Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Đổi mới hệ thống thông tin phục vụ nghiên cứu và triển khai tại Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.08 KB, 59 trang )

Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Thu Hương
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Hiện nay cuộc cách mạng công nghệ thông tin đang diễn ra sôi động,
tác động sâu sắc và trực tiếp đến mọi mặt hoạt động kinh tế xã hội, làm
thay đổi một cách căn bản tư duy, lối sống, phương thức làm việc và giải trí
trong mọi lĩnh vực cuộc sống của hầu khắp quốc gia trên thế giới, mở ra
một thời kỳ phát triển mới của nhân loại đang bước vào thế kỉ 21. Sự phát
triển từ nền văn minh nông nghiệp sang nền văn minh công nghiệp, tiến lên
nền văn minh thông tin và trí tuệ, mà sự phát triển của nó là sự phát triển từ
nền kinh tế công nghiệp truyền thống sang nền kinh tế thông tin. Đó là sự
hình thành của nền kinh tế mới, nền kinh tế tri thức (Knowledge
Economy), mà đôi khi người ta còn gọi là nền kinh tế dựa trên tri thức
(Knowledge Based Economy) hay nền kinh tế số hoá (Digital Economy),
nền kinh tế thông tin (Information Economy) hoặc là nền kinh tế học hỏi
(Learning Economy) Tuy có nhiều tên gọi khác nhau nhưng đều nhằm
diễn đạt một nội dung cơ bản: ngày nay sản xuất và truyền tải thông tin - tri
thức trở nên quan trọng hơn nhiều so với sản xuất và phân phối hàng hoá
công nghiệp. Từ nền kinh tế vật thể sang nền kinh tế phi vật thể thì tỷ lệ lao
động trí óc trong mỗi sản phẩm làm ra ngày càng cao. Trong cơ cấu GDP,
giá trị gia tăng, lao động và tư bản, hơn 70% sẽ do các lĩnh vực hoạt động
của con người có hàm lượng trí tuệ cao quyết định. Khác với nền kinh tế
công nghiệp, ở đó hàng hoá vật thể được sản xuất hàng loạt là chủ yếu, của
cải vật chất là sở hữu của một số Ýt người và nhu cầu của mỗi cá nhân là
có giới hạn: trong nền kinh tế tri thức, sản phẩm thông tin tri thức đóng vai
trò quan trọng nhất. Chúng là sở hữu của rất nhiều người và nhu cầu của
mỗi cá nhân sẽ là vô hạn. Ngược lại với của cải vật chất, càng nhiều người
dùng thì giá trị càng thấp, trong khi giá trị của thông tin - tri thức càng cao
khi càng có nhiều người sử dụng.
Khoa Thông tin học và Quản trị Thông tin


1
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Thu Hương
Việc hình thành nên những xã hội thông tin đang có chiều hướng lan
rộng ngày càng mạnh mẽ và mang tính quốc tế. Xu thế đó là xu thế "toàn
cầu hoá" nhanh chóng hiện nay đã tạo ra những cơ hội to lớn và đồng thời
cũng tạo ra những thách thức to lớn cho các nước đang phát triển, đang tìm
đường công nghiệp hoá và hiện đại hoá nền kinh tế và xã hội của mình. Xu
thế này không loại trừ bất kỳ quốc gia nào và tất cả đều đang quan tâm đến
việc dùng thông tin tri thức nói chung, thông tin khoa học và công nghệ
mới nói riêng để tạo thế cạnh tranh tương đối của họ hoặc cũng là để khẳng
định chỗ đứng của họ trong một thị trường toàn cầu đa dạng và năng động.
Việt Nam cũng là một trong những nước không nằm ngoài xu hướng đó.
Với Nghị quyết 49/CP được ban hành vào năm 1993, Chính phủ đã
khẳng định quyết tâm "phổ cập văn hoá thông tin" trong xã hội nhằm tạo
môi trường thuận lợi cho việc chuẩn bị hướng tới một "xã hội thông tin".
Gần đây nhất, Nghị quyết lần thứ hai của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(Khoá VIII) đã khẳng định hoạt động thông tin, tuyên truyền, phổ cập kiến
thức khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Đây là một cơ hội, nhưng đồng thời cũng là một thách thức lớn đối với hoạt
động thông tin của Việt Nam.
Tuy nhiên hiện nay việc áp dụng hệ thống thông tin mới trong việc
phục vụ nghiên cứu và triển khai của mỗi cơ quan là khác nhau, tuỳ thuộc
vào nguồn tin, đối tượng người dùng tin, khả năng tài chính, khả năng nhân
lực Sự khác nhau này có thể phân biệt căn cứ vào mức độ tự động hoá
các công đoạn của quy trình hoạt động thông tin tư liệu, tập trung ở công
đoạn lưu trữ và hoạt động phục vụ nghiên cứu và triển khai. Có rất nhiều
biện pháp tăng cường công tác thông tin khoa học và kỹ thuật Việt Nam
như là củng cố và xây dựng mạng lưới các cơ quan thông tin tư liệu của các
Trung tâm nghiên cứu khoa học và công nghệ lớn. Trong mạng lưới thông

tin này Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia (Sau đây gọi
tắt là Trung tâm KHTN & CNQG) là một trong những cơ quan thông tin
Khoa Thông tin học và Quản trị Thông tin
2
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Thu Hương
quan trọng, phục vụ đắc lực cho hoạt động nghiên cứu khoa học và triển
khai công nghệ. Những thành tựu mà các cán bộ khoa học của trung tâm
KHTN & CNQG đạt được trong năm qua là không nhỏ. tuy nhiên, trong xu
thế phát triển mới của thời đại, Trung tâm KHTN & CNQG vẫn còn một số
tồn tại nhất định. Xu hướng phát triển đương đại đòi hỏi các cơ quan thông
tin phải nắm bắt nhanh chóng và làm chủ những thành tựu mà cách mạng
thông tin mang lại - đặc biệt là thông tin khoa học và công nghệ, trong đó
có hoạt động thông tin phục vụ nghiên cứu và triển khai. Chỉ có như vậy,
hiệu quả phát triển kinh tế xã hội mới được đảm bảo và đẩy nhanh tiến độ
hoà nhập của Việt Nam với cộng đồng các nước trong khu vực và trên thế
giới. Để đáp ứng tốt yêu cầu đó, hoạt động của Trung tâm KHTN & CNQG
cần được nghiên cứu và đổi mới và hoàn thiện. Việc hoạt động phục vụ
nghiên cứu và triển khai và từ đó đưa ra các giải pháp thích hợp nhằm tăng
cường đổi mới hoạt động của Trung tâm KHTN & CNQG một cách toàn
diện, đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hoá hiện đại hoá của đất nước.
Là mét sinh viên chuyên ngành Thông tin học và Quản trị Thông tin,
với sự say mê, ham học hỏi, tìm tòi những vấn đề mới mẻ của ngành nên
em đã mạnh dạn nhận đề tài khoá luận " Đổi mới Hệ thống Thông tin phục
vụ nghiên cứu và triển khai tại Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công
nghệ Quốc gia". Với mong muốn vận dụng những kiến thức và kỹ năng
tiếp thu được trong học tập vào việc tìm hiểu thực tế hoạt động của một cơ
quan nhằm củng cố và hoàn thiện những kiến thức đã học để có thể phát
huy chúng một cách có hiệu quả nhất trong công tác sau này

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về hoạt động Thông tin phục vụ
nghiên cứu và triển khai tại Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ
Quốc gia.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.
Khoa Thông tin học và Quản trị Thông tin
3
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Thu Hương
Mục đích:
Nghiên cứu và xây dựng các luận chứng mang tính khoa học và thực
tiễn đối với việc nâng cao hiệu quả hoạt động của Trung tâm TTTL trên cơ
sở hoàn thiện và đổi mới hoạt động thông tin phục vụ nghiên cứu và triển
khai của Trung tâm KHTN & CNQG .
Nhiệm vô:
• Nghiên cứu nhiệm vụ của Trung tâm TTTL đối với sự phát triển khoa
học của Trung tâm KHTN & CNQG.
• Nghiên cứu hoạt động thông tin phục vụ nghiên cứu và triển khai tại
Trung tâm KHTN & CNQG.
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.
Luận văn dựa trên những căn cứ lý luận khoa học của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử, những chủ trương của Đảng và Nhà
nước về phát triển Thông tin để khảo sát, điều tra và nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn là phân tích hệ
thống, tổng hợp tài liệu, điều tra, khảo sát bằng phiếu thăm dò, thống kê sác
xuất, phỏng vấn, so sánh và đánh giá.
5. ý nghĩa của luận văn.
6. Bố cục của luận văn.
Luận văn được kết cấu gồm: Lời nói đầu, 3 chương nội dung, kết luận,
danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục.

Chương I:Tổng quan về hoạt động thông tin phục vụ nghiên cứu và triển
khai tại trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia
1.1. Hoạt động nghiên cứu và triển khai tại trung tâm KHTN & CNQG.
1.2. Vai trò của hệ thống thông tin khoa học trong việc phục vụ hoạt động
nghiên cứu và triển khai cuả trung tâm KHTN & CNQG.
1.3. Đặc điểm người dùng tin của Trung tâm KHTN & CNQG.
Khoa Thông tin học và Quản trị Thông tin
4
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Thu Hương
1.4. Sự cần thiết phải đổi mới hệ thống thông tin phục vụ nghiên cứu và
triển khai tại Trung tâm KHTN & CNQG.
Chương II: Hiện trạng hệ thống thông tin phục vụ nghiên cứu triển khai tại
Trung tâm KHTN & CNQG.
2.1. Hệ thống thông tin phục vụ nghiên cứu triển khai của Trung
tâm KHTN & CNQG.
2.2. Hoạt động thông tin phục vụ nghiên cứu triển khai của
Trung tâm KHTN & CNQG.
Chương III: Những giải pháp nhằm đổi mới hệ thống thông tin phục vụ
nghiên cứu và triển khai tại trung tâm KHTN & CNQG.
3.1. Nhận xét và đánh giá về hệ thống thông tin phục vụ nghiên cứu triển
khai của Trung tâm KHTN & CNQG.
3.2. Những giải pháp nhằm đổi mới.
3.2.1. Đổi mới cơ chế quản lý.
3.2.2. Tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ.
3.2.3. Tăng cường nguồn lực thông tin phục vụ nghiên cứu và triển khai.
3.2.4. Đa dạng hoá sản phẩm và dịch vụ thông tin nghiên cứu và triển khai.
3.2.5. Tạo nguồn đầu tư tài chính.
3.2.6. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế vÒ thông tin.
3.2.7. Giải pháp nhằm hoàn thiện về công nghệ thông tin trong hoạt động

phục vụ nghiên cứu và triển khai.
Khoa Thông tin học và Quản trị Thông tin
5
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Thu Hương
CHƯƠNG I
Tổng quan về hoạt động thông tin phục vụ nghiên cứu và triển khai tại
trung tâm KHTN & CNQG
1.1. HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VÀ TRIỂN KHAI TẠI TRUNG
TÂM KHTN & CNQG.
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển.
Trong bối cảnh của cuộc cách mạng KH & CN đương đại, các nước
đang phát triển nếu tạo lập được những chiến lược đúng đắn, những chính
sách khôn ngoan thì sẽ có nhiều cơ hội "đi tắt", "hội nhập". Ngược lại, nếu
không nhanh chóng xây dựng được cơ sở hạ tầng về công nghiệp đủ mạnh,
không có năng lực nội sinh vững vàng về KH & CN để có thể đối phó được
với những thách thức của "một thế giới cạnh tranh quyết liệt" thì mục tiêu
"bắt kịp" sẽ khó trở thành hiện thực. Trong công cuộc cạnh tranh ráo riết
hiện nay khi tiến vào thế kỷ XXI, KH & CN được sử dụng như một nguồn
sinh lực cơ bản nhất, nhằm tạo ra một năng lực cạnh tranh của mỗi quốc
gia, tăng trưởng kinh tế và đảm bảo công ăn việc làm. Đây là cơ hội, đồng
thời cũng là thách thức đối với nền KH & CN Nước ta.
Hầu hết các quốc gia phát triển và nhiều quốc gia đang phát triển
đều có Viện hàn lâm Khoa học, Trung tâm Khoa học Quốc gia Một số
Viện hàn lâm Khoa học đã có lịch sử thành lập trên 100 năm và là niềm
tự hào của dân tộc họ. Song cùng với các quốc gia đó thì ở Việt Nam, từ
đầu thập kỷ 60 Đảng và Chính phủ đã có chủ trương xây dựng một trung
tâm Khoa học quốc gia với sự giúp đỡ của Liên Xô. Viện nghiên cứu
KHTN (Tiếng Nga viết tắt là Nhiki) đã được xây dựng trên diện tích 8,5
ha ở Nghĩa Đô. Năm 1975, với nghị định 118/CP của Chính phủ, Viện

Khoa học Việt Nam đã được thành lập trên cơ sở Viện Nhiki. Viện có
nhiệm vụ nghiên cứu hầu hết các lĩnh vực khoa học tự nhiên để phục vụ
Khoa Thông tin học và Quản trị Thông tin
6
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Thu Hương
nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước. Lúc này Viện Khoa học Việt
Nam là cơ quan khoa học lớn nhất của cả nước, phát triển theo hướng
xây dựng thành Viện hàn lâm khoa học Việt Nam như Nghị quyết 37 của
Bộ chính trị. Cùng với tiến trình đi lên của đất nước, Viện KHVN đã đẩy
mạnh và mở rộng các hướng nghiên cứu mới. Nhiều Viện chuyên ngành,
nhiều trung tâm, phòng nghiên cứu, phòng thí nghiệm đã dược thành lập.
Lực lượng cán bộ có lúc lên tới 2.800 người thuộc biên chế hành chính
sự nghiệp và hơn 300 người thuộc diện hợp đồng dài hạn. Số lượng các
đơn vị nghiên cứu và triển khai tới năm 1960 là 60 đơn vị cùng với 40
đài, trạm, trại, bảo tàng mẫu vật (thuộc các lĩnh vực vật lý địa cầu, địa lý,
hải dương học, sinh thái tài nguyên ) được bố trí từ vùng núi đến vùng
ven biÓn, hải đảo và các trung tâm kinh tế ở 3 miền Bắc, Trung, Nam.
Viện KHVN đã thiết lập được quan hệ hợp tác KHKT với nhiều viện
Hàn lâm khoa học, nhiều trung tâm Khoa học Quốc gia. Cán bộ của viện
KHVN hầu hết có trình độ đại học trở lên, đa số được đào tạo rất cơ bản
ở nhiều nước có trình độ khoa học tiên tiến. Viện KHVN thực sự là một
Trung tâm khoa học lớn nhất của cả nước bao gồm nhiều viện nghiên
cứu chuyên ngành thuộc hầu hết các lĩnh vực nghiên cứu khoa học tự
nhiên. Đây là thế mạnh giúp viện KHVN có thể tập trung lực lượng
nghiên cứu, đánh giá tổng hợp việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên của
đất nước. [phụ lục 1]
Để có thể đáp ứng những đòi hỏi mới của thực tế khách quan trên, phù
hợp với cơ chế quản lý mới của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Viện KHVN được tổ chức lại thành Trung tâm Khoa học Tự

nhiên và Công nghệ Quốc gia theo Nghị định 24/CP ngày 22/05/1993 của
Chính phủ. Đây là tổ chức khoa học và công nghệ lớn nhất của đất nước về
lĩnh vực nghiên cứu khoa học tự nhiên và triển khai công nghệ.
Khoa Thông tin học và Quản trị Thông tin
7
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Thu Hương
Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia (sau đây viết
tắt là Trung tâm KHTN & CNQG) là cơ quan trực thuộc chính phủ, hoạt
động theo qui chế được thủ tướng chính phủ phê duyệt.
Trung tâm có chức năng tổ chức và thực hiện các hoạt đông nghiên
cứu về khoa học tự nhiên và công nghệ theo các hướng trọng điểm của Nhà
nước, nhằm tạo ra và triển khai các công nghệ tiên tiến có ý nghĩa quan
trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế và xã hội của nước ta. Trung tâm
KHTN & CNQG có nhiệm vụ và quyền hạn (trích Nghị định 24/CP ngày
22/5/1993): [24]
1. Tổ chức các hoạt đông nghiên cứu về khoa học tự nhiên và công nghệ
theo hướng trọng điểm của Nhà nước, triển khai, ứng dụng các kết quả
nghiên cứu và các công nghệ mới vào sản xuất và đời sống xã hội.
a) Nghiên cứu những vấn đề khoa học cơ bản hiện đại làm cơ sở cho việc
phát triển các hướng công nghệ mới.
b) Nghiên cứu tổng hợp về các nguồn tài nguyên thiên nhiên và điều kiện
tự nhiên của đất nước để xây dựng cơ sở khoa học cho việc lập qui
hoạch, kế hoạch cho việc phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và của
từng vùng lãnh thổ.
c) Nghiên cứu tạo ra những công nghệ mới, sản phẩm mới nhằm nâng cao
trình độ công nghệ của những ngành sản xuất quan trọng của đất nước.
d) Tham gia với các ngành, các địa phương trong việc chuyển giao công
nghệ, thẩm định các trình độ công nghệ, xét duyệt luận chứng kinh tế -
kỹ thuật các công trình lớn, quan trọng của Nhà nước và địa phương.

2. Xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ cho hoạt động nghiên cứu
khoa học và triển khai công nghệ của Trung tâm
3. Tham gia đào tạo cán bộ KH & CN, nhất là cán bộ có trình độ cao.
4. Tham gia việc hoạch định chính sách phát triển KH & CN của đất nước.
5. Thực hiện hợp tác về KH & CN với nước ngoài theo các qui định hiện
hành của Nhà nước.
Khoa Thông tin học và Quản trị Thông tin
8
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Thu Hương
6. Quản lý tổ chức, biên chế, tài sản, kinh phí của Trung tâm theo các quy
định hiện hành của Nhà nước.
Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Trung tâm KHTN & CNQG được trình bày
trong Phụ lục 2.
• Khối A gồm 17 viện nghiên cứu chuyên ngành với 252 phòng thí
nghiệm, 9 phân viện độc lập, một hệ thống trên 50 đài, trạm quan trắc,
trại thí nghiệm và 6 bảo tàng tự nhiên.
• Khối B gồm 7 đơn vị chức năng. Đây là các cơ quan quản lý Nhà nước
và giúp việc cho giám đốc trung tâm KHTN & CNQG.
• Khối C gồm 15 doanh nghiệp nhà nước được thành lập theo quy định
338-HĐBT ngày 20/11/1991 và một số doanh nghiệp của các bộ được
thành lập theo thoả thuận giữa lãnh đạo Trung tâm KHTN&CNQG với
các bộ liên đới.
Trung tâm KHTN & CNQG hiện có đội ngũ cán bộ và công chức là
2400 người trong đó có 538 Tiến sỹ, 108 Tiến sỹ khoa học, 60 Giáo sư, 162
Phó Giáo sư và trên 1200 cán bộ có trình độ Đại học và cao đẳng. Số cán
bộ có trình độ đại học trở lên trực tiếp làm nghiên cứu khoa học và triển
khai tại viện nghiên cứu chuyên ngành là 1995 người chiếm tỉ lệ 84,4%.
Nghiên cứu, triển khai ứng dụng khoa học công nghệ là nhiệm vụ
chính của Trung tâm KHTN & CNQG. Do sớm nắm bắt những mục tiêu

nhiệm vụ mới trong giai đoạn công nghiệp hoá hiện đại hoá đÊt nước,
Trung tâm KHTN & CNQG đã thực hiện thành công nhiều chương trình
nghiên cứu, chương trình ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuậtvà công
nghệ vào thực tiễn. Chỉ tính riêng trong 5 năm (1995 - 2000) các đơn vị
nghiên cứu của Trung tâm KHTN & CNQG đã tham gia 37 đề tài cấp Nhà
nước, 29 đề án điều tra cơ bản, 152 đề tài nghiên cứu cơ bản và 5 nhiệm vụ
trong chương trình Biển Đông - Hải Đảo, 110 kết quả nghiên cứu khoa
học- công nghệ đã được sử dụng trong thực tế. Ngoài ra, còn có hàng nghìn
kết quả được công bố trong các tạp chí chuyên ngành trong và ngoài nước,
Khoa Thông tin học và Quản trị Thông tin
9
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Thu Hương
trong các hội nghị, hội thảo toàn quốc và quốc tế. Ngoài những hướng
nghiên cứu cơ bản về khoa học tự nhiên và công nghệ nói chung hiện nay
trung tâm KHTN & CNQG đang tập trung vào 8 hướng nghiên cứu khoa
học - công nghệ ưu tiên có tầm cỡ chiến lược quốc gia:
• Công nghệ thông tin.
• Công nghệ sinh học.
• Khoa học vật liệu.
• Sinh thái và môi trường.
• Tài nguyên sinh học và các hợp chất thiên nhiên.
• Biển và công trình biển.
• Kỹ thuật điện tử, thiết bị khoa học và tự động hoá.
• Dự báo, phòng chống và giảm nhẹ thiên tai.
Tám hướng nghiên cứu khoa học và công nghệ ưu tiên nói trên là cơ
sở cho việc lựa chọn hàng trăm các đề tài và nhiệm vụ cấp trung tâm của
Trung tâm KHTN & CNQG. Thêm vào đó nó còn giúp cho việc phân loại
các đề tài dự án của trung tâm, từ đó xác định rõ hơn mục tiêu và yêu cầu
đối với kết quả và sản phẩm của đề tài thuộc từng loại, và làm cơ sở cho

việc bố trí cơ cấu đầu tư cho các loại trong tổng kinh phí nghiên cứu và
phát triển của trung tâm. Đáp ứng được yêu cầu đề tài của cấp trung tâm là
phải có quy mô tương đối lớn về mặt nội dung, lực lượng cán bộ tham gia,
phương tiện tài chính và thiết bị cần để thực hiện. Ngoài công tác nghiên
cứu khoa học, thực hiện chủ trương gần nghiên cứu với đào tạo, các viện
của Trung tâm KHTN & CNQG đều đăng ký đào tạo sau đại học. Các cơ
sở đào tạo của Trung tâm KHTN & CNQG đã đào tạo hàng trăm Thạc sỹ,
Tiến sỹ và Tiến sỹ khoa học cho các cơ sở nghiên cứu và các trường đại
học. Nhiều cán bộ đã tham gia giảng dạy giáo trình hay hướng dẫn nghiên
cứu sinh tại các trường đại học. Chủ trương đó cũng xuất phát từ tư tưởng
Khoa Thông tin học và Quản trị Thông tin
10
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Thu Hương
cơ bản trong đường lối chiến lược về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công
chức nhà nước trong thời kỳ mới - thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước của Đảng ta.
1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của trung tâm KHTN & CNQG.
Nắm bắt được tầm quan trọng của thông tin KH&CN trong sự nghiệp
nghiên cứu khoa học nên ngay sau khi vừa ra đời (1975) Ban lãnh đạo Viện
KHVN đã ra quyết định thành lập phòng thông tin tư liệu nằm trong khối
chức năng của Viện vào năm 1976.
Năm 1982, căn cứ vào yêu cầu phát triển trong lĩnh vực hoạt động
thông tin khoa học và kỹ thuật của Viện KHVN, Trung tâm Thông tin
Khoa học được thành lập trên cơ sở phòng thông tin tư liệu. Trung tâm
TTKH là cơ quan thông tin khoa học đầu ngành của viện KHVN có chức
năng làm TTKH phục vụ công tác nghiên cứu khoa học và quản lý nghiên
cứu khoa học của viện, giúp Ban lãnh đạo Viện KHVN quản lý mạng lưới
thông tin khoa học của Viện. Thời kỳ này Trung tâm TTKH chỉ có hai bộ
phận chính: Phòng thông tin, Phòng thư viện - lưu trữ và một tổ Hành

chính tổ chức. Trung tâm TTKH có các nhiệm vụ sau:
1. Thu thập, xử lý, phân tích tổng hợp, lưu trữ các loại hình tin, tài liệu, tư
liệu KHKT…có liên quan với công tác nghiên cứu khoa học của Viện.
2. Thông báo và cung cấp thường kỳ hoặc theo chuyên đề cho các đơn vị
nghiên cứu, chương trình TTKH có liên quan với yêu cầu tin mới nhất
và chính xác nhất.
3. Tạo điều kiện và giúp đỡ để cán bộ tra cứu có thể tra cứu những tài liệu,
tư liệu, tin KH…một cách thuận tiện và nhanh chóng.
4. Tổ chức các hoạt động và quản lý công tác thư viện.
5. Xây dựng và phát triển cơ sở in của Viện KHVN.
6. Hợp tác trao đổi TTKH & KT với các cơ quan thông tin KHKT ở trong
và ngoài nước góp phần tăng cường tiềm lực công tác TTKH của Viện.
Khoa Thông tin học và Quản trị Thông tin
11
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Thu Hương
7. Tiến hành cải tiến nghiệp vụ về công tác TTKH ngày càng tiến bộ và
tham gia đào tạo cán bộ TTKH.
8. Quản lý mạng lưới TTKH của Viện.
Để phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ và hướng phát triển của Trung tâm
KHTN & CNQG trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
tháng 7/ 1993 Giám đốc trung tâm KHTN & CNQG có quyết định chuyển
Trung tâm TTKH trực thuộc Viện KHVN thành trung tâm TTTL trực thuộc
Trung tâm KHTN &CNQG. Trung tâm KHTN & CNQG là một trong
những đầu mối trong Mạng thông tin quốc gia, Trung tâm TTTL có những
chức năng và nhiệm vụ chính sau đây{38.1}
1. Giúp lãnh đạo trung tâm KHTN & CNQG thống nhất quản lý mạng lưới
thông tin và tư liệu KH&CN ở mọi dạng thuộc Trung tâm KHTN &
CNQG: thu thập, lưu trữ, xử lý và phổ biến.
2. Phục vụ tài liệu KH&CN ở dạng sách, tạp chí, tập san và các vật mang

tin khác cho các nhà khoa học của Trung tâm KHTN & CNQG.
3. Cung cấp các thông tin mới về thành tựu KH & CN cho lãnh đạo, cán
bộ khoa học thuộc Trung tâm KHTN & CNQG.
4. Thực hiện các đề tài nghiên cứu về nghiệp vụ nhằm nâng cao tiềm lực
thông tin KH & CN của Trung tâm KHTN & CNQG.
5. Nghiên cứu xây dựng dự báo, chiến lược và quản lý khoa học.
6. Tổ chức, biên tập, in Ên, xuất bản và phát hành các Ên phẩm KH & CN
của Trung tâm KHTN & CNQG theo đúng luật xuất bản và những quy
định về bảo mật của nhà nước.
7. Thực hiện các dịch vụ về thông tin, sở hữu trí tuệ, dịch thuật, tổ chức
triển lãm, hội thảo khoa học, quảng cáo các sản phẩm KH & CN của các
đơn vị thuộc Trung tâm KHTN & CNQG.
8. Tổ chức công tác thông tin tuyên truyền trên các phương tiện thông tin
đại chúng.
Khoa Thông tin học và Quản trị Thông tin
12
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Thu Hương
Nghị định 24/CP ngày 22/5/1993 của Chính phủ về việc thành lập
Trung tâm KHTN & CNQG trên cơ sở tổ chức lại Viện KHVN với chức
năng chủ yếu là “Tổ chức và thực hiện các hoạt động nghiên cứu về khoa
học tự nhiên và công nghệ theo các hướng trọng điểm của nhà nước, nhằm
tạo ra và triển khai các công nghệ tiên tiến có ý nghĩa quan trọng đối với sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của nước ta” đã đặt ra những yêu cầu và
nhiệm vụ mới cho hoạt động thông tin tư liệu KH & CN của Trung tâm
TTTL trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mức độ đáp
ứng thông tin đối với NDT tại Trung tâm khoa học phải được Trung tâm
TTTL thực hiện trên cơ sở hiệu quả tối đa, bao gồm: lượng thông tin tối đa,
độ tin cậy thông tin tối đa, và trong thời hạn ngắn tối đa. Để thực hiện được
3 tiêu chí này, Trung tâm TTTL phải tiến hành đồng bộ 3 nội dung sau:

• Xây dùng một nguồn lực thông tin đầy đủ về số lượng, phong phú về
nội dung và đa dạng về hình thức.
• Nguồn lực thông tin này phải được xây dựng căn cứ vào những nhu cầu
đích thực của NDT tại Trung tâm TTTL.
• Trong bối cảnh mới, NDT tại Trung tâm KHTN & CNQG không chỉ đòi
hỏi các nhu cầu của mình phải được đáp ứng một cách đầy đủ và chính
xác mà còn phải nhanh chóng.
1.2. VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG THÔNG TIN TRONG VIỆC PHỤC VỤ
HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VÀ TRIỂN KHAI TẠI TRUNG TÂM
KHTN & CNQG
Từ nửa sau thế kỷ XX cho tới thập kỷ 90, nhân loại đã và đang chứng
kiến những thay đổi thay đổi to lớn và cực kỳ sâu sắc trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội. Những biến đổi to lớn đó đã làm thay đổi hoàn toàn
cục diện của đời sống, chính trị, kinh tế và xã hội trên quy mô toàn cầu.
Trên thực tế, sự vận động của hội loài người đang tiếp cận với một bước
ngoặt vô cùng to lớn. Để chuyển sang một thời đại mới về chất - đó là thời
Khoa Thông tin học và Quản trị Thông tin
13
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Thu Hương
đại chí tuệ mà động lực của thời đại này là cuộc cánh mạng khoa học công
nghệ mới [14.1]. Không giống như các cuộc cách mạng trước đó, trong
cuộc cách mạng KH & CN mới lần này, thế mạnh tuyệt đối của các yếu tố
sản xuất truyền thống như các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sức lao động
rẻ và dồi dào giảm dần và chỉ còn mang ý nghĩa tương đối. Việc xuất hiện
các ngành có hàm lượng khoa học và công nghệ cao (gọi tắt là ngành công
nghệ cao) với sức cạnh tranh cực kỳ to lớn đã đưa chất xám, thông tin và
tiềm lực KH &CN lên vị trí hàng đầu. Kể từ thập kỷ 90 trở đi, vai trò then
chốt của KH&CN nhất là của các ngành công nghệ cao đã hoàn toàn mang
ý nghĩa sống còn đối sự phát triển kinh tế - xã hội, củng cố an ninh quốc

phòng đối với mỗi quốc gia và được đưa lên hàng quốc sách.
Trong những thập kỷ gần đây, người ta đã nhận thấy tốc độ đổi mới
trong KH & CN tăng vô cùng nhanh, cũng vì vậy, thời gian từ lúc phát
minh ra một công nghệ mới, một sản phẩm mới đến khi đưa ra sản xuất đại
trà và thời gian tồn tại trên thị trường của các sản phẩm ngày càng được rút
ngắn. Trong các ngành công nghiệp năng động nhất như vi điện tử và viễn
thông, hơn 50% sản phẩm tồn tại trên thị trường tin học dưới 5 năm. Một
nửa số dược phÈm có mặt trên thị trường dưới 10 năm. Những thành tự
khoa học kỹ thuật không những đã làm tăng gấp bội thể lực, nối dài các
giác quan (như trong các giai đoạn trước) mà còn nâng cao khả năng tư
duy, vượt giới hạn sinh học của con người [22.5]. Điều này đã buộc các
nhà nghiên cứu phải tìm cách nắm bắt các thông tin KH&CN mới nhất,
hiện đại nhất. Thông tin khoa học công nghệ là chất liệu không thể thiếu
được trong hoạt động và nghiên cứu KH&CN. Sở dĩ như vậy vì lao động
KH&CN là lao động mang tính sáng tạo, tìm kiếm cái chưa biết do đó có
thể thành công và cũng có thể thất bại. Sự thất bại trong nghiên cứu
KH&CN có thể do nhiều nguyên nhân với các mức độ khác nhau. Nhưng
một trong những nguyên nhân Êy là do thiếu những thông tin cần thiết và
đủ tin cậy xử lý những vấn đề được đặt ra trong nghiên cứu. Ngoài ra hoạt
Khoa Thông tin học và Quản trị Thông tin
14
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Thu Hương
động nghiên cứu khoa học là một loại hoạt động đặc thù của con người
nhằm thu thập những thông tin khoa học mới trên cơ sở những thông tin mà
loài người đã tính luỹ được. Thiếu thông tin không thể có hoạt động
nghiên cứu khoa học. Thông tin KH&CN được coi là chìa khoá của mọi
hoạt động sáng tạo và trở thành một nhân tố không thể thiếu được trong
chiến lược phát triển KH&CN. Đó chính là tầm quan trọng không thể phủ
nhận của thông tin KH&CN. Sự thành bại trong việc nghiên cứu KH&CN

của các nhà khoa học một phần tuỳ thuộc vào khả năng với tới các nguồn
thông tin phù hợp, phản ánh đúng hiện trạng và xu thế phát triển của đất
nước và khu vực đặc biệt là trong lĩnh vực KH&CN. Các nguồn lực thông
tin KH&CN được tổ chức và khai thác tốt sẽ là các nhân tố quyết định cho
công việc nghiên cứu KH&CN.
Mặt khác, một trong số các đặc điểm nổi bật của cuộc cách mạng
KH&CN hiện đại là sự xâm nhập nhanh chóng và tác động mạnh mẽ của
các quá trình thông tin vào mọi hoạt động của đời sống, kinh tế, xã hôi, là
sự trưởng thành và sự phát triển của ngành công nghiệp thông tin, là xu thế
chuyển hướng sang xã hội thông tin có tính toàn cầu. Thông tin hoá xã hội
được quan niệm là quá trình cải biến đặc biệt toàn bộ hoạt động kinh tế xã
hội. Làm cho các hoạt động này có tính giá trị, sáng tạo, trí tuệ và hiệu quả
hơn trên cơ sở tăng cường hàm lượng thông tin trong các quá trình và kết
quả hoạt động [28.1]. Kết quả của quá trình thông tin hoá xã hội đưa chúng
ta bước vào kỷ nguyên của một xã hội mới: xã hội thông tin. Chóng ta đang
sống trong thời đại bùng nổ thông tin. Nếu trước năm 1500, châu Âu sản
xuất sách với tốc độ 1000 cuốn/năm. Điều này có nghĩa là cần một thế kỷ
để sản xuất 100.000 cuốn sách .Vào đầu những năm 50, bốn thế kỷ rưỡi sau
đó, tốc độ tăng vọt với 120.000 cuốn sánh trên một năm ở châu Âu. Vào
năm 1960, chỉ một thập kỷ sau, tốc độ đã thực hiện một bước nhảy có ý
nghĩa khác, những gì cần một thế kỷ để thực hiện thì nay chỉ cần bảy tháng
rưỡi. Và vào giữa những năm 60, số sách xuất bản trên thế giới là 1000
Khoa Thông tin học và Quản trị Thông tin
15
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Thu Hương
cuốn mỗi ngày. Có thể nói số sách vở in ra tương đương với tốc độ con
người phát hiện ra kiến thức mới. Ngày nay, số lượng tạp chí và bài báo
khoa học đang tăng gấp đôi [1.20]. Tổ chức khoa học giáo dục và liên hợp
quốc đã thống kê: Trên toàn thế giới đã xuất bản 111.950 loại Ên phẩm

định kỳ (1990) và 53650 tờ báo, trong đó nhật báo là 8.250 tờ. Tổng lượng
phát hành mỗi ngày hơn 833 triệu số (1993). Mỗi ngày trên thế giới có
khoảng 20000 công trình khoa học được công bè [33.8]. Số lượng tạp chí
và bài báo khoa học cứ 10 năm lại tăng lên gấp đôi- trung bình mỗi năm
tăng 600 triệu trang [20.49]. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của
lượng thông tin đã làm nảy sinh một vấn đề mới đối với những nhà nghiên
cứu: không phải bất cứ thông tin nào đã tích lũy được đều có giá trị và độ
cần thiết như nhau Hệ số chung của việc sử dụng một các có hiệu quả
kho tàng thông tin do nhân loại tích luỹ được đang có khuynh hướng giảm
đi rõ rệt. Người ta đã ước tính bằng 1/2 thời gian làm việc của nhà nghiên
cứu khoa học phải dành cho việc tìm hiểu thông tin và xử lý các thông tin
thu được.
Nhận thức rõ vai trò của hoạt động thông tin phục vụ nghiên cứu và
triển khai đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và đối với sự
nghiệp phát triển khoa học và công nghệ nói riêng, Đảng và Nhà nước ta đã
ban hành một số chủ trương và chính sách nhằm thúc đẩy công tác này.
Gần đây nhất, Nghị quyết Hội nghị lần thứ II Ban chấp hành Trung ương
Đảng khoá VIII đã khẳng định hoạt động thông tin tuyên truyền và phổ cập
kiến thức KH&CN là một trong 8 giải pháp để thực hiện chiến lược phát
triển KH&CN trong thời kỳ công nghệ hoá và hiện đại hoá. Trong đó đã
nêu rõ [9.74].
• "Đẩy mạnh các hoạt động thông tin, tuyên truyền, phổ cấp kiến thức
khoa học và công nghệ.
• Đẩy mạnh tuyên truyền phổ cập tri thức khoa học Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, khoa học xã hội và nhân văn nói chung, những hiểu biết
Khoa Thông tin học và Quản trị Thông tin
16
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Thu Hương
thường thức về khoa học tự nhiên và công nghệ, bảo vệ môi trường

trong nhân dân, đặc biệt là vùng nông thôn, vùng núi, vùng dân tộc Ýt
người, hình thành lối sống văn mình và sự lành mạnh của môi trường
xã hội.
• Đẩy mạnh các dịch vụ thông tin KHCN về lãnh đạo quản lý, nghiên cứu
khoa học và đổi mới công nghệ ở các doanh nghiêp, đặc biệt là các
thông tin công nghệ.
• Phát triển và quản lý tốt mạng lưới thu thập, sử lý thông tin về KHCN
nước ngoài."
Đối với hoạt động thông tin KH&CN ở nước ta nói chung, và với
Trung tâm KHTN&CNQG nói riêng đây là định hướng chiến lược cực kỳ
quan trong, phù hợp với xu thế phát triÓn chung của thế giới và đặc thù
phát triển của đất nước ta trong thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
1.3. ĐẶC ĐIỂM NGƯỜI DÙNG TIN CỦA TRUNG TÂM KHTN & CNQG
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, quá trình bùng
nổ thông tin cũng đang diÔn ra trên phạm vi toàn thế giới. Con người với
những nhu cầu tin ngày càng phong phú, đa dạng có những tác động không
nhỏ tới hoạt động của cơ quan thông tin. có thể nói việc thoả mãn nhu cầu
tin là yếu tố quyết định chất lượng hoạt động thông tin tư liệu. Nhận thức
được điều này, cũng như các cơ quan thông tin khoa học, vấn đề nghiên
cứu người dùng tin và nhu cầu tin tại trung tâm luôn đặt lên hành đầu.
NDT là yếu tố cơ bản giữ vai trò quan trọng trong bất kỳ Hệ thống
thông tin nào. Điểm xuất phát của dây chuyền thông tin được bắt đầu dựa
vào đối tượng NDT và cũng chính họ là nhân tố cuối cùng để đánh giá chất
lượng hoạt động của cả Hệ thống. NDT là cơ sở cho việc định hướng các
hình thức phổ biến thông tin. Nếu không có NDT, giao lưu thông tin không
thể thực hiện được. NDT là yếu tố tương tác giữa hai chiều với các đơn vị
thông tin. Điều này được thể hiện qua hai khía cạnh. Thứ nhất, NDT được
coi là đối tượng phục vụ, họ vừa là khách hàng tiếp nhận thông tin, vừa là
Khoa Thông tin học và Quản trị Thông tin
17

Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Thu Hương
người sản sinh ra thông tin mới. Thứ hai, NDT được coi là người sản xuất
một phần "nguyên liệu thông tin" cho hoạt động của cơ quan KHTN &
CNQG, họ là lực lượng đưa thông tin vào thực tế sản xuất mặt khác họ làm
cho tài nguyên thông tin phong phú giàu có hơn lên nguồn thông tin của
các cơ quan thông tin. Như vậy, NDT là yếu tố thúc đẩy hoạt động tự động
hoá thông tin, đồng thời là yếu tố chi phối hoạt động này
NDT được cung cấp những sản phẩm và dịch vụ thông tin có chất
lượng sẽ tạo ra nguồn tin có giá trị. và với những nguồn tin có giá trị Êy
các cơ quan thông tin sẽ lại tạo ra những sản phẩm thông tin có chất lượng
hơn. Như vậy, vai trò khách hàng - người sản xuất của NDT có mối quan
hệ nhân quả. Tuy nhiên chỉ có vai trò khách hàng của người dùng tin là trực
tiếp tác động tới sự sống còn của các cơ quan thông tin. với nhu cầu tin cụ
thể của mình, NDT là nhân tố quyết định nội dung thông tin, kênh thông tin
cần được sử dụng trong hoạt động thông tin.
Trung tâm KHTN & CNQG là trung tâm nghiên cứu khoa học và ứng
dụng triển khai công nghệ lớn nhất trong cả nước. Hàng năm, cán bộ của
Trung tâm KHTN & CNQG tham gia nghiên cứu một khối lượng khá lớn
các chương trình nghiên cứu cấp Nhà nước, cấp Trung tâm (cấp Bộ) cũng
như các dự án, đề án hợp tác với nước ngoài. Từ năm 1991 - 1998 Trung
tâm KHTN & CNQG đã thực hiện 15 dự án và 280 đề tài khoa học cấp
Nhà nước, 746 đề tài nghiên cứu cấp Bộ, 56 đề tài khoa học điều tra cơ
bản.
Theo những số liệu thống kê mới nhất chỉ trong vòng 5 năm (1996 -
2000) Trung tâm KHTN & CNQG có 110 kết quả nghiên cứu khoa học và
công nghệ đã dược triển khai ứng dụng vào thực tế, thực hiện 152 đề tài
nghiên cứu cơ bản, 29 dự án điều tra cơ bản, 05 dự án, đề án trong chương
trình Biển Đông, Hải Đảo, 17 dự án sản xuất thử nghiệm cấp Trung tâm, 19
dự án sản xuất thử nghiệm và chuyển giao công nghệ từ quỹ phát triển của

Trung tâm KHTN & CNQG, 129 Dự án, đề án hợp tác quốc tế với hơn 20
Khoa Thông tin học và Quản trị Thông tin
18
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Thu Hương
nước trong đó đa số là các nước phát triển. Bên cạnh các đề án, dự án, đề
án cấp nhà nước và trung tâm hàng năm các cán bộ của Trung tâm KHTN
& CNQG còn thực hiện hàng trăm đề tài nghiên cứu cấp cơ sở.
Do hàng năm thực hiện một khối lượng công việc lớn như vậy nên
NDT tại trung tâm KHTN & CNQG đa số đều là những cán bộ có trình độ
chuyên môn cao, có khả năng đảm nhận được các khâu nghiên cứu cơ bản,
điều tra cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, sản xuất thử nghiệm và tham gia giải
quyết vấn đề bức xúc về KH & CN của đất nước cũng như một số vấn đề
môi trường toàn cầu như công nghệ chất thải, công nghệ sạch, phát thải khí
nhà kính Phần đông những cán bộ khoa học này được đào tạo từ Liên Xô,
Cộng hoà Dân chủ Đức và các nước Xã hội Chủ nghĩa trước đây. Từ sau
năm 1992, một số cán bộ KH & CN trẻ dược đào tạo từ các nước công
nghiệp phát triển như Đức, Pháp, Nhật Bản Nhiều nhà khoa học của
Trung tâm KHTN & CNQG được cộng đồng quốc tế mời nghiên cứu phối
hợp về khoa học hoặc giảng bài tại các trường đại học quốc tế.
Những con số thống kê cho thấy lực lượng NDT thực tế tại Trung tâm
KHTN & CNQG rất mạnh, cả về chất lượng. Đây là một yếu tố rất quan
trọng đối với hoạt động của trung tâm KHTN & CNQG.
Về trình độ ngoại ngữ, theo số liệu điều tra mới đây của Trung tâm
KHTN & CNQG thì có tới 85% NDT sử dụng được 1 đến 2 ngoại ngữ,
15% sử dụng 3 ngoại ngữ. Những ngoại ngữ chính mà NDT sử dụng là
Nga, Anh, Pháp, Đức. Thời gian trung bình NDT tại đây dành cho việc
nghiên cứu tư liệu chiếm khoảng 20 - 30% tổng số thời gian. Họ vừa là
NDT tại Trung tâm TTTL.
Qua điều tra khảo sát và căn cứ vào chức năng công việc của NDT

chúng tôi nhận thấy đội ngũ NDT của Trung tâm KHTN & CNQG có thể
chia thành 3 nhóm chính như sau:
a. Nhóm 1. Cán bộ quả lý kiêm công tác nghiên cứu (15% tổng số cán bộ)
bao gồm:
Khoa Thông tin học và Quản trị Thông tin
19
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Thu Hương
• Ban Giám đốc Trung tâm KHTN & CNQG và lãnh đạo các Viện
chuyên nghành.
• Lãnh đạo các Vụ, phòng, ban của các vụ chuyên ngành trực thuộc Trung
tâm KHTN & CNQG.
• Cán bộ quản lý các đề tài nghiên cứu khoa học và triển khai cấp Trung
tâm KHTN & CNQG và Nhà nước.
NDT thuộc nhóm này có 2 đặc điểm cơ bản:
- Trước hết họ là những người điều hành các công việc và bộ máy hành
chính, chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động của cơ quan, bộ
phận mà họ quản lý. Họ là những người ra quyết định hoặc chuẩn bị ra
quyết định ở các cấp khác nhau. Họ có nhiệm vụ vạch ra phương hướng,
xây dựng kế hoạch, tổ chức và giám sát việc triển khai công tác chung cho
các bộ phận trong Trung tâm KHTN & CNQG. Mặc dù chỉ chiếm15% số
cán bộ nhưng NDT ở nhóm này lại là những chủ thể đặc biệt trong hoạt
động thông tin của Trung tâm TTTL. Để lãnh đạo, quản lý tốt họ không
những cần những thông tin đầy đủ, chính xác trong nội bộ trung tâm
KHTN & CNQG, mà còn cần sử dụng và xử lý thường xuyên các thông tin
chung về chính trị xã hội.
- Khoảng 80% số cán bộ lãng đạo tại nhóm này có trình độ tối thiểu từ
Tiến sĩ trở lên rất nhiều người trong số họ là những giáo sư, tiến sĩ khoa
học, viện sỹ, chuyên gia đầu ngành. Bên cạnh công tác lãnh đạo, quản lý,
hầu hết họ vẫn tiếp tục làm công tác nghiên cứu khoa học. 60% số cán bộ

thuộc nhóm này trực tiếp làm chủ nhiệm, quản lý đề tài từ cấp Viện, cấp
Trung tâm đến cấp Nhà nước. Tuy nhiên, do đảm đương công tác quản lý
nên NDT nhóm này rất bận rộn và thời gian họ dành cho việc nghiên cứu
tài liệu không nhiều (10-20% quỹ thời gian nghiên cứu, quản lý).
b. Nhóm 2. Cán bộ làm công tác nghiên cứu khoa học:
Đây là lực lượng NDT chủ chốt của Trung tâm KHTN & CNQG. Số
cán bộ này có trình độ đại học trở lên và trực tiếp làm nghiên cứu khoa học
Khoa Thông tin học và Quản trị Thông tin
20
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Thu Hương
và triển khai tại viện nghiên cứu chuyên ngành. Thời gian NDT nhóm này
dành cho việc nghiên cứu tài liệu tương đối nhiều (20-40% quỹ thời gian
nghiên cứu).
Người làm nghiên cứu khoa học ngày nay không chỉ cần có kiến thức
sâu về một lĩnh vực mà phải có hiểu biêt rộng về nhiều lĩnh vực khác nhất
là những hiểu biết về kinh tế - xã hội, về sản xuất và đời sống. Ngoài tri
thức lý luận phải có kiến thức thực tế về lĩnh vực chuyên môn của mình, có
kỹ năng thực hành, biết kết hợp nghiên cứu với sản xuất và thị trường đặc
biệt là phải có sự nhạy bén phát hiện các vấn đề của sản xuất, nhu cầu của
xã hội để từ đó vạch ra các hướng nghiên cứu thích hợp. Do vậy, NDT
nhóm này là những NDT rất năng động và tích cực. Họ là những người
thường xuyên tạo ra các thông tin mới qua các công trình, kết quả nghiên
cứu được công bố, họ là những "khách hàng" thân thiết của Trung tâm
TTTL và các cơ quan thông tin khác.
c. Nhóm 3. Học viên Cao học và nghiên cứu sinh tại các cơ sở đào tạo Thạc
sỹ và Tiến sỹ của Trung tâm KHTN & CNQG.
Thực hiện chủ trương gắn nghiên cứu với đào tạo, các Viện của Trung
tâm KHTN & CNQG đề đăng ký xin đào tạo Tiến sỹ (phó Tiến sỹ cũ), một
số Viện được phép đào tạo Thạc sỹ. trong 5 năm qua, các cơ sở của Trung

tâm KHTN & CNQG đã đào tạo được hàng trăm Tiến sỹ, Thạc sỹ cho
Trung tâm KHTN & CNQG, các cơ quan nghiên cứu và các trường đại
học. Nhũng hoc viên này bao gồm những cán bộ đang trực tiếp làm việc tại
Trung tâm KHTN & CNQG và cán bộ của các cơ quan ngoài theo học. Đây
là những người dùng tin rất quen thuộc của Trung tâm TTTL. Đa số họ còn
trẻ (nhất là các học viên cao học), trình độ chuyên môn chưa cao, sử dụng
1-2 ngoại ngữ trong đó tiếng anh là chủ yếu. Thời gian người dùng tin
nhóm này dành cho việc nghiên cứu tài liệu khoảng 30% quỹ thời gian
nghiên cứu, học tập. Họ sử dụng tư liệu chủ yếu là phục vụ cho công tác
học tập hiện tại.
Khoa Thông tin học và Quản trị Thông tin
21
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Thu Hương
1.4. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐỔI MỚI HỆ THỐNG THÔNG TIN PHỤC VỤ NC-TK.
Việc áp dụng hệ thống thông tin phục vụ nghiên cứu và triển khai mới
là nhu cầu tất yếu khách quan của Trung tâm KHTN & CNQG bởi 2 lý do
sau đây:
a. Lý do chủ quan:
- Trung tâm KHTN & CNQG là một trong những đầu mối quan trọng
trong hệ thống thông tin phục vụ nghiên cứu và triển khai do đó việc ứng
dụng hoạt động nghiên cứu và triển khai mới vào trong hoạt động của
Trung tâm KHTN & CNQG là hết sức cần thiết.
- Trung tâm TTTL là một trong những trung tâm thuộc Trung tâm KHTN
& CNQG ở đó có nguồn tài liệu khổng lồ và đa dạng rất cần ứng dụng
CNTT để tự động hóa việc xử lý thông tin, tìm tin và trao đổi thông tin, tự
động hóa lưu trữ và quản lý thông tin, gắn liền với hoạt động xây dựng cơ
sở dữ liệu nhằm phục vụ hiệu quả nhất cho hoạt động nghiên cứu khoa học
và triển khai của Trung tâm KHTN & CNQG.
- NDT của Trung tâm chủ yếu là cán bộ khoa học, đội ngũ NDT có trình

độ cao, có thể tiếp nhận thông tin tự động hoá một cách dễ dàng nhanh
chóng & thuận tiện.
b. Lý do khách quan:
- Nhu cầu giao lưu, trao đổi trong hoạt động nghiên cứu khoa học trong
khu vực và quốc tế ngày một phát triển. Để phục vụ cho hoạt động nghiên
cứu khoa học và triển khai cần thiết phải đổi mới và tăng cường tin hoc
hóa, kết nối các mạng máy tính để NDT có thể tra cứu cập nhật thông tin
trên mạng nhanh chóng và chính xác.
- Yêu cầu hào nhập với công nghệ và kỹ thuật của các cơ quan trong
Trung tâm KHTN & CNQG. Hệ thống thông tin KH & CN quốc gia đòi
hỏi Trung tâm KHTN & CNQG là cơ quan hàng đầu của Hệ thống trong
việc áp dụng công nghệ tiên tiến để quản trị và phục vụ thông tin, xứng
Khoa Thông tin học và Quản trị Thông tin
22
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Thu Hương
đáng với tầm vóc một Trung tâm thông tin đầu ngành trong lĩnh vực hoạt
động phục vụ ngiên cứu và triển khai.
- Xu thế hội nhập khu vực và quốc tế về hoạt động thông tin phục vụ
nghiên cứu và triển khai nói chung và trong lĩnh vục đảm bảo thông tin cho
nghiên cứu khoa học nói riêng, đòi hỏi Trung tâm phải nhanh chóng hiện
đại hoá để có đủ năng lực khai thác và trao đổi thông tin KHCN nói chung
và thông tin phục vụ nghiên cứu và triển khai nói riêng với các hệ thống
thông tin khu vục và quốc tế.
CHƯƠNG II
HIỆN TRẠNG HỆ THỐNG THÔNG TIN PHỤC VỤ
NGHIÊN CỨU VÀ TRIỂN KHAI TẠI TRUNG TÂM KHTN & CNQG
2.1. HỆ THỐNG THÔNG TIN PHỤC VỤ NGHIÊN CỨU VÀ TRIỂN
KHAI TẠI TRUNG TÂM KHTN & CNQG
2.1.1. Tổ chức

Mặc dù đã trải qua nhiều biến đổi về tổ chức, Trung tâm TTTL vẫn
luôn là đơn vị thông tin đầu ngành của Trung tâm KHTN & CNQG. Qua
18 năm phát triển, Trung tâm TTTL luôn luôn bám sát những nhiệm, chức
năng được giao để có những thay đổi cho phù hợp với từng giai đoạn phát
Khoa Thông tin học và Quản trị Thông tin
23
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Thu Hương
triển của Trung tâm KHTN & CNQG, Trung tâm TTTL đã có những đóng
góp đáng kể vào hoạt động nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ
của Trung tâm KHTN & CNQG.
1. Hệ thống quản lý:
Lãnh đạo Trung tâm TTTL Giám đốc. Giám đốc Trung tâm TTTLdo
Giám đốc Trung tâm KHTN & CNQG bổ nhiệm và có những quyền hạn
sau:
Thống nhất quản lý mạng lưới thông tin KH&CN trong Trung tâm
KHTN & CNQG; Tham dự các cuộc họp của Lãnh đạo và Hội đồng Trung
tâm KHTN & CNQG có liên quan đến thông tin; Quản lý cán bộ theo phân
cấp của Trung tâm KHTN & CNQG tuyển chọn, sắp xếp, đánh giá cán bộ
theo chế độ chính sách và các quy định hiện hành của Nhà nước; Kiến nghị
thành lập hoặc giải thể các phòng nghiệp vụ, phòng nghiên cứu và các đơn
vị trực thuộc; lý kết các hợp đồng dịch vụ thông tin, in Ên, xuất bản các Ên
phẩm KH&CN.
Giám đốc Trung tâm TTTL chịu trách nhiệm trước Trung tâm KHTN
& CNQG:
• Về mọi mặt tổ chức và hoạt động của Trung tâm TTTL, quản lý toàn
diện các mặt tổ chức, cán bộ, kế hoạch, chế độ tài chính kế toán, cơ sở
hạ tầng của cơ quan, kể cả các tổ chúc tự trang trải tài chính trực thuộc
Trung tâm TTTL.
• Về việc định hướng chiến lược phát triển tiềm lực Thông tin KH&CN

của Trung tâm TTTL. Xây dựng kế hoạch hoạt động. Chức năng ,
nhiệm vụ, biên chế và tổ chức các phòng chuyên môn, nghiệp vụ thuộc
Trung tâm TTTL do Giám đốc Trung tâm TTTL trình Giám đốc Trung
tâm KHTN & CNQG phê duyệt.
Các Phó giám đốc có trách nhiệm giúp Trung tâm TTTL trong việc
lãnh đạo chung công tác của Trung tâm TTTL, chịu trách nhiệm trước
Giám đốc Trung tâm TTTL về phần công tác được phân công phụ trách và
Khoa Thông tin học và Quản trị Thông tin
24
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Thu Hương
được quyền quyết định những vấn đề thuộc phạm vi và quyền hạn được
giao.
Các trưởng phòng chịu trách nhiệm trước Giám đốc về việc quản lý
công việc và nhân sự của mình.
2. Hệ thống tư vấn:
Tư vấn cho Giám đốc Trung tâm TTTL trong việc lãnh đạo và điều
hành hoạt động của trung tâm là các bộ phận sau:
• Trung tâm Thông tin Tư liệu KH&CNQG (24 lý Thường Kiệt)
• Hội đồng khoa học Trung tâm TTTL
• Chi ủy Trung tâm TTTL
• Ban chấp hành công đoàn Trung tâm TTTL
• Ban tranh tra nhân dân Trung tâm TTTL
Khoa Thông tin học và Quản trị Thông tin
25

×