nước, thậm chí nhiều nước phát triển đã
từng có một sự cam kết mạnh mẽ về sự phát triển cân đối theo không gian. Nhưng
trên thực tế, trong quá trình phát triển, bản thân mỗi vùng có những đặc điểm và
điều kiện thuận lợi cũng như khó khăn cho phát triển kinh tế khác nhau, các chính
sách làm giảm khoảng cách chênh lệch phát triển giữa các vùng trong nước trên một
góc độ nhất định đã làm giảm đi khả năng phát triển của những vùng có nhiều lợi
thế hơn.
Tại Việt Nam, sau khi Nhà nước tiến hành xóa bỏ chế độ bao cấp vào năm
1986, đất nước phải đứng trước một thách thức trong quá trình phát triển, đó chính
là tình trạng chênh lệch về phát triển kinh tế - xã hộikinh tế - xã hộiKT - XH giữa
các vùng miền trong nước. Một số vùng có điều kiện thuận lợi như vùng Đông Nam
Bộ, vùng Đồng bằng Sông Hồng đã phát triển nhanh vượt trôi hơn so với các vùng
khó khăn như Trung du miền núi phía Bắc và Bắc Trung Bộ.
Vậy làm thế nào để thu hẹp sự chênh lệch về phát triển kinh tế - xã hộiKT -
XH giữa các vùng mà không làm ảnh hưởng đến sự phát triển phồn thịnh của quốc


gia?. Bằng những kiến thức chuyên ngành đã được học cùng với sự hướng dẫn, chỉ
bảo của các cán bộ Trung tâm Nghiên cứu và phát triển vùng – Bộ khoa học công
nghệ và của thầy giáo PGS.TS Phạm Văn Vận, em đã lựa chọn đề tài:
“Giải pháp thu hẹp chênh lệch về phát triển kinh tế - xã hộikinh tế - xã hộ KT -
XH giữa vùng Đồng bằng sông Hồng và vùng Bắc Trung Bộ”.
+ Vấn đề nghiên cứu: Chênh lệch về phát triển kinh tế - xã hội.KT - XH
+ Phạm vi nghiên cứu: Vùng Đồng bằng sông Hồng và vùng Bắc Trung
Bộ.
+ Phương pháp nghiên cứu: Trong chuyên đề này, em đã sử dụng các
phương pháp: Nghiên cứu, tổng hợp, so sánh và thống kê. Các tài liệu có được
là dso tìm tòi, sưu tầm tại Trung tâm Nghiên cứu và phát triển vùng và trên
Formatted: Left, Tab stops: 1.43 cm, Left
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phạm Văn Vận
SV: Hoàng Thị Thu Hằng Lớp: Kế hoạch 48A
2
Formatted: Font: 14 pt
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Bottom: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Top: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
sách báo, qua các trang web và qua quá trình tự phân tích tổng hợp.

Bài chuyên đềản báo cáo của em bao gồm các phần:
Phần I: Lý luận chung về chênh lệch phát triển kinh tế - xã hộikinh tế - xã
hội KT - XH giữa các vùng
Phần II: Thực trạng chênh lệch phát triển kinh tế - xã hộiinh tế - xã hội KT -
XH giữa vùng Đồng bằng sông Hồng và vùng Bắc Trung Bộ
Phần III: Giải pháp thu hẹp chênh lệch về phát triển kinh tế - xã hộikinh tế -

xã hội KT - XH giữa vùng Đồng bằng sôngong Hồng và vùng Bắc Trung Bộ.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, dù đã cố gắng nhưng do đề tài nghiên
cứu khá rộng và quá trình tìmim hiểuiểu tài liệu còn hạn chế nên em vẫn còn nhiều
thiếu sót. Em rất mong nhậnnhận được sự hướng dẫn chỉ bảo, đóng góp ý kiến của
thầy giáo, cô giáo và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo PGS.TS Phạm
Văn Vận và các cán bộ Trung tâm nghiên cứu và phát triển vùng – Bộ khoa học
công nghệ đã giúp em hoàn thành đề tài của mình.




Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phạm Văn Vận
SV: Hoàng Thị Thu Hằng Lớp: Kế hoạch 48A
3
Formatted: Font: 14 pt
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Bottom: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Top: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
PHẦN I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÊNH LỆCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ -
XÃ HỘI GIỮA CÁC VÙNG.

I. Vùng kinh tế.
1. Khái niệm vùng kinh tế.
Trong thực tiễn, chúng ta gặp nhiều khái niệm về vùng. Dưới các lăng kính
khác nhau các nhà khoa học nhận biết và xác định “vùng” không giống nhau, hệ quả

là với mỗi mục đích, người ta dựa trên những phương pháp luận, những tiêu chuẩn
cụ thể, những phương pháp phân chia thích hợp để xác định “vùng”làm cơ sở cho
công việc xây dựng phương án phát triển sau đó. Nếu dựa vào tiêu chí kinh tế để
phân chia, lãnh thổ cả nước được chia thành các vùng kinh tế nhằm thực hiện chức
năng quản lý kinh tế của Nhà nước.
Có thể nói, vùng kinh tế là một thực thể khách quan gắn liền với phân công
lao động theo lãnh thổ. Phân công lao động theo lãnh thổ tất yếu đưa đến hình thành
các vùng kinh tế. Vậy, vùng kinh tế là một không gian kinh tế xác định đặc thù của
quốc gia, là một tổ hợp kinh tế - lãnh thổ tương đối hoàn chỉnh có chuyên môn hóa
kết hợp chặt chẽ với phát triển tổng hợp.
2. Các đặc trưng của vùng kinh tế.
Vùng kinh tế có các đặc trưng sau :
- Tính chuyên môn hóa : Chuyên môn hóa là đặc tính cơ bản đầu tiên của
vùng. Chuyên môn hóa xác định vị trí của vùng trong hệ thống phân công lao động
theo lãnh thổ cả nước, khu vực và thế giới.
- Tính tổng hợp : Tính tổng hợp là mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau giữa các
ngành trong vùng, thể hiện tính đa dạng trong quá trình phát triển nhằm khai thác
tối đa lợi thế của vùng. Đó là mối quan hệ giữa các ngành chuyên môn hóa và các
ngành tổng hợp hóa, giữa các ngành sản xuất với các ngành kết cấu hạ tầng, giữa
các nguồn tài nguyên với lao động…
- Tính mở : Khi nói đến vùng kinh tế nào đó không có nghĩa là chỉ đóng cửa
trong phạm vi vùng đó, mà nó luôn luôn có các mối quan hệ kinh tế với bên ngoài
vùng, với các vùng khác, với cả nước và với cả nước ngoài. Vì vậy sự phát triển của
vùng không chỉ phụ thuộc vào tiềm năng lợi thế của vùng mà còn phụ thuộc rất lớn
vào nhu cầu của ngoài vùng, của cả nước và của nước ngoài đối với vùng.
Formatted: Font: 15 pt
Formatted: Level 2
Formatted: Level 3
Formatted: Level 3
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phạm Văn Vận

SV: Hoàng Thị Thu Hằng Lớp: Kế hoạch 48A
4
Formatted: Font: 14 pt
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Bottom: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Top: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
- Tính động : quá trình hình thành và phát triển vùng là quá trình lâu dài. Cơ
cấu vùng được xác định hôm nay không phải là cố định, bất biến, mà là có sự thay
đổi thường xuyên liên tục. Vì vậy mọi cách nhìn bất biến đối với vùng sẽ kìm hãm
sự phát triển của vùng.
3. Cơ cấu vùng kinh tế.
Vùng kinh tế là một bộ phận hợp thành của nền kinh tế quốc dân và bản thân
mỗi vùng kinh tế lại được kết cấu bởi nhiều các yếu tố, bộ phận hợp thành. Mỗi
vùng kinh tế khác nhau có cơ cấu khác nhau. Song nhìn chung mỗi vùng đều có các
yếu tố :
3.1. Sản xuất.
Sản xuất là yếu tố cơ bản trong cơ cấu vùng kinh tế, nó là tiêu chí cơ bản để
so sánh sự khác nhau giữa vùng này với vùng khác. Nhìn vào yếu tố sản xuất của
vùng ta có thể biết được vùng đó thuộc loại vùng nào, vùng đó là vùng phát triển,
đang phát triển hay chậm phát triển. Sản xuất của vùng được tiến hành bởi các
doanh nghiệp, công ty thuộc các ngành sau : nhóm ngành chuyên môn hóa, nhóm
ngành bổ trợ, nhóm ngành phục vụ. Nhóm ngành trên có quan hệ chặt chẽ với nhau
theo tỉ lệ nhất định tạo nên cơ cấu sản xuất của vùng kinh tế. Trong cơ cấu này, các
ngành chuyên môn hóa có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của vùng, các ngành
khác phải phục vụ cho ngành chuyên môn hóa nhằm thúc đẩy ngành chuyên môn
hóa phát triển.
3.2. Kết cấu hạ tầng

Kết cấu hạ tầng là tổ hợp các công trình vật chất – kỹ thuật mà kết quả hoạt
động của nó là những dịch vụ có chức năng phục vụ trực tiếp cho quá trình sản xuất
và đời sống dân cư được bố trí trên một lãnh thổ phạm vi nhất định. Kết cấu hạ tầng
là một yếu tố cấu thành cơ cấu vùng kinh tế. Vì vậy, kết cấu hạ tầng cung cấp các
dịch vụ trực tiếp cho hoạt động sản xuất đời sống. Nó còn tạo điều kiện thuận lợi
khai thác các nguồn tài nguyên quy tụ trên vùng. Thiếu kết cấu hạ tầng hoặc phát
triển kết cấu hạ tầng không đồng bộ đều ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển của
vùng kinh tế. Kết cấu hạ tầng được chia thành các loại sau : kết cấu hạ tầng kỹ
thuật, kết cấu hạ tầng xã hội, kết cấu hạ tầng môi trường, kết cấu hạ tầng thiết chế.
3.3. Dân cư và nguồn lao động.
Trong vùng kinh tế, dân cư và nguồn lao động được xem xét trên hai mặt :
một mặt là người sản xuất ra của cải vật chất và mặt khác là người tiêu dùng.
Formatted: Level 3
Formatted: Level 4
Formatted: Level 4
Formatted: Level 4
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phạm Văn Vận
SV: Hoàng Thị Thu Hằng Lớp: Kế hoạch 48A
5
Formatted: Font: 14 pt
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Bottom: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Top: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
Với tư cách là một yếu tố của quá trình sản xuất, dân cư và nguồn lao động
ảnh hưởng rất lớn đến quy mô, cơ cấu kinh tế của vùng, đến việc phát triển các đô
thị, khu dân cư nông thôn. Tất cả những vấn đề này đều ảnh hưởng đến cơ cấu của
vùng kinh tế. Với tư cách là yếu tố của quá trình tiêu dùng, dân cư và nguồn lao

động ảnh hưởng đến lượng cầu về hàng hóa và dịch vụ trong vùng. Đến lượt mình,
nhu cầu này lại là động lực trực tiếp để phát triển sản xuất của vùng theo hướng
chuyên môn hóa và phát triển tổng hợp.
3.4. Nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Tài nguyên thiên nhiên là những yếu tố quyết định đến hình thành và phát
triển cơ cấu ngành và cơ cấu không gian của vùng kinh tế. Trong điều kiện khoa
học công nghệ phát triển thấp, tài nguyên thiên nhiên là yếu tố cơ bản quyết định cơ
cấu sản xuất của vùng, do đó ảnh hưởng đến cơ cấu dân cư và nguồn lao động.
Trong điều kiện khoa học công nghệ phát triển thì tài nguyên thiên nhiên không còn
có vai trò to lớn đó. Khi đó nhu cầu về tiêu dùng của thị trường, nhu cầu của các
vùng khác và nhu cầu của cả nước là yếu tố cơ bản quyết định cơ cấu sản xuất của
vùng.
Tài nguyên thiên nhiên bao gồm các nhóm : khoáng sản, nhiên liệu – năng
lượng, nước, thực vật, động vật, đất đai….
4 yếu tố có quan hệ qua lại với nhau tạo thành cơ cấu vùng kinh tế.
4. Phân loại vùng kinh tế.
Có nhiều cách phân loại vùng kinh tế khác nhau:
4.1. Căn cứ vào mức độ đồng nhất của các yếu tố cấu thành vùng thì ta
chia vùng kinh tế thành 2 loại :
- Vùng kinh tế đồng nhất : là vùng có các yếu tố hình thành vùng khá
đồng nhất với nhau. Càng gần trung tâm vùng thì các yếu tố đồng nhất càng đậm
đặc, càng xa trung tâm vùng thì các yếu tố đồng nhất đó càng mờ nhạt dần và mất
hẳn khi qua ranh giới vùng để sang vùng khác. Ví dụ : vùng đồng bằng Bắc Bộ là
một vùng kinh tế đồng nhất.
- Vùng kinh tế không đồng nhất : là vùng kinh tế có các yếu tố hình thành
khác biệt nhau nhưng lại được gắn với nhau theo các chu trình nhất định, chẳng hạn
chúng gắn với nhau theo quy trình sản xuất, chu trình năng lượng. Ví dụ : mối quan
hệ giữa nội thành và ngoại thành Hà Nội hợp thành vùng kinh tế không đồng nhất.
Formatted: Level 4
Formatted: Level 3

Formatted: Level 4
Formatted: Level 4
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phạm Văn Vận
SV: Hoàng Thị Thu Hằng Lớp: Kế hoạch 48A
6
Formatted: Font: 14 pt
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Bottom: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Top: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
4.2. Căn cứ vào mức độ chuyên môn hóa và phát triển tổng hợp của
vùng , ta chia thành vùng kinh tế ngành và vùng kinh tế tổng hợp.
- Vùng kinh tế ngành : là vùng mà trong giới hạn của nó phân bổ tập trung
một ngành sản xuất nhất định. Ví dụ : vùng kinh tế nông nghiệp, vùng công nghiệp,
vùng du lịch, vùng cà phê, vùng chè…Tuy nhiên, vùng kinh tế ngành không chỉ có
ngành chuyên môn hóa mà bên cạnh đó còn có sự phát triển tổng hợp của một số
ngành khác, nhưng ngành chuyên môn hóa vẫn là ngành cốt lõi của vùng.
- Vùng kinh tế tổng hợp : là vùng kinh tế đa ngành phát triển một cách nhịp
nhàng, cân đối, nó là một bộ phận hợp thành của nền kinh tế quốc dân. Sự chuyên
môn hóa của vùng tổng hợp được quy định bởi các vùng kinh tế ngành tồn tại trong
vùng kinh tế tổng hợp, mà sự chuyên môn hóa của chúng có ý nghĩa đối với các
vùng kinh tế tổng hợp khác. Khi lực lượng sản xuất phát triển, phân công lao động
theo lãnh thổ ngày càng sâu sắc thì số lượng các vùng kinh tế ngành trong vùng
kinh tế tổng hợp có xu hướng tăng lên.
5. Mối quan hệ giữa các vùng trong quá trình phát triển kinh tế - xã
hộiKT - XH.
Các vùng kinh tế có những mối quan hệ hữu cơ với nhau trong quá trình phát
triển KT – XH :

5.1. Quan hệ về cơ cấu kinh tế.
Việc phát triển cơ sở hạ tầng ở các vùng phát triển có liên quan chặt chẽ đến
việc phát triển cơ sở hạ tầng ở các vùng chậm phát triển. Để tiết kiệm vốn đầu tư
xây dựng cơ bản cũng nhưvà nâng cao hiệu quả sử dụng cơ sở hạ tầng cần có quy
hoạch thống nhất về xây dựng cơ sở hạ tầng trên phạm vi cả nước. Việc tổ chức các
cơ sở dịch vụ về tài chính vàcũng như về y tế, giáo dục ở các vùng cần được quy
hoạch chung để vừa tiết kiệm vốn đầu tư, vừa hạn chế, và thu hẹp khoảng cách giữa
các vùng. Việc tổ chức thị trường trao đổi hàng hóa giữa các vùng là vấn đề hết sức
quan trọng để các vùng tiêu thụ tốt những sản phẩm có lợi cho nhân dân trong vùng.
5.2. Quan hệ về dân số, lao động và đời sống.
Ở cácnhững vùng phát triển hơn thì công nghiệp, dịch vụ thu hút nhiều lao
động ở cácnhững vùng lân cận. Do đó lao động ở cácnhững vùng chậm phát triển
giảm dần còn vấn đề lao động ở cácnhững vùng phát triển là một trong những trở
ngại lớn cho phát triển kinh tế. V; việc gia tăng lao động dẫn tới gia tăng nhân khẩu
một cách tự phát theo đó làđi kèm với việc giải quyết nhiều vấn đề về xã hội trật tự,
Formatted: Level 3
Formatted: Level 4
Formatted: Level 4
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phạm Văn Vận
SV: Hoàng Thị Thu Hằng Lớp: Kế hoạch 48A
7
Formatted: Font: 14 pt
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Bottom: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Top: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
an ninh nhà ở, môi trường. Việc di chuyển dân ở các vùng thường tuân theo hai xu
hướng: theo quy hoạch và tự phát, mang tính chất thường xuyên hoặc tạm thời.

5.3. Quan hệ về đất đai.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóaCNH - HĐH nền kinh tế gắn với quá
trình phát triển công nghiệp và dịch vụ. Do vậy, đất đô thị, đất công nghiệp có chiều
hướng tăng lên còn đất nông nghiệp, nông thôn thì ngày càng giảm xuống. Thêm
nữavào đó, dân số ở các vùng phát triển ngày càng tăng thêm khiến cho nhu cầu về
nhà ở và các công trình phục vụ đời sống cho nhân dân cũng không ngừng tăng
thêm. Còn đất đai của các vùng chậm phát triển hơn chỉ sử dụng vào các ngành
nông, lâm, ngư nghiệp, tỷ lệ sử dụng đất đai cho khu dân cư, khu công cộng chiếm
tỷ lệ khá cao.
II. SỰ CHÊNH LỆCH VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI GIỮA
CÁC VÙNG.
1. Khái niệm về chênh lệch phát triển kinh tế - xã hộikinh tế - xã hội
KT - XH vùng.
Chênh lệch về phát triển KT –XH vùng là sự chênh lệch về trình độ phát
triển, mức sống dân cư giữa các vùng được so sánh với nhau tại một thời điểm nhất
định. Sự chênh lệch này được phản ánh về cả mặt lượng và chất của sự hơn kém.
Chúng được đo bằng hệ số lần hay tỷ lệ phần trăm(%).
Chênh lệch vùng là một phạm trù KT-XH mang tính khách quan ở các thời
kỳ phát triển. Theo quan điểm hệ thống, vùng là một hệ thống mà trong đó có sự
khác biệt về các yếu tố phát triển sẽ không thể có sự phát triển đồng đều ở tất cả các
lãnh thổ trong cùng thời gian. Trên một vùng có thể xảy ra xu hướng phát triển KT-
XH mạnh ở những nơi này nhưng lại chậm phát triển ở những nơi khác, thậm chí có
nơi còn lâm vào tình trạng kém phát triển hoặc trì trệ. Chính vì xu thế này đã đưa
đến sự phát triển không cân đối về mặt KT-XH giữa các vùng và tạo ra sự chênh
lệch về KT-XH giữa các vùng hoặc các lãnh thổ trong cùng một vùng lớn. Như vậy,
chênh lệch vùng phản ánh cơ bản mức chênh lệch giữa các vùng về trình độ phát
triển KT-XH, về mức sống dân cư.
Chênh lệch mức sống giữa các vùng là sự chênh lệch về mức thu nhập, sức
khỏe, mức chi cho tiêu dùng và sự hưởng thụ các dịch vụ KT-XH của người dân
giữa các vùng được so sánh với nhau tại một thời điểm nhất định. Sự chênh lệch

này được phản ánh về cả mặt lượng và chất của sự hơn kém. Chúng được đo bằng
hệ số lần hay tỷ lệ phần trăm(%).
Formatted: Level 4
Formatted: Level 2
Formatted: Level 3
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phạm Văn Vận
SV: Hoàng Thị Thu Hằng Lớp: Kế hoạch 48A
8
Formatted: Font: 14 pt
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Bottom: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Top: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
Formatted: Level 3
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phạm Văn Vận
SV: Hoàng Thị Thu Hằng Lớp: Kế hoạch 48A
9
Formatted: Font: 14 pt
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Bottom: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Top: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
2.Các nguyên nhân gây ra sự chênh lệch phát triển kinh tế - xã hộikinh
tế - xã hộiKT - XH giữa các vùng.
2.1. Vị trí địa lý và các điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên.
Vị trí địa lý là nhân tố khách quan có ảnh hưởng đến việc phân bố sản xuất,

bố trí các công trình, chịu ảnh hưởng trực tiếp tới việc sử dụng lao động, vật tư, tiền
vốn. Chi phí đầu tư sản xuất ở các vùng sẽ khác nhau do ảnh hưởng của yếu tố địa
lý, địa hình khác nhau. Nếu so sánh một vùng có địa hình bằng phẳng với một vùng
có địa hình nhiều đồi núinúi non sẽ thấy vùng có địa hình đồi núinúi non sẽ có chi
phí đầu tư cho các hạm mục công trình xây dựng tốn kém hơn: giao thông vận tải sẽ
gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến việc trao đổi hàng hóa trong vùng và, liên vùng.
Như vậy sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của nhân dân trong vùng. Người dân
sống trong vùng có điều kiện khó khăn hơn sẽ ít có cơ hội thụ hưởng các dịch vụ
sống cơ bản.
Sự khác biệt về khí hậu là nhân tố ảnh hưởng đến điều kiện sinh hoạt và sản
xuất của vùng (đặc biệt là ngành nông nghiệp). Ở một quốc gia có sự phân hóa về
khí hậu, các vùng khác nhau sẽ có điều kiện sản xuất khác nhau và có sự chuyên
môn hóa về các sản phẩm nông nghiệp khác nhau.
Tài nguyên thiên nhiên là những nguồn vốn sẵn có của mỗi vùng; là một
trong những yếu tố nguồn lực đầu vào của quá trình sản xuất; là yếu tố thúc đẩy sản
xuất phát triển, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tùy vào đặc điểm tự
nhiên của vùng mà có sự phân bố về tài nguyên khác nhau, do đó ảnh hưởng đến
việc lựa chọn hướng phát triển cho vùng. Thông thường ở những vùng có tài
nguyên thiên nhiên phong phú sẽ chú trọng phát triển ngành công nghiệp khai
khoáng, chế biến… Còn vùng khan hiếm nguồn lực sẽ phải tiến hành thu mua và
nhập nguyên liệu, dẫn đến sự lệ thuộc, không được ổn định thị trường.
2.2. Dân số, lao động và trình độ lao động.
Dân số của mỗi vùng bao gồm: quy mô dân số, cơ cấu độ tuổi, giới tính, cơ
cấu độ tuổi, lao động…Vì vậyDo vậy, việc sử dụng và phát huy vai trò của người
lao động cũng rất khác nhau. Tỷ lệ lao động nam nữ, cơ cấu lao động theo độ tuổi
khác nhau cũng ảnh hưởng đến chi phí lao động. Tất cả những điều đó là nguyên
nhân trực tiếp dẫn tới sự chênh lệch về năng suất lao động giữa các vùng. Đối với
những vùng đô thị hoặc vùng đồng bằng có lịch sử phát triển lâu dài, tập trung
nhiều lao động có trình độ tay nghề cao, tạo ra những sản phẩm đóng góp nhiều cho
quốc gia. Ngược lại, vùng khó khăn thường có sẽ có lực lượng lao động khan hiếm,

Formatted: Level 4
Formatted: Level 4
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phạm Văn Vận
SV: Hoàng Thị Thu Hằng Lớp: Kế hoạch 48A
10
Formatted: Font: 14 pt
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Bottom: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Top: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
năng suất lao động không caothấp, hiệu quả lao động thấpkhông cao. Nhu cầu về
các dịch vụ của vùng khó khăn thấp, giản đơn nên họ thường dễ chấp nhận tình
trạng thiếu thốn và yếu kém mà họ phải chịu. Điều đó làm cho đời sống của nhân
dân trong vùng càng ngày càng gặp khó khăn hơn.
2.3. Mức độ phát triển kinh tế và kết cấu hạ tầng.
Mức độ phát triển sản xuất và kết cấucấu trúc hạ tầng được biểu hiện qua các
thông số về mức độ tập trung các cơ sở sản xuất, mức tăng trưởng kinh tế vàcũng
như mức độ tập trung các cơ sở kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội.
Ở các vùng đồng bằng ven biển tập trung nhiều đầu mối giao thông, có sẵn
các điều kiện sản xuất thường có sẵn, do đó các hoạt động kinh tế diễn ra sôisống
động hơn, các hoạt động văn hóa nghệ thuật cũng ở trình độ cao hơn so với vùng
miền núi, khó khăn cóvà có trình độ thấp hơn.
Đường giao thông vận tải và mạng lưới điện, nước sạch không chỉ có ý
nghĩanhững có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế vùng, mà còn có ý nghĩa
quan trọng trong việc cung cấp và thụthụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản, nhất là
về chất lượng dịch vụ. Ở các vùng miền núi, vùng xa xôi hẻo lánh thường không có
điện, nên trường học, trạm y tế cũng sẽ không có điện để sử dụng gây tác động xấu
đến chất lượng dịch vụ giáo dục và khám chữa bệnh. Trong khi đóNgược lại, vùng

đồng bằng không những giao thông thuận lợi mà còn đầy đủ cơ sở vật chất, kết cấu
hạ tầng phục vụ cho phát triển kinh tế, và nâng cao đời sống cho nhân dân trong
vùng.
Nói chung sự chênh lệch về phát triển KT-XH là tổng hợp của nhiều yếu tố
chủ quan, khách quan khác nhau.
3.Các chỉ tiêu phản ánh chênh lệch vùng.
3.1. Nhóm các chỉ tiêu phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Khi tiến hành đánh giá mức độ chênh lệch phát triển giữa hai vùng cần so
sánh dựa trên các chỉ tiêu : quy mô GDPGO, Tốc độ tăng trưởng GDP, cơ cấu kinh
tếthu nhập bình quân đầu người, mức vốn đầu tư, tỷ trọng xuất khẩu….
Chỉ tiêu Tổng giá trị sản xuất (GO) cho biết tổng giá trị sản phẩm vật chất và
dịch vụ được tạo nên trên lãnh thổ của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định
thường là một năm.
Chỉ tiêu GDP là tổng giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng do kết
quả hoạt động kinh tế trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia tạo nên trong một thời
kỳ nhất định.
Formatted: Level 4
Formatted: Level 3
Formatted: Level 4
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phạm Văn Vận
SV: Hoàng Thị Thu Hằng Lớp: Kế hoạch 48A
11
Formatted: Font: 14 pt
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Bottom: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Top: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
GDP là thước đo sản lượng và thu nhập của một nền kinh tế. Đó là một trong

những biến số quan trọng nhất của nền kinh tế quốc dân và nó được biết đến như
chiếc “hàn thử biểu” của nền kinh tế. Nó là số liệu thống kê thường được coi là chỉ
báo tốt nhất về phúc lợi KT - XH. GDP của nền kinh tế đồng thời phản ánh cả tổng
thu nhập nhận được trong nền kinh tế và tổng chi tiêu cho hàng hóa và dịch vụ của
nền kinh tế. Quy mô của GDP thực tế là chỉ tiêu tốt nhất để phản ánh sự thịnh
vượng của nền kinh tế và mức tăng trưởng của GDP thực tế là chỉ tiêu tốt nhất về
tiến bộ xã hội.
Cơ cấu ngành kinh tế: Xét trên giác độ phân công sản xuất, nền kinh tế được
chia thành ba khu vực: khu vực nông nghiệp, khu vực công nghiệp, và khu vực dịch
vụ. Trong quá trình hoạt động sản xuất, các ngành có mối quan hệ qua lại, thúc đẩy
lẫn nhau cùng phát triển. Công nghiệp và nông nghiệp được gọi là các ngành sản
xuất vật chất, thực hiện chức năng sản xuất trong quá trình tái sản xuất. Để những
sản phẩm của hai ngành này đi vào tiêu dùng cho sản xuất hoặc tiêu dùng cho đời
sống phải qua phân phối và trao đổi. Những chức năng này cho hoạt động dịch vụ
đảm nhận. Sản xuất hàng hóa càng phát triển, đời sống nhân dân càng nâng cao thì
nhu cầu dịch vụ càng lớn. Như vậy sự tác động qua lại giữa các ngành tạo điều kiện
thúc đẩy phát triển kinh tế. Mối quan hệ giữa các ngành không chỉ biểu hiện về mặt
định tính mà còn được tính toán thông qua tỷ lệ giữa các ngành, thường được gọi là
cơ cấu ngành. Như vậy, cơ cấu ngành là mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành trong
toàn bộ nền kinh tế, mối quan hệ này bao gồm cả về số lượng lẫn chất lượng, chúng
thường xuyên biến động và hướng vào những mục tiêu nhất định. Cơ cấu ngành là
bộ phận rất quan trọng trong cơ cấu kinh tế, sự biến động của nó có ý nghĩa quyết
định đến sự biến động của nền kinh tế.
Hai chỉ tiêu trên được đưa ra nhằm so sánh quy mô sản xuất của các
vùng, phản ánh mức độ tăng trưởng của hai vùng sau một thời kỳ nhất định.
Chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người là chỉ báo quan trọng phản ánh
điều kiện vật chất cơ bản để phát triển con người, là tiền đề để nâng cao mức
sống dân cư nói chung. Chỉ tiêu này được tính bằng GDP/người hoặc
GNI/người. Sự gia tăng liên tục với tốc độ ngày càng cao của chỉ tiêu này là
dấu hiệu thể hiện sự tăng trưởng bền vững; phản ánh chất lượng của tăng

trưởng. Thu nhập bình quân đầu người cho biết khả năng dân số trong vùng
có khả năng chi tiêu cho các dịch vụ tiêu dùng và xã hội. Như vậy đây là chỉ
tiêu rất quan trọng trong việc đánh giá mức độ chênh lệch về mức sống giữa
Formatted: Font: Bold
Formatted: Level 4
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phạm Văn Vận
SV: Hoàng Thị Thu Hằng Lớp: Kế hoạch 48A
12
Formatted: Font: 14 pt
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Bottom: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Top: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
các vùng lãnh thổ. Nếu một vùng có thu nhập bình quân đầu người ở mức cao
thì có thể nhận diện đó là một vùng có nền kinh tế phát triển (về mặt lượng)
còn ngược lại nếu thu nhập bình quân đầu người ở mức thấp thì người dân sẽ
gặp nhiều khó khăn trong việc tiêu dùng cá nhân. Thực tế đã có những tổ chức
dùng chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người để phân các vùng, lãnh thổ thành
các nhóm: thu nhập cao, trung bình và thấp; từ đó kết hợp với một số chỉ tiêu
khác để phân nhóm giàu, nghèo cho các vùng, lãnh thổ đó.
Mức vốn đầu tư trong và ngoài nước: cũng là một chỉ tiêu quan trọng
phản ánh mức độ chênh lệch vùng. Đầu tư là bộ phận lớn và hay thay đổi
trong chi tiêu. Do đó những chênh lệch trong đầu tư có thể tác động đến tổng
cầu và do đó tác động đến sản lượng và công ăn việc làm. Khi đầu tư lớn lên
thì chi tiêu về mua sắm máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, vật liệu xây
dựng tăng lên. Vốn đầu tư và vốn sản xuất là yếu tố quan trọng trong quá
trình sản xuất; vừa là yếu tố đầu vào, vừa là sản phẩm đầu ra của quá trình
sản xuất. Vốn đầu tư không chỉ là cơ sở để tạo ra vốn sản xuất, tăng năng

lực sản xuất của các doanh nghiệp và của nền kinh tế; mà nó còn góp phần
đáng kể để nâng cao trình độ khoa học – công nghệ, góp phần đáng kể vào
việc đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hóa quá trình sản xuất. Việc chênh lệch
vốn đầu tư cũng tác động đến chênh lệch về việc giải quyết công ăn việc làm
cho người lao động. Như vậy vùng có mức vốn đầu tư lớn là vùng có môi
trường đầu tư hấp dẫn hơn bao gồm cả hấp dẫn về chính sách đầu tư và cơ
sở vật chất hạ tầng.3.2. Nhóm chỉ tiêu phát triển xã hội.
Nhóm chỉ tiêu kinh tế chỉ phản ánh về mặt lượng của sự tăng trưởng kinh tế
giữa các vùng, vì vậy để so sánh một cách toàn diện mức độ chênh lệch phát triển
giữa các vùng thì cần xem xét cả trên khía cạnh chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Thứ nhất là nhóm chỉ tiêu phản ánh giáo dục và trình độ dân trí bao gồm tỷ
lệ biết chữ, tỷ lệ nhập học ở các cấp tiểu học, trung học cơ sở, phổ thông trung học,
số năm đi học trung bình, tỷ lệ chi ngân sách cho giáo dục so với tổng chi ngân sách
hoặc so với mức GDP.Tỷ lệ người biết chữ, tính cho số người từ 15 tuổi trở lên, và
còn tính riêng tỷ lệ này theo giới tính. Ở các nước đang phát triển, giữa nghèo đói
và tình trạng mù chữ có mối quan hệ khá chặt chẽ, những vùng càng nghèo tỷ lệ mù
chữ càng lớn. Nhưng tỷ lệ người biết chữ không chỉ do đói nghèo mà còn do các
chính sách và mục tiêu xã hội của vùng.
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phạm Văn Vận
SV: Hoàng Thị Thu Hằng Lớp: Kế hoạch 48A
13
Formatted: Font: 14 pt
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Bottom: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Top: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
Thứ hai là nhóm chỉ tiêu về tuổi thọ bình quân và chăm sóc sức khỏe gồm có
các chỉ tiêu: tuổi thọ bình quân, tỷ lệ chết ở trẻ em, tỷ lệ trẻ dưới 1 tuổi được tiêm

phòng dịch, số người trên một bác sĩ, số cơ sở y tế khám chữa bệnh…
Tuổi thọ bình quân không chỉ phụ thuộc vào chăm sóc y tế, mà nó còn phụ
thuộc vào nghèo đói và bệnh tật. Tại các nước đang phát triển, có các dịch bệnh lây
lan làm chết hàng vạn người, ngoài ra tình trạng trẻ em chết yểu nhiều, điều kiện vệ
sinh, chăm sóc y tế kém cũng là nguyên nhân làm cho tuổi thọ bình quân ở các nước
này thấp.
Tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh, chỉ tiêu này được tính cho hai nhóm tuổi: tỷ lệ trẻ
em chết dưới 1 tuổi và tỷ lệ trẻ em chết dưới 5 tuổi.
Tỷ lệ trẻ em được tiêm phòng dịch: Tỷ lệ trẻ em được tiêm phòng dịch trong
chương trình phòng dịch bệnh cho trẻ em toàn cầu.
Số người trên một bác sĩ (số bác sĩ trên 1 vạn dân) phản ánh khả năng chăm
sóc y tế của các địa phương.
Thứ ba là nhóm các chỉ tiêu về nghèo đói bao gồm các chỉ tiêu: Mức và tỷ lệ
nghèo khổ, tỷ lệ nghèo chung…Nghèo khổ vật chất được hiểu đó là tình trạng một
bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người,
mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy thuộc vào trình độ phát triển
KT - XH và phong tục tập quán của đất nước.
Để đo lường nghèo khổ vật chất, điều quan trọng nhất là phải xác định chuẩn
nghèo (ngưỡng nghèo). Chuẩn nghèo là mốc quan trọng để đánh giá nghèo khổ vật
chất, là ngưỡng chi tiêu tối thiểu cần thiết cho việc tham gia các hoạt động trong đời
sống kinh tế. Những người có thu nhập tối thiểu dành cho chi tiêu vật chất dưới
ngưỡng này được coi là những người nghèo. Chuẩn nghèo là thước đo tương đối ,
nó được thay đổi theo các điều kiện phát triển kinh tế, xã hội và tập quán tiêu dùng
dân cư, vì thế, chuẩn nghèo quốc gia sẽ thay đổi theo thời gian, theo vùng (thành
thị, nông thôn, miền núi) và có xu hướng tăng lên theo sự phát triển kinh tế, xã hội.
Mức và tỷ lệ nghèo khổ (chỉ số và tỷ lệ đếm đầu): đây là chỉ tiêu phản ánh rõ
nhất, tổng quát nhất tình trạng nghèo khổ và cũng là phương pháp đo lường đơn
giản nhất. Mức nghèo khổ (chỉ số đếm đầu – HC) được xác định trên cơ sở đếm đầu
những người sống dưới chuẩn nghèo, tức là những cá nhân hoặc hộ gia đình (i) có
mức thu nhập (y) dưới mức chi tiêu tối thiểu (C). Còn tỷ lệ đếm đầu sẽ là:

HCR = HC/n trong đó: n là tổng dân số.
Formatted: Font: Italic, Underline
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phạm Văn Vận
SV: Hoàng Thị Thu Hằng Lớp: Kế hoạch 48A
14
Formatted: Font: 14 pt
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Bottom: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Top: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
Về mặt ý nghĩa phản ánh, chỉ tiêu trên cho chúng ta kết luận về quy mô, phạm vi
nghèo khổ trong sự so sánh với tổng dân số của quốc gia hay địa phương.
Thứ ba là nhóm chỉ tiêu dân số và việc làm gồm các chỉ tiêu: tốc độ tăng
trưởng dân số tự nhiên, tỷ lệ thất nghiệp thành thị…
Ở các nước đang phát triển, tốc độ gia tăng dân số thường ở mức cao.
Thứ tư là nhóm chỉ tiêu phản ánh về ô nhiếm môi trường gồm các chỉ tiêu:
nước sạch, chất thải, không khí, tiếng ồn…Ô nhiễm môi trường là nguy cơ đe dọa
cuộc sống của người dân. Chỉ tiêu này phản ánh điều kiện sinh sống của người dân
trong vùng.
Như vậy, các chỉ tiêu phát triển xã hội cho biết khả năng được hưởng các
điều kiện sống cơ bản của người dân tại các địa phương, phản ánh mức độ được
hưởng thụ khác nhau về các dịch vụ công.
3.332. Nhóm chỉ tiêu về phát triển kết cấu hạ tầng.
Nhóm chỉ tiêu này bao gồm các chỉ tiêu về hệ thống giao thông: giao thông
đường bộ, đường sắt, đường thủy, và đường hàng không. Hệ thống mạng lưới điện.
Hệ thống cấp thoát nước. Hệ thống bưu chính viễn thông…

3.434. Nhóm chỉ tiêu tổng hợp.

Các chỉ tiêu trên chỉ phản ánh từng lĩnh vực khác nhau của phát triển xã hội.
Để đánh giá tổng hợp và xếp loại trình độ phát triển kinh tế - xã hộiKT - XH chung
giữa các địa phương, năm 1990 Liên hợp quốc đưa ra một chỉ tiêu tổng hợp có tên
gọi là chỉ số phát triển con người (HDI). HDI chứa đựng 3 yếu tố cơ bản: Tuổi thọ
trung bình được phản ánh bằng số năm sống; trình độ giáo dục được đo bằng cách
kết hợp tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ đi học đúng độ tuổi; mức thu nhập bình
quân đầu người tính theo sức mua tương đương. HDI được tính theo phương pháp
chỉ số và nhận giá trị lớn nhất bằng 1, nhỏ nhất là 0. Địa phương nào có HDI càng
gần 1 thì được đánh giá là càng phát triển cao.
HDI được tính theo công thức sau:
HDI = (I
A
+I
E
+I
IN
)/3
Trong đó:
I
A
: là chỉ số tuổi thọ
I
B
: là chỉ số đo tri thức giáo dục (kiến thức) được đo bằng chỉ số tổng hợp
giữa tỷ lệ biết chữ của người lớn (với trọng số 2/3) và tỷ lệ nhập học cấp giáo dục –
tiểu học, trung học, đại học (với trọng số 1/3).
Formatted: Indent: First line: 0 cm
Formatted: Level 4
Formatted: Level 4
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phạm Văn Vận

SV: Hoàng Thị Thu Hằng Lớp: Kế hoạch 48A
15
Formatted: Font: 14 pt
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Bottom: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Top: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
I
IN
: là chỉ số đo mức sống.
Ngoài chỉ tiêu phát triển con người, một vấn đề quan trọng để đánh giá sự
phát triển trên khía cạnh xã hội là vấn đề nghèo đói và bất bình đẳng. Hai chỉ tiêu
này phụ thuộc vào tổng khả năng thu nhập và chính sách phân phối thu nhập và
phân phối lại nhằm điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội nhằm
bảo vệ người nghèo cũng như giải quyết vấn đề công bằng xã hội.
Để đánh giá mức độ nghèo đói và bất bình đẳng ta dùng các chỉ tiêu: chỉ tiêu
hệ số giãn cách thu nhập xác định mức chênh lệch thu nhập giữa bộ phận dân cư
giàu và nghèo trong xã hội. “Tiêu chuẩn 40” do WB đề xuất năm 2002 xác định tỷ
lệ thu nhập chiếm trong tổng thu nhập dân cư của 40% dân số có thu nhập thấp nhất
trong vùng. Theo chỉ tiêu này địa phương nào có thu nhập 40% dân số thấp nhất
chiếm trên 17% thì mức độ bình đẳng xã hội khá cao, tương ứng nếu chiếm từ 12%
- 17% thì ở mức độ tương đối bình đẳng còn nếu đạt nhỏ hơn 12% thì ở mức độ bất
bình đẳng lớn.
Tỷ số Kuznets là chỉ tiêu do nhà kinh tế người Mỹ gốc Nga đề xuất trong tác
phẩm “Sự tăng trưởng kinh tế của các dân tộc” (năm 1971) khi nghiên cứu thực
nghiệm sự biến động thu nhập của các nước phát triển và đang phát triển. Tỷ số này
được xác định bằng phép chia giữa tỷ trọng thu nhập của X% dân số giàu nhất và
Y% thu nhập của dân số nghèo nhất, nếu tỷ số này nhận giá trị càng cao thì thể hiện

mức độ bất công bằng xã hội lớn.
Chỉ số nghèo khổ con người – HPI (chỉ số nghèo khổ tổng hợp) cho biết rằng
sự nghèo khổ của con người ảnh hưởng lên bao nhiêu phần dân số nước (địa
phương) đó. So sánh các giá trị HDI và HPI cho thấy sự phân phối thành tựu của
tiến bộ con người. Có thể có giá trị HDI như nhau nhưng giá trị HPI khác nhau.
Ngoài ra, người ta còn sử dụng một số phương pháp như: phân tích đường
cong Lorenz, Hệ số GINI, Hệ số bất bình đẳng. Theo các phương pháp này, ngoài
việc đánh giá được thực trạng công bằng xã hội còn có thể xác định được nguyên
nhân của sự phân hóa giàu nghèo trong các quốc gia.
Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI). Vị trí địa lý, sự phát triển của cơ
sở hạ tầng, nguồn nhân lực, quy mô của thị trường…luôn là những yếu tố quan
trọng, tuy vậy nó chưa đủ để có thể lý giải sự khác biệt về sự phát triển giữa các tỉnh
và thành phố. Vì vậy, cần đưa chỉ số PCI vào phân tích chênh lệch vùng. Chỉ số PCI
được nghiên cứu và công bố hàng năm có ý nghĩa rất lớn trong quản lý và điều hành
kinh tế ở các tỉnh. Nó chỉ ra năng lực cạnh tranh của từng tỉnh trong việc thu hút
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phạm Văn Vận
SV: Hoàng Thị Thu Hằng Lớp: Kế hoạch 48A
16
Formatted: Font: 14 pt
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Bottom: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Top: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
đầu tư và phát triển thành phần kinh tế tư nhân. Đó là sự đánh giá khách quan của
những chuyên gia kinh tế với những phương pháp nghiên cứu có tính khoa học cao.
Có thể nói PCI là một nỗ lực nhằm giải thích vì sao ở một số tỉnh có môi trường
kinh doanh thuận lợi hơn các tỉnh khác khi đề cập đến thúc đẩy và phát triển khối
doanh nghiệp tư nhân. Sử dụng các dữ liệu điều tra của các doanh nghiệp phản ánh

nhận thức của họ về môi trường kinh doanh địa phương, cũng như các số liệu so
sánh mô tả khác từ phía các quan chức và các nguồn khác liên quan đến các điều
kiện tại địa phương, chỉ số PCI đánh giá các tỉnh theo thang điểm 100. Năm 2006,
chỉ số PCI được cấu trúc bởi 10 chỉ số phụ thu hút các thành tố chủ yếu của môi
trường kinh doanh địa phương mà có thể trực tiếp bởi các hành động và quan điểm
của lãnh đạo địa phương. Mục tiêu cuối cùng của chỉ số PCI là nhằm xác định các
tỉnh thực hiện tốt khi có những điều kiện ban đầu như nhau.
Các chỉ số thành phần của PCI : Chính sách phát triển kinh tế tư nhân, Tính
minh bạch, Đào tạo lao động, Tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh, Chi
phí thời gian để thực hiện quy định của Nhà nước, Thiết chế pháp lý, Ưu đãi đối với
doanh nghiệp của Nhà nước, Chi phí không chính thức, Tiếp cận đất đai và sự ổn
định trong sử dụng đất, Chi phí gia nhập thị trường.
Như vậy Chỉ số PCI mang lại một cái nhìn toàn diện hơn về những lĩnh vực
như chi phí khởi sự kinh doanh, tính minh bạch, khả năng tiếp cận thông tin, thanh
tra, kiểm tra, niềm tin của doanh nghiệp đối với hệ thống pháp luật và đào tạo lao
động.
III.KINH NGHIỆM VỀ HẠN CHẾ CHÊNH LỆCH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI GIỮA CÁC VÙNG CỦA CÁC QUỐC GIA TRÊN THẾ
GIỚI.
1.Nhật Bản.: Khắc phục sự chênh lệch giữa các vùng của Nhật Bản sau
chiến tranh.
Năm 1970, thủ tướng Eisaku Sato và nội các đã đề xuất Kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội mới và Kế hoạch phát triển không gian hợp nhất mới (Shin Zenso).
Mục tiêu của kế hoạch này là giải quyết vấn đề chênh lệch phát triển kinh tế - xã
hội, một hậu quả của quá trình phát triển tăng tốc tại các vùng công nghiệp xung
quanh Tokyo, Nagoia, và Ôxaka dọc theo bờ biển Thái Bình Dương trong những
năm đầu sau chiến tranh. Một trích đoạn trong kế hoạch Shin Zenso đã tóm tắt tầm
nhìn của Chính phủ:
Formatted: Bullets and Numbering
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phạm Văn Vận

SV: Hoàng Thị Thu Hằng Lớp: Kế hoạch 48A
17
Formatted: Font: 14 pt
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Bottom: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Top: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
Trong hàng loạt vấn đề liên quan đến chênh lệch giữa các vùng, chênh lệch
mức sống là nghiêm trọng hơn hơn so với chênh lệch bình quân đầu người. Từ quan
điểm này, việc xây dựng các dịch vụ cơ bản và các thể chế xã hội phải được đẩy
mạnh tại các vùng nông thôn, những chính sách mới cần phải được thông qua để cải
thiện điều kiện sống của các vùng xung quanh lên trên mức tối thiểu nhất định.
Những kế hoạch này tiếp tục đầu tư công vào các dịch vụ cơ bản và các thể
chế xã hội (ví dụ như tiện ích công cộng, cơ sở y tế, trường học) cho các vùng công
nghiệp. Nhưng cũng đầu tư thêm cho các vùng kém phát triển, để đạt được ít nhất là
mức độ sống tối thiểu ở tất cả mọi nơi. Kết quả là đầu tư vào các dịch vụ cơ bản và
các thể chế xã hội ở các vùng kém phát triển đã nhanh chóng bắt kịp các vùng công
nghiệp hóa hơn (hình vẽ).
Cả ngân sách chung của Chính phủ trung ương và Chương trình đầu tư và
cho vay tài chính đều là phương tiện để huy động các nguồn tài chính. Ngân sách
chung của Chính phủ trung ương phân bổ các khoản trợ cấp ngân sách có mục tiêu
cho chính quyền địa phương, ngoài các khoản trợ cấp chung. Trong số những khoản
trợ cấp có mục tiêu, một lượng lớn được phân bổ cho đầu tư vào các dịch vụ cơ bản
(như đường giao thông nông thôn) và các thể chế xã hội theo các thỏa thuận trung
ương và địa phương cùng làm.
Chương trình Đầu tư và cho vay tài chính đã hình thành được công quỹ từ
các nguồn như là tiết kiệm bưu điện và phí bảo hiểm lương hưu công cộng, và sau
đó thì rót nguồn vốn này vào đầu tư xây dựng nhà cửa và các thể chế xã hội để nâng

cao phúc lợi cho những vùng kém phát triển hơn. Những chính sách này đã có hiệu
quả trong việc gom thành các khoản đầu tư lớn để phổ cập mức sống cơ bản. Thu
nhập bình quân đầu người đã hội tụ giữa các vùng dẫn đầu và các khu vực khác
trong những năm 1970 (hình 2). Di cư lao động từ nông thôn tới các đô thị lớn đã
diễn ra trong suốt những năm 1950 và 1960, tuy nhiên đến giữa những năm 1970 đã
giảm bớt.
2.Liên Xô: tính phi hiệu quả theo không gian và sự sụp đổ của Liên Xô.
Trái đất có nhiều không gian rộng lớn và hoang sơ, song một vài chính phủ
lại tốn quá nhiều năng lượng để phát triển những vùng đất đó, như nước Nga đã
từng làm dưới thời chính quyền Liên Xô.
Nỗ lực phát triển những vùng đất phía Đông của Liên Xô dưới thời Xtalin là
rất lớn. Công cuộc công nghiệp hóa cưỡng chế với nỗ lực đưa sản xuất sang miền
đông và tạo các cơ sở kinh tế mới tại trung tâm địa lý của đất nước. Việc bình quân
Formatted: Bullets and Numbering
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phạm Văn Vận
SV: Hoàng Thị Thu Hằng Lớp: Kế hoạch 48A
18
Formatted: Font: 14 pt
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Bottom: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Top: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
hóa các hoạt động kinh tế (đặc biệt là công nghiệp) trên toàn nước Nga được xem là
một cách phát triển đồng đều khắp nơi. “Tăng trưởng công nghiệp cân đối” được
dùng làm khẩu hiệu trong một thời gian dài. Vào thập niên 1930, các vùng đất mới
được nhận trên 50% đầu tư của trung ương, chủ yếu lấy từ của cải do nông nghiệp
làm ra. Các vùng đất mới này ban đầu chỉ thu hút vốn đầu tư. Trong chiến tranh thế
giới lần thứ II đã xuất hiện những tác động rõ rệt, mặc dù những vùng có năng suất

cao nhất lại nằm gần mặt trận, như Uran-Vonga, nơi có đến 58% số nhà máy
chuyển đến từ phía Tây Liên Xô cũ.
Hoạch toán về nỗ lực tập trung hóa có định hướng nhằm trải rộng các hoạt
động kinh tế thật đáng buồn. Alexay Mints, nhà địa lý Xô Viết đã tuyên truyền đầu
tư có định hướng sẽ thúc đẩy phát triển cho những vùng tụt hậu và tạo ra các thành
phố “từ con số không” trong các kế hoạch 5 năm. Thực tế lại còng khả quan hơn,
việc “mở ra” những vùng nguyên vật liệu phía đông lại trùng khớp với việc phát
triển sản xuất ở phía tây. Như nhà địa lý Mints đã viết, công cuộc chuyển dịch kinh
tế về phía đông đã diễn ra ở hầu hết toàn bộ phần thuộc Châu Âu. Trên thực tế thì
tâm điểm kinh tế và dân số trước thập niên 1990 vốn đã dịch chuyển về phía đông,
song chỉ trong giới hạn sông Belaya. Miền đất công nghiệp Xiberi tăng trưởng ở
lượng tuyệt đối, song tỷ trọng của nó không vượt quá 1/5 (tính theo hệ thống giá cả
của Xô Viết) mặc dù tiêu tốn rất nhiều nguyên vật liệu, giao thông và năng lượng.
Cơ sở hạ tầng xã hội của Liên Xô chồng chéo với phát triển công nghiệp.
Các trung tâm y tế, trường học, khu vui chơi giải trí, khu thể thao – với tên gọi là
sotscultbyt…nhìn chung đều thuộc sở hữu của các doanh nghiệp. Sự chồng chéo
này đặc biệt thấy rõ trong các công ty lớn ở những vùng xa xôi hẻo lánh, như
thành phố xuyên lục địa Noril’sk. Truyền thống sở hữu này lại kết hợp với việc
tái phân phối mạnh mẽ ngân quỹ, có phần nghịch lý, giữa các ban bộ thuộc vùng
và khu vực. Lợi nhuận được giao nộp cho nhà nước rồi lại được hoàn trả - không
nhất thiết phải cùng về một nơi – bằng hàng hóa và tài sản vốn. Tỷ trọng các
doanh nghiệp trong toàn lãnh thổ liên bang chiếm tới 70% dưới thời Xtalin và
Bregionhep. Chính quyền trung ương kiểm soát không đến 20% lợi nhuận công
nghiệp thu được trên lãnh thổ Nga.
Sự phân tán công nghiệp, cùng với tình trạng biến dạng của hệ thống giá cả
và cuộc chạy đua vũ trang tốn kém đã làm cả hệ thống Liên Xô sụp đổ. Cuối thập
niên 1980, tất thảy người dân và lãnh đạo ở mọi vùng miền hay các nước cộng hòa
đều kêu ca rằng họ phải chịu đựng nhiều nghĩa vụ nặng nề trên mảnh đất “để nuôi
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phạm Văn Vận
SV: Hoàng Thị Thu Hằng Lớp: Kế hoạch 48A

19
Formatted: Font: 14 pt
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Bottom: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Top: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
sống kẻ khác” mà thôi. Khẩu hiệu khozraschet (tưh hoạch toán kinh tế và tự chi trả)
theo vùng chẳng mấy chốc thành chính sách ly khai chính trị và góp phần cho sự
sụp đổ của Liên Xô.
Sau khi Liên Xô sụp đổ, Liên bang Nga trở nên hội nhập tốt hơn với thị
trường thế giới. Nước Nga bỗng trở thành dư dả hơn về nguồn lực nhưng cũng
lại thưa dân cư hơn. Việc định giá lại theo thị trường giá trị các nguồn lực và tài
sản đã thu hẹp hoạt động kinh tế ở các vùng xa xôi hẻo lánh, song tình trạng cơ
sở hạ tầng xuống cấp thì không làm giảm mà một số trường hợp còn làm tăng
khoảng cách kinh tế. Các dịch vụ công có liên quan đến công nghiệp cũng sụp đổ
vào thập niên 1990, khi các công ty được tư nhân hóa hoặc chuyển giao những
sotscultbyt của mình cho chính quyền thành phố. Phải mất một thời gian dưới
thời tổng thống Yeltsin mức thu ngân sách liên bang và ngân sách vùng/địa
phương mới được cân bằng.
Ngày nay, mối quan hệ tài chính giữa trung ương và địa phương vùng miền
lại căn cứ trên cơ sở nguyên tắc tái phân phối, mặc dù ít hơn so với thời Liên Xô.
Công nghiệp hiện nay dựa vào nhiên liệu và nguyên liệu nhiều hơn. Sau nhiều thập
niên thực hiện các kế hoạch cân đối, nay nền kinh tế lại chứng kiến những chênh
lệch ngày càng gia tăng về sản lượng bình quân giữa các vùng. Về hiện tượng chênh
lệch này trong giai đoạn từ 1990 đến 2005, sử dụng các phương pháp và giá cũ thời
Liên Xô (hệ thống hiện vật) và tổng sản lượng vùng mới (GRP). Hai địa phương đi
đầu vẫn không thay đổi, đó là Tyumen oblast ở tây Xiberi và Matxcova ở trung tâm.
Tuy nhiên, khoảng cách giữa các vùng đứng đầu và những vùng tụt hậu thì tăng vọt,

từ 5 lên 43. Với phương pháp tái phân phối, khoảng cách này về thu nhập bình quân
đầu người trong từng vùng vào năm 2005 là 11. Chỉ có 20 trong số 88 vùng vượt
trên mức bình quân tổng sản phẩm khu vực toàn quốc của Nga và chỉ có 22 vùng có
mức thu nhập cao hơn mức thu nhập bình quân toàn quốc. Hầu hết các vùng nghèo
đều giảm được khoảng cách chênh lệch về mức sống nhờ được trợ cấp.
Phúc lợi ở các vùng xa xôi hẻo lánh đã bớt phụ thuộc vào khối kinh tế tập
trung ở nước Nga đương đại. Một số nhà quan sát và nhà hoạch định chính sách của
Nga cho rằng khuynh hướng này vẫn chưa phải là thỏa đáng, tuy nhiên vẫn chưa rõ
cần có giải pháp gì. Những tranh cãi về chính sách chủ yếu xảy ra giữa hai quan
điểm đối cực nhau: củng cố hệ thống tái phân phối khắp nơi dựa trên việc phân chia
lớn hơn lợi nhuận từ dầu khí, hoặc cưỡng chế đa dạng hóa nền kinh tế vùng dựa
theo các hoạt động công nghiệp – quân sự, các sang kiến nghiên cứu và triển khai.
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phạm Văn Vận
SV: Hoàng Thị Thu Hằng Lớp: Kế hoạch 48A
20
Formatted: Font: 14 pt
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Bottom: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Top: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
Trong khi các cuộc tranh cãi vẫn còn tiếp tục, thì kinh nghiệm của Nga thời chính
quyền Liên Xô đã mang lại nhiều bài học chính sách. Đặc biệt là đối với một quốc
gia có diện tích đất đai lớn nhất thế giới, những lựa chọn chính sách về không gian
và hiệu quả của những chính sách đó chính là sự khác biệt giữa định trệ và tiến bộ
kinh tế.
3.Hoa Kỳ: Đánh thuế theo sự bất công bằng về “không gian”? Hệ thống
thuế thu nhập của Liên bang Hoa Kỳ
Hệ thống thuế thu nhập lũy tiến ở Hoa Kỳ đã lam giảm sự bất công bằng

trong thu nhập của người dân. Một hiệu ứng không ngờ đến của hệ thống này là
giảm sự bất công bằng thu nhập giữa các bang, điều này cho thấy một chính sách
không có định hướng không gian có thể trở thành một công cụ sắc bén để giảm
thiểu sự bất công bằng về không gian.
Từ số liệu của Cục nguồn thu Nội bộ, có thể biết được thuế thu nhập đã giúp
giảm thiểu sự bất công bằng về không gian đến mức độ nào.Trước hết, lấy mức thu
nhập trước thuế của phân vị dẫn đầu trong nhóm những người có thu nhập của từng
bang đem chia cho mức thu nhập cá nhân của người dân Mỹ, theo số liệu của Ủy
ban Phân tích kinh tế. Tiếp đó, tính toán ty lệ phân tán thu nhập với mức thu nhập
sau thuế, và tính số điểm phần trăm giảm giữa tỷ lệ thu nhập trước thuế và sau thuế
cho hai nhóm sau đây ở 10 bang: nhóm đầu tiên là nhóm có thu nhập trước thuế cao
nhất (nhóm 1), nhóm thứ hai là nhóm có thu nhập trước thuế thấp nhất (nhóm 2).(
Mặc dù cả hai nhóm đều nằm trong số những người giàu nhất của từng bang, nhưng
hãy lưu ý sự khác biệt sâu sắc giữa bang này với bang khác. Ví du như, vào năm
1940 một khoản thu nhập khoảng 47.000 USD là cơ sở để nộp thuế với 1% những
người giàu nhất ở Mississipi, nhưng lại là cơ sở để nộp thuế với 10% những người
giàu nhất ở quận Colombia). Hình vẽ dưới đây cho thấy sự thay đổi trong mức
chênh lệch thu nhập sau thuế giữa các bang giàu nhất và các bang nghèo nhất. Quy
trực tiếp sang hệ thống đánh thuế, có thể thấy hệ thống thuế của Hoa Kỳ đã làm
giảm thiểu sự bất công bằng thu nhập giữa các bang trong suốt thế kỷ vừa qua, và
có lẽ tác dụng này đã vượt xa những mong đợi lạc quan nhất.
Chưa bao giờ thuế suất cao hơn thuế suất năm 1918 – 77% - để chu cấp cho
các chi phí quân sự. Sau thế chiến thứ nhất, thuế suất bắt đầu giảm. Năm 1929, mức
thuế suất giảm xuống chỉ còn 24% nhưng thuế suất áp dụng cho những nhóm có thu
nhập dẫn đầu lại tăng trở lại trong thời kỳ đại suy thoái (-26% vào năm 1940 so với
-7% vào năm 1930, đối với nhóm 1). Khi quốc hội Mỹ đưa ra luật giữ lại 1% tiền
Formatted: Bullets and Numbering
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phạm Văn Vận
SV: Hoàng Thị Thu Hằng Lớp: Kế hoạch 48A
21

Formatted: Font: 14 pt
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Bottom: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Top: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
lương và nộp thuế theo quý trong thời kỳ thế chiến thứ hai, hệ thống thuế lũy tiến
được củng cố trở lại. Nhưng các hiệu ứng giảm bất công bằng trong thu nhập một
lần nữa lại mờ nhạt đi trong giai đoạn 1950-1970. Đến cuối những năm 1970, hiệu
ứng này tăng lên trong một thời gian ngắn, trước khi giảm trở lại trong những năm
1980-1990.
4.Thái Lan
Trong 3 thập kỷ, Thái Lan đã trải qua thời kỳ chuyển dịch cơ cấu mạnh, tập
trung thực hiện chính sách công nghiệp hóa nhanh theo mô hình “tăng trưởng theo
cực” với những hoạt động và thành tựu kinh tế tập trung phần lớn ở thủ đô Băng
Cốc và các tỉnh xung quanh. Vùng thủ đô Băng Cốc chỉ chiếm khoảng 16,1% tổng
dân số, nhưng lại chiếm tới 51,8% GDP của cả nước vào năm 1991. Bình quân
GDP/người của vùng này cao gấp 5,6 lần so với vùng Đông Bắc là vùng nghèo nhất
Thái Lan. Nhằm điều chỉnh sự mất cân đối đó, từ những năm 90 chính phủ Thái
Lan đã có nhiều biện pháp như: Thực hiện chính sách phát triển vùng để khuyến
khích thiết lập các cơ sở công nghiệp tại các vùng nghèo nhằm giảm bớt sự chênh
lệch về phát triển giữa các vùng. Mặt khác vẫn duy trì sự quản lý tập trung, đặc biệt
tập trung đầu tư dịch vụ công cộng cho thu đô Băng Cốc, thực hiện chính sách nông
nghiệp có lợi cho người tiêu dùng thành thị. Việc làm này đã làm cho thủ đô Băng
Cốc và các tỉnh lân cận vẫn tiếp tục là trung tâm hấp dẫn đầu tư. Ngoài ra chính
sách xuất khẩu lao động của Thái Lan cũng phần nào giải quyết được vấn đề lao
động và thu nhập cho số lao động dư thừa, lao động không có tay nghề, qua đó tăng
thêm lợi ích cho nền kinh tế nói chung, góp phần vào giải quyết sự mất cân đối về
phát triển giữa các vùng. Với số lao động xuất khẩu ra nước ngoài, trung bình hàng

năm, số tiền chuyển qua ngân hàng xuất khẩu lao động đã đạt khoảng 1 tỷ USD và
có xu hướng tăng lên. Nhiều nghiên cứu cho thấy người nghèo của Thái Lan là
người được hưởng nhiều nhất từ nguồn chuyển khoản này. Chính phủ Thái Lan
cũng đã giải quyết những thiếu hụt về lao động có kỹ năng bằng biện pháp du nhập
và khuyến khích lao động có tay nghề cao vào Thái Lan. Chính sách này kết hợp
với đầu tư cho giáo dục, đào tạo, và đây cũng là một trong những biện pháp dài hạn,
có tác động đến thị trường lao động theo hướng tích cực, gián tiếp ảnh hưởng đến
sự giảm chênh lệch về phát triển giữa Băng Cốc và các vùng còn lại.
5.Trung Quốc.
Người ta chia Trung Quốc làm ba miền: Đông, Tây và Trung. Miền Đông là
các tỉnh ven biển có nền kinh tế phát triển và đời sống người dân cao nhất Trung
Formatted: Bullets and Numbering
Formatted: Bullets and Numbering
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phạm Văn Vận
SV: Hoàng Thị Thu Hằng Lớp: Kế hoạch 48A
22
Formatted: Font: 14 pt
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Bottom: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Top: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
Quốc. Miền trung là các tỉnh ở giữa, kinh tế phát triển và đời sống trung bình. Miền
Tây là vùng lạc hậu nhất.
Chênh lệch về phát triển kinh tế - xã hội giữa miền Đông và miền Tây ngày
càng mở rộng (thu nhập bình quân đầu người khu vực miền Đông khoảng 3.600
NDT, cao gấp 3 lần so với miền Tây) đã và đang đặt ra như một yêu cầu bức xúc
cần giải quyết. Vì vậy, từ năm 1999, Đảng và Nhà nước Trung Quốc đã đề ra chiến
lược khai thác và phát triển khu vực miền Tây. Trong báo cáo Công tác Chính phủ

năm 2002 của Thủ tướng Chu Dung Cơ trình bày tại quốc hội Trung Quốc tháng 3
năm 2002 đã nhấn mạnh: “Tiếp tục thực hiện chiến lược khai thác và phát triển
miền Tây, thúc đẩy phát triển hài hòa giữa các vùng…Tích cực thực hiện chính sách
và biện pháp khai thác, phát triển miền Tây, thúc đẩy sự phát triển của các vùng căn
cứ cách mạng cũ, vùng dân tộc thiểu số, vùng biên giới và vùng nghèo khó”. Đây là
một quyết sách quan trọng, một cuộc chuyển dịch lớn mang tính chiến lược đối với
sự phát triển kinh tế của Trung Quốc.
Ngoài ra để giảm bớt chênh lệch vùng, Trung Quốc còn đưa ra một chính
sách mới là kêu gọi xây dựng một “xã hội hưng thịnh” với mục tiêu phát triển “lấy
con người làm trung tâm” trong đó các yêu cầu về phát triển kinh tế và các yêu cầu
về phát triển xã hội được cân đối tốt hơn nhằm mang lại lợi ích cho toàn dân và chia
sẻ công bằng hơn thành quả của tăng trưởng. Để thực hiện được mục tiêu phát triển
“lấy con người làm trung tâm” với chính sách xây dựng một “xã hội hưng thịnh”,
Trung Quốc cần kết hợp hoạt động cải cách về chính trị, xã hội và văn hóa với
những nỗ lực cải cách về kinh tế. Trung Quốc đang tiến hành một quá trình chuyển
đổi sâu sắc về mặt xã hội để đáp ứng các lợi ích khác nhau giữa các khu vực nhà
nước và ngoài nhà nước, giữa các khu vực thành thị và nông thôn, giữa các vùng
trong cả nước. Phương châm là các tổ chức phi chính phủ cùng các cơ quan, tổ chức
của Chính phủ và các doanh nghiệp tạo thành ba trụ cột chính trong cơ cấu xã hội
hiện đại để hỗ trợ quá trình xóa đói giảm nghèo, giảm mức chênh lệch giữa người
giàu và người nghèo, giảm mức chênh lệch giữa các vùng.
Năm nay là 10 năm Trung Quốc thực thi chiến lược đại phát triển miền Tây.
Số liệu chính thức cho biết, mười năm qua, 12 tỉnh, thành phố, khu tự trị trước sau
đã xây dựng 120 công trình trọng điểm, tổng đầu tư khoảng 2200 tỷ NDT (1NDT
bằng khoảng 6,3 USD), những đường ống, đường dây vận chuyển khí, điện từ Tây
sang Đông, đường sắt Thanh – Tạng… đã nối nhau hoàn thành. Tăng Bồi Viêm,
nguyên Phó thủ tướng Chính phủ Trung Quốc, hiện là Giám đôc Trung tâm giao lưu
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phạm Văn Vận
SV: Hoàng Thị Thu Hằng Lớp: Kế hoạch 48A
23

Formatted: Font: 14 pt
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Bottom: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Top: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
kinh tế quốc tế của Trung Quốc nhận xét, 10 năm qua các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu
của miền Tây như; tổng lượng kinh tế, tốc độ tăng trưởng thu nhập tài chính, đầu tư
tư sản cố định v.v. đều nâng cao rất nhiều cụ thể là tăng trưởng GDP của miền Tây
đạt 12%, cao hơn miền Đông, tỷ trọng đã từ chỗ chiếm 17,1% của toàn quốc năm
2000 tăng lên 18,5% năm 2009, thu nhập có thể chi phối của dân cư thành thị và
nông thôn đã từ 5648 NDT tăng lên đến 14213 NDT, thu nhập bình quân/năm của
nông dân đã từ 1.161 NDT tăng lên 3817 NDT. Do được tăng nhanh đầu vào nên
khoảng cách tốc độ tăng trưởng tương đối kinh tế của miền Tây với miền Đông
đang thu nhỏ dần.
6.Việt Nam.
Sự tăng trưởng kinh tế cao ở Việt Nam đã đi liền với sự gia tăng chênh lệch
về phát triển và bất bình đẳng. Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã chứng kiến
sự chênh lệch phát triển kinh tế - xã hội giữa các vùng Vùng núi và trung du phía
Bắc, Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ với các vùng ĐBSH, Đông Nam Bộ. Với phương
châm phát triển bền vững và toàn diện, đồng thời học hỏi kinh nghiệm giải quyết
vấn đề chênh lệch của các nước trên thế giới, Nhà nước ta đã đưa ra các giải pháp
nhằm hạn chế tình trạng này:
Thứ nhất, đẩy mạnh các vùng phát triển để kích thích các vùng chậm phát
triển, điều chỉnh hợp lý cơ cấu đầu tư giữa các vùng phát triển và vùng chậm phát
triển.
Thứ hai, thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo. Xây dựng một xã hội
có nhiều người giàu, không có người nghèo đói, hoặc có người nghèo đói nhưng
được xã hội trợ giúp, quan tâm- đó là một định hướng mà Việt Nam lựa chọn.

Chương trình xoá đói giảm nghèo đã được Chính phủ Việt Nam thực hiện có kết
quả trong nhiều năm nay là một thể hiện rõ rệt quyết tâm đó, những kết quả thu
được là rõ rệt - đã giảm được một nửa số người nghèo trong vòng 10 năm. Có thể
nói là chương trình xoá đói giảm nghèo theo nghĩa rộng nhất đã bao gồm toàn bộ
chương trình phát triển của Việt Nam, nhưng theo nghĩa hẹp nó chỉ tập trung vào
những trợ giúp cho các vùng, các tầng lớp nghèo đói. Tuy nhiên có thể còn phải có
những cố gắng tiếp tục hoàn thiện chương trình này theo hướng - xây dựng một hệ
thống an sinh xã hội hoàn thiện hơn, đảm bảo an toàn cho những người gặp rủi ro,
cơ lỡ, hỗ trợ tốt hơn cho những vùng nghèo.
Thứ ba, Nhà nước cần trợ giúp các vùng khó khăn bằng cách đẩy mạnh xây
dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, hệ thống giao thông, hệ thống điện, trường học, cơ
Formatted: Bullets and Numbering
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phạm Văn Vận
SV: Hoàng Thị Thu Hằng Lớp: Kế hoạch 48A
24
Formatted: Font: 14 pt
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Bottom: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Top: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
sở khám chữa bệnh và các thiết chế văn hóa cho các địa phương nghèo để sớm khắc
phục tình trạng thiếu điện, thiếu nước sạch, thiếu thuốc chữa bệnh, thiết bị y tế
nghèo nàn, lạc hậu…
Thứ tư, phải có những biện pháp loại bỏ những kẻ làm giàu bất hợp pháp,
tham nhũng, buôn lậu… Trong số dân cư giàu có lên nhanh chóng nhờ quá trình đổi
mới, đa số họ đã làm ăn theo pháp luật, có các nguồn thu hợp pháp. Phải ủng hộ,
khuyến khích, động viên tầng lớp giàu có chân chính này. Sự giàu có của họ sẽ góp
phần làm gia tăng sự giàu có của đất nước. Tuy nhiên trong số đó cũng có không ít

kẻ đã giàu có lên nhờ tham nhũng, buôn lậu, làm ăn bất hợp pháp, phải có những
biện pháp răn đe, ngăn chặn và trừng trị thích đáng. Giải pháp trước hết là phải đổi
mới hoàn thiện thể chế và chính sách, giảm bớt và loại bỏ những khe hở cho tham
nhũng và buôn lậu. Sau đó mới đến những công tác giáo dục ý thức tôn trọng luật
pháp, giám sát, phát hiện và trừng trị những kẻ làm trái pháp luật.
Với những nỗ lực của Nhà nước và toàn dân, trong những năm qua, sự chênh
lệch giữa các vùng miền đã có xu hướng giảm dần. Các vùng khó khăn đã giảm
được mức nghèo đói, được hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản. Điều kiện sống và
sinh hoạt ngày càng được cải thiện. Vùng Bắc Trung Bộ đã có tỷ lệ nghèo đói thấp
hơn qua các năm. Đồng thời vùng đang đón nhận sự ưu tiên của Nhà nước trong
phát triển: điển hình là sự xuất hiện của khu công nghiệp Lăng Cô (Thừa Thiên –
Huế) có thể sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển của vùng. Chính vì vậy, Nhà nước
đã tạo đà tâm lý cho toàn dân trong quá trình đổi mới đất nước.
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Phạm Văn Vận
SV: Hoàng Thị Thu Hằng Lớp: Kế hoạch 48A
25
Formatted: Font: 14 pt
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Bottom: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)
Formatted: Font: 13 pt, Bold, Italic
Formatted: Border: Top: (Double solid lines,
Auto, 0.5 pt Line width)



×