Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

tiểu luận triết học hy lạp cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.37 KB, 28 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Quy luật mâu thuẫn là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng
duy vật và phép biện chứng duy vật khẳng định rằng: mọi sự vật và hiện
tượng trong tự nhiên đều tồn tại mâu thuẫn bên trong. Mâu thuẫn tồn tại
khách quan trong mọi sự vật và hiện tượng của giới tự nhiên, đời sống xã hội
và tư duy con người. Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật xuất hiện đến khi sự vật
kết thúc. Trong mỗi một sự vật có thể có nhiiêù mâu thuẫn và sự vật trong
cùng một lúc có rất nhiều mặt đối lập. Mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn
khác lại hình thành
Nền kinh tế nước ta đang ở giai đoạn quá độ, chuyển tiếp từ nền kinh tế
tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trưòng (KTTT). Một trong
những luận điểm rất quan trọng phản ánh tư duy mới của Đảng ta thể hiện
trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI là: Chính sách cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần. Từ đó, Đảng ta từng bước khẳng định chủ trương xây dựng ở
nước ta một nền KTTT theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Trải qua
thực tiễn đổi mới, chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN đã đưa
lại hiệu quả, góp phần to lớn vào thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Nhờ đó đã tạo nên những thành tựu to lớn đưa nước ta vào thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, nền KTTT định
hướng XHCN là một nền kinh tế quá độ với điểm xuất phát và bản chất của
chế độ cũ nên nó không tránh khỏi những mâu thuẫn quá độ của nó. Những
mâu thẫn đó luôn chứa đựng những mặt tiêu cựu mang tính nội tại và kìm
hãm, gây trở ngại cho công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế. Đòi hỏi phải
được giải quyết những vấn đề ấy nếu được giải quyết chính là tạo điều kiện
cho sự phát triển một cách vững chắc và ổn định theo đúng định hướng đã
đặt ra.
Trong hoạt động kinh tế hiện tượng đó cũng mang tính phổ biến, chẳng
hạn như mâu thuẫn giữa cung - cầu, tích luỹ - tiêu dùng, tính kế hoạch hoá
của từng xí nghiệp, công ty với tính tự phát vô chính phủ của nền sản xuất
hàng hoá. Trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta do Đảng khởi xướng và lãnh


đạo đã dành được nhiều thắng lợi bước đầu mang tính quyết định, quan
trọng trong việc chuyển nền kinh tế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong những chuyển biến đó đã đạt được nhiều thành công to lớn nhưng
trong những thành công đó luôn luôn tồn tại những mâu thuẫn làm kìm hãm
sự phát triển của công cuộc đổi mới. Đòi hỏi phải được giải quyết và nếu
được giải quyết sẽ thúc đẩy cho sự phát triển của nền kinh tế. Tôi chọn đề tài
“vận dụng quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập trong quá
trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay ” làm tiểu luận
hết môn của mình.
CHƯƠNG 1: NỘI DUNG QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU
TRANH CỦA CÁC MẶT ĐỐI LẬP
1.1. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUY LUẬT.
Quy luật là những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất nhiên, phổ biến
và lặp đi, lặp lại giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính bên trong mỗi sự
vật, hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Quy luật giúp ta nắm vững được bản chất, xu hướng tính tất yếu của đối
tượng. Trong khoa học tự nhiên quy luật được goi là định luật. Nếu những
quy luật của khoa học cụ thể chỉ tác động trông một lĩnh vực đối tượng cụ
thể của thế giới, thì những quy luật mà triết học nghiên cứu là những quy
luật tác động phổ biến trong tất cả các lĩnh vực khác nhau của thế giới. Để
khái quát những quy luật là dựa trên sự khái quát, những thành tựu của các
khoa học cụ thể.
Đối lập là sự trái ngược loại trừ và phủ định nhau của khuynh hướng
khác nhau của sự vật.
Mặt đối lập: Là tập hợp những yếu tố, những khuynh hướng trái ngược
nhau, bài trừ lẫn nhau trong các sự vật, hiện tượng. Mặt đối lập không phải
là từng yếu tố, từng khuynh hướng đối lập nhau trong sự vật mà là tập hợp
chỉnh thể của chúng và cùng tôn tại trong một sự vật nào đó.
Các mặt đối lập thường tồn tại dưới hình thức là các cặp mặt đối lập, ở

trong cùng một sự vật tạo nên tính chỉnh thể của sự vật. Đây là điểm quan
trọng để chứng minh sự vận động, phát triển của các sự vật hiện tượng là do
“tự vận động” nguyên nhân vận động ở bản thân sự mâu thuẫn của sụ vật
chứ không phải do tác động của một lực lượng sức mạnh bên ngoài.
Thống nhất của các mặt đối lập: Chỉ mối liên hệ không tách rời nhau
giữa các mặt đối lập; Sự thống nhất của các mặt đối lập do chúng ở trong
cùng một sự vật nên chúng đồng chất; Ở giai đoạn đầu tiên của mâu thuẫn,
khi đó các mặt đối lập chưa phân hoá, chưa hình thành là các mặt đối lập
đồng nhất nhau về cơ bản; Sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập, sự
thâm nhập vào nhau của các mặt đối lập. Trong những yếu tố, thuộc tính của
mặt đối lập này tồn tại trong mặt đối lập kia và ngược lại.
Đấu tranh giữa các mặt đối lập: Là một quá trình tức là có khởi đầu, diễn
biến và kết thúc; Sự chuyển hoá này có thể xảy ra trong ba khả năng: một là.
mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia và ngược lại; hai là, các
mặt đối lập kết hợp với nhau để tạo thành một sự vật mới, hoặc một cặp mặt
đối lập cao hơn.ba là, hai mặt đối lập có thể kết hợp với nhau một cách tạm
thời trong một thời gian hoặc khoảnh khắc nào đó.
Về thực chất đấu tranh giữa các mặt đối lập là đấu tranh giữa cái mới
đang nảy sinh và cái cũ đang trở nên lạc hậu và lỗi thời, là sự tác động qua
lại loại trừ, phủ định lẫn nhau của các mặt đối lập.
Mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập: Là hai
quá trình không tách rời nhau; Thống nhất có khuynh hướng giữ cho sự vật
ổn định. Đấu tranh giữa các mặt đối lập có khuynh hướng phá vỡ sự ổn định.
Mâu thuẫn là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
Bản chất của quy luật : thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là
mối liên hệ bên trong , tất yếu, lặp đi lặp lại và quyết định nguồn gốc của sự
phát triển của các sự vật, hiện tượng.
Việc hiểu rõ và thấu đáo quy luật mâu thuẫn sao cho đúng với tinh thần
của chủ nghĩa Mác – Lênin là điều cần thiết nhưng không dễ dàng. Quan
điểm về mâu thuẫn của chủ nghĩa Mác - Lênin là quan điểm về mâu thuẫn

biện chứng, chứ không phải là quan điểm về một thứ mâu thuẫn thuần tuý,
siêu hình, máy móc.
Mâu thuẫn nói chung là nguồn gốc của sụ vận động và phát triển bởi vì:
Sự vận động và phát triẻn bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính liên
tục ( do sự thống nhất giữa các mặt đối lập tạo ra) và tính gián đoạn ( do đấu
tranh giữa các mặt đối lập tạo thành).
Theo quan điểm duy vật biện chứng, “nguyên nhân chính và cuối cùng
của mọi sự vật là sự tác động qua lại” (Angghen). Tác động qua lại giữa các
mặt đối lập chính là đấu tranh giữa các mặt đối lập. Tất nhiên, nguyên nhân
của sự vận động và phát triển trong khuôn khổ một sự vật và nguyên nhân
của sự chuyển hoá từ sự vật này sang sự vật khác có hình thức, có nội dung
cụ thể không hoàn toàn như nhau. Trong giai đoạn thứ nhất, đó là do sự triển
khai của các loại mâu thuẫn trong lòng sự vật đang vận động và phát triển.
Trong giai đoạn thứ hai, sự chuyển hoá của sự vật thành cái khác là do mâu
thuẫn được giải quyết hoàn toàn.
Từ những điều trình bầy trên đây, có thể nêu ra một số đặc trưng phổ
biến của mâu thuẫn biện chứng như sau:
Mâu thuẫn biện chứng tồn tại khách quan trong các sự vật và hiện tượng.
Mâu thuẫn biện chứng mang tính phổ biến. Điều đó không chỉ được hiểu là
trong mọi sự vật đều có mâu thuẫn, mà còn cần được hiểu là trong mọi giai
đoạn phát triển của sự vật đều có mâu thuẫn, thậm chí, có nhiều mâu thuẫn.
Mâu thuẫn biện chứng là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
biện chứng. Sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, đấu tranh là
tuyệt đối.
Mâu thuẫn biện chứng tạo thành nguồn gốc của sự vận động và phát triển
của tự nhiên, của xã hội và của tư duy.
Mâu thuẫn biện chứng cũng là một thực thể vận động và phát triển. Trong
các giai đoạn khác nhau, chúng có thể có hình thức đấu tranh khác nhau, có
vai trò khác nhau đối với sự vận động và phát triển.
1.2. Một số loại mâu thuẫn

1.2.1. Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài
Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn nằm ngay trong chính bản thân sự
vật. Mâu thuẫn này bao giờ cũng là nhân tố quyết định bản chất và xu thế
vận động của chính bản thân sự vật. Ví dụ như mâu thuẫn giữa LLSX và
QHSX trong phương thức sản xuất.
Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa các sự vật, hiện tượng với
nhau. Đó là mâu thuẫn giữa KTTT tư bản chủ nghĩa và định hướng XHCN
của nhà nước ta.
Mâu thuẫn bên ngoài là phổ biến nhưng mâu thuẫn bên trong lại quyết
định mâu thuẫn bên ngoài, vì không thông qua mâu thuẫn bên trong thì mâu
thuẫn bên ngoài tự nó không thể phát huy được vai trò của mình.
Việc phân biệt mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài là rất cần
thiết. Bởi mỗi loại mâu thuẫn có vị trí và ảnh hưởng nhất định đến sự phát
triển của sự vật. Nhận thức từ vai trò của từng loại mâu thuẫn, Đảng ta trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, một mặt đó tập trung mọi khả năng
nhằm khai thác tốt nhất tiềm lực hiện có trong nước. Mặt khác, có chính
sách đối ngoại năng động, thu hút và kỹ thuật nước ngoài hỗ trợ tích cực cho
sự phát triển kinh tế trong nước.
1.2.2. Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định từ bản chất, khuynh hướng
phát triển của bản thân các sự vật, hiện tượng. Nó là cơ sở hình thành và chi
phối tất cả các mâu thuẫn khác trong sự vật, trong đó có mâu thuẫn không cơ
bản.
Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn không quyết định trực tiếp bản
chất và khuynh hướng phát triển của sự vật nhưng có vai trò ảnh hưởng nhất
định đối với sự vận động, phát triển của sự vật. Mâu thuẫn không cơ bản tồn
tại gắn liền với mâu thuẫn cơ bản trong cùng một sự vật và chịu sự chi phối
của mâu thuẫn cơ bản.
Khi nghiên cứu kết cấu kinh tế của xã hội TBCN ta thấy mâu thuẫn cơ
bản của xã hội ấy là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất và tính

chất tư nhiên của chế độ chiếm hữu. Từ mâu thuẫn này sinh ra một số mâu
thuẫn không cơ bản như: mâu thuẫn giữa tính chất có tổ chức của sản xuất
trong từng xí nghiệp riêng rẽ với tính chất và tổ chức của sản xuất trong toàn
xã hội, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
1.2.3. Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn được nói lên hàng đầu ở mỗi giai đoạn
nhất định của quá trình phát triển của sự vật.
Mâu thuẫn thứ yếu là những mâu thuẫn không đúng vai trò quyết định
đối với quá trình phát triển của sự vật.
Tuy vậy, sự phân biệt giữa hai mâu thuẫn trên chỉ có tính chất tương đối.
Trong từng điều kiện hoàn cảnh, mâu thuẫn chủ yếu có thể trở thành thứ yếu
và ngược lại. Ta xem xét lại mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX, nói chung thì
LLSX có vai trò quyết định. Song, trong những điều kiện nhất định, QHSX
lại có tác dụng chủ yếu và quyết định, khi mà, nếu không thay đổi QHSX thì
LLSX không thể phát triển, lúc đó sự thay đổi QHSX lại có tác dụng chủ
yếu và quyết định.
1.2.4. Mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng
Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn đặc trưng chỉ có trong lĩnh vực đời
sống xã hội. Đó là mâu thuẫn giữa những lực lượng, những tầng lớp xã hội
có lợi ích căn bản đối lập nhau đến mức không thể điều hoà được. Ví dụ như
mâu thuẫn giữa vô sản và tư sản, giữa những tàn dư của kinh tế bao cấp và
KTTT .v.v. và chỉ cú thể giải quyết thông qua các cuộc cách mạng xã hội.
Mâu thuẫn không đối kháng là những mâu thuẫn xuất hiện giữa những lực
lượng xã hội mà lợi ích về căn bản nhất trí với nhau. Ví dụ mâu thuẫn giữa
KTTT xã hội chủ nghĩa và KTTT tư bản chủ nghĩa .v.v.
Nhưng hai loại mâu thuẫn trên có thể chuyển hoá cho nhau, ta xem xét
điều đó qua mâu thuẫn giữa kinh tế thành thị và nông thôn. Trong xã hội
TBCN, ở đó thành thị do giai cấp tư sản thống trị, bóc lột tàn khốc nông thôn
đó là một mâu thuẫn hết sức đối kháng. Nhưng ở xã hội XHCN, mâu thuẫn
đối kháng đã biến thành không đối kháng, mà đến xã hội cộng sản thì mâu

thuẫn đó sẽ hết.
Trên đây ta đó nêu và phân tích những nội dung cơ bản của quy luật mâu
thuẫn, đó chính là cơ sở lý luận cho việc vận dụng quy luật này vào việc xác
định những nguyên tắc chung trong quá trình xây dựng và phát triển.
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Mâu thuẫn là khách quan và phổ biến, do đó muốn nhận nhận thức sự vật
phải căn cứ vào chính bản thân sự vật cũng như mâu thuẫn của nó. Khi phân
tích mâu thuẫn thì phải tìm mâu thuẫn, phải xem xét toàn diện các mặt đối
lập, phải nhận thức được quá trình phát sinh, phát triển của chúng.
Mâu thuẫn có nhiều lọai, có vai trò vị trí không như nhau, do đó phải biết
phân loại mâu thuẫn và phải giải quyết kịp thời khi mâu thuẫn đã chín muồi
để thúc đẩy sự vật phát triển.
Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có đủ điều kiện chính muồi cho nên
không được giải quyết mâu thuẫn nóng vội khi chưa có đủ điều kiện, cũng
không được bảo thủ, ngại khó trong việc giải quyết mâu thuẫn khi đã đủ điều
kiện. Mâu thuẫn chỉ được giải quyết bằng con đường đấu tranh dưới những
hình thức cụ thể khác nhau, do đó đối với những mâu thuẫn khác nhau phải
có những biện pháp phù hợp với từng lọai và điều kiện cụ thể.
CHƯƠNG 2
NHỮNG MÂU THUẪN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Nền kinh tế thị trường định hước XHCN ở Việt Nam
2.1.1. Sự cần thiết khách quan phải phát triển nền KTTT đinh hướng
XHCN ở nước ta.
Lịch sử nhân loại đã chứng kiến nhiều mô hình kinh tế khác nhau. Mỗi
mô hình đó là sản phẩm của trình độ nhận thức nhất định trong những điều
kiện lịch sử cụ thể. Có thể khái quát rằng, lịch sử phát triển của sản xuất và
đời sống của nhân loại đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế thích ứng
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội,
hai thời đại kinh tế khác hẳn nhau về chất. Đó là thời đại kinh tế tự nhiên, tự

cung- tự cấp; và thời đại kinh tế hàng hóa mà giai đoan cao của nó được gọi
là KTTT.
Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế- xã hội đầu tiên của nhân loại.
Đó là phương thức sinh hoạt kinh tế ở trình độ ban đầu là sử dụng những
tặng vật của tự nhiên và sau đó được thực hiện thông qua những tác động
trực tiếp vào tự nhiên để tạo ra những giá trị sử dụng trong việc duy trì sự
sinh tồn của con người. Nó được bó hẹp trong mối quan hệ tuần hoàn khép
kín giữa con người và tự nhiên, mà tiêu biểu là giữa lao động và đất đai làm
nền tảng. Hoạt động kinh tế gắn liền với xã hội sinh tồn, với kinh tế nông
nghiệp tự cung- tự cấp. Nó đã tồn tại và thống trị trong các xã hội Cộng sản
nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tuy không còn giữ địa vị thống
trị nhưng vẫn còn tồn tại trong XHTB cho đến ngày nay. Kinh tế tự nhiên,
hiện vật, sinh tồn, tự cung- tự cấp gắn liền với quan niệm truyền thống về
kinh tế XHCN tuy đã có tác dụng trong điều kiện chiến tranh, góp phần
mang lại chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta, song khi chuyển sang xây dựng
và phát triển kinh tế, chính mô hình đó đã tạo ra nhiều khuyết tật, nền kinh tế
không có động lực, không có sức đua tranh, không phát huy được tính chủ
động sáng tạo của người lao động, của các chủ thể sản xuất- kinh doanh, sản
xuất không gắn với nhu cầu, ý chí chủ quan đã lấn át khách quan và triệt tiêu
mọi động lực- sức mạnh nội sinh của bản thân nền kinh tế, đã làm cho nền
kinh tế suy thoái thiếu hụt, hiệu quả thấp, nhiều mục tiêu của CNXH không
thực hiện được.
 Kinh tế hàng hóa, bắt đầu bằng kinh tế hàng hóa đơn giản, ra đời từ khi
chế độ Cộng sản nguyên thủy tan rã, dựa trên hai tiền đề cơ bản là có sự
phân công lao động xã hội và có sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu
khác nhau về tư liệu sản xuất. Chuyển từ kinh tế tự nhiên, tự cung- tự cấp
sang kinh tế hàng hóa là đánh dấu bước chuyển sang thời đại kinh tế của sự
phát triển, thời đại văn minh của nhân loại. Trong lịch sử của mình, vì thế
của kinh tế hàng hóa cũng dần được đổi thay :từ chỗ như là kiểu tổ chức
kinh tế- xã hội không phổ biến, không hợp thơi trong xã hội Chiếm hữu nô

lệ của những người thợ thủ công và nhân dân tự do, đến chỗ được thừa nhận
trong xã hội Phong kiến, và đến CNTB thì kinh tế hàng hóa giản đơn không
những được thừa nhận mà còn phát triển lên giai đoạn cao hơn đó là KTTT.
KTTT là giai đọan phát triển cao của kinh tế hàng hóa, cũng đã trải qua
ba giai đoạn phát triển. Giai đoạn thứ nhất, là giai đoạn chuyển từ kinh tế
hàng hóa giản đơn sang KTTT. Giai đoạn thứ hai là giai đoạn phát triển
KTTT tự do. Đặc trưng quan trọng của giai đoạn này là sự phát triển kinh tế
diễn ra theo tinh thần tự do, Nhà nước không can thiệp vào hoạt động kinh
tế. Giai đọan thứ ba, là giai đoạn KTTT hiện đại. Đặc trưng của giai đoạn
này là Nhà nước can thiệp vào KTTT và mở rộng giao lưu kinh tế với nước
ngoài. KTTT có những đặc trưng cơ bản như :phát triển kinh tế hàng hóa,
mở rộng thị trường, tự do kinh doanh, tự do thương mại, tự định giá cả, đa
dạng hóa sở hữu, phân phối do quan hệ cung cầu đó là cơ chế hỗn hợp "có
sự điều tiết vĩ mô" của Nhà nước để khắc phục những khuyết tật của nó.
Mặc dù sự hình thành và phát triển của kinh tế hàng hóa tự phát sẽ "hàng
ngày hàng giờ đẻ ra CNTB" và sự phát triển của KTTT trong lịch sử diễn ra
đồng thời với sự hình thành và phát triển của CNTB, nhưng tuyệt nhiên,
KTTT không phải là chế độ kinh tế- xã hội. KTTT là hình thức và phương
pháp vận hành kinh tế. Đây là một kiểu tổ chức kinh tế hình thành và phát
triển do những đòi hỏi khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất. Nó
là phương thức sinh hoạt kinh tế của sự phát triển. Quá trình hình thành và
phát triển KTTT là quá trình mở rộng phân công lao động xã hội, phát triển
khoa học- công nghệ mới và ứng dụng chúng vào thực tiễn sản xuất kinh
doanh. Sự phát triển của KTTT gắn liền với quá trình phát triển của nền văn
minh nhân loại, của khoa học- kỹ thuật, của lực lượng sản xuất.
Cho đến cuối những năm 80, về cơ bản, trong nền kinh tế nước ta, sản
xuất nhỏ vẫn còn là phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên, hiện vật, tự cung-
tự cấp còn chiếm ưu thế. Xã hội Việt Nam, về cơ bản vẫn dựa trên nền tảng
của văn minh nông nghiệp lúa nước, nông dân chiếm đại đa số. Việt Nam
vẫn là một nước nghèo nàn, lạc hậu và kém phát triển. Phát triển trở thành

nhiệm vụ, mục tiêu số một đối với toàn Đảng, toàn dân ta trong bước đường
đi tới. Muốn vậy phải chuyển toàn bộ nền kinh tế quốc dân sang trạng thái
của sự phát triển, là phát triển nền KTTT, cùng với nó là thực hiện công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Sự phát triển kinh tế xã hội nào rút cuộc cũng nhằm mục tiêu xã hội,
nhân văn nhất định. Phát triển theo nghĩa đầy đủ là bên cạnh sự gia tăng về
lượng (tăng trưởng kinh tế) còn bao hàm cả sự thay đổi về chất (những biến
đổi về mặt xã hội). Học thuyết về hình thái kinh tế xã hội của C.Mác là một
thành tựu khoa học của loài người. Nó phác hoạ quy luật vận động tổng quát
của nhân loại, và sự phát triển của xã hội loài người sẽ tiến tới Chủ nghĩa
Cộng sản mà giai đoạn thấp của nó là CNXH. CNXH không đối lập với phát
triển, với KTTT, mà là một nấc thang phát triển của loài người được đánh
dấu bằng tiến bộ xã hội của sự phát triển. Nó là cách thức giải quyết các
quan hệ xã hội, là một sự thiết lập một trật tự xã hội với mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Cuộc đấu tranh cách mạng trường
kỳ gian khổ và quyết liệt của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm giải phóng nhân dân
lao động đem lại cuộc sống hạnh phúc và giàu sang cho nhân dân lao động.
Vì vậy, sự phát triển của Việt Nam trong hiện tại và tương lai phải là sự phát
triển vì sự giàu có, phồn vinh, hạnh phúc của nhân dân lao động, vì sự hùng
mạnh và giàu có của cả xã hộ, của toàn xã hội, của toàn dân tộc, là sự phát
triển mang tính XHCN, là sự phát triển hiện đại. Nghĩa là, chúng ta phải phát
triển nền KTTT định hướng XHCN.
2.1.2. Một số đặc điểm chung của nền KTTT ở Việt Nam.
Chuyển nền kinh tế từ hoạt động theo cơ chế kế hoạch tập trung- hành
chính, quan liêu- bao cấp sang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
XHCN là nội dung, bản chất và đặc điểm khái quát nhất đối với nền kinh tế
nước ta trong hiện nay và tương lai. Đặc biệt, cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên CNXH, được Đại hội đại biểu toàn quốc của ĐCS

Việt Nam lần thứ VII thông qua vào năm 1991 đã nêu lên những đặc trưng
bản chất của nền KTTT và phát triển nền KTTT theo định hướng XHCN.
Thứ nhất, nền KTTT định hướng XHCN mà nước ta xây dựng là nền
KTTT hiện đại với tính chất xã hội hiện đại. Mặc dù nền kinh tế nước ta
đang nằm trong tình trạng lạc hậu và kém phát triển nhưng khi nước ta
chuyển sang phát triển kinh tế hàng hóa, KTTT, thì thế giới đã chuyển sang
giai đoạn KTTT hiện đại. Bởi vậy, chúng ta không thể và không nhất thiết
phải trải qua giai đoạn kinh tế hàng hóa giản đơn và giai đoạn KTTT tự do
mà đi thẳng vào phát triển KTTT hiện đại. Mặt khác, thế giới vẫn đang nằm
trong thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH, cho nên sự phát triển kinh tế- xã
hội nước ta phải theo định hướng XHCN là cần thiết khách quan và cũng là
nội dung yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Sự nghiệp "dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng và văn minh" vừa là mục tiêu, vừa là nội dung,
nhiệm vụ của việc phát triển KTTT định hướng XHCN ở nước ta.
Thứ hai, nền kinh tế của chúng ta là nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành
phần với vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong một số lĩnh vực, một số
khâu quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế- xã hội của
đất nước. Nền kinh tế hàng hóa, nền KTTT phải là một nền kinh tế đa thành
phần, đa hình thức sở hữu. Thế nhưng, nền KTTT mà chúng ta sẽ xây dựng
là nền KTTT hiện đại, cho nên cần có sự tham gia bởi "Bàn tay hữu hình"
của nhà nước trong việc điều tiết, quản lý nền kinh tế đó. Đồng thời, chính
nó sẽ bảo đảm sự định hướng phát triển của nền KTTT. Việc xây dựng kinh
tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo là sự khác biệt có tính chất bản chất giữa
KTTT định hướng XHCN với KTTT TBCN. Tính định hướng XHCN của
nền kinh tế ở nước ta đã quy định kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, bởi
lẽ, mỗi một chế độ xã hội đều có một cơ sở kinh tế tương ứng với nó. Kinh
tế nhà nước tạo cơ sở cho chế độ xã hội mới- chế độ XHCN.
Thứ ba, nhà nước quản lý nền KTTT theo định hướng XHCN ở nước ta
là nhà nước pháp quyền XHCN, là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Thành tố quan trọng mang tính quyết định trong nền KTTT hiện đại là nhà

nước tham gia vào các quá trình kinh tế. Nhà nước ta là nhà nước "của dân,
do dân và vì dân", nhà nước công nông, nhà nước của đại đa số nhân dân lao
động, đặt dưới sự lãnh đạo của ĐCS Việt Nam. Nó có đủ bản lĩnh, khả năng
và đang tự đổi mới để bảo đảm giữ vững định hướng XHCN trong việc phát
triển nền KTTT hiện đại ở nước ta.
Thứ tư, cơ chế vận hành của nền kinh tế được thực hiện thông qua cơ
chế thị trường với sự tham gia quản lý, điều tiết của Nhà nước. Mọi hoạt
động sản xuất- kinh doanh trong nền kinh tế được thực hiện thông qua thị
trường. Điều đó có nghĩa là nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta vận
động theo những quy luật nội tại của nền KTTT nói chung, thị trường có vai
trò quyết định đối với việc phân phối các nguồn lực kinh tế. Việc quản lý
Nhà nước nhằm hạn chế, khắc phục những "thất bại của thị trường", thực
hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo mà bản thân thị trường không thể làm
được.
Vai trò quản lý của Nhà nước trong nền KTTT hết sức quan trọng. Sự
quản lý của Nhà nước bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu
quả, đặc biệt là bảo đảm sự công bằng và tiến bộ xã hội. Không có ai ngoài
nhà nước lại có thể giảm bớt sự chênh lệch giữa giàu- nghèo, giữa thành thị
và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa các vùng của đất nước.
Tuy vậy, cần phải nhấn mạnh rằng sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế
sao cho tương hợp với thị trường.
Thứ năm, mở cửa, hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế
giới, trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia là nội
dung quan trọng của nền KTTT ở nước ta. Quá trình phát triển của KTTT đi
liền với xã hội hóa nền sản xuất xã hội. Tiến trình xã hội hóa trên cơ sở phát
triển của KTTT là không có biên giới quốc gia về phương diện kinh tế. Một
trong những đặc trưng quan trọng của KTTT hiện đại là việc mở rộng giao
lưu kinh tế với nước ngoài. Xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế với
những khu vực hóa và toàn cầu hóa đang ngày càng phát triển và trở thành
xu thế tất yếu trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện

nay. Tranh thủ thuận lợi và cơ hội, tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn và vượt qua
thách thức là yêu cầu nhất thiết phải thực hiện. Để phát triển trong điều kiện
của KTTT hiện đại, Việt Nam không thể đóng cửa, khép kín nền kinh tế
trong trạng thái tự cung- tự cấp mà phải mở của, hội nhập với nền kinh tế thế
giới trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và không ngừng nâng cao sức cạnh
tranh của nền kinh tế, giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ quốc
gia.
Thứ sáu, thúc đẩy tăng trương kinh tế đồng thời với việc bảo đảm công
bằng xã hội cũng là một nội dung rất quan trọng trong nền KTTT ở nước ta.
Phát triển trong công bằng được hiểu là những chính sách phát triển phải bảo
đảm sự công bằng xã hội, là tạo cho mọi tầng lớp nhân dân đều có thể tham
gia vào quá trình phát triển va được hưởng những thành quả tương xứng với
sức lực, khả năng và trí tuệ họ bỏ ra, là giảm bớt chênh lệch giàu - nghèo
giữa các tầng lớp dân cư giữa các vùng. Khác với nhiều nước, chúng ta phát
triển KTTT nhưng chủ trương bảo đảm công bằng xã hội, thực hiện sự thống
nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, trong tất cả các giai đoạn
của sự phát triển kinh tế ở nước ta. Mức độ bảo đảm công bằng xã hội phụ
thuộc rất lớn vào sự phát triển, khả năng và sức mạnh kinh tế của quốc gia.
Tóm lại, quá trình phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta
phải là "Quá trình thực hiện dân giàu nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một
xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hóa, có kỉ cương, xóa bỏ áp bức
bất công tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc".
Từ những đặc trưng và sự phát triển đúng hướng của nền KTTT ở nước
ta chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn:
  Nền kinh tế Việt Nam chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hóa toàn diện,
khép kín sang một nền KTTT mới, theo định hướng XHCN. Công cuộc đổi
mới kinh tế- xã hội được mở đầu từ Đại hội VI của ĐCS Việt Nam ( 1986)
  Năm 1991 Đại hội VII của Đảng nhận định "Công cuộc đổi mới đã đạt
được những thành tựu bước đầu quan trọng nhưng nước ta vẫn chưa thoát
khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội".

  Năm 1996 Đại hội đảng VIII nhận định "Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng
hoảng kinh tế- xã hội, nhưng một số mặt còn chưa được củng cố vững chắc".
Nền kinh tế Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng với nhịp độ tăng trưởng kinh
tế ngày càng cao :tốc độ tăng GDP bình quân thời kỳ 1986- 1990 là 3,6%;
1991-1995 là 8,2%; 1996-2000 là 7%.
    Lạm phát được đẩy lùi từ 67,4% năm 1990 xuống 12,7% năm 1995,
0,1% năm 1999 và 0% năm 2000. Phá được thế bao vây cấm vận, mở rộng
quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thu hút vốn đầu tư
nước ngoài cùng nhiều công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
  Điều kiện vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, văn
hóa không ngừng tiến bộ. Việt Nam từ một nước thiếu lương thực đã trở
thành một nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới.
  Quốc phòng và an ninh được đảm bảo, ổn định chính trị được giữ vững,
các mối quan hệ kinh tế được mở rộng với nhiều nước trên thế giới, bộ mặt
đất nước đã có những biến đổi to lớn trên mọi lĩnh vực.
    Đại hội IX khẳng định :"Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện
nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định
hướng XHCN, đó là nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN"
   Chủ trương xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN thể
hiện tư duy, quan niệm của đảng ta về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Đó là mô hình kinh tế tổng quát
của nước ta trong thời kì quá độ lên CNXH.
  Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đại hội IX Đảng ta một lần nữa
khẳng định "Thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được qua 15 năm
đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn của cương lĩnh được thông qua tại đại
hội VII của Đảng đồng thời giúp đảng ta nhận thức ngày càng rõ hơn về con
đường đi lên CNXH ở nước ta. Chúng ta một lần nữa khẳng định :Cương
lĩnh là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng nước Việt
Nam từng bước quá độ lên CNXH định hướng cho mọi hoạt động của Đảng

ta hiện nay và trong những thập kỉ tới .Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây
dựng đất nước Việt Nam theo con đường XHCN trên nền tảng chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh".
  Tuy vậy, đi đôi với thành tựu là rất nhiều khó khăn đòi hỏi phải có
phương hướng giải quyết đúng đắn, đặc biệt, lao động và việc làm đang là
vấn đề gay gắt nổi cộm nhất hiện nay với tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị là 74%
và tỉ lệ thiếu việc làm ở nông thôn là 30% tỉ lệ lao động được đào tạo về
chuyên môn kĩ thuật còn thấp trong tổng số lao động :theo kết quả điều tra
dân số và nhà ở ngày 1/4/1999, công nhân kỹ thuật và nghiệp vụ chiếm
30,3%; lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp chiếm 36,8%; trình độ
Cao đẳng và Đại học chiếm 31,6%; trên Đại học chiếm 1,3%.[ Kinh tế và
phát triển số 42, tháng12/2000, tr19]. Từ năm 2001, khi Việt Nam áp dụng
chuẩn hóa đói nghèo mới thì tỷ lệ đói nghèo sẽ còn khá hơn, khoảng 17% so
với 11% chuẩn cũ. Hiện tại, mức tiêu dùng của dân cư thấp, tích lũy nội bộ
của nền kinh tế mới đạt khoảng 25-27%GDP, còn tích lũy ròng chỉ đạt dưới
20% GDP. Trong khi đó kết cấu hạ tầng còn yếu kém, sản lượng điện bình
quân đầu người mới chỉ đạt trên 340kwh, mật độ đường giao thông tính trên
1000 dân còn tháp xa so với các nước xung quanh.
2.2 Một số mâu thuẫn cơ bản trong nền KTTT ở Việt Nam hiện nay
2.2.1 Mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX
Theo chủ nghĩa Mác - Lê Nin thì kinh tế quyết định chính trị, chính trị là
sự biểu hiện tập trung của kinh tế”. Trong lịch sử phát triển xã hội loài người
không phải bao giờ cũng có vấn đề chính trị. Xã hội nguyên thuỷ chưa có
giai cấp, chưa có vấn đề chính trị. Từ khi xã hội có giai cấp và Nhà nước
xuất hiện thì vấn đề chính trị mới xuất hiện. Vấn đề chính trị là vấn đề thuộc
về quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp. Trung tâm của vấn đề chính trị là
đấu tranh giai cấp giữa các lực lượng xã hội nhằm giữ chính quyền Nhà
nước và sử dụng chính quyền đó làm công cụ để xây dựng và bảo vệ chế độ
xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền. Vấn đề kinh tế không thể
tách rời vấn đề chính trị mà nó được xem xét, giải quyết theo một lập trường

chính trị nhất định. Khi thể chế chính trị không phù hợp với yêu cầu phát
triển của nền kinh tế thì tất yếu sẽ không mở đường cho kinh tế đi lên. Khi
đó, việc thay đổi thể chế chính trị cho phù hợp với yêu cầu phát triển của
nền kinh tế là điêù kiện tiên quyết để thúc đẩy kinh tế phát triển. Như vậy,
chúng ta có thể khẳng định rằng kinh tế chính trị thống nhất biện chứng với
nhau trên nền tảng quyết định của kinh tế. Đây là phương pháp luận quan
trọng trong việc nhận thức xã hội xã hội nói chung, nhận thức công cuộc đổi
mới ở Việt Nam nói riêng. Không những thế, việc phát triển kinh tế và ổn
định về mặt chính trị cũng cần phải có sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý
của Nhà Nước.Chính những thành tựu trong 10 năm đổi mới vừa qua đã
khẳng định điều đó.
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu nhưng mâu thuẫn giữa LLSX -
QHSX là một mâu thuẫn hết sức phức tạp và những biểu hiện của nó xét trên
phương diện triết học. Theo quan điểm của triết học Mác-Lê Nin, LLSX là
nội dung của sự vật còn QHSX là hình thức của sự vật, LLSX quyết định
QHSX. Nếu QHSX không phù hợp với sự phát triển của LLSX mới thì bắt
buộc phải thay đổi. Chính QHSX phải vận động để phù hợp với LLSX,
QHSX vận động theo đó thành quy luật kinh tế chung cho sự phát triển của
xã hội.
2.2.2 Mâu thuẫn giữa các giai cấp trong xã hội
Kinh tế xã hội càng phát triển thì sự phân tầng giữa các giai cấp trong xã
hội càng rõ nét hơn.
Trước hết đó là mâu thuẫn giữa bóc lột và bị bóc lột. Nước ta đang ở thời
kỳ quá độ lên CNXH, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, cú nhiều loại
hình sở hữu và kinh doanh, trong đó có cả hình thức kinh doanh có thuê
mướn lao động. Như vậy, ở đây đó xuất hiện một mâu thuẫn: mâu thuẫn
giữa lợi ích của nhà kinh doanh (bóc lột) và lợi ích của người lao động (bị
bóc lột). Nếu không giải quyết tốt mâu thuẫn này thì có thể xảy ra hai trường
hợp: hoặc là lợi ích của người lao động, hoặc là lợi ích của nhà kinh doanh
bị vi phạm, cả hai trường hợp đều ảnh hưởng tới lợi ích của nhân dân, của

Nhà nước.
Mâu thuẫn thứ hai là mâu thuẫn giữa bình đẳng và bất bình đẳng.
Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn này là giữa bình đẳng xã hội với tính cách
là mục tiêu của CNXH đó mâu thuẫn với sự bất bình đẳng trong hưởng thụ
do sự không ngang bằng nhau của các cá nhân, nhóm xã hội trong lao động
và đóng góp trong nền KTTT. Mâu thuẫn này nếu không được giải quyết
thường xuyên và đúng đắn có thể xảy ra hai trường hợp: hoặc là, do nhận
thức không đúng, Nhà nước can thiệp một cách chủ quan vào tiến trình xã
hội, vi phạm những nguyên tắc của công bằng xã hội dẫn đến kìm hãm sự
phát triển kinh tế; hoặc là, do sự phát triển tự phát của KTTT Nhà nước
không có biện pháp điều chỉnh thích hợp dẫn đến sự bất bình đẳng tích lũy
dần, phân cực xã hội sâu sắc, xã hội ngày càng xa dời mục tiêu XHCN.
2.2.3 Mâu thuần giữa các hình thái kinh tế trước đây trong KTTT.
Trước đây người ta quan niệm rằng hình thức sở hữu trong chủ nghĩa
xã hội là sở hữu CNXH, tồn tại dưới 2 hình thức: sở hữu toàn dân và sở hữu
tập thể. Sở hữu đó là hai con đường đặc thù tiến lên CNCS của giai cấp công
nhân và nông dân tập thể.
Thực tiễn cho thấy, ở nước ta hiện nay đã có những hình thức hợp tác
xã kiểu mới ra đời do nhu cầu tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường
hợp tác xã đã được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao
động trực tiếp của xã viên, phân phối theo hiệu quả lao động và theo cổ
phần, mỗi xã viên có quyền như nhau đối với công việc chung, điều này cho
thấy kết cấu bên trong của sở hữu tập thể đã thay đổi phù hợp với thực tiễn ở
nước ta hiện nay.
2.2.4. Mâu thuẫn giữa KTTT và mục tiêu xây dựng con người XHCN.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước
hết phải có con người XHCN. Yếu tố con người đặc biệt giữ vai trò quan
trọng trong sự nghiệp cách mạng, bởi vì con người là chủ thể của mọi sáng
tạo, của mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá, con người phát triển cao về
trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tính thần, trong sáng về đạo

đức là sự nghiệp xây dựng của xã hội mới là mục tiêu của CNXH.
KTTT là một loại hình thái kinh tế trong đó các mối quan hệ kinh tế
giữa con người với con người được biểu hiện thông qua việc mua bán, trao
đổi hàng hoá tiền tệ. KTTT phản ánh trình độ văn minh và sự phát triển của
xã hội, là nhân tố phát triển sức sản xuất, tăng trưỏng kinh tế thúc đẩy xã hội
tiến lên. Tuy nhiên KTTT cũng có những khuyết tật tự thân, đặc biệt là tính
tự phát mù quáng, sự cạnh tranh lạnh lùng dẫn đến sự phá sản, thất nghiệp
khủng hoảng chu kỳ.
Xuất phát từ những phân tích trên chúng ta thấy rằng đổi mới nước ta
hiện nay không thể xây dựng và phát triển con người nếu thiếu yếu tố
KTTT. Do hậu quả của nhiều năm chiến tranh, của nền kinh tế kém phát
triển, của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp nền kinh tế của nước ta đã tụt
hậu nghiêm trọng so với khu vực và quốc tế. Trong bối cảnh đó KTTT là
điều kiện rất quan trọng đưa nền kinh tế nước ta thoát khỏi khủng hoảng và
phát triển, phục hồi sản xuất, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng, bắt kịp bước tiến
của thời đại.
Tuy nhiên, cần phải thấy rằng không phải cứ xây dựng được KTTT là
những phẩm chất tốt đẹp nhất hình thành con người. Có những lúc, những
nơi KTTT không những không làm cho con người ta năng động hơn, tốt đẹp
hơn mà có thể ngược lại còn làm tha hoá bản chất con người, biến con người
thành gã nô lệ sùng bái đồng tiền hoặc kẻ đạo đức giả chỉ biết tôn trọng sức
mạnh đồng tiền và lợi ích cá nhân sẵn sàng chà đạp lên nhân phẩm, văn hoá,
đạo đức, luân lý Bên cạnh những tác động tích cực KTTT cũng có nhiều
hạn chế gây ra những tác động xấu: tệ nạn thương mại hoá trường học, xem
nhẹ truyền thống tôn sư trọng đạo, quan hệ hàng hoá tièn tệ làm sôi động thị
trường nhưng cũng xói mòn nhân cách và hạ thấp phẩm giá của con người
Thật không sai nếu hình dung KTTT là con dao hai lưỡi nếu dùng không cẩn
thận sẽ bị đứt tay. KTTT là mục tiêu xây dựng con người XHCN là một
mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn nước ta hiện nay. KTTT vừa tạo ra
những điều kiện xây dựng, phát huy nguồn lực con người, vừa tạo ra những

độc tố đầu độc, huỷ hoại con người. Việc giải quyết mâu thuẫn đó là việc
làm không đơn giản. Đối với nước ta mâu thuẫn đó được giải quyết bằng vai
trò lãng đạo của Đảng, bằng sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
XHCN.
2.3. BIỂU HIỆN CỦA MÂU THUẪN CƠ BẢN HIỆN NAY VÀ
PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI QUYẾT CHÚNG
Như đã trình bày mâu thuẫn chủ yếu ở một giai đoạn phát triển xã hội là
biểu hiện của mâu thuẫn cơ bản của toàn bộ chế độ xã hội trong giai đoạn
phát triển đó của xã hội. Mâu thuẫn cơ bản có sự tồn tại khác nhau trên các
lĩnh vực khác nhau của xã hội, chúng là những biểu hiện cụ thể của mâu
thuẫn cơ bản của xã hội trên lĩnh vực đó.
Trong bài viết này tôi xin trình bày hai biểu hiện của mâu thuẫn trên hai
lĩnh vực – chính trị và xã hội.
Biểu hiện trên lĩnh vực chính trị đó là mâu thuẫn giữa việc bảo đảm
quyền làm chủ của nhân dân với tình trạng quan liêu của hệ thống chính trị.
Biểu hiện trên lĩnh vực xã hội văn hoá tư tưởng đó là mâu thuẫn giữa quá
trình từng bước hình thành hoàn thiện nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc với tình trạng xuống cấp về văn hoá, sự suy đồi về đạo đức, sự vong
ngoại do tác động tiêu cực của những mặt trái thuộc cơ chế thị trường và mặt
trái của mở rộng giao lưu quốc tế.
2.3.1. Mâu thuẫn giữa việc đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân với
tình trạng quan liêu của hệ thống chính trị đúng như tính chất đặc thù của
xã hội trong thời kỳ quá độ gồm có cả yếu tố của xã hội chủ nghĩa và xã hội
tư bản. Điều đó tác động đến xã hội cũng nảy sinh những nhân tố lối sống
biến dạng và phức tạp theo tính chất đó. Xã hội phát triển chứa đựng trong
nó khả năng để đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân hơn, nhưng đồng thời
cũng tồn tại không ít yếu tố của tình trạng quan liêu của hệ thống chính trị.
Biểu hiện của mâu thuẫn này đã trở thành bức xúc và cấp thiết được đề
cập trên những bài báo, những bài viết mà tôi xin được trình bày ra đây để
chứng minh ra những luận giáo cho mình. Đây chỉ là những đại diện trong

rất nhiều mà những điều tôi biết, biết được qua các phương tiện thông tin đại
chúng.
Tiền phong số 71 (9/4/2003) có đăng một bài viết: “sự thật về tấm bằng
đại học luật của ông trưởng công an thị xã (Quảng Trị). Theo đó phản ánh
trung tá,bí thư đảng bộ, trưởng công an thị xã Đồng Hà Nguyễn Văn Quê lợi
dụng chức vụ quyền hạn để chạy giấy chứng nhận thương binh lấy bằng đại
học luật tại chức niên khoá 1990- 1995. Nơi đây công an Quảng Trị đã có
công văn số 82/PX 13 gửi trường đại học luật Hà Nội đề nghị trường phối
hợp xử lý. Thiết nghĩ, một con người như vậy liệu có đủ phẩm chất để đại
diện cho dân làm việc cho dân làm việc hay không. Và một trung tá, bí thư
đảng bộ vậy mà lại có những hành vi như vậy, việc chạy theo lợi ích cá nhân
đã phá vỡ những nguyên tắc đạo đức phẩm chất của một đảng viên, nhưng
có lẽ đằng sau sự việc này, các cấp chính quyền cũng nên xem xét lại các
việc làm quan liêu sơ hở để những kẻ như Nguyễn Văn Quê có thể thực hiện
những hành vi đó.
Một sự việc cũng không lấy gì làm khả quan hơn là một hành vi phạm
tội của phá tránh án tỉnh Đắc Lắc đã bắt tay với kẻ phạm tội nhằm bào chữa
tội danh. Trên số báo 65 (1-4-2003) đăng về bài “Tội trạng của Đại Hùng và
đồng bọn bao giờ mới được phơi bày và mới được nghiêm trị” đã nói đến
những dấu hiệu bất thường của vụ án. Với hành vi phạm tội giết người của
Võ Văn Vinh mà y chỉ bị xử 2 năm tù cho hưởng án treo, sau khi bản án
được phát hành liên ngành toà án kiểm soát, công an huyện Krông Buk đã ba
lần có phiếu mượn hồ sơ xét xử kháng nghị nhưng chủ toạ phiên toà do ông
Lộc cất giữ đã cố tình coi như không biết. Khi bị hỏi vì sao những vụ án có
luật sư Nguyễn Văn Hùng bào chữa do ông Lộc ngồi ghế chủ tạo, luật sư
đều “cãi thắng” thiết nghĩ với cái “bắt tay” của hai kẻ phạm tội này đã bao
vụ án oan bị xử người dân bất bình còn kẻ phạm tội vẫn nhởn nhơ ngoài
vòng pháp luật. Cung cách làm việc quan liêu, về trách nhiệm, của những kẻ
như y đã làm tổn hại cho xã hội.
2.3.2. Mâu thuẫn giữa quá trình từng bước hình thành, hoàn thiện nền

văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Với tình trạng xuống cấp về văn hoá, sự suy đồi về đạo đức, sự vong
ngoại do tác động tiêu cực của những mặt trái thuộc cơ chế thị trường và mặt
trái của việc mở rộng giao lưu quốc tế.
Xã hội hiện nay được nhiều người dùng đến cụm từ là một xã hội “chạy
theo đồng tiền”. Chúng ta càng thấy xuất hiện nhiều các hiện tượng lừa đảo,
cướp giật, mại dâm gia tăng phát triển ở lứa tuổi vị thành niên. Xã hội ấy tác
động trực tiếp đến con người chúng ta. Các đạo đức xã hội truyền thống
đang dần bị phá vỡ. Con cái giết bố mẹ để lấy tiền hút thuốc phiện, anh hại
em, anh dể hại em vợ, vợ lừa chồngđó chỉ là một trong số rất ít các biểu hiện
tiêu cực của xã hội hiện nay.
Đáng cảnh báo nhất là những vụ việc giết người trong gia đình để chiếm
tài sản, trả thù vì ghen tuông, và hiện nay gia tăng khá nhiều việc lạm dụng
tình dục trẻ em, xâm hại đến thân thể, phẩm hạnh của người phụ nữ. Điều
đáng buồn là những hành động phạm pháp ấy lại xảy ra trong giới trẻ hiện
nay rất nhiều.
2.3.3 PHƯƠNG HƯỚNG CHỦ YẾU GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN
CƠ BẢN
Phương hướng giải quyết mâu thuẫn cơ bản- mâu thuẫn giữa khuynh
hướng tư bản chủ nghĩa và khuynh hướng xã hội chủ nghĩa mà nội dung cơ
bản của cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng đó là nhằm đẩy mạnh quá
trình xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, nâng cao đời sống vật chất
và văn hoá của nhân dân, giữ vững độc lập tự chủ để làm cho nước ta trở
thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh- cũng chính là phương hướng
xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa với tư cách là giai đoạn thấp của hình thái
kinh tế- xã hội cộng sản CN ở nước ta.
Về phương hướng giải quyết mâu thuẫn giữa việc bảo đảm quyền
làm chủ của nhân dân với tình trạng quan liêu của hệ thống chính trị.
“Quan liêu” được nói ở đây trước hết và chủ yếu liên quan tới những căn
bệnh của thiết chế tổ chức, của bộ máy và người có chức quyền trong bộ

máy đó khi thoái hoá, biến chất. Với nghĩa đó, chúng liên quan đến chính trị,
căn bệnh này chỉ là tạm thời.
Sự nghiên cứu khoa học đã đi đến kết luận rằng quan liêu có nguồn
gốc sâu xa của nó ở chế độ chiếm hữu tư nhân đối với TLSX, ở tình trạng
phát triển thấp của kinh tế, văn hoánguyên nhân là sự tha hoá quyền lực,
khuyết tật trong cấu trúc của bộ máy và sự thoái hoá của người có cương vị
trong bộ máy đó với nghĩa đó, sự tha hoá quyền lực ở mức độ và quy mô
nhất định luôn diễn ra.
Việc giải quyết mâu thuẫn giữa bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân
với tình trạng quan liêu của hệ thống chính trị được thực hiện bằng con
đường đổi mới hệ thống đó để nó thực sự là cơ chế bảo đảm quyền làm chủ
của nhân dân trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống.
Để đảm bảo quyền lực của nhân dân trên lĩnh vực chính trị phải giữ
vững sự lãnh đạo của Đảng. Quyền lãnh đạo phải bằng sự tiên phong gương
mẫu của đảng viên và tổ chức cơ sở đảng trong sự nghiệp phấn đấu vì lợi ích
của nhân dân mà đảng được nhân dân tín nhiệm giao nhiệm vụ cách mạng.
Sự lãnh đạo bằng tuyên truyền thuyết phục giáo dục nêu gương của
đảng viên và các tổ chức cơ sở đảng làm cho quần chúng thấy rõ tính đúng
đắn trong các quyết định chính trị của mình.
Muốn giữ được vai trò lãnh đạo chính trị, khâu then chốt là đảng phải
tăng cường củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa đảng và nhân dân
chăm lo đời sống của người dân, thực sự phát huy quyền làm chủ của họ.

×