Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

ngân hàng đề thi môn triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.23 KB, 19 trang )

1. Anh (chị) hãy phân tích sự khác nhau cơ bản giữa khunh hướng tư duy triết học
phương đông và khunh hướng tư duy triết học phương tây thời cổ đại.
2. Anh chị hãy trình bày những đặc trưng cơ bản của triết học tây âu thời trung cổ và
ảnh hưởng của nó đối với sự phát triển của xã hội thời kỳ này?
3. Anh(chị) hãy trình bày vai trò của triết học cổ điển Đức đối với sự ra đời của triết
học Mác?
4. Bằng sự ra đời với nội dung cơ bản của triết học phật giáo hoặc triết học nho giáo.
Anh(chị) hãy chứng minh rằng nội dung của các học thuyết triết học nổi tiếng, đời
sống của con người nói chung do điều kiện sống quy định.
5. Trong tất cả các học thuyết triết học trước Mác, theo anh(chị) học thuyết nào ảnh
hưởng nhiều nhất đến đời sống của người Việt Nam? Tóm tắt nội dung học thuyết
và nêu lên một số ảnh hưởng của nó đối với dân tọc ta trong giai đoạn hiện nay.
6. Anh chị hãy trình bày khái quát nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật?
7. Trong tất cả các học thuyết triết học trước Mac, theo anh(chị), học thuyết nào ảnh
hưởng nhiều nhất đến đời sống của người Việt Nam? Tóm tắt nội dung học thuyết
và nêu lên một số ảnh hưởng của nó đối với dân tộc ta trong giai đoạn hiện nay.
8. Anh(chị) hãy trình bày những đặc trưng cơ bản của triết học tây ân thời phục hưng
và ảnh hưởng của nó đối với sự phát triển của xã hội thời kỳ này.
9. Anh(chị) hãy trình bày những đặc trưng cơ bản và những cống hiến cơ bản của
triết học Hy Lạp cổ đại đối với sự phát triển của tư duy nhân loại?
10. Anh(chị) hãy trình bày nội dung cơ bản quan điểm sống “chính danh” của triết
học nho gia và đưa ra một số nhận xét của mình về quan điểm này. (Trong vở)
11. Anh(chị) hãy trình bày quan điểm về”nhân – quả - thiện" trong thuyết tứ diệu đế
của triết học phật giáo và nêu lên một số ảnh hưởng của nó đối với xã hội Việt
Nam giai đoạn hiện nay.
12. Anh(chị) hãy trình bày quan điểm”nhân-quả” trong thuyết tứ diệu đế của triết học
phật giáo và đưa ra một số nhận xét của mình về quan điểm này.
13. Anh(chị) hãy trình bày những chức năng cơ bản của triết học và mối quan hệ của
triết học với các khoa học khác.
Câu 1: Triết học là một hình thái ý thức xã hội, là sự phản ánh tồn tại của xã hội và đặc biệt
sự tồn tại này ở xã hội phương Đông khác hẳn với phương Tây về cả điều kiện tự nhiên, địa lý


dân số mà hơn cả là phương thức của sản xuất
Triết học là hình thái ý thức xã hội ra đời từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ được thay thế bằng
chế độ chiếm hữu nô lệ. Những triết học đầu tiên trong lịch sử xuất hiện vào khoảng thế kỷ VIII
– VI trước công nguyên ở Ấn Độ cổ đại, Trung quốc cổ đại, Hy Lạp và La Mã cổ đại và ở các
nước khác.
Theo quan điểm của mác xít triết học là một hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những
nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức về thái độ của con người đối với thế giới, là khoa
học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Như vậy triết học là một hình
thái ý thức xã hội, là sự phản ánh tồn tại của xã hội và đặc biệt sự tồn tại này ở xã hội phương
Đông khác hẳn với phương Tây về cả điều kiện tự nhiên, địa lý dân số mà hơn cả là phương thức
của sản xuất của phương Đông là phương thức sản xuất nhỏ còn phương Tây là phương thức sản
xuất của tư bản do vậy mà cái phản ánh ý thức cũng khác: văn hoá phương Đông mang nặng tính
chất cộng đồng còn phương Tây mang tính cá thể.
Sự khác biệt căn bản của triết học phương Tây và phương Đông còn được thể hiện cụ thể như
sau:
Thứ nhất đó là triết học phương Đông nhấn mạnh sự thống nhất trong mối quan hệ giữa con
người và vũ trụ với công thức thiên địa nhân là một nguyên tắc “thiên nhân hợp nhất”. Cụ thể là:
Triết học Trung quốc là nền triết học có truyền thống lịch sử lâu đời nhất, hình thành cuối thiên
niên kỷ II đầu thiên niên kỷ I trước công nguyên. Đó là những kho tàng tư tưởng phản ánh lịch
sử phát triển của những quan điểm của nhân dân Trung hoa về tự nhiên, xã hội và quan hệ con
người với thế giới xung quanh, họ coi con người là tiểu vũ trụ trong hệ thống lớn trời đất với ta
cùng sinh, vạn vật với ta là một. Như vậy con người cũng chứa đựng tất cả những tính chất,
những điều huyền bí của vũ trụ bao la. Từ điều này cho ta thấy hình thành ra các khuynh hướng
như: khuynh hướng duy tâm của Mạnh Tử thì cho rằng vũ trụ, vạn vật đều tồn tại trong ý thức
chủ quan vầ trong ý niệm đạo đức Trời phú cho con người. Ông đưa ra quan điểm “vạn vật đều
có đầy đủ trong ta”. Ta tự xét mình mà thành thực, thì có cái thú vui nào lớn hơn nữa. Ông dạy
mọi người phải đi tìm chân lý ở ngoài thế giới khách quan mà chỉ cần suy xét ở trong tâm, “tận
tâm” của mình mà thôi. Như vậy theo ông chỉ cần tĩnh tâm quay lại với chính mình thì mọi sự
vật đều yên ổn, không có gì vui thú hơn. Còn theo Thiện Ung thì cho rằng: vũ trụ trong lòng ta,
lòng ta là vũ trụ. Đối với khuynh hướng duy vật thô sơ - kinh dịch thì biết đến cùng cái tính của

con người thì cũng có thể biết đến cái tính của vạn vật, trời đất: trời có chín phương, con người
có chín khiếu. Ở phương Đông khuynh hướng duy vật chưa rõ ràng đôi khi còn đan xen với duy
tâm, mặc dù nó là kết quả của quá trình khái quát những kinh nghiệm thực tiến lâu dài của nhân
dân Trung hoa thời cổ đại. Quan điểm duy vật được thể hiện rõ ở học thuyết Âm dương, tuy nó
còn mang tính chất trực quan, chất phác, ngây thơ và có những quan điểm duy tâm, thần bí về
lịch sử xã hội nhưng trường phái triết học này đã bộ lộ rõ khuynh hướng duy vật và tư tưởng
biện chứng tự phát của mình trong quan điểm về cơ cấu và sự vận động, biến hoá của sự vật hiện
tượng trong tự nhiên cũng như trong xã hội.
Ở Ấn độ tư tưởng triết học Ấn độ cổ đại được hình thành từ cuối thiên niên kỷ II đầu thiên niên
kỷ I trước công nguyên, bắt nguồn từ thế giới quan thần thoại, tôn giáo, giải thích vũ trụ bằng
biểu tượng các vị thần mang tính chất tự nhiên, có nguồn gốc từ những hình thức tôn giáo tối cổ
của nhân loại. Ở Ấn độ nguyên tắc “thiên nhiên hợp nhất” lại có màu sắc riêng như:
Xu hướng chính của Upanishad lànhằm biện hộ cho học thuyết duy tâm, tôn giáo trong kinh
Vêđa về cái gọi là “tinh thần sáng tạo tối cao” sángtạo và chi phối thế giới này. Để trả lời câu hỏi
cái gì là thực tại cao nhất, là căn nguyên của tất cả mà khi nhận thức được nó, người ta sẽ nhận
thức được mọi cái còn lại và có thể giải thoát được linh hồn khỏi sự lo âu khổ nào của đời sống
trần tục và ràng buộc của thế giới này là “tinh thần vũ trụ tối cao” Brahman, là thực thể duy nhất,
có trước nhất, tồn tại vĩnh viễn, bất diệt, là cái từ đó tất cả thế giới đều nảy sinh ra và nhập về với
nó sau khi chết. Tóm lại Brahman là tinh thần vũ trụ, là đấng sáng tạo duy nhất, là đại ngã, đại
đinh, là vũ trụ xung quanh cái tồn tại thực sự, là khách thể.
Còn Atman là tinh thần con người, là tiểu ngã, là cái có thể mô hình hoá, là chủ thể và chẳng qua
chỉ là linh hồn vũ trụ cư trú trong con người mà thôi. Linh hồn con người (Atman) chỉ là sự biểu
hiện, là một bộ phận của “tinh thần tối cao”. Vì Atman “linh hồn” là cái tồn tại trong thể xác con
người ở đời sống trần tục, nên ý thức con người lầm tưởng rằng linh hồn, “cái ngã” là cái khác
với “linh hồn vũ trụ”, khác với nguồn sống không có sinh, không có diệt vong của vũ trụ.
Vậy nên kinh Vêđa nối con người với vũ trụ bằng cầu khẩn, cúng tế bắt chước hoà điệu của vũ
trụ bằng lễ nghi, hành lễ ở hình thức bên ngoài. Còn kinh Upanishad quay vào hướng nội để đi từ
trong ra, đồng nhất cá nhân với vũ trụ bằng tri thức thuần tuý kinh nghiệm.
Đối với phương Tây lại nhấn mạnh tách con người ra khỏi vũ trụ, coi con người là chủ thể, chúa
tể để nghiên cứu chinh phục vũ trụ – thế giới khách quan. Và cũng chính từ thế giới khách quan

khách nhau nên dẫn đến hướng nghiên cứu tiếp cận cũng khác nhau:
Từ thế giới quan triết học “thiên nhân hợp nhất” là cơ sở quyết định nhiều đặc điểm khác của
triết học phương Đông như: lấy con người làm đối tượng nghiên cứu chủ yếu – tính chất hướng
nội; hay như nghiên cứu thế giới cũng là để làm rõ con người và vấn đề bản thảo luận trong triết
học phương Đông bị mờ nhạt. Nhưng ngược lại triết học phương Tây lại đặ trọng tâm nghiên cứu
vào thế giới – tính chất hướng ngoại; còn vấn đề con người chỉ được nghiên cứu để giải thích thế
giới mà thôi. Cho nên phương Tây bàn đậm nét về bản thể luận của vũ trụ.
Cái khác biệt nữa là ngay trong vấn đề con người phương Đông cũng quan niệm khác phương
Tây:
Ở Phương Đông người ta đặt trọng tâm nghiên cứu mối quan hệ người với người và đời sống
tâm linh, ít quan tâm đến mặt sinh vật của con người, chỉ nghiên cứu mặt đạo đức thiện hay ác
theo lập trường của giai cấp trống trị cho nên nghiên cưú con người không phải là để giải phóng
con người mà là để cai trị con người, không thấy quan hệ giữa người với người trong lao động
sản xuất.
Ở Phương Tây họ lại ít quan tâm đến mặt xã hội của con người, đề cao cái tự nhiên – mặt sinh
vật trong con người, chú ý giải phóng con người về mặt nhận thức, không chú ý đến nguyên
nhân kinh tế – xã hội, cái gốc để giải phóng con người.
Thứ hai, ở phương Đông những tư tưởng triết học ít khi tồn tại dưới dạng thuần tuý mà thường
đan xen với các hình thái ý thức xã hội khác. Cái nọ lấy cái kia làm chỗ dựa và điều kiện để tồn
tại và phát triển cho nên ít có những triết gia với những tác phẩm triết học độc lập. Và có những
thời kỳ người ta đã lầm tưởng triết học là khoa học của khoa học như triết học Trung hoa đan xen
với chính trị lý luận, còn triết học Ấn độ lại đan xen tôn giáo với nghệ thuật. Nói chung ở
phương Đông thì triết học thường ẩn dấu đằng sau các khoa học.
Ở phương Tây ngay từ thời kỳ đầu triết học đã là một khoa học học độc lập với các môn khoa
học khác mà các khoa học lại thường ẩn dấu đằng sau triết học. Và thời kỳ Trung cổ là điển hình:
khoa học muốn tồn tại phải khoác áo tôn giáo, phải tự biến mình thành một bộ phận của giáo hội.
Thứ ba, Lịch sử triết học phương Đông ít thấy có những bước nhảy vọt về chất có tính vạch ra ở
các thời điểm, mà chỉ là sự phát triển cục bộ, kế tiếp xen kẽ. Ở Ấn độ, cũng như Trung quốc các
trường phái có từ thời cổ đại vẫn giữ nguyên tên gọi cho tới ngày nay (từ thế kỷ VIII – V trước
công nguyên đến thế kỷ 19).

Nội dung có phát triển nhưng chỉ là sự phát triển cục bộ, thêm bớt hay đi sâu vào từng chi tiết
như: Nho tiền tần, Hán nho, Tống nho vẫn trên cơ sở nhân – lễ – chính danh, nhưng có cải biên
về một phương diện nào đó ví như Lễ thời tiền Tần là cung kính, lễ phép, văn hoá, thời Hán biến
thành tam cương ngũ thường, đời Tống biến thành chữ Lý
Các nhà triết học ở các thời đại chỉ giới hạn mình trong khuôn khổ ủng hộ, bảo vệ quan điểm hay
một hệ thống nào đó để hoàn thiện và phát triển nó hớn là vạch ra những sai lầm và không đặt ra
mục đích tạo ra thức triết học mới. Do vậy nó không mâu thuận với các học thuyết đã được đặt
nền móng từ ban đầu, không phủ định nhau hoàn toàn và dẫn đến cuộc đấu tranh trong các
trường phái không gay gắt và cũng không triệt đêt. Có tình trạng đó chính là do chế độ phong
kiến quá kéo dài và bảo thủ, kết cấu kinh tế, giai cấp trong xã hội đan xen cộng sinh bên nhau.
Ngược lại ở phương Tây lại có điểm khác biệt. Ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, bên cạnh các
trường phái cũ lại có những trường phái mới ra đời có tính chất vạch thời đại như thời cố đại bên
cạnh trường phái Talét, Hêraclit đến Đêmôcrit rồi thời đại khai sáng Pháp, CNDV ở Anh, Hà
lan, triết học cổ điển Đức Và hơn nữa cuộc đấu tranh giữa duy tâm và duy vật mang tính chất
quyết liệt, triệt để hơn.
Thứ tư, Sự phân chia trường phái triết học cũng khác:
Ở phương Đông đan xen các trường phái, yếu tố duy vật, duy tâm biện chứng, siêu hình không
rõ nét. Sự phân chia chỉ xét về đại thể, còn đi sâu vào những nội dung cụ thể thường là có mặt
duy tâm có mặt duy vật, sơ kỳ là duy vật, hậu kỳ là nhị nguyên hay duy tâm, thể hiện rõ thế giới
quan thiếu nhất quán, thiếu triệt để của triết học vì phân kỳ lịch sử trong các xã hội phương Đông
cũng không mạch lạc như phương Tây.
Ngược lại triết học phương Tây thì sự phân chia các trường phái rõ nét hơn và các hình thức tồn
tại lịch sử rất rõ ràng như duy vật chất phác thô sơ đến duy vật siêu hình rồi đến duy vật biện
chứng.
Thứ năm, Hệ thống thuật ngữ của triết học phương Đông cung khác so với triết học phương Tây
ở 3 mảng:
- Về bản thể luận: Phương Tây dùng thuật ngữ “giới tự nhiên”, “bản thể”, “vật chất”. Còn ở
phương Đông lại dùng thuật ngữ “thái cực” đạo sắc, hình, vạn pháp, hay ngũ hành: Kim, Mộc,
Thuỷ, Hoả, Thổ Để nói về bản chất của vũ trụ đặc biệt là khi bàn về mối quan hệ giữa con
người và vũ trụ thì phương Tây dùng phạm trù khách thể – chủ thể; con người với tự nhiên, vật

chất với ý thức, tồn tại và tư duy. Còn phương Đông lại dùng Tâm – vật, năng – sở, lí – khí, hình
– thần. Trong đó hình thần là những phạm trù xuất hiện sớm và dùng nhiều nhất.
- Nói về tính chất, sự biến dổi của thế giới: phương Tây dùng thuật ngữ “biện chứng” siêu hình,
thuộc tính, vận động, đứng im nhưng lấy cái đấu tranh cái động là chính. Đối với phương Đông
dùng thuật ngữ động – tĩnh, biến dịch, vô thường, thường còn, vô ngã và lấy cái thống nhất, lấy
cái tĩnh làm gốc là vì phương Đông triết học được xây dựng trên quan điểm vũ trụ là một, phải
mang tính nhịp điệu.
- Khi diễn đạt về mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trên thế giới thì phương Tây dùng thuật
ngữ “liên hệ”, “quan hệ” “quy luật”. Còn phương Đông dùng thuật ngữ “đạo” “lý” “mệnh”
“thần”, cũng xuất phát từ thế giới quan thiên nhân hợp nhất nên tất cả phải mang tính nhịp điệu,
tính quy luật, tính soắn ốc của vũ trụ như thái cực đến lưỡng nghi Có nhịp điệu là hài hoà âm
dương, còn vũ trụ là tập hợp khổng lồ các xoắn ốc
Thứ sáu, Tuy cả hai dòng triết học phương Đông và phương Tây đều nhằm giải quyết vấn đề cơ
bản của triết học nhưng phương Tây nghiêng nặng về giải quyết mặt thứ nhất còn mặt thứ hai chỉ
giải quyết những vấn đề có liên quan. Ngược lại ở phương Đông nặng về giải quyết mặt thứ hai
cho nên dẫn đến hai phương pháp tư duy khác nhau.
Phương Tây đi từ cụ thể đến khái quát cho nênlà tư duy tất định – tư duy vật lý chính xác nhưng
lại không gói được cái ngẫu nhiên xuất hiện. Còn phương Đông đi từ khái quát đến cụ thể bằng
các ẩn dụ triết học với những cấu cách ngôn, ngụ ngôn nên không chính xác nhưng lại hiểu cách
nào cũng được, nó gói được cả cái ngẫu nhiên mà ngày nay khoa học gọi là khoa học hỗn mang
– dự báo.( ).
Câu 2: những đặc trưng cơ bản của triết học tây âu thời trung cổ và ảnh hưởng của nó
đối với sự phát triển của xã hội thời kỳ này.
Triết học Tây Âu thời trung cổ có những đặc đi ểm:
─ Thứ nhất, sự phát triển của những tư tưởng triết học các nước Tây Âu thời
Trung cổ bị chi phối rất m ạnh bởi tư tưởng tôn giáo và thần học của thiên chúa giáo.
Theo Ăngghen, trong thời k ỳ Trung cổ ở Tây Âu, triết học chỉ là “đầy tớ”, “con
sen” cho thần học. Bởi vì, nhiệm vụ của triết học là giải thích đúng đắn và chứng minh
về mặt hình thức cho những tín điều tôn giáo do nhà thờ thiên chúa giáo thống
trị, đứng đầu là Giáo hoàng La Mã đặt ra.

Đây là thời k ỳ lị ch sử mà tiếng nói “trí tuệ và lương tri nhân loại ” bị áp đảo bở i sự
tuyên truyền của giáo hội v ề đức tin nơi Thiên chúa. Đây cũng là thời k ỳ các nhà thần
học được phép tuyên bố rằng mọi tri thức của nhân loại đều có thể rút ra từ Kinh thánh
(Cựu ước và Tân ước); rằng tất cả những gì trái với kinh thánh đều đáng nguyền rủa và
xử tội.
─ Thứ hai, sự tồn tại và phát triển mạnh mẽ của tư tưởng triết học kinh viện (chủ nghĩa
kinh viện) cũng là một nét n ổi b ật của thời kỳ Trung cổ ở Tây Âu; chủ nghĩa kinh
viện với tư cách là một trường phái triết học - một thứ triết h ọc “nhà trường”, “sách
vở”. Nghĩa là, một thứ tri ết học đặt ra và giải quyết các vấn đề xa rời thực tế cuộc
sống.
Những căn cứ để triết học kinh vi ện “lu ận chứng” chính là những tín điều trong các
cuốn kinh thánh của đạo Thiên chúa, chứ không phải là những kiến thức khoa học, 5
không phải là thực tiễn quan sát và thí nghiệm của khoa học như giai đoạn sau này, cũng
không phải là thực tiễn kinh tế xã hội hiện thực. Bởi v ậy, những luận chứng của nó
mang tính “sáo rỗng” hình thức mà thiếu đi nội dung hiện thực của cuộc sống sinh động.
Triết học kinh việ n là triết học chính thức của giai cấp phong kiến, đã kìm hãm sự phát
triển của khoa học và triết học duy vật.
─ Thứ ba, cuộc đấu tranh giữa hai phái Duy thực và Duy danh cũng là đặc trưng của tư
tưởng triết học Trung cổ Tây Âu. Xét đến cùng, cuộc đấu tranh này phản ánh ít nhiều hai
xu hướng triết học đối l ập nhau: chủ nghĩa duy vật và ch ủ nghĩa duy tâm.
Phái Duy thực khẳng định: những khái niệm phổ biến tồn tại thực sự và có trước sự tồn
tại c ủa các sự vật riêng lẻ; còn phái Duy danh thì ngư ợc lại: có các sự vật riêng lẻ tồn
tại thực tế thì mới có những khái niệm về chúng, các khái niệm về các sự vật chẳng
qua chỉ là những từ, những thuật ngữ diễ n đạt các sự vật đó, những tên gọi các sự vật
đó, ch ỉ là sự đặt tên cho các sự vật đó.
Duy thể tìm cách xây dựng một hệ thống tư tưởng theo lý tính để củng cố tôn giáo. Duy
danh đề cao cá thể - đề cao quyền lợi thực tế chống lại những quyền lợi của hệ thống
phong kiến, những khuôn khổ cố định của hệ thống phong kiến. Duy danh không trực
tiếp phản đối tôn giáo, nhưng đề ra những điểm mới giải phóng tư tưởng ngoài truyền
thống cũ - điểm mới là quyền của cá thể ; là cơ sở lý luận cho các cuộc cách mạng Tư

sản.
Trung cổ là thời đại chi ếm ưu thế của hình thức tư duy tôn giáo, mà đối với Tây Âu là
Kytô giáo. Đó là thời đại thống trị của các tín điều nhà thờ, sự loại trừ tự do tư tưởng,
truy bức các nhà triết học và khoa học tiến bộ. Những tội ác do nhà thờ gây ra (Tòa án
Giáo hội, các cuộc thập tự chinh…) vẫn còn để l ại những dấu ấn nặng nề trong lị ch sử
nhân lọai. Triết học trở thành công c ụ của thần học, chịu sự chi phối toàn diện của thần
học Kytô giáo ở khía cạnh bản thể lu ận, nhận thức luận và đạo đức, nhân sinh – xã hội.
Chức năng của triết học không phải là tìm kiếm và khám phá chân lý, mà chứng minh
cho chân lý đã sẵn có. Quá trình chuyển biến từ hình thức tín ngưỡng đa thần sang nhất
thần song hành với sự chuyển biến từ tinh thần đa nguyên triết lý của người Hy Lạp –
La Mã sang độc quyền tư tưởng.
Bên cạnh đó, chính trên cơ sở triết học tôn giáo thời trung cổ, v ới mục đích đưa những
cái tản mạn, phân liệt về sự thống nhất, gắn với xu thế chuẩn hóa tư duy, dù đó là chuẩn
hóa trong phạm vi tư tưởng Kytô giáo, mà khủng hỏang chính trị – xã hội và tinh thần,
vốn là nhân tố bên trong của sự sụp đổ nhà nước và văn hóa cổ đại, đã được khắc phục.
Sự thống trị của ý thức hệ tôn giáo trong một thời gian nh ất định góp phần tạo nên sự
ổn định chính trị tại nhiều quốc gia. Lẽ cố nhiên việc duy trì quá lâu một môtíp tư duy,
xem các tín điều là những chân lý bất biến, tuyệt đ ỉnh, đưa đến sự ngưng đọng, trì trệ
trong hoạt động sáng tạo của con người, loại trừ nhân tố mới, tạo nên cả vùng cấm lẫn
khoảng trống trong sinh hoạt tri thức.Triết học kinh viện Trung cổ từ nửa sau thế kỷ
XIV rơi vào khủng hoảng, vì nó không còn đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn xã hội và
nhu cầu nhận thức của con người.
“Đêm trường trung cổ” là cách diễn đạt về sức ỳ của tư duy triết học, khoa học, song
trong một số lĩnh vực khác của văn hóa (kiến trúc, hội họa, văn chương…) thời đại này
đã để l ại nhiều công trình đáng trân trọng. Bên cạnh đó triết học Kytô giáo cũng thiết
lập được những tiêu chí đạo đức xã hội căn bả n, truyền bá những giá trị nhân loại
chung (thông qua tôn giáo, giáo d ục con người theo tinh th ần vị tha, khoan dung, tính
cách “hiệp sỹ”. Một số giá trị về sau trở nên lỗi thời, bị đào thải, song một số khác
vẫn được duy trì trong điều kiện mới. Một số giá trị bị nhà thờ trung cổ xuyên tạc
(chủ nghĩa thần quyền) đã trở về với diện mạo thật sự của mình, hoặc trải qua cách tân,

cải bi ến. Thời Ph ục hưng làm cho quá trình này trở nên thiết thực.
Đời sống văn hoá tinh thần các nước Tây Âu thời k ỳ trung cổ, trong đó có triết học chịu
ảnh hưởng mạnh mẽ của Cơ đốc giáo và sau này là Thiên chúa giáo. Mặc dù chúng ta
không thể phủ nhận tính chất duy tâm th ần bí của triết học thời k ỳ này, song khi xem
xét một cách toàn diện, có thể thấy rằng triết học thời k ỳ này không hoàn toànlà một
màu xám, không hoàn toàn đứt gãy với n ền triết học trước hay sau đó. Hơn nữa, trong
thời k ỳ Tây Âu trung cổ diễn ra cuộc đấu tranh rất quyết liệt giữa chủ nghĩa duy thực
và chủ nghĩa duy danh, giữa tư tưởng thần học - triết học, giữa niềm tin tôn giáo -lý trí…
và thông qua những cuộc đấu tranh ấy, các nhà triết học thể hiện mong muốn tạo ra
được những dấu ấn riêng, góp phần tìm tòi, nghiên cứu, tạo ra màu sắc riêng trong tư
tưởng triết học nhân loại. Đặc biệt, tri ết học thời k ỳ này đã không chỉ bàn đến mà còn
đề cao một vấn đề quan trọng, gắn liền với con người: vấn đề niềm tin. Tuy việc giải
quyết vấn đề niềm tin, mối quan hệ niềm tin - lý tính trong triết học thời kỳ này chưa
thật sự thoả đáng nhưng cũng đã cho chúng ta thấy được phần nào đặc trưng, sức mạnh
của niềm tin nói chung cũng như niềm tin tôn giáo trong triết học Tây Âu trung cổ nói
riêng, góp thêm tri thức về niềm tin đã có.
CÂU 4: Chứng minh rằng nội dung của các học thuyết triết học nổi tiếng, đời sống của
con người nói chung do điều kiện sống quy định.
(Liên hệ lịch sử) Nho giáo và hầu hết các phái TH TQ ra đời do ĐK XH TQ cổ đại rối ren
nên có đưa ra các học thuyết về bình loạn, giải quyết các mối QH trong xa hội v.v…đặc
biệt đỉnh cao và có ảnh hưởng lớn đến VN là nho giáo trong đó có qđ chính danh (dựa
vào chính danh để CM).
CÂU 5. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NHO GIÁO
Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để
tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai trị
kiểu mẫu – người lý tưởng này gọi là quân tử (quân = kẻ làm vua, quân tử = chỉ tầng lớp
trên trong xã hội, phân biệt với “tiểu nhân”, những người thấp kém về điạ vị xã hội; sau
“quân tử” còn chỉ cả phẩm chất đạo đức: những người cao thượng, phẩm chất tốt đẹp,
phân biệt với “tiểu nhân” là những người thiếu đạo đức hoặc đạo đức chưa hoàn thiện.
Điều này có thể được lí giải bởi đối tượng mà Nho giáo hướng đến trước tiên là những

người cầm quyền). Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải “tự đào tạo”,
phải “tu thân”. Sau khi tu thân xong, người quân tử phải có bổn phận phải “hành đạo”
(Đạo không đơn giản chỉ là đạo lí. Nho gia hình dung cả vũ trụ được cấu thành từ các
nhân tố đạo đức, và Đạo ở đây bao chứa cả nguyên lí vận hành chung của vũ trụ, vấn đề
là nguyên lí đó là những nguyên lí đạo đức do Nho gia đề xướng (hoặc như họ tự nhận là
phát hiện ra) và cần phải tuân theo. Trời giáng mệnh làm vua cho kẻ nào có Đạo, tức là
nắm được đạo trời, biết sợ mệnh trời. Đạo vận hành trong vũ trụ khi giáng vào con người
sẽ được gọi là Mệnh). Cần phải hiểu cơ sơ triết lí của Nho giáo mới nắm được logic phát
triển và tồn tại của nó.
TU THÂN
Khổng Tử đặt ra một loạt tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức… để làm chuẩn mực
cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội.
Tam cương và ngũ thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam tòng và Tứ đức là lẽ
đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong xã hội giữ được tam
cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức thì xã hội được an bình.
Tam cương: tam là ba, cương là giềng mối. Tam cương là ba mối quan hệ: quân thần (vua
tôi), phụ tử (cha con), phu phụ (vợ chồng).
Trong xã hội phong kiến, những mối quan hệ này được các vua chúa lập ra trên những
nguyên tắc“chết người”
_Quân thần: (“Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung” nghĩa là: dù vua có bảo cấp dưới
chết đi nữa thì cấp dưới cũng phải tuân lệnh, nếu cấp dưới không tuân lệnh thì cấp dưới
không trung với vua)Trong quan hệ vua tôi, vua thưởng phạt luôn luôn công minh, tôi
trung thành một dạ.
_Phụ tử: (“phụ sử tử vong, tử bất vong bất hiếu nghĩa là: cha khiến con chết, con không
chết thì con không có hiếu)”)
_Phu phụ: (“phu xướng phụ tùy” nghĩa là: chồng nói ra, vợ phải theo)
Ngũ thường: ngũ là năm, thường là hằng có. Ngũ thường là năm điều phải hằng có trong
khi ở đời, gồm: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
_Nhân: Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật.
_Nghĩa: Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải.

_Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người.
_Trí: Sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai.
_Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy.
Tam tòng: tam là ba; tòng là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải theo, gồm: “tại
gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”
_Tại gia tòng phụ: người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha,
_Xuất giá tòng phu: lúc lấy chồng phải theo chồng,
_Phu tử tòng tử: nếu chồng qua đời phải theo con”
Tứ đức: tứ là bốn; đức là tính tốt. Tứ đức là bốn tính nết tốt người phụ nữ phải có, là:
công – dung – ngôn – hạnh.
_Công: khéo léo trong việc làm.
_Dung: hòa nhã trong sắc diện.
_Ngôn: mềm mại trong lời nói.
_Hạnh: nhu mì trong tính nết.
Người quân tử phải đạt ba điều trong quá trình tu thân:
Đạt đạo: Đạo có nghĩa là “con đường”, hay “phương cách” ứng xử mà người quân tử
phải thực hiện trong cuộc sống. “Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo vua tôi, đạo cha
con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè” (sách Trung Dung), tương đương với “quân
thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu”. Đó chính là Ngũ thường, hay Ngũ luân.
Trong xã hội cách cư xử tốt nhất là “trung dung”. Tuy nhiên, đến Hán nho ngũ luân được
tập chung lại chỉ còn ba mối quan hệ quan trọng nhất được gọi là Tam thường hay còn
gọi là Tam tòng.
Đạt đức: Quân tử phải đạt được ba đức: “nhân – trí – dũng”. Khổng Tử nói: “Đức của
người quân tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân không lo buồn, người trí không
nghi ngại, người dũng không sợ hãi” (sách Luận ngữ). Về sau, Mạnh Tử thay “dũng”
bằng “lễ, nghĩa” nên ba đức trở thành bốn đức: “nhân, nghĩa, lễ, trí”. Hán nho thêm một
đức là “tín” nên có tất cả năm đức là: “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”. Năm đức này còn gọi là
ngũ thường.
Biết thi, thư, lễ, nhạc: Ngoài các tiêu chuẩn về “đạo” và “đức”, người quân tử còn phải
biết “thi, thư, lễ, nhạc”. Tức là người quân tử còn phải có một vốn văn hóa toàn diện.

• Ảnh hửơng phụ nữ công dung ngôn hạnh, trọng nam khinh nữ đâu đó vẫn còn,
quan hệ gia đình cha con, vợ chồng, anh em. Trò ko dám cải thầy, cấp dưới ko
dám cải cấp trên …
Câu 6: Những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
2 nguyên lý, 3 quy luật, 6 cặp phạm trù
I/ Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: là nguyên tắc lý luận xem xét sự vật, hiện tượng
khách quan tồn tại trong mối liên hệ, ràng buộc lẫn nhau tác động, ảnh hưởng lẫn nhau
giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng
trong thế giới. Nguyên lý này biểu hiện thông qua sáu cặp phạm trù cơ bản:
1) Cái chung và cái riêng
2) Bản chất và hiện tượng
3) Nội dung và hình thức
4) Nguyên nhân và kết quả
5) Khả năng và hiện thực
6) Tất nhiên và ngẫu nhiên
Muốn thực sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt,
các mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp của sự vật đó dựa vào 3 tính chất cơ bản
(tính khách quan, tính phổ biến và tínhđa dạng, phong phú) theo không gian và thời
gian cụ thể.
II/ Nguyên lý về sự phát triển: là nguyên tắc lý luận mà trong trong đó khi xem xét sự
vật, hiện tượng khách quan phải luôn đặt chúng vào quá trình luôn luôn vận động và
phát triển (vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật). Nguyên lý này biểu hiện thông qua ba quy luật
cơ bản:
1) Quy luật mâu thuẫn: chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển
2) Quy luật lượng - chất: chỉ ra cách thức, hình thức của sự phát triển
3) Quy luật phủ định: chỉ ra khuynh hướng của sự phát triển.
Biện chứng là một phương pháp lý luận, một lý thuyết cho rằng một cái gì đó - cụ thể
hơn, tư duy con người – phát triển theo một cách thức được đặc trưng bởi cái gọi là ba
đoạn:

- Chính đề: đầu tiên có một ý tưởng, hoặc một lý thuyết, hoặc một xu hướng vận động
nào đó được gọi là một “chính đề”; một chính đề như thế thường sẽ tạo ra cái đối lập,
do là các sự vật tồn tại trên trời đất nó sẽ có giá trị hạn chế và sẽ có các điểm yếu.
- Phản đề: ý tưởng hoặc xu hướng vận động đối lập được gọi là “phản đề”, nó nhằm
phản lại cái trước tiên, tức chính đề. Cuộc tranh đấu giữa chính đề và phản đề diễn ra
cho tới khi đạt được một giải pháp nào đó, ở một vài khía cạnh nhất định, nó vượt lên
trên cả chính đề và phản đề do nó phát hiện ra được các giá trị riêng của chúng và do
nó cố gằng bảo tồn các tinh hoa và tránh các hạn chế của cả hai.
- và Hợp đề: giải pháp đạt được ở bước thứ ba này được gọi là “hợp đề”. Đến khi đạt
được, hợp đề đến lượt nó có thể lại trở thành bước thứ nhất trong một của ba đoạn
biện chứng mới khác, và quá trình sẽ lại tiếp diễn như thế nếu hợp đề cụ thể vừa đạt
được lại trở nên thiếu thuyết phục, hoặc trở nên không thỏa mãn. Trong trường hợp
này, mặt đối lập sẽ lại nổi lên, và điều này có nghĩa là cái hợp đề vừa đạt được có thể
được mô tả như là một chính đề mới, cái chính đề tạo ra được một phản đề mới. Do
đó, ba đoạn biện chứng sẽ lại diễn ra ở một trình độ cao hơn, và nó có thể đạt tới cấp
độ thứ ba khi một hợp đề thứ hai đạt được.
Câu 8:Tư tưởng triết học tây âu thời kỳ phục hưng
Triết học Tây Âu thời kỳ phục hưng thế kỷ XV - XVI
Thế kỷ XV - XVI ở Tây Âu được gọi là thời kỳ Phục hưng với ý nghĩa là thời kỳ có sự khôi
phục lại nền văn hóa cổ đại. Về mặt hình thái kinh tế - xã hội đó là thời kỳ quá độ từ xã hội
phong kiến sang xã hội tư bản.
Thời kỳ này, sự phát triển của khoa học đã dần dần đoạn tuyệt với thần học và tôn giáo thời
kỳ trung cổ, bước lên con đường phát triển độc lập. Giai cấp tư sản mới hình thành và là giai
cấp tiến bộ, có nhu cầu phát triển khoa học tự nhiên để tạo cơ sở cho sự phát triển kỹ thuật và
sản xuất. Sự phát triển của khoa học, về khách quan đã trở thành vũ khí mạnh mẽ chống thế
giới quan duy tâm tôn giáo.
Sự phát triển khoa học tự nhiên đã đòi hỏi có sự khái quát triết học, rút ra những kết luận có
tính chất duy vật từ các tri thức khoa học cụ thể.
Thời kỳ này đã có những nhà khoa học và triết học tiêu biểu như: Nicôlai Côpécních, Brunô,
Galilê, Nicôlai Kuzan, Tômát Morơ, v.v

Trong các nhà tư tưởng đó thì Côpécních (1475 - 1543), người Ba Lan, có ảnh hưởng lớn lao
đến sự phát triển của triết học và khoa học thời kỳ phục hưng sau này. Thuyết mặt trời là
trung tâm do ông xây dựng đã giáng một đòn rất nặng vào tôn giáo và nhà thờ, bác bỏ quan
điểm của kinh thánh đạo Cơ đốc về Thượng đế sáng tạo ra thế giới trong vài ngày. Thuyết này
đã đánh đổ thuyết "trái đất là trung tâm" của Ptôlêmê (người Hy Lạp, thế kỷ II) cho rằng, trái
đất là bất động và ở trung tâm vũ trụ, còn vũ trụ xoay xung quanh trái đất. Côpécních đã
chứng minh rằng, mặt trời ở trung tâm vũ trụ, các hành tinh (kể cả trái đất) di chuyển xung
quanh mặt trời. Thuyết nhật tâm đã đả kích vào chính nền tảng của thế giới quan tôn giáo và
đánh dấu sự giải phóng khoa học tự nhiên khỏi thần học và tôn giáo. Phát minh của
Côpécních là "một cuộc cách mạng trên trời", báo trước một cuộc cách mạng trong các quan
hệ xã hội.
Brunô (1548 - 1600), nhà triết học Italia, người kế tục và phát triển học thuyết của Côpécních.
Khi tán thành quan niệm của Côpécních "mặt trời là trung tâm", Brunô đã bổ sung thêm rằng,
có vô số thế giới, xung quanh trái đất có một bầu không khí cùng xoay với trái đất và mặt trời
cũng đổi chỗ với các vì sao. Ông đã chứng minh về tính thống nhất vật chất của thế giới (vũ
trụ). Theo ông có vô vàn thế giới giống thái dương hệ của chúng ta. Với học thuyết đó, Brunô
đã bác bỏ một quan điểm cơ bản của tôn giáo về sự tồn tại của thế giới bên kia, thế giới thần
linh. Ông còn cho rằng, thế giới vật chất vận động không ngừng.
Triết học của Brunô cũng như các nhà triết học tiến bộ khác thời kỳ phục hưng đã bị nhà thờ
lên án; bản thân Brunô đã bị toà án tôn giáo kết án tử hình và thiêu sống tại La Mã. Điều đó
phản ánh lịch sử vào thời kỳ này, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy
tâm và tôn giáo diễn ra gay gắt.
Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, triết học của hầu hết các nhà tư tưởng thời kỳ này còn lẫn lộn
các yếu tố duy vật với duy tâm và có tính chất phiếm thần luận (chẳng hạn, Brunô cho rằng
Thượng đế và tự nhiên chỉ là một).
Cùng với Côpécních và Brunô, các nhà triết học và khoa học khác như Galilê, Kuzan, Tômát
Morơ cũng đã có những đóng góp quan trọng cho sự phục hưng nền văn hóa cổ đại.
Câu 9: Sự hình thành, phát triển và suy tàn của triết học Hy Lạp cổ đại
Lịch sử triết học Hy Lạp - La Mã cổ đại có thể chia làm ba thời kỳ. Xuyên suốt ba
thời kỳ ấy là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm mà đỉnh

cao là cuộc đấu tranh giữa đường lối duy vật của Đê-mô-crít và đường lối duy tâm
của Pla-tôn.2.1. Thời kỳ thứ nhất (thế kỷ VI tr.CN): Đây là thời kỳ chế độ chiếm
hữu nô lệ mới hình thành. Do sự phát triển của sản xuất, thế giới quan cũ có tính
chất tôn giáo, thần thoại dần dần nhường chỗ cho những hiểu biết khoa học về
con người, về vũ trụ. Trên cơ sở đó, triết học với tư cách là một khoa học bao
quát mọi tri thức (khoa học của khoa học) ra đời.
a. Ba nhà triết học duy vật thuộc trường phái Mi-lê (tên một đô thị cổ Hy Lạp) là
Talét, Anaximăngđrơ và Anaximen cho rằng có những thực thể vật chất đầu tiên,
vĩnh viễn vận động tạo ra mọi vật trên thế giới. Theo Talét đó là nước, theo
Anaximăngđrơ đó là một thực thể vô định và vô hạn, theo Anaximen đó là không
khí.
Hêraclít không thuộc trường phái nói trên, ông cũng cho rằng bản nguyên của vũ
trụ là lửa, lửa thông qua sự đấu tranh giữa các mặt đối lập mà sinh ra vạn vật.
b. Ngược lại, một số nhà triết học thuộc trường phái Êlê (tên một đô thị cổ ở miền
nam nước Ý) như Xênôphan, Pácmênít, Dênông và trường phái Pitago lại có
những quan điểm duy tâm, siêu hình về nguồn gốc vũ trụ. Họ cho rằng, thế giới là
một tồn tại bất động và bất biến (trường phái Êlê), con số là bản nguyên của vũ
trụ (trường phái Pitago).
2.2. Thời kỳ thứ hai (bắt đầu từ thế kỷ V. tr.CN): Đây là thời kỳ chế độ chiếm hữu
nô lệ phát triển đến hình thức cao và cũng là thời kỳ phồn vinh của triết học cổ
đại Hy Lạp. Thời kỳ này, đối tượng nghiên cứu của triết học được mở rộng sang
các vấn đề về kết cấu của vật chất, nhận thức luận và đời sống chính trị. Trong đó,
kết cấu của vật chất là vấn đề trung tâm của nhiều trường phái triết học.
a. Theo khuynh hướng duy vật. Ămpeđôclơ cho rằng, bản nguyên của vũ trụ
không phải chỉ là một thực thể riêng biệt (như trường phái Milê) mà là gồm 4
thực thể: đất, nước, lửa, không khí. Anaxago lại cho rằng, mọi vật đều được cấu
tạo từ hạt cực nhỏ nhờ quá trình phân giải và đồng nhất của chúng.
Đạt tới đỉnh cao nhất của chủ nghĩa duy vật thời kì này là học thuyết về nguyên tử
của Đêmôcrít. Theo ông, tất cả mọi vật đều được cấu thành từ những nguyên tử.
Nguyên tử là những phần tử vật chất nhỏ nhất, không thể phân chia được, chúng

vĩnh viễn vận động, không có điểm kết thúc.
b. Đối lập lại chủ nghĩa duy vật trên đây là chủ nghĩa duy tâm khách quan của
Platôn. Ông là đại biểu lớn nhất của chủ nghĩa duy tâm thời cổ đại Hy Lạp. Ông đã
xây dựng học thuyết về ý niệm để chống lại chủ nghĩa duy vật. Theo ông, giới tự
nhiên bắt nguồn từ ý niệm.
c. Dao động giữa đường lối duy vật của Đêmôcrít và đường lối duy tâm của Platôn
là Arixtốt. Ông là một nhà triết học lớn, bộ óc bách khoa thời cổ đại Hy Lạp - La
Mã, nhưng là một nhà triết học không triệt để. Một mặt, ông bác bỏ thuyết ý
niệm của Platôn; mặt khác ông lại chủ trương hình thức là bản chất của mọi sự
vật, mà hình thức của mọi hình thức là tư duy (hình thức thuần tuý).
2.3. Thời kỳ thứ ba (từ thế kỷ thứ III TCN): Đây là thời kỳ khủng hoảng và suy vong
của chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp - La Mã. Cùng với sự suy tàn đó, nền văn
hoá mà nó sản sinh ra cũng suy tàn theo. Vào cuối thế kỷ này, chỉ còn Êpiquya và
học trò của ông là Lucơrexơ là tiếp tục đường lối duy vật của Đê-mô-crít.
Triết học Hy Lạp - La Mã cổ đại đã đặt ra hầu hết các vấn đề triết học mà người ta
thường thấy mối quan hệ của nó với các khuynh hướng, các trào lưu triết học sau
này.
Trong những thành tựu triết học Hy Lạp-La Mã cổ đại, học thuyết về nguyên tử
của Đêmôcrít, tư tưởng biện chứng của Hêraclít và lôgích học của Arixtốt là
những cống hiến xuất sắc đối với sự phát triển của tư tưởng triết học nhân loại.
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử triết
học Hy Lạp-La Mã cổ đại chứng tỏ rằng, ngay từ đầu, lịch sử triết học là lịch sử
đấu tranh giữa hai thế giới quan, hai phương pháp luận đối lập nhau. Cuộc đấu
tranh ấy phản ánh lợi ích của những tầng lớp, những giai cấp khác nhau trong xã
hội có giai cấp đối kháng.
CÂU 10+ TRONG VỞ
Câu 10: Triết học nho giáo có sự thay đổi giữa nguyên bản do khổng tử đề ra và sự
thay đổi do giai cấp phong kiến thống trị đưa ra, do lịch sử các mối quan hệ đã bị biến
đổi cho phù hợp với GCPK cầm quyền.
- Quan niệm về chính danh: quy định rõ danh phận của mỗi người trong xã hội. Khổng

Tử cũng như các nhà Nho có hoài bão về một xã hội kỷ cương. Vào thời đại Khổng Tử,
xã hội rối ren, vì vậy, điều căn bản của việc làm chính trị là xây dựng xã hội chính danh
để mỗi người mỗi đẳng cấp xác định rõ danh phận của mình mà thực hiện
Chính danh có hai bộ phận là danh và thực: danh là tên gọi, là địa vị, thứ bậc của con
người; thực là quyền lợi mà con người được hưởng phù hợp với danh. Khổng Tử cho
rằng danh và thực phải thống nhất với nhau. Từ đó ông chia xã hội thành 5 mối quan hệ
gọi là Ngũ Luân:
+ Vua-tôi (quân-thần): vua nhân-tôi trung
+ Chồng-vợ (phu-phụ): chồng biết điều-vợ biết nghe lẽ phải
+ Cha-con (phụ-tử): cha hiền-con thảo
+ Anh- em (huynh-đệ): anh tốt-em ngoan
+ Bạn bè (bằng hữu): chung thủy
Khổng Tử cho rằng nếu mỗi người mỗi đẳng cấp thực hiện đúng danh phận của mình thì
xã hội có chính danh và một xã hội có chính danh là một xã hội có kỷ cương thì đất nước
sẽ thái bình thịnh trị.
Câu 11: Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ I sau công nguyên kết hợp với
phong tục, tập quán truyền thống dân tộc Việt Nam hình thành nên Phật giáo Việt
Nam. Trải qua một khoảng thời gian dài, Phật giáo ở Việt Nam không ngừng phát
triển, lớn mạnh và đã tạo nên một dấu ấn sâu đậm trong việc hình thành đạo đức, nhân
cách con người Việt Nam, nền văn hoá Việt Nam. Những ảnh hưởng tích cực của Phật
giáo vẫn đang được con người Việt Nam phát huy để phục vụ cuộc sống. Song bên
cạnh đó, Phật giáo cũng có những ảnh hưởng tiêu cực. Trong chương này chúng ta sẽ
đi sâu phân tích các vấn đề trên.
1. ĐẠO PHẬT VỚI VIỆC HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH CON NGƯỜI VIỆT
NAM.
Phật giáo là một tôn giáo, như các tôn giáo khác, Phật giáo cũng gồm có giáo lý và
hoạt động tín ngưỡng. Giáo lý là một hệ thống các quan điểm về thế giới và con
người, về cách thức tu luyện và hoạt động tín ngưỡng, là những hành vi, những nghi
lễ cần phải thực hiện để đạt tới ước nguyện. Cả hai đều có ý nghĩa đối với việc hình
thành nhân cách của các tín đồ.

Nhân cách Phật giáo đã góp phần làm nên nhân cách của con người Việt Nam ngày
nay. Nhân cách đó có tác dụng hai mặt. Mặt tích cực là chấp nhận sự biến đổi của thế
giới và con người, sống có nền nếp, trong sạch, giản dị, quan tâm đến nỗi khổ của
người khác, thương người, vị tha, cứu giúp người hoạn nạn, hành động thì lấy tự giác
làm đầu Mặt tiêu cực là nhìn đời một cách bi quan, có pha trộn chất hư vô chủ
nghĩa, nặng về tin tưởng ở quyền năng và phép màu nhiệm của một vị siêu nhiên mà
nhẹ về tin tưởng năng lực hoạt động của con người, nếp sống thì khổ hạnh và không
tránh khỏi nương theo những nghi lễ thần bí. Đặc biệt là có hiện tượng mê tín dị đoan
như: Lên đồng, đốt vàng mã, những đồ dùng bằng giấy. Những tư tưởng mê lầm đó
vừa phung phí tiền bạc, thời gian lại làm xuất hiện trong xã hội những loại người chỉ
dựa vào những nghề nghiệp ấy mà kiếm sống gây ra một sự bất công trong xã hội.
Tuy nhiên, nhân cách con người Phật giáo có những điều phù hợp với xã hội hiện nay.
Nhưng những điều đó chỉ giới hạn trong những trường hợp nhất định và chúng ta phải
phát huy những mặt đó. Vượt qua những giới hạn đó, nó sẽ có những mâu thuẫn với
giáo lý và trở nên lạc lõng, mất hiệu quả. Vậy con người am hiểu đạo lý, mến đạo, mộ
đạo không phải chỉ là con người tu hành một cách cần mẫn mà phải có cả phần trí tuệ
để biết vận dụng giáo lý vào cuộc sống một cách hữu ích. Hiểu được và làm được như
thế, con người sẽ thấy đạo đức Phật đẹp đẽ và cao thượng biết bao.
2. ĐẠO PHẬT ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HOÁ VIỆT NAM.
Nhìn vào đời sống văn hoá, tinh thần của xã hội Việt Nam trong những năm qua, ta
thấy hiện tượng Phật giáo đang được phục hồi và phát triển. Bên cạnh sự phát triển
ngày một lớn mạnh của kiến trúc hiện đại, Việt Nam vẫn phục hồi kiến trúc cổ xưa
qua việc tu sửa lại những đền chùa, miếu mạo, những danh lam thắng cảnh. Đó là
những nơi mà dấu ấn của đạo phật thể hiện rõ nhất.
Ngày nay, những nghệ thuật, kiến trúc phật gia vẫn tồn tại và được trùng tu, sửa sang
để làm nơi du lịch của khách thập phương và nơi lễ bái của nhân dân trong vùng.
Những công trình đó tuy mang đậm dấu ấn Phật giáo nhưng vẫn là sáng tạo nghệ
thuật dân gian phản ánh đời sống tinh thần của con người Việt Nam xưa.
3. ĐẠO PHẬT VỚI CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH Ở VIỆT NAM.
– Đạo Phật chủ trương từ, bi, hỷ, xả. Xã hội loài người thực hiện được bốn chữ từ, bi,

hỷ, xả trong cuộc sống hàng ngày là một xã hội an lạc, hạnh phúc.
– Đạo Phật chủ trương một cuộc sống vị tha, một cuộc sống hoà hợp, loại trừ mọi oán
thù. Lịch sử Phật giáo chứng minh, trong suốt 2500 năm truyền bá trong khắp cõi Á
Đông. Đạo Phật không làm rơ một giọt máu nào.
4. ĐẠO PHẬT VỚI VẤN ĐỀ CHÍNH TRỊ.
Kể từ khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo có ảnh hưởng không nhỏ vào đời sống chính
trị xã hội. Ngày nay, người ta nhấn mạnh vai trò chính trị của các nhà sư thời Lý, Trần,
nhấn mạnh ý nghĩa chính trị xã hội trong một số hoạt động của phật tử hiện đại.
Ngày nay, các nhà sư giữ những chức vụ cao trong Giáo hội cũng tham gia vào hoạt động
chính trị. Nhưng bên cạnh những công tác phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nước thì
cũng có một số phần tử đã lợi dụng chức vụ của mình để gây rối. Hay trường hợp của Lê
Đình Nhàn ( tức Thích Huyền Quang ) thường xuyên gây phiền nhiễu với các nhà sư
khác cùng tu trong chùa.
Thêm vào đó, nhiều vụ tự tử của các nhà sư với những nguyên nhân ngoài đạo đã bị cách
phe phái phản động đưa tin xấu, coi đó là những hành vi tử vì đạo. Và khi những người
đại diện pháp luật can thiệp thì chúng cho đó là hành vi bắt bố sư sãi, đàn áp Phật giáo.
KẾT LUẬN:
Qua những vấn đề cơ bản trong Phật học, ta thấy Đạo Phật là một hệ thống tư tưởng
thống nhất quy tụ về Nhất Thừa Phật pháp. Tất cả giáo lý Phật là nền tảng cho việc xây
dựng con người vị tha và coi cuộc sống vị tha là lý tưởng cao quý nhất của đời mình, tiến
tới con người vị tha và coi cuộc sống vị tha là lý tưởng cao quý nhất của đời mình, tiến
tới con người từ, bi, hỷ, xả, con người Phật. Vì thế vấn đề nhân vị trong đạo Phật là một
vấn đề quan trọng vì đạo Phật cho rằng con người là tất cả, con người quyết định số phận
của mình, quyết định hình thái xã hội. Con người ác chỉ biết lợi mình hại người tạo ra
một xã hội với áp bức bất công. Con người thiện, sống vị tha xây dựng một xã hội tiến
bộ, lành mạnh.
Người học Phật, tu Phật hàng ngày phải sống với đạo, thực nghiệm đạo, không một phút
nào xa lìa đạo. Trong mọi hoạt động của thân, khẩu, ý đều phải gắn liền với Đạo, thể hiện
Đạo. Với cách sống như thế, người tu hành luôn là người dũng cảm có đủ nghị lực chiến
thắng ngũ dục, chiến thắng những bất công áp bức.

Và một đặc điểm lớn nhất của đạo Phật là suốt đời, Phật không bao giờ tự nhận là người
duy nhất đem lại sự giải thoát cho loài người. Phật nói: Con người ai ai cũng có Phật tính.
Trước người đã có hằng hà sa số Phật.
Sự giải thoát không chỉ nhằm đấu tranh chống những áp bức về xã hội về kinh tế như lịch
sử Phật giáo đã chứng minh mà sự giải thoát nhằm tiêu diệt tận gốc mọi đau khổ là tham
lam và dục vọng. Việc giải phóng này là con người phải tự lực đảm nhiệm, không ai có
thể làm thay được và mỗi người đều coi sự giải thoát là cứu cánh cuối cùng của cuộc đời.
Như vậy, đạo Phật đã đặt con người lên một vị trí hết sức quan trọng và cao quý. Hạnh
phúc của con người là do con người xây đắp nên. Con người thấm nhuần giáo lý Phật,
con người vị tha, từ, bi, hỉ, xả sẽ kiến lập một xã hội hoà bình, an lạc, công bằng, mọi
người sống vì lợi ích của nhau, còn tập thể.
Trái lại. con người ích kỷ chỉ biết mình, hại người, con người sống tàn bạo, độc ác thì cái
gì trong tay con người cũng sẽ trở thành khí cụ sát hại và xã hội của những con người ấy
sẽ là xã hội địa ngục, xã hội áp bức bóc lột.
Câu 12: Thuyết nhân duyên quả báo hay thuyết nhân quả.
Phật giáo nhìn nhận thế giới tự nhiên cũng như nhân sinh bằng sự phân tích nhân - quả.
Theo Phật giáo, nhân - quả là một chuỗi liên tục không gián đoạn và không hỗn loạn, có
nghĩa là nhân nào quả ấy. Mối quan hệ nhân quả này Phật giáo thường gọi là nhân duyên
với ý nghĩa là một kết quả của nguyên nhân nào đó sẽ là nguyên nhân của một kết quả
khác.
Về thế giới tự nhiên, bằng sự phân tích nhân quả, Phật giáo cho rằng không thể tìm ra
một nguyên nhân đầu tiên cho vũ trụ, có nghĩa là không có một đấng Tối cao (Brahman)
nào sáng tạo ra vũ trụ.
Cùng với sự phủ định Brahman, Phật giáo cũng phủ định phạm trù([Anatman], nghĩa là
không có tôi) và quan điểm "vô thường".
Quan điểm "vô ngã" cho rằng vạn vật trong vũ trụ chỉ là sự "giả hợp" do hội đủ nhân
duyên nên thành ra "có" (tồn tại). Ngay bản thân sự tồn tại của thực thể con người chẳng
qua là do "ngũ uẩn" (5 yếu tố) hội tụ lại là: sắc (vật chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn
tượng), hành (suy lý) và thức (ý thức). Như vậy là không có cái gọi là "tôi" (vô ngã).
Quan điểm "vô thường" cho rằng vạn vật biến đổi vô cùng theo chu trình bất tận: sinh -

trụ - dị - diệt. Vậy thì "có có" - "không không" luân hồi bất tận; "thoáng có", "thoáng
không", cái còn thì chẳng còn, cái mất thì chẳng mất.
Về nhân sinh quan, Phật giáo đặt vấn đề tìm kiếm mục tiêu nhân sinh ở sự "giải thoát"
(Moksa) khỏi vòng luân hồi, "nghiệp báo" để đạt tới trạng thái tồn tại Niết bàn [Nirvana].
Nội dung triết học nhân sinh tập trung trong thuyết "tứ đế"- có nghĩa là bốn chân lý,
cũng có thể gọi là "tứ diệu đế" với ý nghĩa là bốn chân lý tuyệt vời.
1. Khổ đế [Duhkha - satya]. Phật giáo cho rằng cuộc sống là khổ, ít nhất có tám nỗi khổ
(bát khổ): sinh, lão (già), bệnh (ốm đau), tử (chết), thụ biệt ly (thương yêu nhau phải xa
nhau), oán tăng hội (oán ghét nhau nhưng phải sống gần với nhau), sở cầu bất đắc (mong
muốn nhưng không được), ngũ thụ uẩn (năm yếu tố uẩn tụ lại nung nấu làm khổ sở).
2. Tập đế hay nhân đế (Samudayya - satya). Phật giáo cho rằng cuộc sống đau khổ là có
nguyên nhân. Để cắt nghĩa nỗi khổ của nhân loại, Phật giáo đưa ra thuyết "thập nhị nhân
duyên" - đó là mười hai nguyên nhân và kết quả nối theo nhau, cuối cùng dẫn đến các
đau khổ của con người: 1/ Vô minh, 2/ Hành; 3/ Thức; 4/ Danh sắc; 5/ Lục nhập; 6/ Xúc;
7/ Thụ; 8/ ái; 9/ Thủ; 10/ Hữu; 11/ Sinh; 12/ Lão - Tử. Trong đó "vô minh" là nguyên
nhân đầu tiên
3. Diệt đế (Nirodha - satya). Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ có thể tiêu diệt để đạt tới
trạng thái Niết bàn.
4. Đạo đế (Marga - satya). Đạo đế chỉ ra con đường tiêu diệt cái khổ. Đó là con đường "tu
đạo", hoàn thiện đạo đức cá nhân gồm 8 nguyên tắc (bát chính đạo): 1/ Chính kiến (hiểu
biết đúng tứ đế); 2/ Chính tư (suy nghĩ đúng đắn); 3/ Chính ngữ (nói lời đúng đắn); 4/
Chính nghiệp (giữ nghiệp không tác động xấu); 5/ Chính mệnh (giữ ngăn dục vọng); 6/
Chính tinh tiến (rèn luyện tu lập không mệt mỏi); 7/ Chính niệm (có niềm tin bền vững
vào giải thoát); 8/ Chính định (tập trung tư tưởng cao độ). Tám nguyên tắc trên có thể
thâu tóm vào "Tam học", tức ba điều cần học tập và rèn luyện là Giới - Định - Tuệ. Giới
là giữ cho thân, tâm thanh tịnh, trong sạch. Định là thu tâm, nhiếp tâm để cho sức mạnh
của tâm không bị ngoại cảnh làm xáo động. Tuệ là trí tuệ. Phật giáo coi trọng khai mở trí
tuệ để thực hiện giải thoát.
Câu 13:
Triết học là môn khoa học chung nhất, nghiên cứu về các sự vật và hiện tượng của tự nhiên và xã hội,

nhằm tìm ra các quy luật của các đối tượng nghiên cứu. Mục đích của triết học là giải quyết các vấn đề
cơ bản của bản thể luận và nhận thức luận.
Vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy, giữa vật chất và ý thức. Nó
là vấn đề cơ bản vì việc giải quyết nó sẽ quyết định cơ sở để giải quyết những vấn đề khác của triết học,
điều đó đã được chứng minh trong lịch sử phát triển lâu dài và phức tạp của triết học.
Triết học đưa ra các câu hỏi về bản thể, nhận thức, chân lý, đạo đức, thẩm mỹ. Các vấn đề cơ bản của
triết học là:
• Vấn đề về bản thể : vật chất và ý thức là gì? Mối quan hệ giữa chúng như thế nào?
• Vấn đề về chân lý: làm thế nào để xác định được một luận cứ đi từ tiền đề đến kết luận có hiệu
lực hay không? Làm thế nào để biết được một phát biểu là đúng hay sai? Ta có thể trả lời những loại
câu hỏi nào?
• Vấn đề về nhận thức: quá trình nhận thức diễn ra thế nào? Chúng ta có thể nhận thức chính xác
thế giới khách quan hay không? Thực tại là gì? Chúng ta nhận thức thực tại như thế nào, có nhận
thức toàn bộ thực tại hay không?
• Vấn đề về đạo đức: thế nào là "tốt", thế nào là "xấu" (hoặc thế nào là "giá trị", thế nào là "phi giá
trị")? Sự khác biệt giữa tốt và xấu? Hành động như thế nào là đúng? Các giá trị có tính chất tuyệt đối
hay tương đối? Thế nào là các quy tắc tự nhiên? Hạnh phúc là gì?
• Vấn đề về thẩm mỹ: đẹp là gì, xấu là gì? Nghệ thuật là gì?
Các KH thực tế không thể tồn tại và phát triển tách rời với triết học khoa học, và ngược
lại, triết học khoa học đòi hỏi phải có các KH, những khoa học này đang vừa tiếp tục
phân nghành, lại vừa tiếp tục hợp nghành và đang dẫn đến những luận điểm và những
phát minh đòi hỏi phải có những kết luận về mặt nhận thức luận. Triết học không chỉ là
sự khái quát các thành tựu của các KH và của thực tiễn loài người, nó còn liên kết chúng
lại thành một khối thống nhất và là cơ sở phương pháp luận hay tiền đề của sự phát triển
hơn nữa của các tri thức khoa học.
Cả triết học và khoa học đều phải nhận thức cái phổ biến, cái bản chất, nhưng sự khác
nhau là: một bên nhiệm vụ nhận thức là cái chung ở mức trừu tượng và khái quát cao
nhất, đưa đến những quan điểm có ý nghĩa tiên đề, còn một bên là nhận thức cái riêng,
cái riêng này cũng trừu tượng và khái quát nhưng ở mức thấp hơn, và có biểu hiện ở
những đối tượng vật chất có mức trừu tượng nhiều hay ít tùy theo trình độ phát triển của

khoa học từng thời kỳ lịch sử. Cái riêng này, về sau – từ thời cận đại – khi khoa học đã
phát triển đến trình độ cao và tách khỏi triết học, được gọi là bức tranh KH về thế giới.
Trong các công việc xây dựng các khái niệm và các lý thuyết – các nhà khoa học dù có ý
thức hay không, luôn luôn phải giải quyết hai vấn đề, thuộc về đối tượng nhận thức hay
về sự nhận thức đối tượng ấy. Triết học tác động lên khoa học chính là qua hai vấn đề đó,
thông qua các quan điểm của mình, xoay quanh vấn đề cơ bản của triết học (quan hệ giữa
vật chất và ý thức) với hai mặt của nó và quan điểm về trạng thái tồn tại của thế giới và
cách tiếp cận nhận thức (biện chứng hay siêu hình)
Nguyên lý triết học về nhân quả biểu hiện cái chung, cái thống nhất và ổn định có trong
kết cấu của tất cả các quy luật về sự phát sinh và phát triển của một số hiện tượng này bởi
các hiện tượng khác. Các quy luật phổ biến của tồn tại đã được nhận thức sẽ trở thành
những nguyên lý phương pháp luận của sự nghiên cứu trong KH.
Việc nghiên cứu các phạm trù triết học chung và các quy luật cũng giúp vào sự hiểu biết
đúng đắn và sự phát triển của toàn bộ bộ máy khái quát của khoa học hiện đại, kể cả bộ
máy của từng khoa học. Triết học không nhận giải quyết những vấn đề chung của KHTN
cụ thể nào, nhưng triết học không thể phát triển được nếu không liên hệ với KHTN và
bản thân KHTN cũng sẽ mất mát nhiều thứ nếu mối liên minh của nó với triết học của
chủ nghĩa duy vật biện chứng bị yếu đi.

×