Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Song hành lưỡng chế” Nhật Bản từ thế kỉ XII đến thế kỉ XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.14 KB, 59 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhật Bản là một quốc gia hải đảo hình vòng cung với 3900 hòn đảo lớn nhỏ, có
diện tích tổng cộng là 377.815 km² nằm xoải theo bên sườn phía đông lục địa châu
Á. Đất nước này nằm ở phía đông của Hàn Quốc, Nga và Trung Quốc và trải từ biển
Okhotsk ở phía bắc đến biển đông Trung Quốc ở phía nam.
Nhật Bản thuộc vùng ôn đới, có 4 mùa rõ rệt. Nước Nhật có 4 đảo lớn theo thứ
tự từ Bắc xuống Nam là: Hokkaido (Bắc Hải Đạo), Honshu (Bản Châu), Shikoku
(Tứ Quốc) và Kyushu (Cửu Châu) cùng hàng ngàn đảo nhỏ chung quanh. Phần lớn
đảo ở Nhật Bản có rất nhiều núi và núi lửa, tiêu biểu như núi Phú Sĩ, cao nhất ở Nhật
Bản. Nhật Bản là quốc gia có dân số lớn thứ mười thế giới với ước tính khoảng 128
triệu người. Vùng thủ đô Tokyo, bao gồm thủ đô Tokyo và một vài tỉnh xung quanh
là vùng đô thị lớn nhất thế giới với khoảng 30 triệu người sinh sống.
Nhật Bản là quốc gia dẫn đầu thế giới về khoa học và công nghệ. Nhật Bản cũng
là nền kinh tế lớn thứ hai toàn cầu tính theo GDP chỉ sau Hoa Kỳ; và là đất nước
đứng thứ 5 trên thế giới trong lĩnh vực đầu tư cho quốc phòng; xếp thứ 4 thế giới về
xuất khẩu và đứng thứ 6 thế giới về nhập khẩu. Quốc gia này là thành viên của tổ
chức Liên Hiệp Quốc, G8, G4 và APEC.
Nhật Bản là quốc gia nằm ở Đông Á, nằm khá gần Trung Hoa và Triều Tiên nên
đã chịu nhiều ảnh hưởng văn hoá của hai quốc gia này và đã tiếp thu nhiều giá trị
truyền thống của nền văn minh phương Đông, cho nên Nhật Bản có nhiều nét tương
đông với các xã hôi phương Đông khác. Nhưng do Nhật Bản có vị trí tách biệt là
nằm cách xa đại lục và nằm cách biệt Trung Hoa bằng một biển rộng nhờ đó mà
không bị Trung Hoa hay nhưng nước đế quốc lơn xâm lược vào các thế kỷ trước. Vị
trí này giúp người Nhật tiếp thu những thành tựu văn hoá bên ngoài để xây dựng nên
nền văn hoá độc đáo của mình với những nét riêng biệt: chỉ một dòng họ duy nhất
làm Thiên hoàng từ thời phong kiến cho đến nay ở Nhật Bản; Người Nhật rất thức
1
thời đã nhiều lần cải cách cho phù hợp với tình hình và đưa đất nước đi lên; Sự tồn
tại song song của hai chính quyền (chính quyền Thiên hoàng và chính quyền Mạc
phủ) suốt 7 thế kỉ trong lịch sử.


Ở một số quốc gia khác trên thế giới, cũng có một số mô hình hai chính quyền
cùng song song tồn tại. Cho nên, tìm hiểu đề tài giúp ta nhận ra được nét tương đồng
cũng như điểm dị biệt giữa song hành lưỡng chế của Nhật Bản và một số mô hình
lưỡng đầu chế khác. Và nghiên cứu về “chế độ song hành lưỡng chế” của Nhật Bản
giúp ta tìm hiểu được sự tồn tại cũng như tác động của nó đến thời kỳ phong kiến
của nước Nhật như thế nào. Qua đó giúp ta hiểu thêm về nước Nhật_một đất nước
đặc biệt trong văn hoá, con người và trong cả lịch sử. Hơn nữa, Việt Nam và Nhật
Bản là hai quốc gia cùng nằm trong khu vực Đông Á, có nhiều điểm tương đồng về
văn hoá và lịch sử. Từ thời cổ đại, cả Việt Nam và Nhật Bản đều tiếp nhận ảnh
hưởng của văn minh Trung Hoa, cùng tiếp thu chữ Hán làm văn tự chính thống và áp
dụng những nguyên tắc của học thuyết Nho giáo, Phật giáo để xây dựng nền giáo
dục, bồi dưỡng nhân tài và tổ chức bộ máy quản lý xã hội.
Mặc dù là một quốc gia phong kiến phương Đông, nhưng ngay từ giữa thế kỷ
XIX, Nhật Bản đã tiến hành công cuộc Duy tân Minh Trị vĩ đại để phát triển đất
nước với phương châm tiếp thu văn minh kỹ thuật của phương Tây kết hợp với tinh
thần Nhật Bản.
Điều kì diệu là chỉ nửa thế kỷ sau đó, Nhật Bản hầu như đã hấp thụ được toàn bộ
những thành tựu khoa học kỹ thuật căn bản nhất mà chủ nghĩa tư bản Âu - Mỹ phải
trải qua hàng trăm năm mới có được biến thành của Nhật Bản và trở thành một cường
quốc ngang tầm với các nước phát triển của thế giới lúc bấy giờ. Con đường duy tân
của Nhật Bản thực sự trở thành tấm gương đầy sức thuyết phục đối với các nước
Châu Á, trong đó có Việt Nam.
Có thể nói việc tăng cường quan hệ với Nhật Bản là một trong những cơ sở quan
trọng cho công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay, song việc
phát triển tốt quan hệ Việt Nam - Nhật Bản đòi hỏi chúng ta cần phải hiểu sâu sắc
hơn về Nhật Bản trên nhiều phương diện. Chính vì vậy, cùng với việc nâng cao tầm
hiểu biết về văn hoá Nhật Bản nói chung thì việc tìm hiểu, lý giải sự phát triển của
2
Nhật Bản từ góc độ lịch sử tư tưởng là một trong những khía cạnh quan trọng và cần
thiết trong lĩnh vực nghiên cứu Nhật Bản tại Việt Nam hiện nay. Đặc biệt, thể chế

phong kiến _ một mẫu hình nhà nước riêng biệt trong lịch sử Nhật Bản rất cần được
nghiên cứu. Với sự giúp đỡ của PGS.TS Hoàng Thị Minh Hoa trên cơ sở kế thừa
thành tựu của những người đi trước, tôi đã nghiên cứu “Song hành lưỡng chế” Nhật
Bản từ thế kỉ XII đến thế kỉ XIX làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nhật Bản luôn là đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều học già, nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước. Và vấn đề “Song hành lưỡng chế” ở thời kỳ phong kiến Nhật
Bản cũng đã được một số học giả, nhà nghiên cứu đề cập ở nhiều góc độ khác nhau.
Như trong nước có tác phẩm “Lịch sử thế giới trung đại” của tác giả Nguyễn Gia Phu
(chủ biên) đã giành hẳn một chương về Nhật Bản. Trong đó, tác giả đã đề cập đến sự
hình thành của chính quyền Thiên Hoàng và sự thành lập của Mạc Phủ.
Tác phẩm “Nhật Bản cận đại” của Vĩnh Sính cũng đã đề cập đến thời kì cuối của
chế độ Mạc phủ ở Nhật Bản.
Tác phẩm “Nhật Bản với châu Á – những mối liên hệ lịch sử và chuyển biến kinh
tế - xã hội” của tác giả Nguyễn Văn Kim đã giành
Mô hình nhà nước phong kiến Nhật Bản đã được tác phẩm “Lịch sử nhà nước và
pháp luật thế giới” của tác giả Phạm Điền đề cập đến.
Tác giả Hoàng Thị Minh Hoa qua tác phẩm “Cải cách ở Nhật Bản trong những
năm 1945 – 1951 và bài viết “Truyền thống và hiện đại của Nhật Bản từ Duy Tân
đến nay” đã bàn về cơ sở lịch sử, cơ sở văn hóa cũng như đặc điểm kinh tế, đặc điểm
giai cấp cho sự hình thành, nguyên nhân tồn tại của “song hành lưỡng chế” hay còn
gọi là “lưỡng đầu chế” Nhật Bản.
Các công trình của tác giả nước ngoài đáng chú ý tác phẩm “A History of Japan”
của tác giả J.G Caiger - R.H.P Mason và cũng mang tựa đề “A History of Japan” của
tác giả George Sansom cũng đã trình bày về sự hình thành của chính nguyền Thiên
hoàng và Mạc phủ. Nhưng hai tác phẩm này chỉ nêu một cách chung chung về chế độ
song hành lưỡng chế không đi sâu vào vấn đề này.
3
Nghiên cứu lịch sử Nhật Bản giai đoạn này chúng ta không thể bỏ qua một số
lượng lớn các bài báo, tạp chí mà đặc biệt nhất là các bài viết trên tạp chí Nghiên

cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á. Có thể kể đến một số bài viết có liên quan đến thể
chế nhà nước phong kiến với hình thức “song hành lưỡng chế” : Bài viết“Về vị trí,
vai trò của Tướng quân thời phong kiến Nhật Bản” số 10 (70) năm 2006 và “Quan
hệ giữa triều đình Thiên hoàng và chính quyền Mạc phủ (1192-1868)” số 6 (60)
năm 2005 của tác giả Nguyễn Thị Hồng Vân; Bài viết “Hệ thống hành chính Nhật
Bản thời kì Mạc phủ”số 3 (51) năm 2004 của tác giả Bùi Bích Vân; Bài viết
“Nguyên nhân suy tàn của chế độ Mạc phủ” số 6 (48) năm 2003 của tác giả Hoàng
Minh Lợi;….
Đặc biệt, đáng chú ý là bài viết “song hành lưỡng chế - nét độc đáo của chế độ
phong kiến Nhật Bản” của tác giả Dương Thị Thúy Hiền đăng trên tạp chí khoa học
trường Đại học Quy Nhơn tập 2, số 1 năm 2008 đã trình bày sự hình thành, nguyên
nhân tồn tại, sự tác động đến lịch sử Nhật Bản của cơ chế độc đáo này.
Có thể nói, nghiên cứu về Nhật Bản cũng như thời kỳ phong kiến Nhật Bản đã
được các nhà khoa học quan tâm. Tuy nhiên, vấn đề hai chính quyền: Thiên hoàng
và Mạc phủ cùng song song tồn tại suốt 7 thế kỉ ở Nhật Bản chưa được đi sâu tìm
hiểu. Vì vậy, khi nghiên cứu về lịch sử Nhật Bản trên cơ sở thừa kế các nguồn tài
liệu, tôi đi sâu tìm hiểu về vấn đề “song hành lưỡng chế” Nhật Bản từ thế kỉ XII đến
thế kỉ XIX để có cái nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về thể chế nhà nước và biểu hiện
của loại hình thống trị đặc biệt của phong kiến Nhật Bản.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận đặt trọng tâm nghiên cứu vào vấn đề “song hành lưỡng chế” hay
“lưỡng đầu chế” trong thời kỳ phong kiến Nhật Bản.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
4
Về thời gian: Khóa luận đề cập vấn đề “song hành lưỡng chế” Nhật Bản từ thế
kỷ XII đến thế kỷ XIX
Về không gian: Nghiên cứu về thời kỳ phong kiến Nhật Bản trước và sau thời kỳ
đó của Nhật Bản
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1 Mục đích
Khóa luận nhằm tìm hiểu được vấn đề về sự tồn tại song song của hai hệ
thống chính quyền ở Nhật Bản, được gọi là “song hành lưỡng chế”. Từ đó, rút ra
nguyên nhân, đặc điêt
4.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ của đề tài làm sáng tỏ các vấn đề sau đây:
1. Sự hình thành hai chính quyền song song: Thiên hoàng và Mạc Phủ trong thời
kỳ phong kiến Nhật Bản
2. Hoạt động của hai chính quyền song song
3. Sự sụp đổ của song hành lưỡng chế
4. Nguyên Nhân và tác động của song hành lưỡng chế
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu
Trên cơ sở kế thừa những thành tựu của các tác giả trong và ngoài nước như sách
chuyên khảo, sách chuyên đề, sách lịch sử thế giới hiện đại…
5
Các bài đăng trên báo, tạp chí, đặc biệt là tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông
Bắc Á.
Các nguồn tài liệu từ tiếng nước ngoài dịch sang tiếng Việt.
Thông tin trên mạng Internet.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương
pháp nghiên cứu logic kết hợp với các phương pháp liên ngành khác như: phương
pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp tư liệu…để tìm hiểu và làm nổi bật lên
vấn đề.
6. Đóng góp của khóa luận
Thứ nhất, sưu tầm, tổng hợp, hệ thống hóa tư liệu trong nước và một số tư
liệu nước ngoài hiện có tại Việt Nam.
Thứ hai, khóa luận muốn cung cấp cách nhìn toàn diện đến vấn đề “song hành
lưỡng chế” trong thời kỳ phong kiến Nhật Bản.

Thứ ba, thông qua khóa luận, thì có thể đóng góp tư liệu, kiến thực lịch sử.
7. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bố cục khóa luận được chia thành 3 chương:
Chương 1. Sự hình thành “song hành lưỡng chế” lịch sử Nhật Bản
Chương 2. “Song hành lưỡng chế” ở Nhật Bản từ thế kỷ XII đến thế kỷ
XIX
6
Chương 3. Nguyên nhân tồn tại và tác động của “song hành lưỡng chế”
đối với thời kỳ phong kiến Nhật Bản.
7
NỘI DUNG
Chương 1
SỰ HÌNH THÀNH “SONG HÀNH LƯỠNG CHẾ”
LỊCH SỬ NHẬT BẢN
1.1. Vài nét về đất nước Nhật Bản
Nằm ở phía Đông châu Á, đất nước Nhật Bản (Nihon hay Nippon) được mệnh
danh là “xứ sở mặt trời mọc”, hay còn gọi là đất nước Phù Tang, bởi vì trong thần
thoại, Phù Tang là tên một loại cây thần mọc ở nơi mặt trời mọc. Trong bức thư gửi
Hoàng đế Trung Quốc thời nhà Tuỳ, Nữ hoàng Nhật Bản đã tự xưng mình là “Hoàng
đế của đất nước Mặt trời mọc” và “Trung Quốc là đất nước Mặt Trời lặn”.
Nhật Bản là một quần đảo gồm trên 3.900 hòn đảo lớn nhỏ nối tiếp nhau tạo nên
một nước Nhật có hình dáng thon dài, trong đó có 5 đảo chính là: Hokkaido, Honshu,
Shikoku, Kyushu và Okinawa[hồ hoàng hoa;16]. Bốn thành phố lớn nhất của Nhật
Bản - thủ đô Tokyo, Yokohama, Osaka và Nagoya đều nằm trên đảo lớn nhất, đảo
Honshu. Với dân số 127.74 triệu người (1/2006), Nhật Bản nằm trong vùng khí hậu
ôn đới nên nói chung là ôn hòa và có 4 mùa rõ rệt với nhiệt độ trung bình từ 20 -
25°C.
Là nước có tiềm lực kinh tế mạnh thứ hai thế giới sau Hoa Kỳ, nhưng Nhật Bản
là một quốc gia nhỏ với diện tích đất đai nhỏ hẹp chỉ vọn vẹn có 377.815 km² lớn
hơn Việt Nam một chút, hầu như Nhật Bản không có tài nguyên thiên nhiên. “Cả địa

lý lẫn tài nguyên thiên nhiên đều chẳng đóng góp gì vào sự vĩ đãi của quốc gia này
mà chính là nhân dân kiệt xuất và quá trình lịch sử đặc biệt.” [1,11]. Tài nguyên
quốc gia chủ yếu của Nhật Bản là khí hậu nhiệt đới và nhiều mưa. Mùa hạ nóng và
nhiều mưa, mùa đông lạnh và có tuyết. Do vậy, Nhật Bản có thảm thực vật phong
phú, hoa trái tươi tốt quanh năm, phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp. Lãnh thổ Nhật
Bản bao gồm 70% đồi núi, 30% đồng bằng nhưng chỉ có 15% đất đai trồng trọt và
chăn nuôi được. Toàn bộ vẻ đẹp thiên nhiên này đã góp phần tạo nên tính nhạy cảm
8
của người Nhật, được thể hiện trong suốt lịch sử, đối với các kỳ quan thiên nhiên và
tạo nên khiếu thẩm mỹ của họ.
Thêm vào đó, Nhật Bản lại nằm đúng vào khu vực thường xuyên phát sinh bão
lớn và mưa to và đây cũng là nơi thường xuyên xảy ra động đất và núi lửa. Hiểm họa
do bão gây ra phần lớn vào mùa mưa, mỗi năm ở Nhật Bản có khoảng 3-4 cơn bão đổ
bộ vào, nhất là vào khoảng cuối tháng 8, đầu tháng 9 hàng năm. Mưa to, gió lớn trong
những đợt bão này có sức phá hoại ghê gớm, nguy hiểm nhất là khi chúng đi dọc bờ
biển, ảnh hưởng gió mùa và mưa to tạo nên những ngọn sóng thần cướp đi tài sản và
sinh mạng của người dân Nhật Bản. Gần đây, người ta thường nhắc đến các con số :
9 độ richter, 10m, 1.700 người, 10.000 người, 3.400 nhà…Đó chính là những con số
thống kê của thảm họa động đất và sóng thần kinh hoàng ngày 11-3-2011 ở Nhật Bản
không chỉ làm hàng ngàn người thiệt mạng, mà còn khiến Nhật Bản bị thiệt hại nặng
nề về kinh tế: Trận động đất mạnh 9 độ richter đã tạo ra một bức tường nước cao đến
10m đổ ập vào bờ biển phía Đông của Nhật Bản; số người chết lên đến hơn 1.700
người và khả năng còn tăng cao; khoảng 10.000 người ở thị trấn Mi-na-ni-xan-ri-cư
thuộc tỉnh Mi-gia-gi của Nhật Bản bị mất tích, chiếm hơn một nửa tổng số 17.000
dân của thị trấn; số lượng tòa nhà bị phá hủy hoàn toàn hoặc một phần đã lên tới
khoảng 3.400…và nhất là Nhật Bản đang chịu thảm họa kép với nguy cơ nổ nhà máy
hạt nhân Fukushima I.
Người Nhật Bản, về cơ bản, thuộc chủng tộc Mongoloid, có quan hệ gần gũi với
nhiều dân tộc khác ở Triều Tiên và Trung Quốc, nhưng cũng giống như mọi dân tộc
hiện đại khác, họ là sản phẩm của sự pha trộn giữa các chủng tộc. Một trong những

nét tính cách nổi bật của người Nhật đó là cần cù và say mê công việc. Theo thống kê
năm 1985, người Nhật Bản làm việc hơn người Tây Đức khoảng 500 giờ, hơn người
Mỹ khoảng 240 giờ. Toàn thể quốc dân Nhật Bản siêng năng làm việc đến mức mà
chính phủ phải kêu gọi dân chúng làm việc ít đi, kéo dài thời gian nghỉ ngơi, giải trí.
Là một đảo quốc ở cách xa đại lục, Nhật Bản gặp một số bất lợi : Nhật Bản nằm
ở rìa phía Đông của “thế giới cổ đại” Á - Âu có nền văn minh rực rỡ, không nằm ở
giao điểm của các tuyến thương mại thế giới mà lại ở nơi thực sự tận cùng trái đất
nên Nhật Bản là nước tách biệt nhất trong số nước lớn được hưởng ánh sáng văn
minh của thời hiện đại.
9
Tuy vậy, vị trí cách biệt này cũng tạo cho Nhật Bản thuận lợi. Mặc dù, đất đai bị
vô số dãy núi chia cắt thành nhiều vùng, nhưng biển bao quanh cho phép liên lạc
tương đối dễ dàng giữa các đảo và dọc theo bờ biển. Biển còn nguồn cung cấp
phong phú cá, nguồn đạm động vật chủ yếu cho người Nhật. Cũng vì là đảo quốc,
nên Nhật Bản ít bị các dân tộc khác từ đất liền kéo sang và ít bị xâm lược ở biên
giới. Sự cách biệt này đã giúp người Nhật được hưởng nhiều hoà bình hơn và có
nhiều cơ hội để phát triển những đặc điểm của riêng mình và tạo ra một lối sống rất
khác biệt so với hầu hết các dân tộc khác. Nhật bản phát triển độc lập và cho đến
thời cận đại hầu như không bị các đế chế hùng mạnh xâm phạm. Những ảnh hưởng
từ bên ngoài vào Nhật rất chậm và sau khi đã được sàng lọc tại các nước Đông Á
xung quanh. Chính là nhờ sự biệt lập tương đối đã giúp người Nhật chủ động tiếp
thu những thành tựu văn hoá bên ngoài để xây dựng nền văn hoá dân tộc độc đáo
của mình. Bên cạnh đó, Nhật Bản là một bộ phận của nền văn minh Đông Á, cùng
Triều Tiên và Việt Nam, trong đó Trung Quốc là trung tâm. Nên nền văn hoá của
Nhật Bản tiếp thu những ảnh hưởng từ nền văn minh Trung Hoa một cách khá đậm
nét. Chính nhờ những điều đặc biệt như vậy, từ xa xưa Nhật Bản đã là một trong
những quốc gia có nền văn hoá đặc sắc nhất và đến nay đang là một cường quốc
kinh tế lớn trên thế giới, tiến sát tới những tiến bộ to lớn nhất trong nền văn minh
nhân loại. Ngay cả trong lịch sử, Nhật Bản cũng có nét độc đáo riêng với sự tồn tại
của hai chính quyền song song: Thiên hoàng và Mạc Phủ tồn tại gần 7 thế kỷ trong

suốt thời kỳ phong kiến của Nhật Bản.
1.2. Sự hình thành chính quyền Thiên Hoàng
1.2.1 Cơ sở hình thành chính quyền Thiên Hoàng
Từ sớm, trên quần đảo Nhật Bản đã có người cư trú. Những dân cư đầu tiên đến
sinh sống ở đây là người Ainu, một tộc người hiện đang sống ở những miền núi lạnh
lẽo của đảo Hocaido, với phong tục và ngôn ngữ riêng. Sau đó vào thời đá mới, có
những tộc người từ miền thảo nguyên Bắc Á và từ các đảo ở Nam Thái Bình Dương
đến định cư tại Nhật Bản. Họ dồn đẩy người Ainu lên phía Bắc, rồi dần dần sống hòa
trộn với nhau, tạo nên chủ thể của dân tộc Nhật Bản.
10
Cho đến nay người ta tìm thấy rất ít dấu vết về thời đại đá cũ ở Nhật Bản, nhưng
những di tích về thời đại đá mới thì được phát hiện khá nhiều và được các nhà nghiên
cứu phân biệt thành hai loại chính. Một loại thường được gọi là văn hóa Giomon (tồn
tại khoảng từ 3000 năm đến 1000 TCN) và một loại khác gọi là văn hóa Yayoi (tồn
tại từ khoảng 500 năm TCN đến 300 năm SCN).
Những di tích vật chất phát hiện được ở văn hóa Giomon bao gồm đồ đá, đồ đất
nung, những đống vỏ sò có lẫn xương cá, xương hươu, xương lợn rừng, xưng chim,
cùng những dụng cụ săn bắn và những dụng cụ đánh cá đã cho thấy được phần nào
cuộc sống của cư dân trong thời kì đá mới ở Nhật Bản. Thời đó, săn bắn và hái lượm
là những phương thức tìm kiếm thức ăn chủ yếu của cư dân. Trong săn bắn người ta
biết sử dụng cung tên và chó săn, hoặc đào những hố sâu và lớn ở ven rừng để bẫy
những thú lớn. Ngoài những thức ăn bằng thịt, cá, cư dân thời đó còn vào rừng hoặc
ra bãi để hái lượm quả cây, măng, nấm, rau cỏ, hay lặn xuống biển để vớt những loại
rong ăn được.
Sang thời Yayoi, tuy vẫn sử dụng phương thức tìm kiếm thức ăn có sẵn trong
thiên nhiên, cư dân Nhật Bản đã bắt đâu biết trồng lúa. Lúc đầu việc gieo trồng còn
rất giản đơn. Người ta còn chưa biết khẩn hoang và đắp bờ giữ nước mà chỉ biết
chọn nơi bùn lầy gieo thóc xuống để lúa mọc tự nhiên. Vào tháng 5 và 6, khi mùa
mưa bắt đầu cũng là lúc người ta dọn cỏ rồi gieo thóc. Đến tháng 9 và 10 thì làm lễ
cầu trời cho mưa thuận gió hòa. Cho đến tháng 1, khi lúa đã chín, người ta dùng dao

gặt về và dùng đôi que cặp để tuốt thóc, phơi khô rồi cất giữ trong chum, vò.
Từ thế kỉ II và I TCN, kĩ thuật canh tác, chăn nuôi cùng với đồ dùng bằng kim
khí đã đồng thời được truyền bá từ Trung Quốc và Triều Tiên vào Nhật Bản, làm cho
sức sản xuất phát triển nhanh chóng. Sản xuất nông nghiệp thời kì này rất được coi
trọng. Theo truyền thuyết và thần thoạt Nhật Bản, việc làm hỏng những cánh đồng
đang được canh tác thời đó bị xem là trọng trội. Dần dần, cây lúa trở thành cây trồng
chính trong nông nghiệp. Người ta biết đào kênh dẫn nước và hồ chứa nước.
Từ đầu công nguyên trở đi, có nhiều người Trung Quốc và Triều Tiên di cư sang
Nhật Bản. Họ mang theo những kĩ thuật và kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp và thủ
công nghiệp của nước họ truyền vào Nhật Bản làm cho Nhật Bản cho những chuyển
biến mạnh mẽ.
11
Theo những tài liệu khảo cổ học và những truyện cổ tích lịch sử Nhật Bản thì vào
thời gian này, bên cạnh sản xuất nông nghiệp đã xuất hiện nhiều nghề thủ công, trong
đó có nhiều nghề thủ công phát triển và được coi trọng như nghề dệt, nghề rèn, nghề
mộc và nghề làm đồ gốm. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của sức sản xuất, sự
phân chia đẳng cấp và sự phân chia thành những bộc lạc đã diễn ra. Những cuộc đấu
tranh giữa các bộ lạc đã xuất hiện, đã thúc đẩy khuynh hướng hợp thành những liên
minh bộ lạc. Đây chính là cơ sở kinh tế và cơ sở xã hội cho sự hình thành chính
quyền Thiên Hoàng sau này.
Theo sách Cổ Sự Ký (Kojiki) viết vào đầu thế kỷ VIII, thời đó, Nhật Bản đã bắt
đầu tiếp nhận ảnh hưởng của tư tưởng ngoại lai khá nhanh, đó là đảo Khổng và đạo
Phật. Song phải nói, ảnh hưởng văn hóa ngoại lai cũng không làm mờ đi tính dân tộc
và tín ngưỡng truyền thống của người Nhật. Đó chính là đạo Shinto (Thần đạo).
Thần đạo xuất hiện từ trước Công nguyên nhưng hệ thống tín ngưỡng tôn giáo
phát triển khá chậm, các nghi lễ được thực hiện trong hang đá hoặc những địa điểm
linh thiêng, và hầu như không có tên gọi. Những truyền thuyết bắt đầu được ghi chép
lại trong cuốn Cổ sự ký (Furukotofumi) và sau đó là Nhật Bản thư kỷ (Nihon Shoki).
Cuốn Nhật Bản thư kỷ tương tự như Heimskringla của Bắc Âu, trong đó các vị vua
chúa đều cho rằng mình là con cháu của các vị thần, ở Nhật Bản là nữ thần Mặt Trời

Amaterasu. Do đó cờ nước Nhật có hình Mặt Trời.
Thần đạo có rất nhiều các thần thánh, có đến 8 triệu thần (kami). Tuy một số các
vị thần này được nhân cách hóa, đa phần các thần liên quan đến thiên nhiên như linh
hồn của đất, trời, mặt trăng, cây cỏ, hoa lá. Ngay cả đá, núi, hay động vật như cáo,
gấu và người quá cố đã trở thành linh hồn cũng được xem là thần. Những thần trú
ngụ ở tầng cao nhất trên thiên đàng gọi là "cao thiên nguyên", và chỉ rời khỏi đó khi
được mời xuống các đền thờ trong các nghi lễ.
Nghi lễ trong Thần đạo để cầu nguyện hay cảm tạ các thần thường được tổ chức
tại các thần xã (hoặc những nơi linh thiêng đặc biệt. Những linh vật thường được
dâng lên thần linh là vải, gương . Nghi lễ tẩy trần rất quan trọng, người làm lễ phải
giữ cho mình được trong sáng để được tĩnh tâm và có được may mắn. Ngày nay, các
12
hoạt động nghi lễ Thần đạo thường được gắn với lễ hội, lễ cưới truyền thống hay
năm mới. Tuy nhiên người ta cũng thường hay đến đền để cầu nguyện và dâng lễ
(thường là chỉ bỏ vài yên vào thùng rồi cầu xin thần), hay mua bùa may mắn. Và ở
nhà cũng thường có thần bằng (kamidana) để thờ các linh hồn.
Tư tưởng của Thần đạo khác với những tôn giáo khác ở chỗ không cấm hay
buộc con người làm gì, mà chỉ khuyên nên hướng tới sự trong sáng và tránh điều ác.
Giết chóc đối với Thần đạo là điều ác và không nên giết sinh vật trừ khi vì sự sống
còn của bạn, nên trước khi ăn thường phải nói câu Itadakimasu! để cảm ơn những
sinh linh đã chết để trở thành thức ăn, ngày nay điều này đã trở thành một phong tục.
Những người hay sinh vật bị giết một cách dã man, và không được thờ cúng sẽ trở
thành hoang thân. Ngoài ra, còn có rất nhiều loại ma quỉ như quỉ (oni), yêu quái
(youkai), hà đồng (kappa)...
Và Thần đạo chính là cơ sở hay nói đúng hơn là hệ tư tưởng của chính quyền
Thiên Hoàng Nhật Bản sau này hình thành và tồn tại. Thật vậy, nhiều truyền thuyết
vẫn được truyền tụng qua những câu chuyện dân gian và những nguyên tắc về nền
quân chủ và thể chế cai trị vẫn được duy trì hàng nhiều thế kỷ không gì phá vỡ nổi.
Đạo Shinto thể hiện rõ ý thức dân tộc của người Nhật Bản khó pha tạp.
1.2. 2 Sự hình thành chính quyền Thiên Hoàng

Có nhiều huyền thoại Nhật Bản đã trả lời cụ thể câu hỏi: Quốc gia Nhật được
hình thành từ bao giờ cũng như nguồn gốc của Thiên Hoàng?. Theo thần thoại Nhật
Bản trong Cổ Sự Ký (Kojiki) viết vào đầu thế kỷ VIII thì Thiên hoàng đầu tiên của
Nhật Bản là Jmmu thuộc dòng dõi nữ thần Mặt trời. Do đó, về sau các Nhật hoàng
đều coi mình là con cháu của Nữ thần Mặt trời. Tuy nhiên, vì không có tư liệu đầy
đủ về Thiên hoàng Jmmu. Vì Thiên hoàng này được tạo dựng nên từ trí tưởng tượng
phong phú của người Nhật nhằm giải thích cho nguồn gốc cao quý của mình, nên
Thiên hoàng này chỉ mang tính thần thoại. Nhưng có thể chắc chắn rằng tổ tiên của
Nhật hoàng là con cháu của thế lực đã lập nên triều đình Yamato xuất hiện vào cuối
13
thế kỷ IV trên đảo Honshu. Triều đình Yamato có thế lực lớn nhất Nhật Bản lúc bấy
giờ và đã hưng khởi lên thống nhất được nước Nhật.
Trên cơ sở phát triển của đồ đồng, trong những thế kỉ đầu Công nguyên, ở Nhật
Bản đã diễn ra quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thuỷ, quá trình phân hoá
tài sản và xuất hiện giai cấp. Những hình thức phôi thai của nhà nước bắt đầu ra đời
ở miền Tây Nhật Bản. Theo Đông di truyện trong các sách Hán thư địa chí và Hậu
Hán thư của Trung Quốc thì vào thế kỉ I ở Nhật Bản đã hình thành hơn 100 nước
nhỏ. Những nước này thực chất là những liên minh bộ lạc được hình thành trong
cuộc đấu tranh giữa các bộ lạc nhằm thôn tính lẫn nhau, nhưng đã mang một vài yếu
tố của nhà nước. Kẻ đứng đầu liên minh bộ lạc ít nhiều đã mang tính chất của một
ông vua độc quyền, chuyên chế. Các sử gia Nhật Bản thường gọi các liên minh bộ
lạc đó là những quốc gia bộ lạc (Buraku kokka).
Cuối thế kỷ II đầu thế kỷ III những cuộc chiến tranh giữa các quốc gia bộ lạc
xảy ra làm xuất hiện một số nước tương đối lớn, trong đó lớn mạnh hơn cả là nước
Yamatai do nữ vương Himicô cai trị. Yamatai lần lượt chinh phục các nước khác,
bắt các nước đó phải thần phục mình. Tuy nhiên, nước Yamatai không tồn tại được
lâu. Từ cuối thế kỉ III về sau không thấy tài liệu lịch sử nào nói đến nữa. Có lẽ nó đã
bị suy yếu và bị nước khác chinh phục trong cuộc chiến tranh giữa các nước với
nhau.
Đến cuối thế kỷ IV, ở phía Tây Nam đảo Honshu xuất hiện quốc gia Yamato. Sự

hình thành nhà nước Yamato là kết quả của quá trình chinh phục và chiếm đoạt đất
đai của nhiều tiểu quốc và cử sứ thần sang Trung Quốc cầu phong. Người đứng đầu
nhà nước Yamato ngày càng phát triển thế lực ra xung quanh và trở thành Thiên
hoàng, đó chính là nguồn gốc của vua Nhật Bản sau này. Ngoài việc chiếm đoạt
những vùng đất đai lớn, thu thuế các công xã nông nghiệp, bóc lột nô lệ, Thiên
hoàng còn thu được loại thuế trong quan hệ buôn bán giữa Nhật Bản với Triều Tiên
và Trung Quốc. Thiên hoàng tập hợp xung quanh mình các tộc họ (gọi là “thị”) có
thế lực và biến thủ lĩnh của các bộ lạc thành các quan lại thay mặt cho chính quyền
14
trung ương ở các địa phương. Đến thế kỷ V, nước Yamato đã thống nhất được cả
Nhật Bản.
Tất cả các thành viên của các tộc họ họp thành tầng lớp công dân. Tầng lớp quý
tộc thống trị và “hạ hộ” là những thường dân, dân tự do, bị tầng lớp quý tộc áp bức
và bóc lột. Ngoài dân tự do, trong xã hội Yamato còn có một tầng lớp đông đảo khác
nữa gọi là bộ dân. Tầng lớp bộ dân xuất hiện vào khoảng thế kỷ III, tức là khi sự
phân hoá giai cấp và chế độ tư hữu tài sản bắt đầu phát triển. Thực chất, bộ dân là
những người tự do, có địa vị gần giống với địa vị người lệ nông ở Rôma thời cổ đại.
Họ có được một ít tài sản riêng, bị trói chặt vĩnh viễn vào đất của Thiên hoàng và
quý tộc, song chủ không có quyền bán và giết họ. Lao động của các tầng lớp bộ dân
đã có một vai trò quan trọng, góp phần thúc đẩy sự phát triển của các lực lượng sản
xuất và giai đoạn hình thành quốc gia Nhật Bản. Ngoài lao động của dân tự do và bộ
dân, còn có lao động của nô lệ. Tuy quan hệ nô lệ tồn tại trong xã hội Yamato,
nhưng, nhìn chung Nhật Bản không trải qua sự phát triển đầy đủ của xã hội chiếm
hữu nô lệ. Sở dĩ như vậy, là vì một mặt, nông nghiệp vốn là ngành kinh tế chủ yếu
của Nhật Bản, đều do nông dân công xã đảm nhiệm. Nô lệ ở đây chưa bao giờ là
người lao động sản xuất chủ yếu. Mặt khác, thời kì hình thành nhà nước ở Nhật Bản
cũng là thời kì mà chế độ nô lệ xét trên phạm vị toàn thế giới, đã lâm vào tình trạng
suy sụp. Cho nên, chế độ chiếm hữu nô lệ không có điều kiện thuận lợi phát triển ở
Nhật Bản, mà có nhiều điều kiện cần thiết cho sự hình thành chế độ phong kiến.
Vào cuối thế kỷ III - đầu thế kỷ IV cho đến thế kỷ VII, một nét đặc sắc trong đời

sống văn hoá, xã hội của Nhật Bản là sự xuất hiện của mộ cổ (Kofun). Thoạt đầu,
vào cuối thế kỷ III hoặc đầu thế kỷ IV, các lăng mộ còn tương đối nhỏ và được xây
dựng trên những khu đồi tự nhiên. Vào thế kỷ V, quyền lực của các nhà thống trị
Yamato đã lớn mạnh, xét qua qui mô lớn của các phần mộ của họ. Những lăng mộ
đó vẫn được xây trên những cánh đồng như những khu đồi nhỏ. Kích thước đo đạc,
kỹ thuật xây dựng và các vật trang trí đều đã được tiêu chuẩn hoá và xung quanh
phần mộ là những hào sâu có hình dáng đặc biệt hình lỗ khoá. Lăng mộ lớn nhất là
của Thiên hoàng Nintoku, nằm ở vùng Osaka hiện nay. Tương truyền việc xây lăng
mộ này phải mất 20 năm mới hoàn thành.
15
Sự xuất hiện của các mộ cổ này cho thấy ảnh hưởng của Thiên hoàng ngày càng
lớn trong xã hội Nhật Bản lúc bấy giờ và còn có liên quan đến sự phân chia giai cấp,
sự hình thành nhà nước cổ đại. Những lăng mộ thời kỳ này là những công trình nguy
nga về quyền chiếm lĩnh đất đai của Thiên hoàng Nhật Bản. Tương truyền việc xây
lăng mộ Nintoku phải mất 20 năm mới hoàn thành. Thiên hoàng đã có quyền lực đủ
mạnh để huy động một lực lượng lao động rất lớn làm việc này. Ngoài mộ của Thiên
hoàng thì những mộ cổ lớn thuộc về những người đứng đầu bộ lạc. Cùng với sự thay
đổi trong xã hội, các mộ cổ (Kofun) cũng dần dần nhường chỗ cho việc xây dựng
những kiểu mộ phần khác.
Vào nửa sau thế kỷ VI, các quý tộc không ngừng phát triển thế lực của mình bằng
cách xâm chiếm đất công làm của riêng, do đó làm cho mâu thuẫn trong nội bộ giai
cấp thống trị và nhất là mâu thuẫn giữa chính quyền trung ương với các quý tộc, ngày
càng phát triển gay gắt. Lúc bấy giờ có hai họ quý tộc lớn đấu tranh với nhau là họ
Soga và họ Mononobe. Trước sự phát triển của sản xuất và những mâu thuẫn trong
xã hội như vậy, bọn quý tộc thống trị nghĩ đến viêc nhanh chóng tạo nên một chính
quyền Nhà nước vững mạnh và thay đổi phương thức bóc lột. Trong khi đó, việc
buôn bán với Trung Quốc và Triều Tiên cũng được đẩy mạnh. Di dân của Trung
Quốc và Triều Tiên sang Nhật Bản ngày càng nhiều và cùng với nó là những kĩ thuật
sản xuất tiên tiến. Chế độ chính trị, tư tưởng Nho giáo, Phật giáo cũng như các thành
tựu văn hoá khác của lục địa cũng được truyền bá ở đậy. Một bộ phận quý tộc Nhật

Bản, mà đại diện là họ Soga và thái tử Shotoku, muốn xây dựng ở đất nước mình một
thể chế nhà nước theo hình ảnh của chế độ phong kiến Trung Quốc. Sau khi đánh bại
dòng họ Monobe, đại diện cho thế lực chống đối, Shotoku đã ra sức củng cố chế độ
trung ương tập quyền bằng cách đề xướng Phật giáo, tiếp thu tư tưởng chính trị của
Nho gia, đặt ra chế độ quan lại 12 cấp và quy định chức quan không được cha truyền
con nối. Năm 604 lại công bố “Luật 17 điều”, tức một bản tuyên ngôn của các nhà
vua Yamato, mà thực chất là mệnh lệnh về đạo đức, trong đó tư tưởng trung quân
được đặt lên hàng đầu.
Cái danh hiệu “Thiên hoàng” có lẽ được đặt ra bắt đầu từ đây. Cũng từ thế kỉ VII,
các vua Nhật Bản đã tự coi mình ngang hàng với hoàng đế Trung Quốc. Mở đầu bức
16
thư gửi nhà Tuỳ năm 607, Shotoku đã viết: “Thiên tử nơi mặt trời mọc gửi Thiên tử
nơi mặt trời lặn. Chúc sức khoẻ”. Chính tư tưởng trung quân, muốn xây dựng và
củng cố một nhà nước trung ương tập quyền vững mạnh theo hình mẫu của Trung
Quốc là một trong những nguyên nhân dẫn đến cải cách Taika sau này.
Trên đường xây dựng và củng cố nhà nước trung ương tập quyền, chướng ngại
đầu tiên mà Thiên hoàng phải vượt qua là dòng họ Soga, kẻ lũng đoạn chính quyền
của Thiên hoàng, chiếm ruộng đất và khống chế nhiều hộ dân. Vì vậy, chỉ có thủ tiêu
thế lực họ Soga thì việc cải cách mới có thể thực hiện được. Cuối cùng, vào năm 645,
một cuộc chính biến lật đổ thế lực họ Soga, quyền lực thực sự được trả về cho Thiên
hoàng Kotoku, đặt hiệu là Taika (Đại hoá). Năm 645 được xem là năm Taika thứ
nhất cũng niên hiệu đầu tiên được quy định trong lịch sử trong nước - nước Nhật
chính thức được thành lập. Sau một năm lên ngôi, năm 646 Thiên hoàng Kotoku ban
hành chiếu cải cách. Lịch sử Nhật Bản gọi đó là cuộc cải cách Taika (646 – 649) với
nội dung chủ yếu: là xóa bỏ quyền sở hữu tư nhân về đất đai để chuyển vào quyền sở
hữu của nhà nước. Chế độ bộ dân đồng thời cũng được bãi bõ, toàn bộ cư dân trở
thành thần dân của nhà nước, được lĩnh canh các khoảnh đất của quốc gia, và do đó
có nghĩa vụ đóng thuế cho nhà nước.
Theo quy định của chế độ “ban điền” (chia ruộng) trong cải cách Taika thì người
ở địa phương nào được chia ruộng ở địa phương ấy. Nam từ 6 tuổi trở lên, mỗi người

được cấp 1 đoạn (1 đoạn bằng 0,12 ha), mỗi suất nữ được chia bằng 2/3 suất nam.
Nếu có nô tì hoặc đầy tớ trai hay gái thì được cấp mỗi người bằng 1/3 suất của người
tự do. Những người nhận ruộng xấu thì được cấp gấp đôi diện tích đã ấn định. Mỗi
gia đình được quyền sở hữu với đất nhà, đất vườn của họ. Nông dân phải nộp thuế
cho nhà nước bằng thóc với mức 3 % sản lượng thu hoạch ở những người dưới 1 mẫu
ruộng va mức 25 % sản lượng thu hoạch với những người có trên 1 mẫu ruộng. Đồng
thời, họ còn phải nộp thuế bằng sản phẩm thủ công nghiệp gia đình như tơ, lụa, bông,
vải hoặc thổ sản địa phương và phải làm lao dịch 10 ngày trong một năm trong các
công trình chung.
17
Chính sách ban điền của cải cách Taika rõ ràng là sự xác nhận quan hệ sản xuất
phong kiến ở Nhật Bản giữa thế kỉ VII. Sau cải cách, nền tảng căn bản của chế độ
phong kiến Nhật Bản được xác lập. Với ý nghĩa đó, cải cách Taika được coi là một
sự kiện lịch sử quan trọng đánh dấu sự xác lập chế độ phong kiến ở Nhật Bản, đưa sự
tập trung quyền lực cao độ vào tay Thiên Hoàng và trong thời kỳ tiếp theo_thời kỳ
Nara (710 – 794), chế độ phong kiến Nhật Bản được củng cố vững chắc, chính quyền
Thiên hoàng nhờ vậy càng vững mạnh.
1.3. Sự hình thành chính quyền Mạc Phủ
1.3.1 Cơ sở hình thành chính quyền Mạc Phủ
Sau cải cách Taika, nhà nước Nhật Bản đã xác lập được quyền sở hữu tối cao
của mình đối với ruộng đất trong toàn quốc, và thực hiện quyền sở hữu ruộng đất đó
dưới hình thức “ban điền”. Tuy nhiên sự thống trị của hình thức sở hữu nhà nước về
ruộng đất không tồn tại được lâu. Từ thế kỷ VIII, nhà nước thi hành nhiều chính
sách nhằm khuyến khích khai khẩn đất hoang. Năm 723, nhà nước ra sắc lệnh quy
định nếu ai khai khẩn đất hoang chưa có kênh ngòi sẵn thì được truyền ba đời, còn
đã có kênh sẵn thì được sử dụng suốt đời, sau khi chết phải trả lại cho nhà nước. Đến
năm 743, nhà nước lại tuyên bố ruộng đất khẩn hoảng thuộc quyền sở hữu vĩnh viễn
của người khai khẩn. Lợi dụng tình hình đó, một số quý tộc còn giả mạo ruộng đất
của nhà nước ban cấp thành “ruộng mới khai phá” để trốn thuế và chuyển dần sở
hữu riêng. Một phần ruộng của nhà nước ban cấp cho nông dân trước kia cũng bị

chúng chiếm đoạt làm ruộng tư.
Mặt khác, những nông dân nghèo, thấy mình không tự lực khai thác và bảo vệ
được đất đai liền hiến hoặc cho giới đại địa chủ thuê đất của họ với giá rẻ mạt. Đối
với họ như vậy vẫn có được đất đai để cày cấy lại được sự che chở của các địa chủ
lớn. Thông qua phương thức này, giới đại địa chủ dần dần chiếm những diện tích đất
đai lớn của nông dân nghèo.
Việc chuyển nhượng quyền sở hữu và sử dụng đất đai còn có hình thức khác.
Nhiều nông dân nghèo, kể cả các trại chủ nhỏ, bán đất của mình cho đại địa chủ. Do
18
đó, nhiều mảnh đất vẫn giữ tên tuổi của nông dân nhưng thực chất đã do các đại địa
chủ nắm quyền sở hữu và làm chủ.
Chính vì thế, chế độ “ban điền” đã dần dần tan rã và đến thế kỉ X thì ruộng đất
thuộc quyền sở hữu tư nhân đã hoàn toàn lấn át ruộng đất do nhà nước ban cấp. Sự
phát triển của chế độ ruộng đất tư hữu làm xuất hiện các trang viên phong kiến rộng
lớn. Các trang viên này không những được miễn thuế mà còn có quyền bất khả xâm
phạm về hành chính.
Đi đôi với sự lớn mạnh về kinh tế và chính trị, các trang viên còn chú ý xây dựng
lực lượng vũ trang riêng với tên gọi là “võ sĩ” (Samurai). Lực lượng vũ trang này
bao gồm một bộ phận nông dân lớp trên tương đối có thế lực về kinh tế và có ảnh
hưởng về mặt xã hội. Các trại chủ nhỏ và trung bình cần có lực lượng để bảo vệ đất
đai và vùng lãnh địa của mình. Họ lập những nhóm có vũ trang, biết sử dụng thành
thạo vũ khí. Những nhóm vũ trang này liên kết với nhau kể cả các lực lượng bảo vệ
của đại địa chủ để có sức mạnh. Họ là những lực lượng độc lập nhưng vẫn có danh
nghĩa về sở hữu đất đai nên họ thoát khỏi sự kiểm soát của chính quyền.
Quá trình đó dần dần hình thành trong xã hội nông thôn một tầng lớp chiến binh
chuyên nghiệp- samurai mà chính quyền không kiểm soát được. Và trong xã hội,
hình thành một mối quan hệ mới giữa các chủ trang viên và các võ sĩ. Các võ sĩ phải
thành thật với chủ mình và bảo vệ chủ mà không tiếc tính mạng. Chủ có nhiệm vụ
phải cung cấp lương thực, quần áo, và nhà ở cho các võ sĩ. Như vậy là trong các lực
lượng vũ trang ở các trang viên đã xuất hiện một tầng lớp mới: tầng lớp võ sĩ chuyên

nghiệp. Tầng lớp samurai này về sau đã có một vai trò hết sức quan trọng trong đời
sống chính trị, xã hội Nhật Bản.
Thêm vào đó, giữa các trang viên thường có sự cạnh tranh giành quyền lực, sử
dụng cả bạo lực với nhau. Tình hình dẫn đến việc hình thành một quá trình các trang
trại củng cố lực lượng vũ trang riêng của mình để tự bảo vệ hoặc những người yếu
thế lực gắn bó với những người mạnh hòng được bảo vệ cả tính mạng lẫn tài sản.
Một số địa chủ giàu cỏ nhất ở các tỉnh có lực lượng vũ trang riêng, phần để tự bảo
vệ, phần để chống lại các đối thủ hoặc để đi chiếm đất công. Trong những điều kiện
19
đó, giới quan chức dân sự cầm quyền ở các tỉnh cũng buộc phải xây dựng lực lượng
vũ trang để giữ trật tự trị an. Ở kinh đô cũng hình thành lực lượng cảnh sát tuyển
chọn từ những chiến binh có vũ trang ở địa phương. Một số nhà quý tộc có tài sản ở
kinh đô cũng cử người của mình xung vào lực lượng cảnh sát. Quá trình này lại hình
thành thêm một tầng lớp có vũ trang nắm quyền điều hành đất nước, lấn át chính
quyền dân sự.
Như vậy, trang viên ở Nhật Bản không những chỉ là những đơn vị kinh tế tự cấp,
tự túc mà thực chất còn là khu vực hành chính mà nhà nước không thể kiểm soát
được, đồng thời cũng là những căn cứ có lực lượng vũ trang riêng của bọn lãnh
chúa. Do đó, trang viên cùng với mối quan hệ xã hội giữa chủ trang viên và các võ sĩ
chính là cơ sở kinh tế và cơ sở xã hội của chế độ Mạc phủ hay chính là của “song
hành lưỡng chế” độc đáo trong lịch sử phong kiến Nhật Bản.
1.3.2 Sự hình thành chính quyền Mạc Phủ
Trong thời kỳ Nara, tuy chế độ phong kiến đã dần được củng cố vững chắc,
nhưng cuộc đấu tranh giữa tầng lớp quý tộc cũ muốn khôi phục lại địa vị trước kia và
tầng lớp quan lại vẫn tiếp diễn. Đại biểu cho tầng lớp quý tộc cũ là họ Otomo, đại
biểu cho tầng lớp quan lại là họ Fujikawa. Vì có công giúp Hoàng gia tiêu diệt thế lực
họ Soga trong thời kỳ cải cách Taika, nên họ Fujikawa được Thiên hoàng ban cho
nhiều ưu đãi như: được ban cấp rất nhiều ruộng đất và nông dân, được kết thông gia
với vương thất, được giữ những chức vụ cao trong triều đình…Do vậy, thế lực họ
Fujikawa ngày càng mạnh, cuối cùng họ đã đánh bại hoàn toàn họ Otomo và nổi lên

cầm quyền và khống chế quyền lực của Thiên hoàng. Chính sự lũng đoạn quyền hành
này, làm cho ở Nhật Bản hình thành mầm móng hai thế lực cùng nắm chính quyền.
Một khi một tập đoàn phong kiến đã nắm giữ quyền lực thì sẽ mở đầu cho nhiều tập
đoàn khống chế Thiên hoàng dẫn đến mâu thuẫn giữa các tập đoàn. Đây chính là
mầm mống của chế độ “song hành lưỡng chế” ở thời kỳ phong kiến Nhật Bản.
Để đấu tranh với họ Fujikawa, Hoàng gia Nhật Bản dựa vào hai họ Taira và họ
Minamoto. Sau khi đánh bại thế lực họ Fujikawa, họ Taira nhanh chóng phát triển thế
lực của mình và nắm lấy mọi quyền hành gây nên mâu thuẫn với Hoàng gia Nhật và
20
họ Minamoto. Từ năm 1181 đến năm 1185 diễn ra cuộc nội chiến giữa họ Taira và họ
Minamoto, kết thúc quyền hành chuyển dần sang tay họ Minamoto.
Minamoto no Yoritomo là con trai thứ ba của Minamoto no Yoshitomo và
Fujiwara Saneori. Yoshitomo là trưởng họ của gia tộc Minamoto (còn gọi là Seiwa
Genji) đầy quyền lực, một chi thứ của dòng họ Nhật hoàng. Minamoto no Yoritomo
được sinh ra tại Heian, kinh đô của Nhật Bản thời đó, ngày nay là thành phố Kyoto.
Nhờ gia thế như trên, khi mới 13 tuổi, Yoritomo đã được phong một chức quan hàm
tòng ngũ phẩm và được phép vào chầu vua.
Năm 1159, trong triều đình Nhật Bản diễn ra một cuộc tranh chấp ngôi vị Nhật
hoàng mà lịch sử Nhật Bản gọi đó là loạn Heiji. Gia tộc Minamoto tham gia vào cuộc
tranh chấp này và cha của Yoritomo bị thua. Cả nhà Yoritomo bị bắt về kinh đô để xử
trảm. Yoritomo được mẹ kế của Taira no Kiyomori, kẻ chiến thắng, là thiền ni
Ikenozenni xin cho được sống và chỉ bị đầy ra đảo Izu, gần vịnh Tokyo vì Yoritomo
giống với người con trai đã khuất của bà. Hai mươi năm tiếp theo, Yoritomo bị quản
thúc tại Izu, song ông đã luôn quan tâm tới tình hình chính trị của Nhật Bản. Ông còn
kết hôn với con gái của người quản thúc mình.
Năm 1180, ở Nhật Bản xảy ra nạn đói và đây là một trong những ngòi nổ cho
hàng loạt cuộc nổi dậy chống lại quyền lực của dòng họ Taira. Gia tộc Minamoto lại
vùng lên tranh chấp với gia tộc Taira, tạo nên chiến tranh Genpei. Taira no Kiyomori
trước đó tiến hành nhiều cải cách rộng rãi, nên đã làm mất lòng Nhật hoàng. Vì thế,
Nhật hoàng Mochihito đã gửi mật chiếu cho Yoritomo sai ông chinh thảo gia tộc

Taira. Từ Izu, Yoritomo chiêu mộ binh mã và nổi dậy. Ban đầu, do quân lực còn yếu,
ông đã bị thua trong một số trận đánh và phải chạy trốn. Có lần suýt bị bắt, thì ông
được Kajiwara Kagetoki, một viên chỉ huy của phe Taira, tha mạng.
Sau đó, Yoritomo trốn sang Chiba. Tại đây, ông nhận được sự hỗ trợ của gia tộc
Miura, nên trở nên mạnh hơn. Trong khi đó, xã hội trở nên bất ổn và đám võ sĩ thuộc
hạ của nhà Taira tan rã dần. Năm 1181, nhân vật xuất chúng của gia tộc Taira là
Kiyomori qua đời. Từ đó, thế lực của Yoritomo là vô địch. Đầu tiên, ông giành quyền
21
kiểm soát vùng Kanto ở miền Đông Nhật Bản. Sau đó, ông cho quân đánh vào kinh
đô.
Năm 1183, khi 47 tuổi, ông giành được thắng lợi hoàn toàn và giành quyền độc
tài quân sự về cho gia tộc Minamoto. Nhưng sau khi giành thắng lợi trong cuộc nội
chiến đó, dòng họ Minamoto phải đương đầu với tầng lớp quý tộc phong kiến và
chính quyền Thiên hoàng ở Heian. Minamoto Yoritomo đã lợi dụng phong trào nông
dân để chống lại đối phương. Cuối cùng thực quyền chính trị của Thiên hoàng và
tầng lớp quý tộc phong kiến ở Heian bị tước đoạt.
Năm 1185, Yoritomo cử người đến kinh đô yêu cầu triều đình cho lập chức “thủ
hộ” và “địa đầu” ở các địa phương, đồng thời yêu cầu cho thu một loại thuế ruộng
đất, bao gồm ruộng đất trang viên và cả ruộng đất của nhà nước, mỗi mẫu thu 5 thăng
gạo làm lương thực cho quân đội. Như vậy họ Minamoto không những chỉ là kẻ
thống trị ở miền Đông mà qua các biện pháp ấy đã khống chế được các mặt chính trị,
kinh tế trong cả nước. Nhờ công lao cần vương, Minamoto no Yoritomo được Nhật
hoàng trao cho quyền bổ nhiệm, sa thải các chức vụ ở miền Đông. Với quyền hành
này, Yoritomo đã thành công trong việc đưa người của mình vào nắm các chức vụ
quan trọng ở miền Đông và tiến tới ở cả triều đình. Quan trọng hơn cả, ông đã dùng
quyền này để thu phục tầng lớp võ sĩ không chỉ ở miền Đông mà cả toàn Nhật Bản.
Ông đã trở thành lãnh tụ của tấng lớp võ sĩ, một tấng lớp vốn bị giới quý tộc coi
thường trong thời kỳ Heian, đã trở nên có quyền lực hơn vào cuối thời kỳ này. Năm
1190, Yoritomo được phong chức Hữu cận vệ đại tướng, chỉ huy lực lượng bảo vệ
Nhật hoàng. Nhưng ông sớm từ chức.

Vào cuối thế kỷ XII, Minamoto Yoritomo dựng nên một chính quyền của
Samurai ở Kamakura, đối lập với triều đình Kyoto. Từ đó hình thành hai cách sống,
nền văn hoá khác nhau ở Đông và Tây Nhật Bản.
Năm 1192, Yoritomo được Thiên hoàng phong cho danh hiệu “ Chinh di đại
tướng quân”, gọi tắt là Shogun (“Tướng quân”), mở đầu cho việc thiết lập chính
quân sự của tầng lớp samurai ở Nhật Bản. Hệ thống chính quyền thường gọi là
Bakufu, tức là Mạc phủ. Từ đó, từ “tướng quân” biến thành ý nghĩa chính thức chỉ
22
những nhà cầm quyền quân sự phong kiến của Nhật Bản, còn từ “Mạc Phủ” chỉ tổng
hành dinh của Tướng quân, với ý nghĩa trên gọi là chổ ở của Chính phủ.
Việc chính quyền Kamakura nắm được quyền lực thực tế ở Nhật Bản là sự thể
hiện sức mạnh của giới võ sĩ địa phương, thế suy yếu của chính quyền trung ương
đồng thời cũng phản ánh quy luật phát triển của lịch sử. Đến cuối thế kỷ XII, Nhật
Bản cần phải cao một chính quyền quân sự mạnh để vừa có thể duy trì địa vị của
Hoàng triều, bào đảm quyền lực cho đẳng cấp võ sĩ vừa phải xác lập lại nền thống
nhất dân tộc. Như vậy là, sau nhiều thế kỷ vận động, một mô hình chính quyền trung
ương tập quyền kiểu quý tộc – dân sự nhà Đường (618 - 907) đã không thể phát triển
ở Nhật Bản. Mặc dù triều đình quý tộc đã duy trì địa vị của mình qua thời kỳ Nara và
Heian nhưng cuối cùng nó đã để mất thực quyền về tay giới quân sự. Cũng cần phải
nói thêm là, chính quyền quân sự ở Nhật Bản được thiết lập trong điều kiện thiết chế
chính trị nước này chưa từng trải qua quá trình phát triển tập quyền và thích ứng với
công việc quản lý trên quy mô lớn. Kể từ sau cải cách Taika từ giữa thế kỷ thứ VII,
uy lực của chính quyền trung ương nhìn chung chỉ có ảnh hưởng mạnh ở vùng đồng
bằng Kansai, miền Tây Nhật Bản, còn các khu vực khác, trên thực tế chỉ là sự thần
thuộc hình thức mà thôi. Do đó, việc chính quyền Kamakura được thiết lập “là sự
khẳng định sức mạnh và thế đi lên của đẳng cấp võ sĩ trong xã hội Nhật Bản” [4,79].
Giới quý tộc không thể tiếp tục duy trì đặc quyền cố hữu của mình hơn nữa. Lần đầu
tiên trong lịch sử Nhật Bản, với một bộ máy quân sự phong kiến mạnh, chính quyền
trung ương đã có thể vươn tới quản lý các địa phương. Mạc phủ Kamakura đã mở ra
một thời kỳ nắm quyền lãnh đạo của thế lực võ sĩ trong lịch sử Nhật Bản với ba giai

đoạn: Kamakura (1185 – 1333), Muromachi( 1336 – 1590) và Tokugawa( 1600 –
1868).
Như vậy, từ năm 1192, ở Nhật Bản, chế độ chính trị mà võ sư làm trụ cột tồn tại
song song với chính quyền Thiên hoàng cho mãi đến năm 1868 khi Mạc phủ
Togugawa bị lật đổ. Tuy tồn tại song song, nhưng trong thực tế mọi quyền hành đều
tập trung trong tay chính quyền quân sự của Tướng quân, còn Thiên hoàng hoàn toàn
làm bù nhìn mà thôi. Sự tồn tại song song của hai chính quyền trong suốt thời gian
gần 700 năm là một điểm đặc biệt và độc đáo trong lịch sử Nhật Bản.
23
Chương 2
“SONG HÀNH LƯỠNG CHẾ” Ở NHẬT BẢN
TỪ THẾ KỈ XII ĐẾN THẾ KỈ XIX
2.1. Hoạt động của hai chính quyền song song
Mô hình “lưỡng đầu chế” tức là: hai vị nguyên thủ đều có quan hệ huyết thống
với nhau, chung mục đích và chung sự nghiệp, nhưng thực ra bản chất chế độ là một
với nhiều biểu hiện, nhiều diễn biến phức tạp. Mô hình lưỡng đầu chế ở Nhật Bản
với chính quyền kép Mạc Phủ và Thiên hoàng cũng như vậy. Trên danh nghĩa, Thiên
hoàng ở kinh đô Kyoto là người thống trị ở Nhật Bản, là người đứng đầu bộ máy nhà
nước của Nhật Bản. Nhưng thực ra chính quyền Thiên Hoàng chỉ là danh nghĩa núp
bóng. Chính quyền Mạc Phủ thâu tóm mọi quyền lực còn Thiên hoàng chỉ làm vì.
Cho nên hoạt động của hai chính quyền song song này gắn liền với quá trình hình
thành, phát triển và suy vong của các chính quyền quân sự, đó là Mạc phủ Kamakura
(1192 – 1333), Mạc phủ Muromachi (1336 – 1573) và Mạc phủ Togukawa (1603 –
1868).
2.1.1 Mạc phủ Kamakura
Kamakura – căn cứ địa đầu tiên của Yoritomo – là một thành thị cách Kyoto 500
km, trung tâm miền Tây Nhật Bản. Dân cư sống chủ yếu bằng nông nghiệp và chăn
nuôi ngựa. Mạc phủ Kamakura nắm quyền cai trị những vùng kiểm soát trực tiếp mà
còn nắm quyền ở nhiều khu vực khác trong nước. Thế lực của Thiên hoàng, quý tộc
không những rất yếu ở các tỉnh miền Tây làm dần dần cũng giảm đi nhiều ở các tỉnh

miền Đông. Nhiều võ sĩ có quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc Mạc phủ trở thành những
tiểu lãnh chúa địa phương (myoshu), làm chủ thực sự địa phương do mình cai quản.
Sau khi quyền lực Mạc phủ được xác lập, hệ thống quan chức do Thiên hoàng cử đến
các địa phương mất hiệu lực, xa rời triều đình và dần dần phục tùng Mạc phủ.
Kamakura và tập trung tầng lớp võ sĩ quý tộc, có nền kình tế phát triển hơn các địa
phương khác.
24
Sau khi ổn định được tình hình trong nước, Yoritomo đã tiến hành nhiều biện
pháp để củng cố và mở rộng quyền hành của Mạc phủ. Chỉ riêng việc xác lập chính
quyền Mạc phủ ở Kamakura cũng bao hàm việc báo hiệu một sự thay đổi trong hệ
thống hành chính song đó không phải là sự thay thế hay xem xét lại toàn bộ những gì
hiện có mà chỉ là thêm vào đó những cơ chế đáp ứng nhu cầu hiện thời. Hệ thống
hành chính vốn có từ trước thời kỳ Mạc phủ bao gồm một Hội đồng nhà nước điều
hành 8 bộ. Dưới đó là các tỉnh và người đứng đầu các tỉnh này do Chính quyền trung
ương bổ nhiệm. Tỉnh chia thành các huyện rồi huyện chia thành các trấn. Cùng với
tỉnh, huyện, trấn đều có các cơ quan chính quyền cho mỗi cấp. Cả nước chia thành 7
đạo, mỗi đạo gồm một số tỉnh.
Dựa trên cái “khung” của bộ máy hành chính đó, tướng quân Yoritomo đã điều
chỉnh bổ sung thêm một số nhân tố mới trong hệ thống chính quyền. Hệ thống này
gồm ba bộ phận chính:
- Samurai Dokoro là cơ quan có chức năng theo dõi và kiểm soát các hoạt động
quân sự. Sau này, còn kiêm thêm chức năng giải quyết các vấn đề liên quan đến
quyền lợi, nghĩa vụ, tài sản, cấp bậc, ưu tiên của các quan chức cùng các công việc
quân sự nói chung. Không chỉ vậy, trong thời bình cơ quan này còn đảm đương
nhiệm vụ điều hành và chỉ đạo các hoạt động thương mại.
- Monchujo là cơ quan có trách nhiệm theo dõi và xét xử tố tụng buộc mọi
người thực hiện đúng trách nhiệm và quyền hạn của mình.
- Man Dokoro là cơ quan giải quyết tất cả các vấn đề hành chính. Bên cạnh
người đứng đầu cơ quan này còn có một hội đồng cố vấn có nhiệm vụ giúp Mạc phủ
điều hành mọi việc cả về kinh tế và chính trị.

Có thể nói, sự ra đời của Man Dokoro nhằm phân biệt cơ quan hành pháp của
Mạc phủ Kamakura với các cơ quan chính quyền ở kinh đô Kyoto và sự độc lập của
cơ quan này với triều đình. Một khi Man Dokoro nằm trong tay Tướng quân thì cũng
có nghĩa tính cục bộ của Mạc phủ ở Kamakura mất đi và thực chất biến thành chính
quyền trung ương bởi tự cho mình quyền bình đẳng với chính quyền của Thiên hoàng
ở Kyoto trong các quyết định. Thật vậy, những tổ chức hành chính này không chỉ
25

×