Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

quá trình dịch và công tác phòng chống bệnh nhiễm trùng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.44 KB, 14 trang )

quá trình dịch
và công tác phòng chống bệnh nhiễm trùng
Quá trình dịch, trớc đây thờng đợc vận dụng cho các bệnh nhiễm trùng. Đó là một
quá trình nhiễm trùng nối tiếp nhau liên tục, với sự có mặt của các vi sinh vật gây bệnh,
xảy ra trong những điều kiện tự nhiên và xã hội nhất định. Thực tế, quá trình dịch là một
dây những ổ dịch có liên quan với nhau, ổ dịch này phát sinh ra từ ổ dịch khác với mối
liên quan bên trong của chúng đợc quyết định bởi các điều kiện sống của xã hội loài ngời.
Có những quá trình dịch phát triển tơng đối đơn giản dễ thấy (sởi), có những quá trình phát
triển phức tạp, khó thấy hơn (bại liệt, thơng hàn).
1. Các mắt xích liên quan của quá trình dịch
Quá trình dịch của các bệnh nhiễm trùng gồm có 3 mắt xích trực tiếp nối liền nhau và
2 yếu tố tác động gián tiếp ảnh hởng đến từng mắt xích trực tiếp.
1.1. Ba mắt xích trực tiếp
+ Nguồn truyền nhiễm
Nguồn truyền nhiễm là những cơ thể sống của ngời (hoặc súc vật) trong đó vi sinh vật
gây bệnh ký sinh tồn và phát triển đợc. Do tính chất ký sinh của các tác nhân gây bệnh mà
cơ thể ngời (hoặc súc vật ) bị nhiễm trùng đợc gọi là túc chủ, hoặc ổ chứa vi sinh vật gây
bệnh, hoặc vật chủ tự nhiên cho một vi sinh vật gây bệnh nhất định. Vi sinh vật gây bệnh
cứ thế nhân lên ở vật chủ này, rồi đợc đào thải ra ngoài cơ thể vật chủ đó cho đến bao giờ
vật chủ này khỏi hoặc chết, nên những vật chủ này đợc gọi là nguồn truyền nhiễm.
Theo học thuyết về hiện tợng nhiễm trùng không nhất thiết một cơ thể nhiễm trùng
bao giờ cũng có biểu hiện lâm sàng, hoặc sau khi hết biểu hiện lâm sàng cũng là hết đào
thải tác nhân gây bệnh ra khỏi cơ thể, nên nguồn truyền nhiễm có thể là ngời ốm, ngời lành
mang trùng hoặc ngời khỏi mang trùng.
Đối với các loài động vật là nguồn truyền nhiễm, cũng có những trạng thái tơng tự.
Nếu nguồn truyền nhiễm là các loại động vật hoang dại, thì bệnh sẽ có ổ chứa thiên nhiên
(viêm não, dại ).
+ Đờng truyền nhiễm
Để bảo toàn nòi giống, các vi sinh vật gây bệnh, sau khi đợc đào thải ra ngoài cơ thể
của nguồn truyền nhiễm, chúng phải nhờ vào các yếu tố của môi trờng bên ngoài làm ph-
ơng tiện vận chuyển đến một cơ thể lành khác.


1
Các yếu tố của môi trờng bên ngoài có thể vận chuyển vi sinh vật gây bệnh rất nhiều:
không khí, nớc, thực phẩm, bụi, ruồi, muỗi, bọ chét Sự vận động của các yếu tố này đ a vi
sinh vật gây bệnh từ một nguồn truyền nhiễm sang một cơ thể lành gọi là đờng truyền
nhiễm. Ngời ta phân chúng ra 4 loại đờng truyền nhiễm: hô hấp, tiêu hóa, máu, da và niêm
mạc. Có những bệnh truyền theo một đờng truyền nhiễm (hô hấp: sởi, tiêu hóa: thơng hàn,
máu: sốt rét, niêm mạc: lậu), nhng cũng có những bệnh có thể truyền theo nhiều đờng
truyền nhiễm (bệnh than: da, hô hấp, tiêu hoá).
+ Khối cảm nhiễm
Tất cả những ngời khoẻ mạnh, nếu cha có miễn dịch, đều có thể cảm nhiễm với các
bệnh nhiễm trùng. Nếu đã có khả năng miễn dịch thì sẽ không mắc, hoặc mắc bệnh nhẹ.
Miễn dịch tự nhiên thụ động là trờng hợp đứa trẻ đợc miễn dịch của mẹ truyền cho
qua rau thai, khi ra đời đã có đợc. Nhng miễn dịch này không tồn tại lâu bền (đợc khoảng 6
tháng đầu), rồi tự nó giảm dần và thờng giảm hết ở tháng thứ 12 của cuộc đời. Trờng hợp
mẹ không có kháng thể, hoặc kháng thể không qua đợc rau thai, thì cố nhiên đứa trẻ sẽ
không có miễn dịch này tự nhiên thụ động. Còn miễn dịch tự nhiên chủ động là loại miễn
dịch có đợc sau khi khỏi một bệnh nhiễm trùng, hoặc tuy cha lần nào mắc bệnh nhng với
nhiều lần tiếp xúc sẽ có miễn dịch thu đợc trong quá trình sống.
Ngoài hiện tợng miễn dịch tự nhiên, còn có miễn dịch nhân tạo: miễn dịch nhân tạo
thụ động nh khi đợc dùng các loại kháng huyết thanh chế sẵn, còn miễn dịch nhân tạo chủ
động là khi cơ thể nhận các loại vacxin.
Một khi các cá thể trong khối cảm nhiễm bị mắc bệnh, thì đến lợt họ lại trở thành
nguồn truyền nhiễm và quá trình dịch lại tiếp diễn.
1.2. Hai yếu tố tác nhân gián tiếp
+ Yếu tố thiên nhiên: nh thời tiết, khí hậu, điều kiện địa lý, thảm thực vật, hoàn cảnh
sinh thái đều có ảnh h ởng đến sự tồn tại, phát triển, hoạc lụi tàn một bệnh truyền nhiễm
nhất định.
+ Yếu tố xã hội : nh tổ chức xã hội, các tổ chức chăm sóc y tế, trình độ văn hóa của
một xã hội đều có ảnh hởng, nhiều khi quyết định đến sự xuất hiện, duy trì hoặc thanh toán
một bệnh truyền nhiễm.

2
2. Các hình thái và mức độ dịch
2.1. Dịch
Một bệnh truyền nhiễm sẽ trở thành một vụ dịch khi trong một thời gian ngắn, có tỷ
lệ mắc (hoặc chết) vợt quá tỷ lệ mắc (hoặc chết) trung bình trong nhiều năm liền tại khu
vực không gian đó. Để xác định dịch, ngời ta tính hệ số năm dịch (HSND):
HSND =
Chỉ số mắc bệnh trung bình tháng trong một năm
Chỉ số mắc trung bình tháng trong nhiều năm
Trong đó:
+ Chỉ số mắc trung bình tháng trong một năm đợc tính bằng:
Số mới mắc trong năm đó
12 tháng
+ Chỉ số mắc trung bình tháng trong nhiều năm đợc tính bằng:
Số mới mắc trong nhiều năm đó
Số tháng trong thời kỳ nhiều năm đó
Nếu năm nào có hệ số năm dịch lớn hơn 100% thì năm đó đợc coi là năm có dịch
trong thời kỳ đó .
Vấn đề đợc đặt ra là thời kỳ nhiều năm là bao nhiêu năm là hợp lý ?
Đối với các bệnh truyền nhiễm, có chu kỳ năm rõ rệt thì dễ xác định, ít nhất cũng
phải có đủ số năm của một chu kỳ, nếu đợc nhiều hơn sẽ có giá trị xác thực hơn, nhng phải
lấy gọn trong một hay nhiều chu kỳ đó mới chính xác. Cần nhớ rằng những bệnh truyền
nhiễm có chu kỳ này cũng chỉ giữ nguyên tính chu kỳ của chúng khi cha có can thiệp nhân
tạo, còn khi đã có can thiệp thì tính chu kỳ này sẽ mất đi.
Đối với các bệnh truyền nhiễm không biểu hiện tính chu kỳ rõ rệt, cũng giống nh các
bệnh không truyền nhiễm, theo quan niệm hiện nay của dịch tễ học, thì thời kỳ nhiều năm
kể trên phải dài, đôi khi rất dài, hàng chục năm, căn cứ vào diễn biến của từng loại dịch
bệnh.
2.2. Dịch địa phơng
Là bệnh dịch chỉ xảy ra ở một trong khu vực không gian nhất định, trong địa phơng

đó, không lan tràn ra các địa phơng khác. Cần nhớ là trong địa phơng đó, dịch cũng không
xảy ra đều đều hằng năm, mà cũng tuân theo những quy luật nhất định của nó. Ngời ta
3
chứng minh rằng dịch địa phơng tồn tại và diễn biến theo những yếu tố căn nguyên quy
định của dịch. Những yếu tố này chỉ có và diễn biến ở trong địa phơng đó, khi những yếu tố
căn nguyên này bị thay đổi hoặc triệt tiêu thì dịch địa phơng cũng thay đổi theo hoặc bị
đình chỉ.
2.3. Đại dịch và dịch tối nguy hiểm
Đại dịch và quan niệm trớc đây cho một loại dịch có thể lan tràn ra ngoài biên giới
một nớc, sang nhiều nớc (có quy định quốc tế). Ngày nay nó đợc hiểu là một bệnh dịch gây
nên số mới mắc rất lớn khác thờng, cho dầu mới chỉ là lu hành trong một nớc. Thêm vào
đó, ngời ta đa ra quan niệm về bệnh tối nguy hiểm, là những bệnh không những có khả
năng làm mắc nhiều ngời mà còn gây ra tử vong cao.
2.4. Các trờng hợp tản phát
Là những trờng hợp mắc lẻ tẻ, nh là không có quan hệ gì với nhau về thời gian và
không gian. Thờng gặp các trờng hợp tản phát ở các khu vực không gian vào những giai
đoạn không xảy ra dịch, hoặc những bệnh ít gây bệnh, đó là mức độ thấp nhất của dịch.
2.5. Dịch theo mùa
Có những dịch có những diễn biến khá đều đặn theo các tháng trong năm, rõ rệt nhất
là đối với đa số các bệnh truyền nhiễm.
Tính theo mùa chịu ảnh hởng nhiều của các yếu tố thiên nhiên, nhng cũng có những
can thiệp của các yếu tố xã hội.
Để xác định tính chất theo mùa của dịch, ngời ta tính hệ số mùa dịch (HSMD) theo
tháng:
HSMD =
Chỉ số mắc trung bình ngày/tháng
Chỉ số mắc trung bình ngày/năm
x 100
Trong đó:
Chỉ số mắc trung bình ngày/tháng đợc tính bằng:

Số mới mắc của một tháng
Số ngày của tháng đó (28-29-30-31 ngày)
Chỉ số mắc trung bình ngày/năm đợc tính bằng:
Số mới mắc bệnh của một năm
4
365 ngày
Nếu tháng nào có hệ số tháng dịch lớn hơn 100% đợc coi là tháng dịch, và nhiều
tháng dịch liền nhau trong năm đợc coi là mùa dịch.
Các bệnh truyền nhiễm cấp tính thờng biểu hiện tính chất mùa dịch rõ ràng, những
quy luật đó thờng hằng năm, năm nào cũng xảy ra.
2.6. Khái niệm dịch vận dụng đối với các bệnh không truyền nhiễm, mạn tính
Đối với các bệnh không truyền nhiễm, mạn tính trớc đây không có khái niệm dịch.
Khái niệm này đợc thay thế bằng khái niệm xu thế tăng hoặc giảm trong một thời
gian dài nhiều năm. Xu thế có đợc bằng cách theo dõi nhiều năm về tỷ lệ mới mắc của một
bệnh trạng nhất định. Bên cạnh đó, nếu một yếu tố nguy cơ tơng quan cũng đợc theo dõi
song song thì sẽ có thể hình dung đợc xu htế giảm hay tăng của bệnh trạng khi yếu tố nguy
cơ tơng quan của nó đợc ngăn chặn hay phát triển, tất nhiên là ngời ta phải đặt yếu tố
nguy cơ tơng quan này trong toàn bộ lới nguyên nhân của bệnh. Thí dụ: ở Mỹ, ngời ta đã
theo dõi số mới mắc bệnh ung th phổi từ những năm 50 trở về đây, đã xác định đợc rằng ở
nớc họ đã có xu thế tăng rất rõ rệt, sự gia tăng này xảy ra sau sự gia tăng hút thuốc lá cũng
rất rõ rệt nh vậy khoảng vài chục năm.
3. Phân loại bệnh truyền nhiễm
3.1. Cơ chế truyền nhiễm
Cơ chế truyền nhiễm là một cơ chế đảm bảo cho vi sinh vật gây bệnh từ vật chủ này
sang sinh trởng và phát triển ở một vật chủ khác.
Cơ chế truyền nhiễm nh vậy gồm ba giai đoạn:
- Vi sinh vật gây bệnh khỏi vật chủ cũ.
- Vi sinh gây bệnh tồn tại ở môi trờng bên ngoài.
- Vi sinh vật gây bệnh xâm nhập vào vật chủ mới.
+ Vị trí đào thải của vi sinh vật ra khỏi cơ thể.

Các bệnh truyền nhiễm chỉ có bốn vị trí đào thải khỏi cơ thể: theo phân, theo đờm và
các chất tiết mũi họng, theo máu đợc các vectơ trung gian, hút ra khỏi cơ thể, theo sự thải
bỏ của da, niêm mạc, lông, tóc
+ Sự tồn tại của vi sinh gây bệnh ở môi trờng ngoài cơ thể.
5
Sự tồn tại này lâu hay chóng là tùy thuộc vào điều kiện của môi trờng bên ngoài, nh-
ng quyết định vẫn là sức đề kháng của chính bản thân vi sinh vật gây bệnh trớc những điều
kiện đó.
Thí dụ: virut đậu mùa, trực khuẩn lao tồn tại đợc rất lâu ở môi trờng ngoài cơ thể,
ngay cả trong những điều kiện khô hanh khắc nghiệt vẫn có thể gây bệnh sau nhiều năm
mỗi khi xâm nhập trở lại đợc cơ thể. Trực khuẩn than, uốn ván cũng tồn tại đợc rất lâu, nhờ
có nha bào của chúng.
Các loại virut viêm gan, trực khuẩn thơng hàn, virut bại liệt, trực khuẩn bạch hầu
cũng có sức chịu đựng khá ở ngoại cảnh. Các loại không có sức chịu đựng lâu ở ngoại cảnh
nh virut sỏi, virut cúm, dại, các loại tác nhân của các bệnh hoa liễu chỉ truyền trực tiếp .
+ Khái niệm về vị trí cảm nhiễm
Một vi sinh vật gây bệnh mỗi khi xâm nhập một cơ thể mới đều phải gặp đợc một tổ
chức, một cơ quan đầu tiên thích hợp để ký sinh tồn tại và phát triển ở tổ chức đó( phẩy
khuẩn tả ở ruột non) hoặc còn có thể xâm nhập vào các tổ chức khác, hoặc cơ quan khác.
Tất cả những tổ chức, những cơ quan của cơ thể mà sinh vật gây bệnh tồn tại và phát
triển đợc ở đó đều đợc gọi là vị trí cảm nhiễm của cơ thể đối với vi sinh vật gây bệnh.
+ Khái niệm về vị trí cảm nhiễm đầu tiên.
Một khi vi sinh vật gây bệnh đã xâm nhập vào cơ thể thì ở những cơ quan, những tổ
chức của cơ thể đầu tiên chúng gặp phải, thích ứng đối với chúng, vi sinh vật bắt đầu sinh
sản và phát triển ở đó. Những cơ quan, những tổ chức này đợc gọi là vị trí cảm nhiễm thứ
nhất của cơ thể đối với vi sinh vật gây bệnh, sau đó, tùy thuộc cơ chế sinh bệnh mà vi sinh
vật gây bệnh chỉ ở vị trí đó hoặc tiếp tục gây bệnh cả ở những tổ chức khác nữa, đó là vị trí
cảm nhiễm thứ hai.
Thí dụ: trực khuẩn bạch cầu chỉ có vị trí cảm nhiễm duy nhất là hầu họng, virut bại
liệt có vị trí nhận vào thứ nhất là niêm mạc ống tiêu hóa, và vị trí cảm nhiễm thứ hai là chất

xám của sừng trớc tuỷ sống.
Chúng ta thấy, nh vậy vị trí cảm nhiêm thứ nhất của vi sinh vật gây bệnh, vừa là vị trí
nhận vào, đồng thời cũng là vị trí đào thải vi sinh vật gây bệnh ra khỏi cơ thể.
3.2. Phân loại bệnh truyền nhiễm
Căn cứ vào vị trí cảm nhiễm thứ nhất, ngời ta chia các bệnh truyền nhiễm làm bốn
loại khác nhau về cơ chế truyền nhiễm, về phơng thức truyền nhiễm, mỗi loại có một đờng
truyền nhiễm riêng biệt.
6
+ Các bệnh truyền nhiễm đờng tiêu hóa: có cơ chế lan truyền phân - miệng.
+ Các bệnh truyền nhiễm đờng hô hấp: có cơ chế lan truyền bằng giọt nớc bọt, bụi -
hít thở.
+ Các bệnh truyền nhiễm đờng máu có cơ chế lan truyền do côn trùng hút máu
tuần hoàn
+ Các bệnh truyền nhiễm đờng da và niêm mạc: có cơ chế lan truyền ngoài da- niêm
mạc.
+ Một số bệnh có nhiều cơ chế lan truyền: nh bại liệt có thể lan truyền theo đờng tiêu
hóa và hô hấp, bệnh than có thể lan truyền theo đờng tiêu hóa, đờng da, đờng hô hấp.
4. Nguyên lý phòng chống dịch
Việc phân chia các biện pháp phòng dịch riêng rẽ với các biện pháp chống dịch, trên
thực tế không bao giờ tách rời nhau vì các biện pháp thờng đợc tiến hành đồng bộ trên ý
nghĩa chống dịch cũng là để phòng dịch, với sự nhấn mạnh đến biện pháp này hay biện
pháp khác tùy theo bệnh, và tình hình cụ thể của bệnh đó.
4.1. Quan niệm sinh thái - xã hội của các bệnh truyền nhiễm
Các bệnh truyền nhiễm (nhiễm khuẩn, ký sinh trùng, virut ) hiện nay vẫn còn là
một nguy cơ quan trọng của thế giới, ngay cả ở các nớc phát triển, và cố nhiên là nặng nề ở
các nớc chậm phát triển.
Các bệnh truyền nhiễm (còn gọi là các bệnh lây) có phơng thức đặc biệt trong quá
trình gây bệnh ở ngời: nhiễm trùng là một hiện tợng sinh thái học, biểu hiện sự đấu tranh
qua lại giữa hai vật thể sống thuộc hai đẳng cấp sinh vật khác nhau, trong đó có thể biểu
hiện của nhiễm trùng ngoại sinh dới các hiện tợng ký sinh, và nội sinh, dới các hiện tợng

đồng sinh và cộng sinh.
Trong các biểu hiện của bệnh truyền nhiễm trong quần thể ngời thì yếu tố "thời gian
tiếp xúc" của tác nhân nhiễm trùng với quần thể có tầm quan trọng đặc biệt: đối với từng cá
thể nó gây nên các thể lâm sàng khác nhau (thể lâm sàng điển hình, thể ẩn, thể nhẹ, thể tiền
tàng, thể nặng cấp tính ).
Còn đối với quần thể là những mức độ và hình thái dịch khác nhau (dịch tản phát,
dịch địa phơng, đại dịch).
Các bệnh truyền nhiễm cấp tính là những thể hiện hiện tợng ký sinh điển hình ở quần
thể ngời gây nên do tình trạng mất cân bằng sinh thái học. ở đây nổi bật là tình trạng mất
7
cân bằng sinh thái miễn dịch - cảm nhiễm trong quần thể. Các bệnh truyền nhiễm mạn tính
có thời gian tiếp xúc kéo dài giữa tác nhân và cộng đồng. Trong quá trình tiếp xúc đấu
tranh đó, có rất nhiều biến thiên sinh học đã xảy ra và luôn luôn biến đổi về phía tác nhân
(độc lực, khả năng sinh độc tố, tính kháng thuốc ) về phía túc chủ (tính miễn dịch đặc
hiệu và không đặc hiệu ).
Lịch sử các bệnh truyền nhiễm trong xã hội loài ngời đã chứng tỏ có khá nhiều bệnh
đã thay đổi, có những bệnh đã mất đi (đậu mùa, bại liệt) có những bệnh mới xuất hiện
(bệnh Legionellose và mới đây là bệnh AIDS, bệnh SARS).
Vì các bệnh nhiễm trùng có một yếu tố căn nguyên đặc hiệu (vi khuẩn, virut,
rickettsia, nấm, đơn bào, ký sinh) nên có rất nhiều yếu tố khác tham gia vào làm cho bệnh
phát sinh và lan tràn bệnh trong quàan thể ngời. Cho nên bên cạnh các tác nhân gây nhiễm
trùng (với độc lực, biến dị , di truyền ) còn cần phải nghiên cứu về sinh thái đặc biệt của
chúng. Vật chủ ( tính cảm nhiễm, tính miễn dịch, sức đề kháng ) và các môi tr ờng tự
nhiên (địa lý, khí hậu, các ổ chứa, các vectơ, các phơng tiện truyền nhiễm ) và cả môi tr -
ờng xã hội của ngời (các điều kiện sống, nhà ở, dinh dỡng, thực phẩm, các điều kiện kinh
tế, văn hóa ).
Cho nên sự biểu hiện lâm sàng ở cá thể và biểu hiện dịch trong cộng đồng phụ thuộc
vào rất nhiều yếu tố, tất cả biểu thị bởi khái niệm "xác suất" tiếp xúc thích đáng trong các
tác động đồng thời của tỷ lệ các cá thể cảm nhiễm và miễn dịch ở nhiều mức độ khác nhau,
của tỷ lệ ngời mang mầm bệnh (mang mầm bệnh cấp tính, mạn tính, lành và khỏi mang

mầm bệnh mang mầm hoạt động hoặc vô hại ) của các yếu tố vật lý sinh học của môi tr -
ờng chung quanh (khí hậu, địa hình, ổ chứa thiên nhiên, vectơ ), của môi tr ờng xã hội
(điều kiện kinh tế, trình độ hiểu biết và ý thức, thực trạng vệ sinh cá nhân, vệ sinh lao động,
thức ăn, nhà ở, mật độ dân số, số ngời trong gia đình ).
4.2. Đánh giá bệnh truyền nhiễm trong quần thể.
Nh trên đã trình bày, công tác dịch tễ các bệnh truyền nhiễm đòi hỏi phải có những
hiểu biết đầy đủ về tác nhân, vật chủ và môi trờng đối với từng loại bệnh, đặc biệt là phơng
thức lây truyền của chúng. Sự biến đổi các bệnh đó phụ thuộc vào các tác nhân, vật chất và
môi trờng khác nhau, đặc biệt phải chú ý đến các yếu tố nh độc lực, tính gây bệnh, tính lây
lan, thời gian phơi nhiễm, cờng độ tiếp xúc, lối xâm nhập và đào thải, các vectơ và sinh thái
của chúng, các phơng tiện truyền nhiễm, tuổi, khí hậu, các biến đổi theo mùa, xu thế biến
đổi theo năm, các điều kiện thuận lợi cho việc lan truyền, các biến đổi của thời kỳ ủ bệnh.
8
Thí dụ: với thời kỳ ủ bệnh (từ lúc tác nhân xâm nhập đến khi biểu hiện những dấu
hiệu hoặc triệu trứng đầu tiên của bệnh) là rất quan trọng trong việc điều tra xác định một
vụ dịch, nhất là tìm nguồn truyền nhiễm.
Thời kỳ này thùy thuộc vào tốc độ sinh sản nhân lên của tác nhân trong cơ thể túc
chủ, vào các vị trí cảm nhiễm đầu tiên và các vị trí cảm nhiễm khác, vào số lợng tác nhân
xâm nhập Biết thời kỳ ủ bệnh còn giúp cho việc đề xuất thời gian cách ly có hiệu quả.
9
Tác nhân
Vật chủ Môi trờng
Các khả năng và xác suất tác động phối hợp
Ngời ốm, mang mầm bệnh ổ
chứa động vật, ổ chứa vô tri
Giọt nớc bọt, vật
dùng, nớc, thức ăn
véc tơ
Quần thể có nguy cơ mắc, tình trạng sức
khoẻ miền dịch dinh dỡng, nhà ở gia

truyền
Các bệnh truyền nhiễm cũng đợc đánh giá bằng:
4.2.1. Tỷ lệ hiện mắc
Dùng để đánh giá khả năng gây bệnh, nhất là với các bệnh mạn tính, để xác định nhu
cầu y tế (số giờng bệnh, cán bộ bệnh viện, phúc lợi và xã hội ).
4.2.2. Tỷ lệ mới mắc
Để đánh giá tốc độ lan tràn của bệnh trong những khoảng thời gian nhất định.
- Tỷ lệ tấn công tiên phát bằng:
Số mắc bệnh trong một thời gian
Số cảm nhiễm/thời gian đó
x k
- Tỷ lệ tấn công thứ phát bằng:
Số mắc thêm/quần thể
Số cảm nihễm không kể số mắc trớc đó
x 100
Tỷ lệ tấn công áp dụng cho những vụ dịch ngắn, đột xuất (thí dụ: nhiễm độc thức ăn)
mà ngoài thời gian xảy ra vụ dịch thì số mắc là rất ít.
- Tỷ lệ tiếp xúc:
Là tỷ số giữa số ngời có tiếp xúc với tác nhân và số cá thể trong quần thể.
Để có đợc những dữ liệu đánh giá, ngời ta tiến hành một số biện pháp cụ thể sau đây:
+ Khi có dịch:
Trên cơ sở giám sát bệnh truyền nhiễm, bao giờ ngời ta cũng thu đợc một tỷ lệ mắc
trung bình hằng năm của bệnh, và sẽ dễ dàng xác định đợc ở một thời điểm nào đó của một
địa phơng nhất định là có ở tình trạng dịch hay không.
Nếu có, để đánh giá tình hình dịch, phải tiến hành điều tra vụ dịch (và sau đó phải xử
lý ổ dịch).
+ Khi không có dịch
Bên cạnh hệ thống giám sát dịch tễ, muốn đánh giá tình hình một bệnh truyền nhiễm,
ngời ta thờng tiến hành những cuộc nghiên cứu ngang vào những thời điểm thích hợp đối
với những diễn biến đặc thù của bệnh đó.

Kết quả của những đợt nghiên cứu ngang sẽ cho phép đánh giá tình hình bệnh truyền
nhiễm sát hợp nhất, chính xác nhất, để dựa vào đó có kế hoạch phòng ngừa; hữu hiệu nhất.
10
5. Các biện pháp phòng ngừa bệnh truyền nhiễm
Phòng ngừa các bệnh truyền nhiễm là nhiệm vụ của mọi ngời, bao gồm trớc hết là
các biện pháp nhà nớc (bao gồm từ những đạo luật,các văn bản dới luật đến những biện
pháp kinh tế xã hội nhằm bảo vệ và nâng cao sức khoẻ của ngời dân) và các biện pháp y
tế.
Các biện pháp y tế có nhiều, trong đó có chơng trình nhằm gây miễn dịch đặc hiệu
bảo vệ khối cảm nhiễm, các chơng trình về môi trờng đấu tranh hạ thấp và loại bỏ tác hại
của vai trò truyền nhiễm của các yếu tố lan truyền bệnh, các chơng trình chống nhiễm
khuẩn Các chơng trình đó hoạt động càng có hiệu quả bao nhiêu, thì việc phòng ngừa
các bệnh truyền nhiễm càng có hiệu quả.
Những công tác thực tế, cần thiết và có thể làm đợc ở mọi tuyến y tế.
+ Khai báo các trờng hợp bệnh truyền nhiễm.
+ Chẩn đoán lâm sàng và điều trị đặc hiệu không đặc hiệu (chăm sóc ở bệnh viện hoặc ở
nhà), phát hiện ngời bệnh trong các nhóm ngời có nguy cơ.
+ Cách ly có chọn lọc ngời bệnh trong thời kỳ có lây của bệnh.
+ Tẩy uế trong và sau quá trình bệnh.
+ Diệt côn trùng, và diệt chuột.
+ Ngăn cách chọn lọc: các biện pháp bắt buộc với ngời, với súc vật, phơng tiện vận
chuyển, cấm hội họp đông ngời.
+ Gây miễn dịch, điều tra miễn dịch trong quần thể.
+ Giám sát ngời và vật mang mầm bệnh và có biện pháp (chữa trị, giáo dục y tế, vệ
sinh ).
+ Các biện pháp lý hóa và sinh học làm sạch môi trờng.
+ Kiểm tra vệ sinh thức ăn, nớc uống.
+ Giám sát trờng học.
+ Bảo vệ quần thể bằng giáo dục vệ sinh, dinh dỡng, vệ sinh cá nhân, phòng bệnh
bằng vacxin, serum, thuốc, hóa chất.

+ Điều tra dịch tễ các bệnh truyền nhiễm.
+ Kiểm soát biên giới về bệnh truyền nhiễm.
11
Các biện pháp đợc liệt kê trên đây là những biện pháp cần thiết, nhng cần chọn lọc
những biện pháp thích hợp, và công tác phòng ngừa bệnh truyền nhiễm là thờng xuyên.
Trong đó có chú ý vận dụng trên những quy luật đặc thù của bệnh nh các quy luật diễn biến
theo chu kỳ, theo mùa, theo tuổi mắc, theo tình hình dịch của địa phơng, tình hình dịch
chung của một khu vực rộng lớn cùng với các quy định của nhà nớc, của ngành y tế đối
với từng chơng trình, từng bệnh.
6. Các biện pháp chống dịch chủ yếu tùy theo loại bệnh trong cách phân loại kể trên
6.1. Các biện pháp phòng chống dịch đối với từng mắt xích trực tiếp của quá trình
dịch
6.1.1. Đối với nguồn truyền nhiễm
+ Chẩn đoán phát hiện sớm.
+ Khai báo (hoặc thông báo quốc tế).
+ Cách ly (thời kỳ ủ bệnh dài nhất).
+ Tẩy uế (những chất thải bỏ, từng thời kỳ, tùy theo loại bệnh).
+ Điều trị (triệt để).
+ Chăm sóc, theo dõi.
6.1.2. Đối với đờng truyền nhiễm
Phải xử lý các phơng tiện truyền nhiễm và xóa bỏ cơ chế truyền nhiễm nh:
+ Xử lý nớc, phân, đất.
+ Tiểu diệt côn trùng trung gian truyền bệnh: diệt ruồi, muỗi, bọ chét, chấy rận
+ Giáo dục vệ sinh: rửa tay trớc khi ăn, tránh ăn rau quả sống nhiễm bẩn, uống nớc
chín, không dùng chung các vật dùng có thể gây bệnh.
+ Tránh những tiếp xúc không cần thiết, nằm màn
6.1.3. Đối với khối cảm nhiễm
+ Chủ động tiêm vacxin là biện pháp rất tốt để đề phòng (các bệnh có vacxin hữu
hiệu).
+ Một số bệnh có thể dùng serum đề phòng cũng khá tốt.

+ Về lâu dài, nên tăng cờng sức đề kháng không đặc hiệu, nâng cao trình độ hiểu biết
về bệnh tật cho cộng đồng, tự giác thực hiện luật bảo vệ sức khoẻ.
12
6.2. Đối với từng loại bệnh
6.2.1. Các bệnh hô hấp
Vì cơ chế lây truyền đơn giản, dễ dàng nên chỉ có việc dùng vacxin là có thể thực
hiện đợc triệt để, và rất có hiệu quả đối với các bệnh đã có vacxin hữu hiệu.
Ngay cả đối với bệnh có vacxin còn cha có hiệu quả tuyệt đối, thì việc dùng vacxin
vẫn rất cần thiết (cúm).
Các biện pháp đối với nguồn truyền nhiễm, và nhất là đối với đờng truyền nhiễm rất
hạn chế.
6.2.2. Các bệnh tiêu hóa
Các bệnh tiêu hóa là cơ chế lây truyền khá phức tạp, phần lớn có phơng thức lây
truyền gián tiếp là rất quan trọng, qua nhiều phơng tiện trung gian truyền nhiễm rất khác
nhau. Nên biện pháp tác động vào các phơng tiện truyền nhiễm đó đóng vai trò chủ yếu, để
cắt đứt đờng truyền nhiễm mới có tác dụng triệt để.
Ngoài ra, chỉ có một vài bệnh có vacxin hữu hiệu, nh bại liệt thì biện pháp dùng
vacxin bảo vệ khối cảm nhiễm là hữu hiệu duy nhất; các loại vacxin thơng hàn cũng có tác
dụng khá tốt, các loại vacxin viêm gan và lỵ trực khuẩn hiện nay đang đợc áp dụng rộng rãi
và hình nh cũng các hiệu quả khả quan. Còn biện pháp đối với nguồn truyền nhiễm, chỉ có
cách ly đối với thơng hàn là có kết quả tốt, các biện pháp khác đều phải tiến hành với ý
nghĩa góp phần vào trong tập hợp biện pháp chung cần làm.
6.2.3. Các bệnh truyền nhiễm theo đờng máu
Biện pháp chủ yếu là diệt các loại côn trùng tiết túc hút máu tơng ứng (nh sốt rét, sốt
dengue ) bẹnh viêm não Nhật Bản thì dùng vacxin.
Các bệnh viêm gan B, AIDS: thì việc tiệt khuẩn các dụng cụ tiêm truyền, quy chế các
ngân hàng máu cần đợc tôn trọng nghiêm ngặt.
Các biện pháp phát hiện, cách ly, điều trị cũng nh các biện pháp tránh côn trùng hút
máu, diệt côn trùng cũng có tác dụng góp phần phòng chống bệnh.
6.2.4. Các bệnh truyền nhiễm theo đờng da, niêm mạc

Biện pháp quan trọng là vệ sinh cá nhân, ngoài ra các biện pháp giáo dục sức khoẻ,
các biện pháp "xã hội" có vai trò quyết định trong một số trờng hợp.
13
Trên đây là những nguyên lý chung đối với từng loại bệnh theo phân loại hiện nay,
những nguyên lý này chỉ ra mắt xích quan trọng nhất trong quá trình dịch, nhất thiết phải
tác động vào đó để ngăn chặn dịch lan tràn.
Còn đối với một vụ dịch cụ thể, bao giờ cũng tiến hành bớc điều tra dịch, trên cơ sở
của kết quả điều tra mà áp dụng các biện pháp xử lý hữu hiệu.
14

×