Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

SKKN - Một số BP chỉ đạo nâng cao CL GDKNS cho trẻ trong trường MN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 28 trang )

ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC KỶ NĂNG SỐNG CHO TRẺ
TRONG TRƯỜNG MẦM NON
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết, kỹ năng sống là những kỹ năng cần có cho hành
vi lành mạnh cho phép bạn đối mặt với những thách thức của cuộc sống hằng
ngày, kỹ năng sống bắt nguồn từ cuộc sống, nhưng không phải chỉ là những kỹ
năng để sống mà là công cụ để một người đạt đến thành công trong cuộc sống
cá nhân, công việc và cuộc sống xã hội và cách mỗi người sử dụng công cụ ấy
sẽ tạo ra sự khác biệt.
Kỹ năng sống, hiểu theo cách cụ thể hơn là công cụ để tối ưu hóa tính
khí của mỗi người, giúp cho họ làm chủ bản thân, biết điều tiết các nhu cầu và
nguyện vọng của chính mình và hoạch định con đường đi riêng để đạt đến
thành công.
Mọi người lớn đều bắt đầu từ những đứa trẻ. Và mọi đứa trẻ đều lớn lên
thông qua các trải nghiệm và thích nghi. Khi chúng ta còn nhỏ, chúng ta được
trải nghiệm cuộc sống một cách đầy đủ và phóng khoáng, những cú ngã chảy
máu, những nồi cơm cháy khét, những trò chơi trận giả… là thứ giúp chúng ta
lớn lên, dễ thích nghi, dễ hợp tác và dễ điều chỉnh bản thân.
Đối với trẻ Mầm non, chúng ta muốn con trẻ lớn lên trở thành những
con người tốt, sống có sức khỏe, bản lĩnh, có đủ phẩm chất và năng lực làm
việc, trước hết chúng ta phải nhìn nhận lại bản thân mình trước khi dạy trẻ:
bản thân chúng ta cần gì? thiếu gì? dựa vào cái gì để thành công? thì hãy
dựa vào đó mà dạy cho những đứa trẻ của chúng ta những điều y như thế.
1
Việc xây dựng kỹ năng sống cho trẻ không gì hơn là tạo cho trẻ có cơ
hội để trẻ được trải nghiệm, khám phá, thích nghi và hướng dẫn cho trẻ cách
tự thể hiện mình. Có như thế thì chúng ta mới có thể có những người lao động
chủ động, tích cực, hòa đồng và đầy đặc biệt như chúng ta hằng mong đợi.


Xuất phát từ những vấn đề trên nên bản thân tôi là cán bộ quản lý, tôi
suy nghĩ rằng việc dạy kỷ năng sống cho trẻ ngay từ lứa tuổi mầm non là một
việc làm rất cần thiết và cực kỳ quan trọng nên tôi lựa chọn đề tài “Một số
biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng GD kỷ năng sống cho trẻ trong
trường mầm non” làm đề tài nghiên cứu trong năm học 2013-2014.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Toàn thể giáo viên đứng lớp và học sinh trong độ tuổi Mầm non thuộc
đơn vị tôi công tác.
Công tác giáo dục kỷ năng sống cho trẻ trong trường Mầm non hiện nay
và một số giải pháp tích cực nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trẻ trong
trường mầm non.
3. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở thực trạng kỷ năng sống của trẻ trong độ tuổi Mầm non hiện
nay ảnh hưởng lớn đến việc phát triển toàn diện của trẻ sau này, chăm sóc cho
đứa trẻ trở thành con người có ích cho xã hội, bản thân tôi đã tìm tòi và đề ra
các giải pháp dạy kỷ năng sống cho trẻ mầm non nhằm tạo được sự chuyển
biến tích cực về các mặt phát triển của trẻ ở đơn vị tôi công tác nói riêng và
góp phần phát triển thế hệ trẻ lứa tuổi mầm non nói chung trở thành con người
vừa có đạo đức vừa có trí tuệ, sức khỏe để trở thành những chủ nhân tương lai
của đất nước.
4. Giả thiết nghiên cứu:
Nhận thức được những vấn đề bồi dưỡng, giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
Mầm non nhằm góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc và giáo dục trẻ một
cách toàn diện là một vấn đề rất quan trọng, vì vậy trong thời gian tới đơn vị
trường Mầm non chúng tôi sẽ có những cách làm mới, nâng cao hiệu quả việc
2
thực hiện giáo dục kỹ năng sống cho trẻ lứa tuổi Mầm non, là việc làm cần
thiết để nâng cao chất lượng trong nhà trường được tốt hơn.
Nếu thực sự được sự quan tâm và cộng đồng chia sẻ, hợp tác thì công
tác giáo dục kỷ năng sống cho trẻ trong độ tuổi mầm non sẻ trở thành một

nhiệm vụ rất cần thiết và cấp bách trong việc giáo dục thế hệ trẻ nói chung và
trẻ trong độ tuổi mầm non nói riêng.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra, nghiên cứu.
- Phương pháp luyện tập, thực hành.
- Phương pháp kiểm tra, đánh giá.
- Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp.
- Phương pháp tổng kết và rút kinh nghiệm
6. Dự báo những đóng góp của đề tài
Giáo dục kỷ năng sống cho trẻ lứa tuổi Mầm non nhằm góp phần hình
thành nhân cách của trẻ, đào tạo những chủ nhân tương lai của đất nước phát
triển một cách toàn diện.
Công tác giáo dục kỷ năng sống cho trẻ Mầm non là quá trình tác động
đến đứa trẻ, tạo cơ hội cho trẻ tham gia vào các hoạt động trải nghiệm, khám
phá và từ đó rút ra được những kinh nghiệm cho bản thân, góp phần hình
thành nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa.
Làm tốt được công tác nâng cao chất lượng giáo dục kỷ năng sống cho
trẻ trong trường mầm non thì tôi chắc chắn rằng trong thời gian tới các cấp
trong ngành giáo dục sẽ rất quan tâm đến công tác giáo dục kỷ năng sống cho
trẻ, đưa công tác giáo dục kỷ năng sống vào một môn học chính khóa. Góp
phần đào tạo thế hệ trẻ trở thành thế hệ vàng son, trở thành những con người
đủ các phẩm chất về thể chất, đạo đức, tinh thần và trí tuệ, tạo thành một thế
hệ hùng hậu cho Tổ quốc.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
3
1. Cơ sở khoa học:
1.1. Cơ sở lý luận:
Đất nước đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi nguồn nhân lực
trí tuệ cao, quá trình hội nhập khu vực và quốc tế với xu thế toàn cầu hóa đang
là một thách thức với nước ta, đòi hỏi nhà nước và ngành giáo dục phải có một

chiến lược phát triển nhân tài. Trong hệ thống giáo dục, giáo dục Mầm non có
một vị trí đặc biệt quan trọng trong việc đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân
tài cho đất nước. Chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ ở trường mầm non tốt có
tác dụng rất lớn đến chất lượng giáo dục ở bậc học tiếp theo.
Giáo dục mầm non có mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng nhằm giáo dục
toàn diện cho trẻ về thể chất, tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ, trí tuệ là cơ sở để
hình thành nên nhân cách con người mới XHCN Việt Nam và chuẩn bị những
tiền đề cần thiết cho trẻ bước vào trường tiểu học được tốt.
Như Bác Hồ kính yêu đã nói: “Giáo dục mầm non tốt sẽ mở đầu cho
một nền giáo dục tốt”. Trường mầm non có nhiệm vụ chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục các cháu, bồi dưỡng cho các cháu trở thành người công dân có ích.
Kỹ năng sống là cách ứng xử tích cực, cần thiết để có cuộc sống an
toàn, khỏe mạnh và hiệu quả. Giáo dục kỹ năng sống có tác dụng nâng cao
nhận thức, trang bị thái độ sống và hành vi tích cực, lành mạnh cho trẻ. Vì
vậy, giáo dục kỹ năng sống là một hình thức can thiệp sớm, có tác dụng tích
cực trong việc ngăn ngừa những hành vi lệch lạc của trẻ em, đặc biệt là trểm
dướ 6 tuổi. Kỹ năng sống là cách ứng xử tích cực, cần thiết để có cuộc sống an
toàn, khỏe mạnh và hiệu quả.
Theo tổ chức y tế thế giới (WHO 2003), đó là kỹ năng mang tính tâm lí
xã hội, là các khả năng thích ứng và là hành vi tích cực cho phép các cá nhân
giải quyết có hiệu quả nhu cầu và thách thức trong cuộc sống hàng ngày. Kỹ
năng sống cần thiết cho mọi người, đặc biệt là trẻ nhỏ. Nó giúp cho mọi người
thể hiện kiến thức, thái độ và các giá trị, hành vi lành mạnh nhằm giảm thiểu
các nguy cơ có hại cho sức khỏe và cải thiện cuộc sống của mình, chẳng hạn,
4
biết đặt mục tiêu cho cuộc sống, thể hiện sự kiên định trước những cám dỗ
không có lợi cho sức khỏe …
Những năm gần đây, kết quả của nhiều nghiên cứu cho thấy rằng,
những can thiệp dựa trên giáo dục kỹ năng sống giúp cho việc thay đổi hành vi
đạt hiệu quả cao hơn so với các phương pháp tiếp cận chỉ cung cấp thông tin,

nâng cao nhận thức. Ở Việt Nam, những năm gần đây, việc giáo dục kỹ năng
sống ngày càng được nhân rộng cả về phạm vi địa lý cả về nội dung chương
trình và bước đầu đã có những kết quả đáng ghi nhận.
Vì vậy, trường mầm non có nhiệm vụ giáo dục trẻ có được những thói
quen học tập, sinh hoạt hàng ngày.
Giáo dục “Kỹ năng sống” cho trẻ MN nhằm giúp trẻ có kinh nghiệm
trong cuộc sống, biết được những điều nên làm và không nên làm.
Giáo dục “Kỹ năng sống” cho trẻ là giáo dục cách sống tích cực trong
xã hội hiện đại. Giáo dục cho trẻ những kỹ năng mang tính cá nhân và xã hội
nhằm giúp trẻ có thể chuyển kiến thức, thái độ, cảm nhận thành những khả
năng thực thụ, giúp trẻ biết xử lý hành vi của mình trong các tình huống khác
nhau trong cuộc sống.
Kỹ năng sống của trẻ bao gồm rất nhiều kỹ năng : Kỹ năng giao tiếp
ứng xử, kỹ năng vệ sinh, kỹ năng thích nghi với môi trường sống, kỹ năng hợp
tác chia sẻ
Dạy kỹ năng sống cho trẻ là truyền cho trẻ những kinh nghiệm sống của
người lớn. Nhằm giúp trẻ có những kỹ năng đương đầu với những khó khăn
trong cuộc sống. Trẻ biết vận dụng, biến những kiến thức của mình để giải
quyết những khó khăn trong cuộc sống cho phù hợp.
1.2. Cơ sở thực tiễn:
Một cá nhân nếu có đầy đủ kiến thức trong cuộc sống nhưng lại chưa có
kỹ năng cuộc sống (Bao gồm rất nhiều kỹ năng) và biết sử dụng linh hoạt kỹ
năng này thì không đảm bảo cá nhân đó có thể đưa ra các quyết định hợp lý,
giao tiếp có hiệu quả và có mối quan hệ tốt với mọi người. Kỹ năng sống
5
chính là năng lực tâm lý xã hội để đáp ứng và đối phó những yêu cầu và thách
thức trong cuộc sống hàng ngày.
Một nghiên cứu gần đây về sự phát triển trí não của trẻ cho thấy khả
năng giao tiếp, khả năng biết tự kiểm soát, thể hiện các cảm giác của mình,
biết cách ứng xử phù hợp và biết tự cách giải quyết các vấn đề cơ bản một

cách tự lập rất quan trọng đối với trẻ. Chính vì vậy, việc đi sâu lồng ghép dạy
kỹ năng sống cho trẻ phù hợp với từng độ tuổi từ lứa tuổi Mầm non vô cùng
cần thiết và quan trọng hàng đầu.
Muốn vậy, người lớn phải tạo cho trẻ có môi trường để trải nghiệm,
thực hành. Nhưng trên thực tế, trong xã hội hiện nay các gia đình thường chú
trọng đến việc học kiến thức của trẻ mà không chú ý đến phát triển các kỹ
năng cho trẻ. Luôn bao bọc, nuông chiều, làm hộ trẻ khiến trẻ ỷ lại, ích kỷ,
không quan tâm đến người khác và các kỹ năng trong cuộc sống rất hạn chế.
Khó khăn cho trẻ trong việc có tình huống bất ngờ xảy ra.
Sự hợp tác, tự kiểm tra, tính tự tin, tự lập, tò mò, khả năng thấu hiểu và
giao tiếp. Học cách có được những mối liên kết mật thiết với các bạn khác
trong lớp, biết chia sẽ, chăm sóc, lắng nghe, trình bày và diễn đạt được ý của
mình trong nhóm bạn. Giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử
thách mới. Biết giới thiệu về bản thân và gia đình mình trước đám đông, biết
mình đang học lớp nào, thích cái gì và điạ chỉ nhà mình ở đâu. Nhận biết các
ưu khuyết điểm của bản thân. Biết cách ứng xử với mọi người xung quanh.
Học cánh lắng nghe mọi người và đối đáp. Nhận biết những hoàn cảnh không
an toàn, cách giữ an toàn cho mình nơi công cộng (trong sân trường, công
viên, siêu thị, ngoài phố, khi gặp người lạ,…)….
Chúng ta chỉ dạy trẻ: Nên hay Không nên, những hành vi này sẽ được
tích lũy trong quá trình hướng dẫn của giáo viên.
2. Thực trạng đơn vị:
2.1. Thuận lợi:
6
Là trường Mầm non nằm ở địa bàn tương đối thuận lợi cho trẻ đi lại và
đảm bảo các điều kiện cho trẻ được học tập, vui chơi, trải nghiệm
Điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị tương đối đầy đủ theo quy
định cho các độ tuổi.
Đội ngũ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn về trình độ đào tạo, luôn
năng nổ, nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ, có nhiều kỷ năng tốt để hướng dẫn trẻ

trong quá trình học tập.
Trẻ được phân chia học theo độ tuổi 100% và được thực hiện chương
trình Giáo dục Mầm non.
Phụ huynh có hiểu biết về Giáo dục Mầm non và rất quan tâm đến công
tác chăm sóc và giáo dục trẻ của nhà trường.
2.2. Khó khăn:
Số lớp, số học sinh tương đối đông, vượt chỉ tiêu biên chế số trẻ/lớp đối
với các độ tuổi.
Học sinh đa số được nuông chiều quá mức nên ảnh hưởng rất lớn đến
công tác giáo dục các kỷ năng sống cho trẻ.
Đội ngũ giáo viên trẻ đông, số mới ra trường nhiều nên vốn kinh
nghiệm để dạy trẻ còn nhiều hạn chế.
Một số phụ huynh quá nôn nóng về việc dạy chữ, dạy tính toán cho trẻ mà
quan mất việc dạy các kỹ năng cho trẻ nên một số trẻ rất ương bướng và khó bảo.
2.3. Khảo sát thực trạng chất lượng trước khi thực hiện đề tài:
Để việc nghiên cứu đạt hiệu quả, ngay từ đầu năm học tôi có làm một
cuộc khảo sát nhằm đánh giá vốn kỷ năng sống hiện tại của trẻ trước khi thực
hiện đề tài và mức độ kiến thức dạy kỷ năng sống cho trẻ của giáo viên.
Bảng 1. Kết quả khảo sát học sinh về vốn kỷ năng sống (Số học sinh
được khảo sát 382 trẻ)
Nội dung khảo sát
Kết quả
Số lượng Tỷ lệ (%)
7
Trẻ mạnh dạn, tự tin 165/382 43,1
Trẻ có ý thức hợp tác, chia sẻ 221/382 57,8
Kỷ năng giao tiếp, lễ phép 256/382 67,0
Kỷ năng vệ sinh cá nhân và tự lập 198/382 51,8
Kỷ năng thích khám phá học hỏi 162/382 42,4
Bảng 2. Kết quả khảo sát đội ngũ giáo viên về kiến thức dạy kỷ năng

sống cho trẻ trước khi thực hiện đề tài: (Số giáo viên được khảo sát 32
người)
Nội dung khảo sát
Kết quả
Số lượng Tỷ lệ (%)
Nắm một cách vững vàng các kỷ năng sống
cơ bản đối với trẻ mầm non
28/32 87,5
Biết tổ chức các hoạt động lồng ghép giáo
dục kỷ năng sống
13/32 40,6
Mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp trước đám đông 26/32 81,2
Nhìn vào bảng khảo sát ta thấy số trẻ đến trường mầm non chưa thật sự
tự tin, trẻ còn nhút nhát, chưa mạnh dạn, các kỷ năng về giao tiếp, kỷ năng hợp
tác chia se, kỷ năng tự lập còn rất nhiều hạn chế.
Đội ngũ giáo viên số giáo viên nhiều tuổi thì chậm trong việc đổi mới
phương páp giáo dục trẻ, số giáo viên trẻ thì còn thiếu kinh nghiệm, chưa
mạnh dạn, chưa dám đề xuất các giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục trẻ
về kỷ năng sống.
Đứng trước tình hình thực trạng của đơn vị tôi. Làm thế nào để nâng
cao được chất lượng giáo dục kỷ năng sống cho trẻ, đây là một bài toán hết
sức khó khăn cho tôi.
Bên cạnh đó điều kiện nhà trường chưa thể đáp ứng được các yêu cầu
về chuẩn hóa đội ngũ và cơ sở vật chất để thực hiện nhiệm vụ chăm sóc, nuôi
dưỡng và giáo dục trẻ trong điều kiện hiện nay.
Để góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc đổi mới đất nước, thực
hiện Nghị quyết Trung ương VIII (khóa XI) về “Đổi mới căn bản, toàn diện
8
giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.

Tôi đã mạnh dạn đề xuất một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng kỷ
năng sống cho trẻ trong trường mầm non.
3. Giải pháp thực hiện:
3.1. Tích cực nghiên cứu, tự học, tự bồi dưỡng:
Người giáo viên trước hết phải là nhà giáo dục, có tác động tích cực đến
học sinh thông qua bản thân nhân cách của mình. Bản thân nhân cách của
người giáo viên có vai trò như một năng lực tổng hợp. Bên cạnh đó người giáo
viên cần có những năng lực nghề nghiệp mới. Kết hợp với những năng lực
truyền thống như: năng lực phát hiện và nhận biết đầy đủ, chính xác và kịp
thời sự phát triển của học sinh, những nhu cầu được giáo dục của từng học
sinh.
Đối với giáo viên mầm non đây là năng lực đặc biệt quan trọng vì sự
phát triển về các mặt của trẻ ở lứa tuổi mầm non diễn ra rất nhanh, nhưng lại
không đồng đều; năng lực đưa ra được những nội dung và biện pháp giáo dục
đúng đắn, kịp thời, phù hợp với nhu cầu của người học và yêu cầu của mục
tiêu giáo dục, năng lực nhìn nhận sự thay đổi trong nhận thức, kỹ năng thái độ
và tình cảm của học sinh. Năng lực đánh giá giúp nhìn nhận tính đúng đắn của
chẩn đoán và đáp ứng, quan hệ đồng nghiệp, quan hệ với phụ huynh học sinh
và nhất là quan hệ với học sinh, năng lực tiến hành dạy học và giáo dục. Căn
cứ vào mục đích và nội dung giáo dục và dạy học đã được quy định, nhưng lại
phù hợp với đặc điểm của đối tượng, năng lực tạo nên những điều kiện thuận
lợi cho giáo dục trong nhà trường và từ cuộc sống bên ngoài nhà trường.
Cán bộ quản lý trước hết phải là tấm gương tiêu biểu về quá trình bồi
dưỡng và tự bồi dưỡng. Quan trọng nhất là phải luôn khẳng định trình độ năng
lực chuyên môn của mình trong tập thể sư phạm nhà trường.
9
Trong thực tế, chỉ có tự học mới có thể có điều kiện giúp chúng ta học
tập được thường xuyên và suốt đời. Tự học là một cách tự bồi dưỡng, tự làm
giàu kiến thức cho mình vừa đơn giản, tiết kiệm vừa hiệu quả.
Bản thân tôi đã rất trăn trở tìm tòi, sưu tầm các loại tài liệu hướng dẫn

dạy kỷ năng sống cho trẻ Mầm non để nghiên cứu. Hàng ngày tranh thủ thời
gian rảnh rỗi là tìm tòi sách vở để nghiên cứu, lên mạng internet để học hỏi
những cách giáo dục kỷ năng sống cho trẻ ở lứa tuổi mầm non.
3.2. Bồi dưỡng đội ngũ giáo viên nâng cao nhận thức về kỷ năng
sống:
Việc bồi dưỡng đội ngũ giáo viên trong nhà trường là việc làm thường
xuyên, liên tục theo kế hoạch hàng tháng, hàng tuần của Ban giám hiệu nhà
trường.
Đặc điểm lao động sư phạm của giáo viên mang tính đặc thù về đối
tượng, phương tiện, thời gian và sản phẩm lao động. Lao động sư phạm của
người giáo viên hết sức phức tạp, tinh tế, đầy khó khăn và là một sứ mạng hết
sức nặng nề là đào tạo thế hệ tương lai cho đất nước. Vì vậy đòi hỏi đội ngũ
giáo viên phải thường xuyên học tập, rèn luyện, bồi dưỡng và tự bồi dưỡng, có
trình độ đạt chuẩn và trên chuẩn, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ chuyên
môn nghiệp vụ. Nhu cầu này là nhu cầu cơ bản của mỗi người giáo viên.
Xác định được việc muốn nâng cao chất lượng giáo dục kỷ năng sống
cho học sinh thì trước tiên giáo viên phải có nhận thức hơn ai hết về những nội
dung dạy trẻ, để giúp giáo viên có vốn kinh nghiệm nhận thức sâu sắc về việc
dạy kỷ năng sống cho trẻ thì việc xây dựng kế hoạch bồi dưỡng là một việc
làm không thể thiếu.
Đầu năm học tôi đã thành lập tổ chuyên môn, chỉ đạo tổ chuyên môn
xây dựng kế hoạch hoạt động của tổ trong năm học và kế hoạch hàng tháng.
Chỉ đạo tổ chuyên môn sinh hoạt theo định kỳ đều đặn, hàng tháng có
kế hoạch nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ, được Ban giám hiệu nhà trường
duyệt trước khi triển khai sinh hoạt; qua đó giúp giáo viên hiểu được rằng
10
chương trình học chính khoá thường cho trẻ tiếp xúc từ từ với các kiến thức
văn hoá trong suốt năm học, còn thực tế trẻ sẽ học tốt nhất khi có được cách
tiếp cận một cách cân bằng, biết cách phát triển các kỹ năng nhận thức, cảm
xúc và xã hội. Vì thế, khi trẻ tiếp thu được những kỹ năng giao tiếp xã hội và

các hành vi ứng xử cơ bản trong nhóm bạn, thì trẻ sẽ nhanh chóng sẵn sàng và
có khả năng tập trung vào việc học văn hoá một cách tốt nhất.
Đối với tâm sinh lý trẻ em dưới sáu tuổi thì có nhiều kỹ năng quan trọng
mà trẻ cần phải biết trước khi tập trung vào học. Thực tế kết quả của nhiều
nghiên cứu đều cho thấy các kỹ năng quan trọng nhất trẻ phải học vào thời
gian đầu của năm học là chính là những kỹ năng sống như: sự hợp tác, tự kiểm
soát, tính tự tin, tự lập, tò mò, khả năng thấu hiểu và giao tiếp. Việc xác định
được các kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo viên lựa chọn đúng
những nội dung trọng tâm để dạy trẻ .
Tôi đã cụ thể hóa nội dung giáo dục kỷ năng sống cho trẻ Mầm non
gồm có các nội dung:
+ Kỷ năng về ăn uống: Đối với trẻ Mầm non trước khi trẻ học cách tự
phục vụ thì trẻ đang còn rất vụng về, khi cho trẻ ăn có thể bố, mẹ hoặc cô giáo
thấy trẻ lúng túng thì lại đút cho trẻ ăn để tránh rơi vãi, nhưng giáo viên phải
xác định rằng đó là cách trẻ học làm người lớn, để cho trẻ tự cần thìa xúc cơm
ăn, lúc đầu có thể chưa quen nhưng sau đó dần dần trẻ sẽ thành thục trong việc
tự phục vụ cho mình trong ăn uống. Biết cách sử dụng những đồ dùng, vật
dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai
nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi
ăn, ngồi ngay ngắn, ăn hết suất, biết cảm ơn sau khi ăn, biết tự dọn, cất đúng
chỗ bát, chén, thìa …
+ Kỷ năng vệ sinh cá nhân: Trẻ có thể tự súc miệng, đánh răng và rửa
mặt. Dạy trẻ cách rửa tay trước mỗi bữa ăn và nhận biết khi nào thì quần áo
của mình bị bẩn cần phải giặt. Đối với các bé gái, việc chải chuốt làm điệu
cũng rất quan trọng. Giáo viên phải biết để dạy trẻ thói quen tóc tai luôn gọn
11
gàng và chọn trang phục phù hợp với từng hoàn cảnh, hoặc biết giúp người
lớn dọn dẹp, không làm ảnh hưởng đến người xung quanh.
+ Kỹ năng sống tự tin: Một trong những kỹ năng đầu tiên mà giáo viên
cần chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm

nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những
người khác. Kỹ năng sống này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình
huống ở mọi nơi, mọi lúc.
+ Kỹ năng sống hợp tác: Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài thơ, bài hát
giáo viên giúp trẻ học cách cùng làm việc với bạn, hợp tác với mọi ngườ trong
quá trình chơi, đây là một công việc không nhỏ đối với trẻ lứa tuổi này. Khả
năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn. Giúp trẻ
hiểu dược tầm quan trong khi làm việc có sự chia sẻ và ủng hộ của người
khác… Đối với trẻ 5 tuổi đã có thể làm được những công việc đơn giản như tự
xếp gọn đồ chơi của mình thật ngăn nắp. Mục đích của việc này chính là dạy
trẻ cách trân trọng những gì mình đang có cũng như ý thức trách nhiệm với
những thứ là của mình.
Trẻ biết hợp tác cùng nhau trong khi chơi
12
+ Kỹ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một
trong những kỹ năng quan trọng nhất cần có ở trẻ vào giai đoạn này là sự khát
khao được học, được tìm hiểu, thích khám phá, tìm tòi, trẻ thích được trải
nghiệm để có thể phát hiện ra nhiều điều mới lạ ở xung quanh trẻ. Giáo viên
cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khêu gợi tính tò mò tự
nhiên của trẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu chuyện hoặc các hoạt
động và tư liệu mang tính chất khác lạ thường khêu gợi trí não nhiều hơn là
những thứ có thể đoán trước được.
+ Kỹ năng giao tiếp: Đây là một kỹ năng cơ bản và khá quan trọng đối
với trẻ. Kỷ năng này có vị trí chính yếu so với tất cả các kỹ năng khác như
đọc, viết, làm toán và nghiên cứu khoa học. Giáo viên cần phải dạy trẻ biết thể
hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng của mình cho người khác hiểu, trẻ cần cảm
nhận được vị trí, kiến thức của mình trong thế giới xung quanh. Nếu trẻ cảm
thấy thoải mái khi nói về một ý tưởng hay chính kiến nào đó, trẻ sẽ trở nên dễ
dàng học và sẽ sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố
cần thiết để giúp trẻ sẵn sàng học mọi thứ.

+ Dạy trẻ biết nói lời cảm ơn, xin lỗi: Ngay từ khi còn bé, nếu trẻ hiểu
được nên dùng những lời cảm ơn và xin lỗi trong hoàn cảnh phù hợp thì sẽ rất
có lợi cho việc hình thành nhân cách của trẻ sau này. Cho nên là giáo viên cần
phải biết dạy cho trẻ sử dụng các lời nói đó vào những hoàn cảnh cụ thể. Ví dụ
khi có người lớn cho quà trẻ phải biết nhận bằng hai tay và nói lời “cảm ơn”,
hoặc khi không may lỡ làm bạn ngã thì phải biết dùng lời “xin lỗi” đối với
bạn.
3.3. Hướng dẫn giáo viên thực hiện dạy trẻ các kỷ năng sống cơ bản
mọi lúc, mọi nơi:
Muốn dạy trẻ biết dược các kỷ năng sốn cơ bản, trước hết người lớn
phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với trẻ và đảm bảo
an toàn cho trẻ. Tạo điều kiện tốt nhất cho trẻ được vui chơi.
13
Giáo viên cần tạo các tình huống chơi trong chế độ sinh hoạt hàng ngày
của trẻ. Vì đối với trẻ chơi trò chơi có một vai trò rất quan trọng trong việc rèn
kỷ năng sống. Trẻ lớn lên, học hành và khám phá thông qua trò chơi, các hành
động chơi đòi hỏi trẻ phải suy nghĩ, giải quyết các vấn đề, thực hành các ý
tưởng. Ví dụ: Giáo viên có thể giới thiệu với trẻ về chữ cái và các con số
thông qua các trò chơi đóng vai, các trò chơi xây dựng, các trãi nghiệm văn
học và âm nhạc….
Giáo viên cần tranh thủ đọc sách cho trẻ nghe trong mọi tình huống như
những giờ hoạt động góc ở một nhóm nhỏ, trong dạo chơi ngoài trời, hoặc đọc
sách trẻ nghe trong giờ trưa đối với những trẻ khó ngủ. Tăng cường kể cho trẻ
nghe các câu chuyện cổ tích qua đó rèn luyện đạo đức cho trẻ, giúp trẻ hoàn
thiện mình, biết đọc sách, dạy trẻ yêu thương bạn bè, yêu thương con người.
Tạo hứng thú cho trẻ nhỏ qua các truyện bằng tranh tùy theo lứa tuổi, gợi mở
tính tò mò, ham học hỏi, phát triển khả năng thấu hiểu ở trẻ.
Ví dụ: Khi kể chuyện “Ba cô gái” giáo viên đặt những câu hỏi gợi mở
như: “Nếu là con khi nghe tin mẹ bị ốm, thì con sẽ làm gì?”, gợi mở tính tò mò
thay đổi đoạn kết của truyện có hậu hơn, trẻ có thể đặt tên khác cho câu

chuyện v.v….
14
Dạy trẻ kỷ năng phát biểu trước đám đông
Cô giáo phải luôn động viên, khuyến khích trẻ nói lên ý tưởng của
mình, tạo cơ hội cho trẻ được bày tỏ, gợi ý cho trẻ được nói chuyện với các
thành viên trong lớp về cảm giác và về những lựa chọn của mình, cần giúp trẻ
hiểu rằng nên có thông số để theo đó mà lựa chọn, giáo viên không chỉ trích
các quyết định của trẻ. Việc này sẽ hình thành kỹ năng tự kiểm soát bản thân,
rèn luyện tính tự tin cho trẻ khi tham gia các hoạt động và các buổi thảo luận
tại trường sau này.
Cô giáo cần giúp trẻ phát triển sở thích, ý thích của mình và người lớn
có thể cung cấp thêm phương tiện để trẻ thực hiện ý thích đó.
Ví dụ: như trẻ thích vẽ, ngoài việc cho trẻ học năng khiếu vẽ thì cô giáo,
cha mẹ có thể cho trẻ thêm bút màu, giấy vẽ và hãy chỉ cho trẻ cách lưu giữ
các bức tranh để tạo thành một bộ sưu tập tranh vẽ của chính trẻ.
Cô giáo cần dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống, biết cách
sử dụng các đồ dùng ăn uống; hơn nữa trẻ sẽ được dạy cách sử dụng các đồ
dùng đúng chức năng một cách chính xác và thuần thục. Việc này được thực
hiện trong giờ học, giờ sinh hoạt hàng ngày của trẻ tại lớp.
Cụ thể: Trẻ được làm quen với những đồ dùng, vật dụng khác nhau, (bộ
đồ bếp, bộ đồ ăn, bộ đồ uống). Sự sạch sẽ, gọn gàng, một thói quen nề nếp, sự
sắp đặt ngăn nắp, ngay ngắn những bộ đồ dùng, vật dụng, thái độ, ăn uống từ
tốn, không vội vã, không khí cởi mở, thoải mái và đầm ấm, những cuộc trao
đổi nhẹ nhàng, dễ chịu… tất cả những yếu tố trên sẽ giúp trẻ có thói quen tốt
để hình thành kỷ năng tự phục vụ và ý nghĩa hơn là kỹ năng sống tự lập sau
này.
3.4. Tuyên truyền cho các bậc cha mẹ và cộng đồng về kỷ năng sống:
Việc phối hợp giữa gia đình và nhà trường là một nhiệm vụ thiết thực,
tạo sự liên kết và thống nhất giữa trường và cha mẹ trẻ về nội dung, phương
pháp, cách thức tổ chức giáo dục trẻ ở lớp cũng như ở gia đình. Đây là điều

kiện thuận lợi để nhà trường thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến kiến
15
thức giáo dục trẻ cho các bậc cha mẹ và cộng đồng nhằm giúp trẻ có sự phát
triển toàn diện cả về thể chất, tinh thần, nhận thức, tình cảm, thẩm mĩ, ngôn
ngữ, giao tiếp ứng xử góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục mà nhiệm
vụ năm học đã đề ra.
Nhận thức rõ về điều này, trong những năm qua và đặc biệt năm học
2013–2014, đơn vị chúng tôi luôn chú trọng đẩy mạnh công tác tuyên truyền
phổ biến kiến thức, thực hiện có hiệu quả mối quan hệ giữa nhà trường và phụ
huynh. Mối quan hệ này được xây dựng mật thiết theo những kế hoạch, biện
pháp cụ thể, gắn chặt với các hoạt động chuyên môn của nhà trường.
Xây dựng kế hoạch tuyên truyền với các nội dung cần tuyên truyền
được thể hiện trong chương trình từng học kỳ, từng năm học, từng tháng. Kế
hoạch được xây dựng một cách linh hoạt, phù hợp với nhu cầu và tình hình
thực tế của nhà trường.
Tuyên truyền đến các bậc phụ huynh những văn bản chỉ đạo, những
chính sách, chế độ liên quan đến công tác giáo dục mầm non. Trong đó đặc
biệt quan tâm đến nội dung giáo dục kỷ năng sống cho trẻ.
Tuyên truyền về các phong trào thi đua, các cuộc vận động do Bộ
GD&ĐT, Sở GD&ĐT và Phòng Giáo dục, địa phương tổ chức triển khai thực
hiện. Những phong trào, các cuộc vận động này được nhà trường - giáo viên
tuyên truyền trao đổi tới phụ huynh thông qua các buổi họp phụ huynh đầu
năm, giữa năm và cuối năm. Các bậc phụ huynh cùng tham gia bổ sung đóng
góp ý kiến cho nhà trường, cho lớp và có những biện pháp phối hợp giáo dục
trẻ trong quá trình trẻ được học ở trường.
16
Nhà trường tổ chức các hoạt động để phụ huynh học sinh cùng tham gia
lao động vệ sinh trường lớp, trồng cây xanh Đóng góp xây dựng, cải tạo
trường, lớp, công trình vệ sinh, theo quy định và theo thỏa thuận. Đóng góp
của

phụ huynh trong việc mua sắm bàn ghế, các thiết bị để phục vụ dạy và học
theo quy định.
Phụ huynh được tham gia các hoạt động ngoại khóa, các buổi lễ của nhà
trường. Việc nhà trường yêu cầu phụ huynh tham gia vào kế hoạch hoạt động
của mình không chỉ mang tính chất thông báo mà quan trọng hơn là coi cha
mẹ học sinh như một “kênh” thông tin hữu hiệu để giúp nhà trường có thêm
thông tin góp phần vào các hoạt động của nhà trường.
Trao đổi thường xuyên, hằng ngày giữa nhà trường, giáo viên chủ
nhiệm với phụ huynh qua điện thoại hoặc trao đổi trực tiếp thông qua giờ đón
trẻ, trả trẻ. Nhà trường tuyên truyền phổ biến kiến thức nuôi dạy trẻ cho các
bậc cha mẹ, tuyên truyền về phòng một số bệnh nguy hiệm, thường gặp ở trẻ
cho các bậc cha mẹ và cộng đồng.
17
Xây dựng góc tuyên truyền các bậc cha mẹ tại các nhóm lớp, các nội
dung giáo dục lễ giáo phải được thay đổi theo từng chủ đề, từng tháng, hình
thức hấp dẫn để tạo được sự chú ý của phụ huynh khi đưa con đến lớp.
3.5. Hướng dẫn giáo dục kỷ năng sống cho trẻ tại gia đình:
Có thể thấy, trẻ thường dễ dàng kết bạn khi chơi theo đôi bạn trong môi
trường của riêng chúng hơn là chơi trong một nhóm bạn tại trường. Cha mẹ có
thể giúp trẻ phát triển kỹ năng cảm xúc và xã hội bằng cách tạo ra các mối liên
kết bạn bè tại gia đình. Cha mẹ hãy hỏi trẻ muốn mời ai về nhà chơi? Mối
quan hệ này được trẻ duy trì khi đến trường, khi có được mối liên kết với một
trẻ nào đó trong lớp, các mối quan hệ khác sẽ hình thành tiếp theo một cách dễ
dàng hơn.
Tuyên truyền để cha mẹ trẻ có niềm tin với sự hướng dẫn của giáo viên
và năng khiếu tò mò bẩm sinh của trẻ, trẻ có thể lĩnh hội kinh nghiệm nhằm
giải quyết các vấn đề quan trọng, đọc, làm toán, thử nghiệm một số kỹ năng
khoa học khi chơi với nhau.
Cha mẹ trẻ cần phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ và hợp lý bằng
việc tham gia tình nguyện vào quá trình giáo dục trong nhà trừơng. Cha mẹ

nên tham gia vào các buổi trao đổi với giáo viên, tham gia các buổi họp của
nhà trường và dự một số giờ học, dự các hoạt động ngoại khoá; chỉ bằng cách
đó thôi cha mẹ đã giúp trẻ hiểu rằng học là phải học cả đời.
Cần giáo dục để trẻ cảm thấy thoải mái tự tin trong mọi tình huống của
cuộc sống. Nếu cha mẹ muốn giáo dục trẻ biết tự giữ kỷ luật, trước hết cần
đánh thức sự tự ý thức của trẻ, cố gắng khơi gợi để trẻ luôn nghĩ về bản thân
mình một cách tích cực và đừng bao giờ phá vở suy nghĩ tích cực về bản thân
trẻ.
Trong gia đình, việc dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống rất
cần thiết. Để trẻ có được những kỹ xảo, thói quen sử dụng đồ dùng một cách
chính xác và thuần thục và khéo léo, không chỉ đòi hỏi trẻ phải thường xuyên
luyện tập, mà còn phải đáp ứng được những nhu cầu của trẻ, đó là cung cấp
18
cho trẻ những mẫu hành vi văn hóa, những hành vi đúng, đẹp, văn minh của
chính cha mẹ và những người xung quanh trẻ.
3.6. Tổ chức các hoạt động ngoại khóa, vui chơi tập thể:
Nội dung phong trào thi đua“ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực”, trong đó có nội dung: Nhà trường cần tổ chức các hoạt động văn
nghệ, thể thao một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác
của học sinh. Tổ chức các trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi giải trí
tích cực khác phù hợp với lứa tuổi của học sinh.
Trẻ tham gia thể hiện chương trình văn nghệ lớp 5 tuổi chào năm học mới
Căn cứ vào nội dung trên, tôi đã có kế hoạch và thực hiện nhiều hoạt
động một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của trẻ
và của giáo viên trong nhà trường. Cụ thể như sau:
19
Phát động giáo viên làm đồ chơi dân gian theo chủ đề hàng tháng, có
đánh giá, xếp loại, khen thưởng động viên kịp thời; thi sáng tác các trò chơi,
bài hát, điệu múa thể loại dân ca cho trẻ ở lứa tuổi mầm non.
Tăng cường tổ chức hoạt động cho trẻ chơi các trò chơi dân gian trong

giờ hoạt động ngoài trời vào các ngày thứ tư, thứ sáu; tổ chức những trò chơi
rèn kỹ năng tự tin, mạnh dạn giúp trẻ phát triển nhận thức, thẩm mỹ thông qua
đó thông tin tuyên truyền các bậc cha mẹ về kiến thức chăm sóc nuôi dưỡng,
bảo đảm an toàn, phòng bệnh cho trẻ, hướng dẫn các bậc cha mẹ kỷ năng
chấm biểu đồ phát triển theo dõi cân đo nhằm bảo vệ sức khỏe cho trẻ.
Đồng thời, tôi đã phát động cuộc thi hát dân ca giữa các phụ huynh và
học sinh lớp 5 tuổi, qua hội thi đã được sự ủng hộ nhiệt tình và đánh giá cao
của các bậc phụ huynh. Huy động và tạo điều kiện để có sự tham gia hoạt
động đa dạng và phong phú của cha mẹ trẻ em, các tổ chức, lực lượng xã hội,
cá nhân trong việc giáo dục văn hóa, truyền thống, giáo dục lòng yêu nước cho
trẻ.
Trong năm học, ngoài những hoạt động học và hoạt động chơi thì có các
ngày hội, ngày lễ như ngày 20/10, ngày 20/11, ngày 8/3 để các hoạt động
mang tính chất tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân tôi đã tiến hành tổ chức
các hoạt động vui chơi có sự tham gia của các bậc phụ huynh.
Ví dụ nhân ngày 20/11 tôi đã tổ chức cho học sinh ngày hội dân gian
bằng hình thức tổ chức cho trẻ hát dân ca và chơi các trò chơi dân gian cho các
lớp 4 và 5 tuổi tham gia.
3.7. Lập trang Website và sử dụng trang Website:
Lập trang Website của nhà trường và thường xuyên truy cập để nắm bắt
thông tin đồng thời đưa các nội dung tuyên truyền thông qua trang Web. Tôi
đã tự mình xây dựng kế hoạch cho cá nhân là hàng tháng phải có bài tuyên
truyền về giáo dục kỷ năng sống cho trẻ, vận động giáo viên đăng ký thành
viên và đưa lên các bài viết và các tài liệu liên quan đến giáo dục kỷ năng sống
cho trẻ.
20
Đến nay số lượng bài viết, bài đăng và tải lên trên trang Web của trường
tương đối phong phú, trong đó có trang về giáo dục kỷ năng sống cho trẻ tôi
đã đưa lên những nội dung: Dạy trẻ biết dùng lời cảm ơn, xin lỗi; Dạy trẻ kỷ
năng biết chào hỏi lễ phép; Dạy trẻ kỷ năng vệ sinh cá nhân, lao động tự phục

vụ Với các nội dung tương đối phong phú nên được mọi thành viên tham
gia đông và tôi thấy đây cũng là biện pháp tuyên truyền có hiệu quả và rộng
khắp cho mọi đối tượng.
3.8. Xây dựng môi trường giáo dục kỷ năng sống cho trẻ:
Việc xây dựng môi trường giáo dục rất quan trọng, góp phần thực hiện
đạt các chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Tôi đã chú trọng đến công tác xây dựng môi
trường nhằm giáo dục kỷ năng sống cho trẻ.
Trước mỗi lớp học có bẳng tuyên truyền các bậc cha mẹ vớ tiêu đề
“Những điều phụ huynh cần biết” trong đó gồm có các nội dung như: Danh
sách trẻ, Kết quả theo dõi cân đo hàng tháng, định kỳ, kết quả khám sức khỏe,
các nội dung tuyên truyền về dịch bệnh, về giáo dục kỷ năng sống theo chủ
đề Các nội dung được trang trí đẹp mắt và nổi bật gây được sự chú ý của các
bậc phụ huynh khi đưa đón trẻ.
Trong lớp, chỉ đạo giáo viên trang trí các góc mở cho trẻ được trải
nghiệm và tham gia hoạt động. Ví dụ mảng tường trên lớp tôi cho trang trí các
hình ảnh làm nổi bật chủ đề, bên cạnh đó có mảng tường được cắt bằng các ô
bóng kính cho trẻ tự ghép các hình ảnh vào Góc mừng sinh nhật bé, tôi cho
giáo viên trang trí các hoạt tiết biểu tượng cả từng tháng và cho sinh ghép hình
ảnh của mình vào
Chỉ đạo tổ chức các buổi biểu diễn văn nghệ vào cuối chủ đề của lớp, tổ
chức giao lưu các lớp với nhau, tổ chức mừng sinh nhật một nhóm trẻ Qua
đó trẻ rất hứng thú và thông qua các hoạt động đó nhằm giáo dục kỷ năng sống
cho trẻ một cách rất nhẹ nhàng và có hiệu quả.
Đối với các góc khác trong lớp, tôi đã cho giáo viên xây dựng dưới dạng
mở để cho trẻ cùng khám phá, trải nghiệm và giúp cô trang trí
21
4. Kết quả đạt được:
Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự
đồng thuận hợp tác của tập thể sư phạm, sự ủng hộ tích cực của các bậc cha
mẹ đã giúp nhà trường đạt được một số kết quả trong việc dạy trẻ mầm non

các kỹ năng sống cơ bản thể hiện ở các kết quả sau:
* Đối với trẻ:
100% trẻ đều được giáo viên tạo mọi điều kiện cho trẻ được trải nghiệm
thực tế, khuyến khích khơi dậy tính tò mò, phát triển trí tưởng tượng, năng
động, mạnh dạn, tự tin, 100% trẻ 5 tuổi được rèn luyện khả năng sẳn sàng học
tập ở trường phổ thông hiệu quả ngày càng cao.
Trẻ có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kỹ năng tự lập; kỹ
năng nhận thức; kỹ năng vận động thô, vận động tinh thông qua các hoạt động
hàng ngày trong cuộc sống của trẻ ở trong nhà trường. Trẻ đã trở thành những
con người nhanh nhẹn, có những kiến thức và kỷ năng về lao động tự phục vụ
như tự đánh răng, rửa mặt, rửa tay, mặc quần áo…
Trẻ được rèn luyện kỹ năng xã hội; kỹ năng về cảm xúc, giao tiếp;
chung sống hòa bình, và tuyệt đối không xảy ra bạo hành trẻ em ở trường cũng
như ở gia đình. Trẻ mạnh dạn, tự tin, hòa đồng với tập thể, trẻ có tinh thần hợp
tác với bạn chơi, sẵn sàng giúp đỡ khi bạn cần và cần đến sự giúp đỡ của bạn
bè khi mình gặp khó khăn.
Kết quả khảo sát cuối năm về vốn kỷ năng sống của trẻ được thể hiện
trên bảng sau:
Bảng 3. Kết quả khảo sát học sinh về vốn kỷ năng sống sau khi thực
hiện đề tài (Số học sinh được khảo sát 382 trẻ)
Nội dung khảo sát
Kết quả trước khi
thực hiện đề tài
Kết quả sau khi
thực hiện đề tài
Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%)
Trẻ mạnh dạn, tự tin 165/382 43,1 355/382 93,0
Trẻ có ý thức hợp tác, chia sẻ 221/382 57,8 366/382 95,8
22
Kỷ năng giao tiếp, lễ phép 256/382 67,0 375/382 98,1

Kỷ năng vệ sinh cá nhân và tự
lập
198/382 51,8 324/382 84,8
Kỷ năng thích khám phá học hỏi 162/382 42,4 329/382 86,1
* Đối với giáo viên:
Giáo viên đã nắm vững các nội dung giáo dục kỹ năng sống đối với trẻ
mầm non và biết vận dụng vào các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ trên các
nhóm lớp một cách phù hợp với các hoạt động và các chủ đề.
Giáo viên đã mạnh dạn, tự tin hơn khi tổ chức họp phụ huynh, mạnh
dạn trao đổi những ý tưởng của cá nhân khi sinh hoạt chuyên môn hoặc khi
góp ý về chuyên môn, thao giảng
Biết tổ chức các hoạt động ngoại khóa cho trẻ nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục kỹ năng sống.
Chất lượng và nội dung tuyên truyền các bậc cha mẹ được nâng lên rõ
rệt, hình thức tuyên truyền được thay đổi theo chủ đề một cách phù hợp.
Bảng 4. Kết quả khảo sát đội ngũ giáo viên về kiến thức dạy kỷ năng
sống cho trẻ trước khi thực hiện đề tài: (Số giáo viên được khảo sát 32
người)
Nội dung khảo sát
Kết quả trước khi
thực hiện đề tài
Kết quả sau khi
thực hiện đề tài
Số
lượng
Tỷ lệ
(%)
Số
lượng
Tỷ lệ

(%)
Nắm một cách vững vàng các kỷ
năng sống cơ bản đối với trẻ mầm
non
28/32 87,5 32/32 100
Biết tổ chức các hoạt động lồng ghép
giáo dục kỷ năng sống
13/32 40,6 29/32 90,6
Mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp trước 26/32 81,2 30/32 93,7
23
đám đông
* Đối với các bậc phụ huynh:
Phụ huynh rất quan tâm đến việc chăm lo cho con cái, thường xuyên
phối hợp với nhà trường để giáo dục trẻ một cách khoa học, không còn xem
nhẹ về việc dạy kỷ năng sống.
Phụ huynh đã có những trao đổi với giáo viên chủ nhiệm về tình hình
con em mình, cùng bàn bạc tìm giải pháp để khắc phục đối với trẻ cá tính.
Phụ huynh không còn nôn nóng trong việc dạy cho trẻ học trước chương
trình và đã thay đổi trong cách rèn kỹ năng cho trẻ, phân việc cho trẻ, không
cung phụng trẻ thái quá, không còn hình ảnh ba bế con, mẹ đi sau xách cặp
cho con, tranh thủ đút cho con ăn, ngược lại xuất hiện khá nhiều hình ảnh trẻ
tự đeo ba lô, tự đi lên cầu thang, tự xúc cơm ăn …
Phụ huynh rất tin tưởng vào kết quả giáo dục của nhà trường, không chê
bai chỉ trích cô giáo, ngược lại cha mẹ thông cảm, chia sẻ những khó khăn của
cô giáo, cung cấp vật liệu, phụ giúp giáo viên trang trí lớp, làm đồ chơi.
5. Bài học kinh nghiệm:
Công tác giáo dục kỷ năng sống cho trẻ là một công việc được thực hiện
thường xuyên và từ rất xa xưa, nhưng để đưa vào chương trình một cách chính
thống với tên gọi cụ thể giáo dục kỷ năng sống cho trẻ thì thực sự mới được
quan tâm. Sau khi mạnh dạn tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng

giáo dục kỷ năng sống cho trẻ trong trường mầm non, bản thân tôi đã trải
nghiệm, thực hành, nghiên cứu và đã rút ra được một số kinh nghiệm như sau:
Trước hết Ban giám hiệu nhà trường phải có kế hoạch cụ thể về nội
dung giáo dục kỷ năng sống trong nhà trường một cách cụ thể, chi tiết, có đưa
ra bàn bạc, lấy ý kiến tổng hợp sau đó trao đổi với giáo viên để xác định mục
tiêu của nhà trường, kết quả mong đợi phù hợp với tiềm năng phát triển của trẻ
và xây dựng kế hoạch năm học cho từng độ tuổi, từng nhóm lớp phù hợp với
đặc điểm của chương trình.
24
Nâng cao công tác bồi dưỡng đội ngũ và hướng dẫn tự bồi dưỡng, tự
nghiên cứu các tài liệu, đây là việc làm thường xuyên liên tục, không thể bỏ
qua.
Tạo điều kiện về mọi mặt cho giáo viên tổ chức tốt các họat động nuôi
dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ theo kế hoạch, thời gian của nhà trường và của
lớp đã đưa ra.
Hướng dẫn cho giáo viên về các kỹ năng làm việc, phối hợp, tuyên
truyền với cha mẹ trẻ, tạo cơ hội, tổ chức nhiều hoạt động nhằm giúp giáo viên
tăng cường phối hợp nhất quán với gia đình để dạy trẻ kỹ năng sống đạt hiệu
quả.
Giáo viên phải tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến
khích sự chuyên cần, tích cực của trẻ, phải biết khai thác phát huy năng khiếu,
tiềm năng sáng tạo ở mỗi trẻ. Vì mỗi đứa trẻ là một cá thể, một nhân vật đặc
biệt, phải giáo dục trẻ như thế nào để trẻ cảm thấy thoải mái trong mọi tình
huống của cuộc sống.
Giáo viên cần thường xuyên tổ chức các họat động giáo dục chăm sóc
giáo dục trẻ một cách thích hợp tuân theo một số quan điểm: Giúp trẻ phát
triển đồng đều các lĩnh vực: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm- xã hội và
thẩm mỹ. Phát huy tính tích cực của trẻ, giúp trẻ hứng thú, chủ động khám phá
tim tòi, biết vận dụng vốn kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tinh
huống khác nhau.

Giáo viên cần giúp trẻ có được những mối liên kết mật thiết với những
bạn khác trong lớp, trẻ biết chia sẻ chăm sóc, trẻ cần phải học về cách hành
xử, biết lắng nghe trình bày và diễn đạt được ý của mình khi vào trong các
nhóm trẻ khác nhau, giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách
mới. Điều này liên quan tới việc đứa trẻ có cảm thấy thoải mái, tự tin hay
không đối với mọi người xung quanh, cũng như việc mọi người xung quanh
chấp nhận đứa trẻ đó như thế nào? Cần chuẩn bị cho trẻ sự tự tin, thoải mái
25

×