BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN HOÀNG UYÊN PHƯƠNG
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN KIỂM SOÁT CHẤT LƯỢNG TỪ BÊN
NGOÀI ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP
TẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh - Năm 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN HOÀNG UYÊN PHƯƠNG
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN KIỂM SOÁT CHẤT LƯỢNG TỪ BÊN
NGOÀI ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP
TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kế toán
Mã số: 60340301
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN THỊ GIANG TÂN
TP. Hồ Chí Minh - Năm 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của tôi với sự hướng dẫn của
PGS.TS Trần Thị Giang Tân. Tất cả các nguồn tài liệu tham khảo đã được công bố đầy
đủ. Nội dung của luận văn là trung thực.
Tác giả luận văn
Nguyễn Hoàng Uyên Phương
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KIỂM SOÁT CHẤT LƯỢNG TỪ
BÊN NGOÀI ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP 6
1.1.
TỔNG
QUAN
VỀ
KIỂM
SOÁT
CHẤT
LƯỢNG
TỪ
BÊN
NGOÀI
ĐỐI
VỚI
HOẠT
ĐỘNG
KIỂM
TOÁN
ĐỘC
LẬP 6
1.1.1. Tổng quan về chất lượng hoạt động kiểm toán và KSCL hoạt động kiểm toán 6
1.1.1.1. Chất lượng hoạt động kiểm toán 6
a. Khái niệm về chất lượng và chất lượng hoạt động kiểm toán 6
b. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động kiểm toán theo khuôn mẫu
về chất lượng kiểm toán do IAASB ban hành 8
1.1.1.2. Khái niệm KSCL hoạt động kiểm toán 14
1.1.2. Các cấp độ của KSCL hoạt động kiểm toán 16
1.1.2.1. KSCL hoạt động kiểm toán từ bên trong 16
1.1.2.2. KSCL hoạt động kiểm toán từ bên ngoài 17
1.2.
KIỂM
SOÁT
CHẤT
LƯỢNG
TỪ
BÊN
NGOÀI
ĐỐI
VỚI
HOẠT
ĐỘNG
KIỂM
TOÁN
ĐỘC
LẬP
TẠI
HOA
KỲ 18
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển KSCL từ bên ngoài đối với hoạt động KTĐL
tại Hoa Kỳ [8] 18
1.2.2. Chương trình KSCL từ bên ngoài đối với hoạt động KTĐL tại Hoa Kỳ 19
1.2.2.1. Chương trình KSCL của Ủy ban Giám sát các công ty đại chúng (Public
Company Accounting Oversight Board – PCAOB) 19
1.2.2.2. Chương trình kiểm tra chéo của Hiệp Hội kế toán viên công chứng Hoa
Kỳ (AICPA PRP) 24
1.3.
BÀI
HỌC
KINH
NGHIỆM
TỪ
CÁC
MÔ
HÌNH
KIỂM
SOÁT
CHẤT
LƯỢNG
TỪ
BÊN
NGOÀI
ĐỐI
VỚI
HOẠT
ĐỘNG
KIỂM
TOÁN
ĐỘC
LẬP
CHO
VIỆT
NAM 29
1.3.1. Cơ quan chịu trách nhiệm KSCL từ bên ngoài 29
1.3.2. Vai trò của Hiệp hội nghề nghiệp 30
1.3.3. Quy chế KSCL dịch vụ kế toán, kiểm toán 31
1.3.4. Không ngừng nâng cao chất lượng kiểm toán của ngành KTĐL 32
K
ếT LUậN CHƯƠNG
1 32
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KIỂM SOÁT CHẤT LƯỢNG TỪ BÊN
NGOÀI ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP TẠI VIỆT NAM 34
2.1.
CÁC
QUY
ĐỊNH
HIỆN
HÀNH
LIÊN
QUAN
ĐẾN
KIỂM
SOÁT
CHẤT
LƯỢNG
TỪ
BÊN
NGOÀI
ĐỐI
VỚI
HOẠT
ĐỘNG
KIỂM
TOÁN
ĐỘC
LẬP
TẠI
VIỆT
NAM
34
2.2.
THỰC
TRẠNG
VỀ
CÔNG
TÁC
KIỂM
SOÁT
CHẤT
LƯỢNG
TỪ
BÊN
NGOÀI
ĐỐI
VỚI
HOẠT
ĐỘNG
KIỂM
TOÁN
TẠI
VIỆT
NAM 35
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu 35
2.2.2. Kết quả nghiên cứu 35
2.2.2.1. Thực trạng KSCL từ Bộ Tài chính và Hội nghề nghiệp 35
a. Tổ chức, thành phần đoàn kiểm tra, thời gian kiểm tra 35
b. Quy trình thực hiện kiểm tra 38
c. Báo cáo kết quả kiểm tra 39
d. Chi phí cho hoạt động kiểm tra 40
2.2.2.2. KSCL từ Ủy ban Chứng khoán Nhà nước 40
2.3. KHẢO SÁT VỀ KIỂM SOÁT CHẤT LƯỢNG KIỂM TOÁN TỪ BÊN NGOÀI TẠI
CÁC CÔNG TY KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP TẠI VIỆT NAM 42
2.3.1. Phương pháp khảo sát 42
2.3.1.1. Giới thiệu phương pháp khảo sát 42
2.3.1.2. Bảng câu hỏi khảo sát 43
2.3.2. Kết quả khảo sát 44
2.3.2.1. Môi trường pháp lý: 44
2.3.2.2. Cơ quan chịu trách nhiệm KSCL dịch vụ kiểm toán 46
2.3.2.3. Tiêu chuẩn và trách nhiệm thành viên Đoàn kiểm tra 47
2.3.2.4. Thời hạn kiểm tra chất lượng dịch vụ kiểm toán 48
2.3.2.5. Hình thức kiểm tra chất lượng dịch vụ kiểm toán 50
2.3.2.6. Quy trình và thủ tục KSCL dịch vụ kế toán, kiểm toán 52
2.3.2.7. Chi phí cho hoạt động kiểm tra 54
2.4.
ƯU
ĐIỂM
VÀ
TỒN
TẠI
TRONG
CÔNG
TÁC
KIỂM
SOÁT
CHẤT
LƯỢNG
TỪ
BÊN
NGOÀI
ĐỐI
VỚI
HOẠT
ĐỘNG
KIỂM
TOÁN
ĐỘC
LẬP 55
2.4.1. Ưu điểm trong công tác KSCL từ bên ngoài đối với hoạt động KTĐL 55
2.4.1.1. Các quy định pháp lý được ban hành tương đối đầy đủ 55
2.4.1.2. Vai trò của VACPA ngày càng được nâng cao 56
2.4.2. Tồn tại trong thực tiễn của công tác KSCL từ bên ngoài đối với hoạt động
KTĐL 57
2.4.2.1. Tồn tại về mô hình tổ chức KSCL từ bên ngoài 57
2.4.2.2. Tồn tại về chương trình KSCL từ bên ngoài 58
K
ếT LUậN CHƯƠNG
2 64
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN KIỂM
SOÁT CHẤT LƯỢNG TỪ BÊN NGOÀI ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN
ĐỘC LẬP VIỆT NAM 65
3.1.
PHƯƠNG
HƯỚNG
HOÀN
THIỆN 65
3.1.1. KSCL hoạt động kiểm toán phải nhắm đến mục tiêu là đảm bảo và nâng cao
chất lượng kiểm toán 65
3.1.2. Tăng cường KSCL từ bên ngoài trên cơ sở kết hợp chặt chẽ với KSCL từ bên
trong 66
3.1.3. Hoàn thiện công tác KSCL từ bên ngoài trên phù hợp với thông lệ quốc tế và
phù hợp với đặc điểm, điều kiện hoạt động của công ty kiểm toán ở Việt Nam 67
3.2.
GIẢI
PHÁP
HOÀN
THIỆN 68
3.2.1. Tóm tắt kết quả khảo sát 68
3.2.2. Giải pháp cụ thể 68
3.2.2.1. Giải pháp về xây dựng mô hình KSCL hoạt động KTĐL từ bên ngoài 68
a. Đối với công ty kiểm toán cung cấp dịch vụ kiểm toán cho đơn vị có lợi ích
công chúng 69
b. Đối với công ty kiểm toán không cung cấp dịch vụ kiểm toán cho đơn vị có
lợi ích công chúng 71
3.2.2.2. Giải pháp về xây dựng bộ tiêu chí lựa chọn công ty kiểm toán được kiểm
tra hàng năm và ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý 72
3.2.2.3. Giải pháp về nhân sự trong KSCL hoạt đông KTĐL từ bên ngoài 75
3.2.2.4. Giải pháp về mở rộng kiểm tra các dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ đảm
bảo khác 76
3.2.2.5. Giải pháp về chi phí cho hoạt động kiểm tra 76
3.2.2.6. Giải pháp về tăng cường theo dõi sau kiểm tra và công khai kết quả kiểm
tra 77
3.3.
CÁC
GIẢI
PHÁP
HỖ
TRỢ
KHÁC 78
3.3.1. Giải pháp về chiến lược phát triển KTĐL ở Việt Nam 78
3.3.2. Giải pháp về tổ chức thị trường dịch vụ kiểm toán 80
3.4.
KIẾN
NGHỊ 81
3.4.1. Đối với Bộ Tài chính 81
3.4.2. Đối với UBCKNN 83
3.4.3. Đối với VACPA 84
3.4.4. Đối với các công ty kiểm toán 85
KẾT
LUẬN
VÀ
KIẾN
NGHỊ 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1. AICPA: American Institute of Certified Public Accountants - Hiệp Hội kế
toán viên công chứng Hoa Kỳ
2. BCTC: BCTC
3. CMKiT: Chuẩn mực kiểm toán
4. IAASB: International Auditing and Assurance Standards Board - Uỷ ban
Quốc tế về CMKiT và Dịch vụ bảo đảm
5. IFAC: International Federation of Accountant - Liên đoàn Kế toán quốc tế
6. ISA: International Standards on Auditing - CMKiT quốc tế
7. ISQC1: International Standard on Quality Control - Chuẩn mực KSCL dịch
vụ kế toán kiểm toán quốc tế
8. KSCL: Kiểm soát chất lượng
9. KTĐL: Kiểm toán độc lập
10. PCAOB: Public Company Accounting Oversight Board - Ủy ban Giám sát các
công ty đại chúng
11. SEC: Security and Exchange Commission - Ủy ban Chứng khoán quốc gia
Hoa Kỳ
12. UBCKNN: Ủy ban chứng khoán Nhà nước
13. VACPA: Vietnam Association of Certified Public Accountants – Hội kiểm
toán viên hành nghề Việt Nam
14. VSA: Vietnam Standards on Auditing - CMKiT Việt Nam
15. VSQC1: Vietnam Standard on Quality Control - Chuẩn mực KSCL số 1
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu đề tài:
Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với chủ
trương đa dạng hoá các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế được mở rộng và
ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước.
Thông tin tài chính của doanh nghiệp không chỉ để báo cáo cho các cơ quan quản lý
nhà nước để kiểm tra và xét duyệt mà được sử dụng rộng rãi bởi nhiều đối tượng
khác. Tuy ở nhiều góc độ khác nhau nhưng tất cả các đối tượng này đều có cùng yêu
cầu là thông tin phải trung thực và hợp lý, đáng tin cậy. BCTC phải được kiểm toán bởi
kiểm toán viên độc lập là một trong những giải pháp hữu hiệu nhất để giảm thiểu rủi
ro. Với kỹ năng kinh nghiệm nghề nghiệp và sự độc lập của mình, kiểm toán viên độc
lập sẽ mang lại độ tin cậy cho BCTC đồng thời giúp tiết kiệm chi phí kiểm tra cho
người sử dụng. Đứng ở góc độ xã hội, hoạt động KTĐL đối với BCTC, khi được Nhà
nước kiểm soát sẽ trở thành một công cụ bảo vệ sự ổn định của nền kinh tế, đặc biệt là
đối với các quốc gia mà thị trường chứng khoán giữ một vai trò quan trọng trong nền
kinh tế. Ở việt nam, hiện nay đối tượng kiểm toán bắt buộc khá rộng rãi, bao gồm các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tổ chức có hoạt động tín dụng, ngân hàng và
quỹ hỗ trợ phát triển, tổ chức tài chính và doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm; các công
ty cổ phần có yết giá trên thị trường chứng khoán, các doanh nghiệp nhà nước…
Như vậy có thể thấy rằng, hoạt động KTĐL là một trong những công cụ quan trọng
trong công tác quản lý vĩ mô. Trước hết nó phục vụ lợi ích thiết thực cho các chủ sở
hữu, các nhà đầu tư và sau đó là góp phần ngăn chặn các sai phạm về kinh tế - tài
chính, giúp cho Chính phủ, cơ quan Nhà nước kiểm soát được hoạt động kinh tế - tài
chính, ổn định thị trường chứng khoán. Để hội nhập kinh tế thế giới, để phát triển thị
2
trường chứng khoán Việt Nam, một trong những biện pháp là dịch vụ kiểm toán phải
có chất lượng cao. Muốn vậy cần tăng cường KSCL hoạt động KTĐL, đặc biệt là
KSCL từ bên ngoài. Mặc dù vậy nhưng quy chế KSCL từ bên ngoài ở Việt Nam vẫn
còn một số bất cập và các tổ chức thực hiện KSCL từ bên ngoài vẫn chưa phát huy tác
dụng thực sự… nên chất lượng hoạt động kiểm toán vẫn chưa được nâng cao đúng mức
cần thiết.
Với lý do trên, tác giả đã thực hiện đề tài “Giải pháp hoàn thiện KSCL từ bên ngoài
đối với hoạt động KTĐL tại Việt Nam” với mong muốn đưa chất lượng dịch vụ KTĐL
tại Việt Nam đạt chuẩn quốc tế trong quá trình phát triển nền kinh tế nói chung và thị
trường tài chính nói riêng ở Việt Nam.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu việc KSCL từ bên ngoài đối với hoạt động KTĐL của
Hội nghề nghiệp và Nhà nước. Như vậy, luận văn không nghiên cứu KSCL từ bên
trong của doanh nghiệp kiểm toán và các loại kiểm toán khác như kiểm toán nội bộ,
kiểm toán nhà nước nhằm đem lại một bức tranh tổng thể với một cách nhìn toàn diện
về công tác KSCL từ bên ngoài đối với hoạt động KTĐL ở Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài:
Luận văn nghiên cứu nhằm để hoàn thiện và nâng cao công tác KSCL từ bên ngoài
hoạt động KTĐL, mục đích chính là:
- Hệ thống hóa các lý luận cơ bản và các nghiên cứu về KSCL từ bên ngoài đối với
hoạt động KTĐL.
- Tìm hiểu, khảo sát và đánh giá thực trạng về KSCL từ bên ngoài đối với hoạt động
KTĐL tại Việt Nam.
3
- Đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện KSCL từ bên ngoài đối với hoạt động
KTĐL tại Việt Nam.
4. Câu hỏi nghiên cứu:
- Các phương thức tiến hành KSCL từ bên ngoài ở các quốc gia trên thế giới như thế
nào?
- Thực trạng về KSCL từ bên ngoài đối với hoạt động KTĐL tại Việt Nam trong những
năm qua như thế nào?
- Giải pháp nào để hoàn thiện KSCL từ bên ngoài đối với hoạt động KTĐL tại Việt
Nam?
5. Phương pháp nghiên cứu:
Phân tích, tổng hợp để tổng kết các bất cập trong quy định về KSCL từ bên ngoài đối
với hoạt động KTĐL thông qua các quy định cũng như kết quả của các cuộc KSCL từ
bên ngoài đối với hoạt động kiểm toán tại các Công ty KTĐL do Bộ tài chính tiến hành
trong những năm qua.
Nghiên cứu định lượng để tìm hiểu thực trạng về KSCL từ bên ngoài thông qua việc
gửi phiếu khảo sát cho các công ty KTĐL: Tìm hiểu những lợi ích đạt được và ý kiến
đóng góp của một số công ty KTĐL, các nhà nghiên cứu và chuyên viên trong lĩnh vực
kiểm toán về công tác soát xét chất lượng từ bên ngoài đối với hoạt động KTĐL thông
qua các câu hỏi ghi trên phiếu khảo sát.
6. Tổng quan về các nghiên cứu trước:
Đề tài này đã được các luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ trước thực hiện như đề tài của
thạc sĩ Phan Văn Dũng năm 2006, Vũ Minh Hải năm 2007 và tiến sĩ Trần Khánh Lâm
năm 2011:
4
Đối với luận văn thạc sĩ Phan Văn Dũng nội dung chủ yếu tập trung vào phương pháp
nghiên cứu, phân tích, so sánh thực tiễn KSCL kiểm toán của các nước phát triển, của
nhiều loại hình công ty kiểm toán tại Việt Nam trong phạm vi dịch vụ kiểm toán BCTC
do các công ty KTĐL thực hiện. Đề tài đã khái quát hóa và làm sáng tỏ những vấn đề
về lý luận về chất lượng và KSCL hoạt động KTĐL. Từ những kết quả nghiên cứu về
lý luận và thực tiễn, đề tài cũng đã xác định thực trạng và những nguyên nhân tồn tại
về KSCL tại Việt Nam từ đó đưa ra phương hướng và biện pháp nhằm nâng cao và
hoàn thiện cơ chế KSCL.
Đối với luận văn thạc sĩ Vũ Minh Hải nội dung chủ yếu tập trung vào nghiên cứu, phân
tích công tác KSCL hoạt động KTĐL tại Việt Nam, với việc làm sáng tỏ những lý luận
cơ bản về KSCL hoạt động kiểm toán và KSCL từ bên trong theo chuẩn mực quốc tế;
trình bày thực trạng của công tác KSCL hoạt động KTĐL tại Việt Nam từ bên trong và
bên ngoài, tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn trong công tác
KSCL hoạt động KTĐL tại Việt Nam.
Đối với luận án tiến sĩ Trần Khánh Lâm nội dung đi sâu vào đánh giá được những hạn
chế cơ bản của cơ chế KSCL đối với hoạt động KTĐL tại Việt Nam trên cả hai phương
diện KSCL từ bên trong và KSCL từ bên ngoài. Trên cơ sở rút ra kết luận từ việc khảo
sát 35 công ty KTĐL trong năm 2009, tác giả đã đưa ra các quan điểm và giải pháp
nhằm xây dựng cơ chế KSCL hoạt động KTĐL theo hướng nâng cao hơn nữa chất
lượng kiểm toán như điều chỉnh quy mô công ty kiểm toán, tăng cường quản lý về giá
phí kiểm toán, nâng cao trình độ kiểm toán viên, xây dựng cơ chế KSCL từ bên trong
và bên ngoài.
Tóm lại: Các luận văn trước đều có điểm chung là hệ thống hóa lại những lý luận
chung về KSCL hoạt động KTĐL từ bên trong và bên ngoài, nghiên cứu mô hình
KSCL từ các nước phát triển trên thế giới như Hoa Kỳ và Pháp, từ đó tiến hành tìm
hiểu thực trạng KSCL hoạt động kiểm KTĐL tại Việt Nam để đưa ra giải pháp hoàn
5
thiện. Tuy nhiên, các kết luận liên quan đến thực trạng KSCL chưa thể hiện được mối
liên hệ với kết quả khảo sát thực tế; riêng luận án tiến sĩ Trần Khánh Lâm thì có khảo
sát thực tế nhưng vào thời điểm năm 2009. Ngoài ra, các luận văn và luận án trên chủ
yếu nghiên cứu KSCL ở cả hai cấp độ từ bên trong và bên ngoài.
7. Nội dung đề tài:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về KSCL từ bên ngoài đối với hoạt động KTĐL
Chương 2: Thực trạng công tác KSCL từ bên ngoài đối với hoạt động KTĐL tại Việt
Nam
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện công tác KSCL từ bên ngoài
đối với hoạt động KTĐL tại Việt Nam
6
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KIỂM SOÁT
CHẤT LƯỢNG TỪ BÊN NGOÀI ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KIỂM
TOÁN ĐỘC LẬP
1.1. TỔNG QUAN VỀ KIỂM SOÁT CHẤT LƯỢNG TỪ BÊN NGOÀI ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP
1.1.1. Tổng quan về chất lượng hoạt động kiểm toán và KSCL hoạt động kiểm
toán
1.1.1.1. Chất lượng hoạt động kiểm toán
a. Khái niệm về chất lượng và chất lượng hoạt động kiểm toán
Khái niệm về chất lượng
Chất lượng là một phạm trù phức tạp, do vậy có nhiều định nghĩa khác nhau. Có rất
quan điểm khác nhau về vấn đề này. Hiện nay có một số định nghĩa về chất lượng đưa
ra như sau: “Chất lượng là sự phù hợp với nhu cầu – fitness for use” (theo Joseph. M.
Juran - một Giáo sư người Mỹ). Hay “Chất lượng là sự phù hợp với các yêu cầu hay
đặc tính nhất định” (theo Giáo sư Philip B. Crosby). Và "Chất lượng là sự sự thoả mãn
nhu cầu thị trường với chi phí thấp nhất” (theo Giáo sư người Nhật – Ishikawa). [12]
Trong mỗi lĩnh vực khác nhau, với mục đích khác nhau nên có nhiều quan điểm về
chất lượng khác nhau. Người sản xuất xem chất lượng là mục tiêu phải đạt để đáp ứng
các qui định và yêu cầu do khách hàng đặt ra, để được khách hàng chấp nhận. Chất
lượng được so sánh với chất lượng của đối thủ cạnh tranh và đi kèm theo các chi phí,
giá cả. Một định nghĩa về chất lượng được thừa nhận ở phạm vi quốc tế, đó là định
nghĩa của ISO (Tổ chức Tiêu chuẩn hoá Quốc tế). Theo điều 3.1.1 của tiêu chuẩn ISO
9000:2005 định nghĩa chất lượng là: “Mức độ đáp ứng các yêu cầu của một tập hợp có
đặc tính vốn có”.
7
Khái niệm về chất lượng hoạt động kiểm toán
Kiểm toán là một hoạt động đặc biệt. Nhu cầu KTĐL xuất phát từ việc tách rời giữa
quyền sở hữu và quyền quản lý. Các chủ sở hữu doanh nghiệp (cổ đông) không thể và
cũng không cần thiết tự kiểm tra mọi thông tin tài chính, do vậy họ đã bổ nhiệm các
kiểm toán viên – những người có đủ năng lực chuyên môn nghiệp vụ, độc lập, khách
quan - thay thế họ kiểm tra một cách độc lập và báo cáo lại theo ý kiến của mình về
tính trung thực và hợp lý của các BCTC. Cùng với sự phát triển và đa dạng của nền
kinh tế, các thông tin tài chính được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau cho các đối
tượng khác nhau. Tuy nhiên tất cả những người sử dụng kết quả kiểm toán đều cần sự
đảm bảo rằng những thông tin tài chính mà họ được cung cấp có trung thực và hợp lý
hay không. Tiếp đến, cũng như các hoạt động khác thì kết quả kiểm toán đạt chất lượng
khi thỏa mãn yêu cầu của người sử dụng dịch vụ.
Theo Khuôn mẫu (framework) về chất lượng kiểm toán được Ủy ban CMKiT quốc tế
(IAASB) ban hành ngày 02/2014 thì “Mục tiêu của một cuộc kiểm toán BCTC là KTV
hình thành ý kiến kiểm toán dựa trên những bằng chứng kiểm toán đầy đủ và thích hợp
về việc liệu BCTC không có sai sót trọng yếu và báo cáo phù hợp với những phát hiện
của KTV. Một cuộc kiểm toán có chất lượng rất có thể đã được thực hiện bởi một
nhóm kiểm toán mà:
- Thể hiện các giá trị, đạo đức và thái độ thích hợp;
- Đầy đủ kiến thức kinh nghiệm và có đủ thời gian phân bổ để thực hiện công việc
kiểm toán;
- Áp dụng một quy trình kiểm toán và KSCL nghiêm ngặt phù hợp với pháp luật và
những chuẩn mực có liên quan;
- Cung cấp báo cáo có giá trị và kịp thời; và
8
- Phù hợp với nhu cầu của các bên liên quan khác nhau.”
b. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động kiểm toán theo khuôn mẫu
về chất lượng kiểm toán do IAASB ban hành [19]
Ủy ban CMKiT quốc tế (IAASB) đã phát triển khuôn mẫu cho chất lượng kiểm toán,
trong đó mô tả một cách toàn diện các yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến chất lượng
kiểm toán ở cấp độ hợp đồng, cấp độ công ty kiểm toán, và ở cấp độ quốc gia, cũng
như sự tương tác giữa các yếu tố này với môi trường. Khuôn mẫu chất lượng kiểm toán
nhằm mục đích nâng cao nhận thức về các yếu tố quan trọng tạo nên chất lượng kiểm
toán, qua đó khuyến khích kiểm toán viên, công ty kiểm toán và các bên liên quan khác
nâng cao chất lượng kiểm toán trong môi trường cụ thể của mình. Tuy nhiên, các thuộc
tính của chất lượng kiểm toán trong khuôn mẫu khác nhau về tầm quan trọng và ảnh
hưởng của chúng đến chất lượng kiểm toán. Nhìn chung chất lượng kiểm toán chịu ảnh
hưởng bởi mức độ của bằng chứng kiểm toán thu thập được có đáp ứng đủ những rủi
ro có sai sót trọng yếu và sự tuân thủ pháp luật, các quy định pháp lý và chuẩn mực có
liên quan của báo cáo kiểm toán.
Chất lượng kiểm toán bao gồm các yếu tố chính sau đây: Các yếu tố đầu vào; Quy
trình; Các yếu tố đầu ra; Những tương tác giữa các nhân tố trong chuỗi cung ứng
BCTC; và yếu tố trong môi trường. Trách nhiệm chính liên quan đến các cuộc kiểm
toán có chất lượng thuộc về các kiểm toán viên. Chất lượng kiểm toán đạt được tốt
nhất trong một môi trường mà có sự hỗ trợ từ các thành viên khác trong chuỗi cung
ứng BCTC. Các yếu tố này được mô tả như sau:
9
Sơ đồ 1.1 – Mô hình nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động kiểm toán của IAASB [19]
Các yếu tố đầu vào:
Mục tiêu của kiểm toán BCTC là dựa trên đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp đã
thu thập được để đưa ra ý kiến về việc báo báo tài chính tài chính không còn chứa đựng
những sai sót trọng yếu và phù hợp với những phát hiện của kiểm toán viên. Để có
được một cuộc kiểm toán chất lượng thì nhóm kiểm toán phải:
- Tuân thủ các nguyên tắc đạo đức và thái độ hoài nghi nghề nghiệp;
- Có đầy đủ kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm và có đủ thời gian giao cho kiểm toán
viên để thực hiện công việc kiểm toán.
- Áp dụng quy trình kiểm toán và các thủ tục KSCL tuân thủ theo pháp luật, các quy
định pháp lý và các chuẩn mực hiện hành một cách nghiêm ngặt;
- Cung cấp báo cáo hữu ích và kịp thời;
10
- Có sự trao đổi thông tin phù hợp với các bên liên quan.
Đây là những thuộc tính chính ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán. Trong các yếu tố
đầu vào này, những thuộc tính chất lượng, việc kiểm soát phải liên quan đến các cấp độ
khác nhau: cấp độ hợp đồng kiểm toán; cấp độ công ty kiểm toán, và do đó ảnh hưởng
gián tiếp đến tất cả các cuộc kiểm toán được thực hiện bởi công ty kiểm toán; và cấp
quốc gia, và do đó ảnh hưởng gián tiếp đến tất cả các công ty kiểm toán hoạt động tại
quốc gia đó. Các yếu tố đầu vào của chất lượng kiểm toán còn chịu ảnh hưởng bởi bối
cảnh mà cuộc kiểm toán đang thực hiện, sự tương tác với các bên liên quan và kết quả
đầu ra.
Quy trình:
Cuộc kiểm toán chất lượng liên quan đến việc kiểm toán viên có áp dụng quy trình
kiểm toán và các thủ tục KSCL phù hợp với các quy định pháp lý và chuẩn mực hiện
hành một cách nghiêm ngặt hay không.
Quy trình kiểm toán và thủ tục KSCL ở cấp độ hợp đồng: Kiểm toán viên cần phải thực
hiện theo quy định của CMKiT và các thủ tục KSCL kiểm toán theo chuẩn mực KSCL
(ISQC1). Những điều này tạo nên nền tảng cho việc đánh giá rủi ro, lập kế hoạch, thực
hiện thủ tục kiểm toán và cuối cùng hình thành ý kiến kiểm toán. Một số công ty kiểm
toán có chính sách, thủ tục nội bộ hướng dẫn cụ thể hơn về các vấn đề như người đảm
nhận các nhiệm vụ cụ thể, yêu cầu tham vấn nội bộ và các mẫu biểu. Công ty kiểm
toán sẽ ban hành quy trình kiểm toán, còn cách thức áp dụng quy trình này vào thực tế
sẽ phụ thuộc vào từng cuộc kiểm toán cụ thể. Những thuộc tính quan trọng là:
- Nhóm kiểm toán tuân thủ CMKiT, luật và các quy định có liên quan; và các thủ tục
KSCL các công ty kiểm toán.
- Nhóm kiểm toán xử lý một cách hợp lý về công nghệ thông tin.
11
- Có sự tương tác hiệu quả với những người tham gia đến cuộc kiểm toán.
- Có sự sắp xếp phù hợp để vận dụng được một quy trình kiểm toán hữu hiệu và hiệu
quả.
Quy trình kiểm toán và thủ tục KSCL ở cấp độ công ty: Các chính sách và thủ tục của
công ty kiểm toán sẽ ảnh hưởng đến quy trình kiểm toán. Các thuộc tính quan trọng tạo
nên chất lượng kiểm toán là:
- Phương pháp kiểm toán phù hợp với sự phát triển của các chuẩn mực nghề nghiệp
và phù hợp với những phát hiện từ việc đánh giá KSCL nội bộ và kiểm tra bên ngoài.
- Công ty kiểm toán khuyến khích thành viên trong nhóm kiểm toán luôn duy trì tính
hoài nghi nghề nghiệp và thực hiện đánh giá chuyên môn phù hợp.
- Công ty kiểm toán phải giám sát và kiểm tra công việc kiểm toán một cách hiệu quả.
- Tài liệu hóa hồ sơ kiểm toán thích hợp.
- Thủ tục KSCL nghiêm ngặt được thiết lập và chất lượng kiểm toán được theo dõi và
có những hành động thích hợp để hạn chế hậu quả xảy ra.
Quy trình kiểm toán và thủ tục KSCL ở cấp độ quốc gia: Các quy định pháp lý ở cấp
độ quốc gia về kiểm toán có thể ảnh hưởng đến quy trình kiểm toán. CMKiT quốc tế
(ISA) được ban hành bởi IAASB. Đạo đức nghề nghiệp cho người hành nghề kế toán
và kiểm toán được ban hành bởi IESBA đưa ra tiêu chuẩn đạo đức cho người hành
nghề chuyên nghiệp. Các chuẩn mực này nhằm giúp phát triển mạnh mẽ nghề nghiệp
kiểm toán. Ngoài ra, liên quan đến đào tạo, Ủy ban Chuẩn mực Đào tạo kế toán Quốc
tế (IAESB) ban hành các chuẩn mực đào tạo (IESs) liên quan gồm kỹ năng, giá trị, đạo
đức và thái độ nghề nghiệp. Để có thể kiểm soát ở cấp độ quốc gia, cần thiết phải:
12
- Ban hành CMKiT và các chuẩn mực khác nhằm làm rõ các mục tiêu cơ bản cũng
như các yêu cầu cụ thể để áp dụng.
- Cơ quan chịu trách nhiệm cần kiểm tra công ty KTĐL, xem xét các thuộc tính liên
quan của chất lượng kiểm toán, cho cả trong công ty kiểm toán và trong từng hợp đồng
kiểm toán.
- Duy trì một hệ thống hiệu quả để điều tra những cáo buộc về sự thất bại của kiểm
toán và có biện pháp kỷ luật khi thích hợp.
Các yếu tố đầu ra:
Các bên liên quan khác nhau nhận được kết quả đầu ra khác nhau từ một cuộc kiểm
toán. Một cuộc kiểm toán chất lượng sẽ được đánh giá bằng tính hữu dụng và tính kịp
thời của kết quả đầu ra. Kết quả đầu ra được mô tả liên quan đến toàn bộ chuỗi cung
ứng BCTC và chúng bao gồm các kết quả đầu ra từ việc kiểm toán. Kết quả đầu ra bao
gồm các báo cáo và thông tin được chuẩn bị để trình bày chính thức, chẳng hạn như kết
quả đầu ra về các phát hiện của kiểm toán mà người bên ngoài tổ chức được kiểm toán
không thể thấy được. Phát hiện của kiểm toán viên có thể giúp cải thiện chất lượng quy
trình lập BCTC và hệ thống kiểm soát nội bộ liên quan đến lập và trình bày BCTC. Kết
quả đầu ra cũng có thể giúp:
- Đánh giá chất lượng kiểm toán. Ví dụ, báo cáo từ cơ quan quản lý kiểm toán có thể
phát hiện được những điểm yếu của hoạt động kiểm toán khi thực hiện công tác KSCL
kiểm toán; và
- Ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng kiểm toán. Ví dụ, đối với kiểm toán về một vấn
đề cụ thể, chẳng hạn như tính hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ, thì kết quả đầu
ra sẽ tập trung nhiều hơn vào vấn đề đó trong quá trình kiểm toán.
13
Một số bên liên quan, đặc biệt là ban giám đốc, những người chịu trách nhiệm quản trị
và một số cơ quan quản lý, có hiểu biết về các yếu tố đầu vào ảnh hưởng đến chất
lượng kiểm toán và do đó họ có thể đưa ra những đánh giá chính xác hơn về chất lượng
kiểm toán. Kết quả đầu ra từ các bên liên quan khác có thể cung cấp thông tin hữu ích
về chất lượng kiểm toán cho người sử dụng bên ngoài, ví dụ như các thông tin được sử
dụng bởi ủy ban kiểm toán. Các kết quả đầu ra từ cuộc kiểm toán thường được quyết
định bởi môi trường, bao gồm các yêu cầu về pháp lý. Một số bên liên quan có thể ảnh
hưởng đến bản chất của kết quả đầu ra nhiều hơn các bên liên quan khác. Đối với một
số bên liên quan, chẳng hạn như các nhà đầu tư vào các công ty niêm yết, BCTC đã
được kiểm toán là sản phẩm căn bản của kết quả đầu ra.
Những tương tác trong chuỗi cung ứng BCTC:
Trong báo cáo về chuỗi cung ứng BCTC năm 2008 của Liên đoàn Kế toán quốc tế
(IFAC) định nghĩa chuỗi cung ứng BCTC là “người và các quy trình liên quan đến việc
lập, phê duyệt, kiểm toán, phân tích và sử dụng BCTC”. Theo đó, IFAC quan sát thấy
rằng để BCTC có chất lượng cao thì yêu cầu tất cả các liên kết trong chuỗi cung ứng
BCTC đều phải có chất lượng cao và được kết nối chặt chẽ với nhau. Một cuộc kiểm
toán chất lượng liên quan đến việc liệu kiểm toán viên có tương tác đúng với các bên
liên quan trong chuỗi cung ứng BCTC hay không. Sự tương tác giữa các bên liên quan
chủ yếu bao gồm: kiểm toán viên, ban giám đốc, những người chịu trách nhiệm quản
trị, người sử dụng báo cáo và cơ quan quản lý. Tính chất và mức độ của những tương
tác này sẽ bị ảnh hưởng bởi các mục tiêu của bên liên quan và môi trường mà sự tương
tác đó diễn ra. Mỗi bên liên quan trong chuỗi cung ứng BCTC và cách thức tương tác
giữa các bên liên quan này với nhau đóng một vai trò quan trọng trong việc mang lại
một BCTC có chất lượng cao. Trách nhiệm thực hiện một cuộc kiểm toán BCTC chất
lượng thuộc về kiểm toán viên. Tuy nhiên, chất lượng kiểm toán đạt được tốt nhất
14
trong một môi trường nơi mà có sự hỗ trợ và tương tác phù hợp giữa các bên liên quan
trong chuỗi cung ứng BCTC.
Các yếu tố trong môi trường:
Các quốc gia khác nhau sẽ có môi trường lập BCTC và thực hiện kiểm toán khác nhau.
Ở một số nước hoạt động kinh doanh và luật thương mại ít phát triển, BCTC độc lập có
thể bị giới hạn và kỳ vọng của người sử dụng báo cáo thường thấp. Ở các quốc gia phát
triển, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp phát triển về quy mô, cần thu hút được vốn
đầu tư từ thị trường vốn, môi trường sẽ trở nên phức tạp hơn. Do đó, BCTC trở nên
quan trọng hơn và kỳ vọng của người sử dụng về tính kịp thời và đáng tin cậy của
BCTC ngày càng phát triển. Để đạt được điều này, luật pháp, những yêu cầu của
BCTC và các quy trình quản trị doanh nghiệp cũng phải phát triển hơn.
Các yếu tố trong môi trường có khả năng ảnh hưởng đến bản chất và chất lượng của
BCTC một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, do đó, kiểm toán viên phải tuân thủ các yếu tố
này để thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp. Các yếu tố trong môi trường
bao gồm: Các thông lệ kinh doanh và luật thương mại; Luật pháp và các quy định liên
quan đến BCTC; Các khuôn mẫu BCTC được áp dụng; Hệ thống thông tin; Quản trị
doanh nghiệp; Niên độ lập BCTC; Các yếu tố văn hóa; Quy chế về kiểm toán; Môi
trường và Chính sách thu hút nguồn nhân lực. Như vậy, có rất nhiều yếu tố góp phần
làm tăng chất lượng kiểm toán và mang lại cuộc kiểm toán chất lượng được thực hiện
một cách nhất quán.
1.1.1.2. Khái niệm KSCL hoạt động kiểm toán
Chất lượng không tự sinh ra; chất lượng không phải là một kết quả ngẫu nhiên, nó là
kết quả của sự tác động của hàng loạt yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau. Muốn đạt
được chất lượng mong muốn cần phải kiểm soát một cách đúng đắn các yếu tố này.
Hoạt động kiểm soát trong lĩnh vực chất lượng được gọi là KSCL. KSCL là các hoạt
15
động có phối hợp nhằm định hướng và quản lý một tổ chức về chất lượng. Việc định
hướng và quản lý về chất lượng thường bao gồm lập chính sách, mục tiêu, hoạch định,
kiểm soát, đảm bảo và cải tiến chất lượng.
KSCL đã được áp dụng trong mọi ngành nghề, không chỉ trong sản xuất mà trong dịch
vụ, trong mọi loại hình công ty, qui mô lớn đến qui mô nhỏ, cho dù có tham gia vào thị
trường quốc tế hay không và hoạt động KTĐL cũng không phải là ngoại lệ. KSCL hoạt
động kiểm toán đảm bảo cho công ty kiểm toán làm đúng những việc phải làm và
những việc quan trọng. Nếu các công ty kiểm toán muốn cạnh tranh trên thị trường
quốc tế, phải tìm hiểu và áp dụng các khái niệm về KSCL kiểm toán có hiệu quả.
Việc KSCL không chỉ được thực hiện bởi các công ty kiểm toán mà còn được tiến
hành bởi hội nghề nghiệp hoặc các cơ quan chức năng có liên quan.
Đứng ở góc độ công ty kiểm toán, KSCL kiểm toán là việc doanh nghiệp kiểm toán
chịu trách nhiệm và có nghĩa vụ xây dựng và duy trì một hệ thống chính sách và thủ
tục KSCL hoạt động kiểm toán để có sự đảm bảo hợp lý rằng: Doanh nghiệp kiểm
toán và các cán bộ, nhân viên của doanh nghiệp kiểm toán đã tuân thủ các chuẩn mực
nghề nghiệp, pháp luật và các quy định có liên quan; và báo cáo được doanh nghiệp
kiểm toán phát hành là phù hợp với hoàn cảnh cụ thể.
Đứng ở góc độ cơ quan quản lý, KSCL kiểm toán bao gồm: Việc xây dựng các chính
sách và thủ tục kiểm soát của cơ quan Nhà nước và hướng dẫn của Hội nghề nghiệp;
Xây dựng hệ thống KSCL của doanh nghiệp kiểm toán; Tổ chức bộ máy kiểm tra và
thực hiện kiểm tra chất lượng dịch vụ của người hành nghề kiểm toán viên hành nghề,
doanh nghiệp kiểm toán và các tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến việc cung cấp
dịch vụ kiểm toán. Trong các nội dung trên thì nội dung chủ yếu của KSCL là thực
hiện các cuộc kiểm tra chất lượng dịch vụ của người hành nghề kế toán, kiểm toán viên
hành nghề và doanh nghiệp kế toán, kiểm toán. [9]
16
1.1.2. Các cấp độ của KSCL hoạt động kiểm toán
Các cấp độ của KSCL hoạt động kiểm toán bao gồm KSCL từ bên trong tức của bản
thân các công ty kiểm toán và KSCL từ bên ngoài tức cơ quan quản lý nhà nước và tổ
chức nghề nghiệp.
1.1.2.1. KSCL hoạt động kiểm toán từ bên trong
Việc KSCL của bản thân công ty kiểm toán vừa là quy chế vừa là các bước công việc
mà các doanh nghiệp kiểm toán phải xây dựng, thực hiện và giám sát để có sự đảm bảo
hợp lý rằng các chính sách và thủ tục liên quan đến hệ thống KSCL là phù hợp, đầy đủ
và hoạt động hữu hiệu. Điều này đã được thể hiện rõ trong CMKiT quốc tế (ISQC1) và
chuẩn mực KSCL số 1(VSQC1), CMKiT Việt Nam số 220 (VSA 220).
Nội dung công tác KSCL bên trong là hệ thống các biện pháp nhằm đảm bảo và nâng
cao chất lượng kiểm toán. Cách thức và các qui định cụ thể trong các biện pháp nhằm
đảm bảo và nâng cao chất lượng kiểm toán của các tổ chức kiểm toán ở các nước có
thể khác nhau, nhưng về nội dung vẫn tập trung vào các hoạt động kiểm tra và KSCL
trong suốt các quá trình hoạt động của công ty bao gồm các hoạt động bảo đảm chất
lượng lao động; đảm bảo chất lượng công việc và các hoạt động nghiên cứu phát triển
hệ thống; phát triển qui trình kỹ thuật, thủ tục kiểm toán; tìm hiểu và đánh giá về
những ý kiến phản hồi từ phía khách hàng, những người sử dụng kết quả kiểm toán.
Nội dung, lịch trình và phạm vi của những chính sách và thủ tục kiểm tra chất lượng
của một công ty kiểm toán phụ thuộc vào một số yếu tố như quy mô, tính chất hoạt
động của công ty, địa bàn hoạt động, cơ cấu tổ chức, những tính toán về hiệu quả giữa
chi phí và lợi ích của công ty. Vì vậy, những chính sách và thủ tục KSCL do từng công
ty kiểm toán xây dựng sẽ có sự khác nhau.
17
1.1.2.2. KSCL hoạt động kiểm toán từ bên ngoài
KSCL từ bên ngoài đối với các công ty kiểm toán là quá trình kiểm tra chất lượng các
loại dịch vụ mà các công ty kiểm toán đã cung cấp cho khách hàng được thực hiện bởi
các tổ chức nghề nghiệp hoặc các cơ quan chức năng Nhà nước. KSCL từ bên ngoài
đối với hoạt động kiểm toán rất cần thiết ở tất cả các quốc gia, đặc biệt là đối với
những quốc gia mà nghề nghiệp kế toán được tổ chức và quản lý không phải do Nhà
nước. Hệ thống KSCL từ bên ngoài đối với các công ty kiểm toán sẽ làm tăng độ tin
cậy của hoạt động kiểm toán.
Lịch sử hình thành và phát triển của KTĐL từ trước cho đến nay, có nhiều mô hình tổ
chức hoạt động kiểm toán được áp dụng tại nhiều quốc gia khác nhau. Mỗi một mô
hình đều có những ưu và nhược điểm phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế, xã hội
của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử. Trong đó, Hoa Kỳ là quốc gia có nền
kinh tế rất phát triển, là nơi mà hệ thống CMKiT ra đời trước khi có CMKiT quốc tế.
Đây cũng là quốc gia mà số lượng các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán rất
lớn, do vậy, đòi hỏi phải có sự kiểm soát chặt chẽ chất lượng kiểm toán nhằm đảm bảo
thông tin tài chính được trình bày trung thực và từ đó góp phần ổn định thị trường tài
chính. Trong nhiều thập kỷ qua, Hoa Kỳ đã ban hành nhiều CMKiT liên quan đến
KSCL cũng như tiến hành KSCL từ bên ngoài rất chặt chẽ. Nói cách khác, Hoa Kỳ có
nhiều kinh nghiệm trong xây dựng CMKiT cũng như thực hiên KSCL kiểm toán. Kinh
nghiệm của Hoa Kỳ là tư liệu tham khảo bổ ích cho nhiều quốc gia khác trong đó có
Việt Nam. Do đó, luận văn đã chọn nghiên cứu KSCL từ bên ngoài đối với hoạt động
KTĐL tại Hoa Kỳ.