Tải bản đầy đủ (.pdf) (145 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần bánh kẹo Hải Châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 145 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KINH TẾ




Nguyễn Thị Kim Dung






Nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần bánh
kẹo Hải Châu








LUẬN VĂN THẠC SỸ





Hà nội - 2008


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KINH TẾ





Nguyễn Thị Kim Dung





Nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần
bánh kẹo Hải Châu



Luận văn Thạc sĩ

Mã Số: 60 34 05



Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Đỗ Hoàng Toàn






Hà nội - 2008





i
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA DOANH NGHIỆP 6
1.1.1 CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ CẠNH TRANH 6
1.1.1.1 CẠNH TRANH 6
1.1.1.2 NĂNG LỰC CẠNH TRANH: 8
1.1.2 VAI TRÒ CỦA NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA DOANH NGHIỆP 9
1.1.3 CÁC TIÊU CHÍ PHẢN ÁNH NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA DOANH NGHIỆP 11
1.2 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.2.1 MÔI TRƯỜNG KINH TẾ: 17
1.2.2 MÔI TRƯỜNG LUẬT PHÁP, CHÍNH TRỊ: 18
1.2.3 KHẢ NĂNG GIA NHẬP THỊ TRƯỜNG CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP TIỀM ẨN 18
1.2.4 NHÂN TỐ CÁC ĐƠN VỊ CUNG ỨNG ĐẦU VÀO CHO
DOANH NGHIỆP 19
1.2.5 NHÂN TỐ KHÁCH HÀNG 19
1.2.6 NHÂN TỐ CẠNH TRANH NỘI BỘ NGÀNH 20
1.2.6.1 CÁC NHÂN TỐ BÊN TRONG 20
1.2.6.2 CÁC NHÂN TỐ BÊN NGOÀI 24

1.2.6.3 CÁC KHẢ NĂNG TÁC ĐỘNG NHẰM NÂNG CAO NĂNG
LỰC CẠNH TRANH SẢN PHẨM BÁNH KẸO 27




ii
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY
CỔ PHẦN BÁNH KẸO HẢI CHÂU TRONG GIAI ĐOẠN
VỪA QUA. 38
2.1 KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN BÁNH KẸO HẢI
CHÂU 38
2.2 THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY
CỔ PHẦN BÁNH KẸO HẢI CHÂU TRONG QUÁ TRÌNH
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 40
2.2.1 PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG TIÊU THỤ CỦA CÔNG TY CỔ
PHẦN BÁNH KẸO HẢI CHÂU 43
2.2.1.1 ĐẶC ĐIỂM VỀ SẢN PHẨM BÁNH KẸO 43
2.2.1.2 ĐẶC ĐIỂM THỊ TRƯỜNG BÁNH KẸO VIỆT NAM 44
2.2.2 PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA
CÔNG TY CỔ PHẦN BÁNH KẸO HẢI CHÂU 45
2.2.2.1 TÌNH HÌNH TIÊU THỤ THEO CHỦNG LOẠI SẢN PHẨM . 45
2.2.2.2 TÌNH HÌNH TIÊU THỤ SẢN PHẨM THEO KHU VỰC THỊ
TRƯỜNG 61
2.2.2.3 TÌNH HÌNH TIÊU THỤ THEO THỜI GIAN 69
2.2.2.4 CÁC CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ HOẠT ĐỘNG TIÊU THỤ CỦA
CÔNG TY CỔ PHẦN BÁNH KẸO HẢI CHÂU. 72
2.3 PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
CÔNG TY CỔ PHẦN BÁNH KẸO HẢI CHÂU SO VỚI CÁC
CÔNG TY BÁNH KẸO KHÁC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 83

2.3.1 CÔNG TY TNHH CHẾ BIẾN THỰC PHẨM KINH ĐÔ 83
2.3.2 CÔNG TY CỔ PHẦN BÁNH KẸO HẢI HÀ 85
2.3.3 CÔNG TY CỔ PHẦN TRÀNG AN 88
2.3.4 ƯU THẾ 90
2.3.5 HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN 91




iii

CHƯƠNG 3:MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN BÁNH KẸO HẢI
CHÂU TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
96
3.1 THÁCH THỨC ĐỐI VỚI CÔNG TY CỔ PHẦN BÁNH KẸO
HẢI CHÂU TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ 96
3.2 NHÓM GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN BÁNH KẸO HẢI CHÂU TRONG
QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 97
3.2.1 MỞ RỘNG LIÊN KẾT VỚI CÁC CÔNG TY BÁNH KẸO
KHÁC Ở VIỆT NAM ĐỂ HỖ TRỢ NHAU TRONG QUÁ
TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 98
3.2.2 XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC KINH DOANH LÂU DÀI ĐỐI
VỚI CÔNG TY CỔ PHẦN BÁNH KẸO HẢI CHÂU 100
3.2.2.1 CHIẾN LƯỢC SẢN PHẨM 100
3.2.2.2 CHIẾN LƯỢC GIẢM THIỂU CHI PHÍ 100
3.2.2.3 CHIẾN LƯỢC CHUYÊN BIỆT HOÁ SẢN PHẨM 101
3.2.2.4 CHIẾN LƯỢC THỊ TRƯỜNG NGÁCH VỚI CÁC NHÓM

KHÁCH HÀNG MỤC TIÊU CÓ THỂ NẮM BẮT VÀ PHÂN
TÍCH ĐƯỢC ĐỘNG THÁI CỦA SỰ THAY ĐỔI 101
3.2.2.5 CHIẾN LƯỢC MARKETING 101
3.2.2.6 CHIẾN LƯỢC ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ 102
3.2.2.7 CHIẾN LƯỢC CON NGƯỜI 102
3.2.2.8 CHIẾN LƯỢC XÂY DỰNG VÀ QUẢNG CÁO CHO
THƯƠNG HIỆU SẢN PHẨM 102
3.2.2.9 CHIẾN LƯỢC VỐN 102




iv
3.2.3 XÂY DỰNG VĂN HOÁ CÔNG TY TRỞ THÀNH MỘT LỢI
THẾ CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN BÁNH KẸO
HẢI CHÂU 103
3.2.4 NÂNG CAO NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG THÔNG QUA ĐỔI
MỚI CÔNG NGHỆ VÀ NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ NGƯỜI LAO
ĐỘNG 105
3.2.4.1 NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ ĐỘI NGŨ LAO ĐỘNG CỦA
DOANH NGHIỆP 105
3.2.4.2 CHÚ TRỌNG TỚI VIỆC ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ VÀ HOẠT
ĐỘNG NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN VỚI CHI PHÍ THẤP . 108
3.2.5 ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀO KINH DOANH
TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN BÁNH KẸO HẢI CHÂU 109
3.2.5.1 THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ 109
3.2.5.2 ỨNG DỤNG CỦA THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT
ĐỘNG MARKETING CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN BÁNH KẸO
HẢI CHÂU 111
3.2.5.3 PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở CÔNG TY CỔ

PHẦN BÁNH KẸO HẢI CHÂU 112
3.3 NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN BÁNH KẸO HẢI
CHÂU 116
3.3.1 ĐÀO TẠO BỒI DƯỠNG VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN
LỰC 118
3.3.2 NÂNG CAO NĂNG LỰC CÔNG NGHỆ 121
3.3.3 NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM 122
3.3.4 HIỆN ĐẠI HOÁ HỆ THỐNG TỔ CHỨC, QUẢN LÝ CỦA
DOANH NGHIỆP 124
3.3.5 TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 125




v
3.3.6 UY TÍN CỦA DOANH NGHIỆP 126
3.3.7 PHÁT TRIỂN THỊ PHẦN CỦA DOANH NGHIỆP 126
3.3.8 KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC 127
3.3.8.1 HỖ TRỢ TÀI CHÍNH CHO DOANH NGHIỆP 127
3.3.8.2 XÂY DỰNG MÔI TRƯỜNG KINH DOANH THUẬN LỢI VÀ
BÌNH ĐẲNG CHO CÁC DOANH NGHIỆP 129
KẾT LUẬN
125




1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của đề tài
Thế giới đang đứng trước một xu thế có tính quy luật là các nền kinh tế
ngày càng phụ thuộc vào nhau, hiệp tác chặt chẽ hơn với nhau ở phạm vi khu
vực cũng như toàn cầu. Từ cuối những năm 80, xu thế này được khẳng định
bằng một cụm từ mới “toàn cầu hoá”, vấn đề đặt ra là toàn cầu hoá có mang
lại lợi ích như nhau cho các nền kinh tế có điều kiện phát triển khác nhau hay
không? Trên thực tế, tổng lợi ích được tạo ra lớn hơn nhưng sự phân phối lợi
ích sẽ hướng tới những nơi có lợi thế cạnh tranh tốt hơn. Doanh nghiệp trong
thời đại mới - thời đại toàn cầu hoá và kinh tế tri thức phải tạo ra cho được
các sản phẩm làm thoả mãn yêu cầu người tiêu dùng với trình độ cao ở trong
và ngoài nước. Bên cạnh đó, để thu được lợi ích từ quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế thì doanh nghiệp không còn lựa chọn nào khác ngoài việc không
ngừng củng cố và nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
Trong những năm gần đây, trong khi năng lực của các doanh nghiệp Nhà
nước không được cải thiện là bao thì năng lực của doanh nghiệp dân doanh,
các Công ty cổ phần đã được nâng cao đáng kể, thể hiện ở mức tăng trưởng
xuất khẩu và vai trò ngày càng tăng của khu vực tư nhân trong nước. Tuy
nhiên các doanh nghiệp nước ta vẫn còn rất yếu so với các đối thủ cạnh tranh
quốc tế do năng suất và tốc độ tăng trưởng năng suất lao động còn thấp, hiệu
quả và lợi nhuận chưa cao, trình độ công nghệ và quản lý còn hạn chế vì cạnh
tranh chủ yếu vẫn chỉ bằng giá lao động. Nhìn chung, năng lực cạnh tranh
doanh nghiệp của một quốc gia càng cao thì khả năng nâng cao mức sống dân
cư của quốc gia ấy càng lớn. Điều này hoàn toàn dễ hiểu vì doanh nghiệp là
đơn vị sản xuất cơ bản nhất nơi tạo ra giá trị và sự thịnh vượng của mọi quốc
gia. Điều này cũng có nghĩa là để nền kinh tế tăng trưởng và phát triển, Nhà
nước phải biết hỗ trợ cho các doanh nghiệp và các doanh nhân hoạt động có





2
hiệu quả nhất. Các doanh nghiệp và cộng đồng doanh nghiệp phải là người
đóng vai trò chủ động, đi tiên phong trong sự nghiệp tự làm giàu và qua đó
góp phần phát triển đất nước bằng cách nâng cao năng lực cạnh tranh doanh
nghiệp của mình.
Với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và trong nước như vũ bão đồng
thời với việc Việt Nam tham gia vào các tổ chức kinh tế mà đặc biệt là việc
gia nhập WTO. Khi đó khoa học công nghệ - thông tin, mọi thành tựu khoa
học công nghệ được áp dụng vào trong sản xuất hàng hoá và dịch vụ, năng
suất trong sản xuất tăng nhanh, hàng hoá sản xuất ra ngày càng nhiều, sự cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt và khốc liệt. Hiện nay trong
cơ chế thị trường doanh nghiệp sản xuất đang ra sức cạnh tranh, luôn cố gắng,
nỗ lực tìm cho mình một vị thế, chỗ đứng trên thị trường, liên tục mở rộng thị
phần sản phẩm, nâng cao uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng. Sản
phẩm hàng hoá có thể cạnh tranh được trên thị trường phải là những sản
phẩm, hàng hoá có chất lượng cao, mẫu mã đẹp và điều quan trọng không thể
thiếu đó là giá bán phải phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng. Mặt khác, trong
các doanh nghiệp thì lợi nhuận luôn là mục tiêu là sự phấn đấu và là cái đích
cần đạt tới. Như vậy để doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, thu được lợi
nhuận cao thì không những đầu ra của quá trình sản xuất phải đảm bảo mà
đầu vào cũng phải được ổn định. Nghĩa là sản phẩm của doanh nghiệp phải
được mọi người tiêu dùng chấp nhận, đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn phấn
đấu và tìm mọi biện pháp để tiết kiệm chi phí, hạ giá thành, nâng cao chất
lượng sản phẩm và đưa ra được giá bán phù hợp, có như vậy mới tồn tại và
phát triển được. Chính vì lý do đó mà vấn đề chiếm lĩnh thị trường, nâng cao
năng lực cạnh tranh luôn có tầm quan trọng và có tính thời cuộc đối với bất
kỳ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào.





3
Thực tiễn tại Việt Nam, các doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo chiếm một tỷ
trọng rất lớn trên tổng số doanh nghiệp và có xu hướng ngày càng tăng. Do
đó, sự tồn tại và phát triển của những doanh nghiệp này sẽ ảnh hưởng đáng kể
tới sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế của Việt Nam. Đứng trước
thực tế đó, việc nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm bánh kẹo ở Việt
Nam trở thành một yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Công ty cổ
phần bánh kẹo Hải Châu là một trong những công ty có truyền thống, uy tín,
phát triển lâu dài và là một công ty lớn của Miền bắc. Trong những năm qua,
do sự biến động của thị trường với sự cạnh tranh gay gắt của một số Công ty
cùng ngành nên tình hình sản xuất kinh doanh và mở rộng thị trường của
Công ty gặp nhiều khó khăn và trở ngại. Để có thể đứng vững trên thị trường
hiện nay trên thị trường bánh kẹo, Công ty cần thực hiện nhiều biện pháp cấp
bách cũng như lâu dài để nhằm đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm, phát
triển hoạt động sản xuất kinh doanh, giữ vững uy tín và vị thế của Công ty
trên thị trường từ trước tới nay, nghiên cứu này xuất phát chính từ nhu cầu
thực tiễn đó, đề tài “ Nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần
bánh kẹo Hải Châu” được chọn để nghiên cứu nhằm định hướng cho chiến
lược nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm bánh kẹo của doanh nghiệp và
đưa ra các giải pháp đồng bộ để thực hiện.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề cạnh tranh của các doanh nghiệp đã được khá nhiều đề tài trong và
nước nghiên cứu nhưng ở phạm vi và hoàn cảnh khác nhau, nhưng với phạm
vi của từng doanh nghiệp cụ thể thì còn rất tản mạn. Đề tài chỉ tập trung
nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện ở một doanh nghiệp thuộc ngành
lương thực - thực phẩm với các đặc điểm đặc thù riêng có.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu





4
Đề tài nhằm mục đích nghiên cứu thực trạng năng lực cạnh tranh sản phẩm
bánh kẹo của Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Châu hiện nay và đề xuất các
chính sách giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh của sản phẩm trên thị
trường nội địa, nhiệm vụ của đề tài nhằm:
 Nghiên cứu hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về năng lực cạnh tranh
của Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Châu.
 Đánh giá năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Châu
trong quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu.
 Đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh cho Công
ty cổ phần bánh kẹo Hải Châu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
 Đề tài tập trung nghiên cứu năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần
bánh kẹo Hải Châu.
 Phạm vi nghiên cứu là những vấn đề liên quan đến năng lực cạnh tranh
của Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Châu trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế.
5. Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng tổng hợp các phương pháp của triết học Mác - Lê Nin, quan
điểm đổi mới của Đảng và các phương pháp phân tích, tổng hợp, phương
pháp chuyên gia và một số phương pháp khác để làm rõ kết quả nghiên cứu.

6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận và thực tiễn về cạnh tranh ở một doanh
nghiệp.





5
- Phân tích những nguyên nhân chủ yếu làm hạn chế năng lực cạnh tranh
của Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Châu.
- Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
của Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Châu trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
7. Bố cục của luận văn
Luận văn dự kiến sẽ được chia thành các phần sau:
Phần mở đầu
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần bánh kẹo
Hải Châu trong giai đoạn vừa qua.
Chương 3: Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
của Công ty cổ phần bánh kẹo Hải Châu trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
Kết luận




6
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
DOANH NGHIỆP
1.1 Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.1.1 Các khái niệm cơ bản về cạnh tranh
1.1.1.1 Cạnh tranh
Cạnh tranh nói chung, cạnh tranh trong kinh tế nói riêng là một khái
niệm có nhiều cách hiểu khác nhau. Khái niệm này được sử dụng cho cả

phạm vi doanh nghiệp, phạm vi ngành, phạm vi quốc gia hoặc phạm vi khu
vực liên quốc gia…
- Theo K.Marx: “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa
các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và
tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch”[12].
- Theo từ điển Bách khoa Việt Nam: Cạnh tranh là hoạt động tranh đua
giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà kinh
doanh trong trong nền kinh tế thị trường, chi phối bởi quan hệ cung - cầu,
nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất [21].
- Theo từ điển kinh doanh: (xuất bản năm 1992 ở Anh) thì cạnh tranh là
sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm tranh giành tài
nguyên sản xuất cùng một loại hàng hoá về phía mình [31].
- Tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc trong báo cáo về cạnh tranh toàn cầu năm
2002 thì định nghĩa cạnh tranh đối với quốc gia là: Khả năng cạnh tranh của
nước đó đạt được những thành quả nhanh và bền vững về mức sống, nghĩa là




7
đạt được các tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao được xác định bằng các thay đổi
của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tính trên đầu người theo thời gian [27].
- Cạnh tranh sẽ đem lại lợi ích cho người này và sự thiệt hại cho người
khác, song xét dưới góc độ lợi ích toàn xã hội, cạnh tranh luôn có tác động
tích cực (chất lượng tốt hơn, giá rẻ hơn, dịch vụ tốt hơn v.v.)
- Trong quan hệ kinh tế cạnh tranh là sự đấu tranh giữa những chủ thể
trong việc thực hiện sản phẩm, dịch vụ nhằm chiếm lĩnh thị trường ở mức cao
nhất, giành điều kiện tiêu thụ có lợi nhất và tối đa hoá lợi nhuận [19].
Từ những định nghĩa trên có thể rút ra được các điểm chung sau đây:
Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua

nhau tìm mọi biện pháp để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là
chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất,
thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá
trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích, đối với người sản xuất - kinh doanh là
lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi.
Cạnh tranh là cố gắng giành lấy phần hơn, phần thắng về mình trong
môi trường cạnh tranh. Cạnh tranh là một xu thế tất yếu trong nền kinh tế thị
trường, hiện nay cạnh tranh xuất hiện đồng thời với sự ra đời và phát triển của
nền sản xuất hàng hoá, cạnh tranh là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển.
Trong nền sản xuất hàng hoá, quy luật giá trị là qui luật kinh tế cơ bản và
cạnh tranh lấy qui luật giá trị làm tiền đề. Tác động của qui luật giá trị trong
việc kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, đào thải cái lạc hậu dựa
trên cơ sở công bằng đó là sự trao đổi ngang giá. Trong điều kiện đó, muốn có
nhiều lợi nhuận các chủ thể kinh tế phải đua nhau đổi mới khâu tổ chức quản
lý, đua nhau cải tiến kỹ thuật, áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật mới




8
vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động, giảm hao phí lao động cá biệt
nhằm thu lợi nhuận cao hơn các chủ thể kinh tế khác.
Để thắng được trong cạnh tranh, chiếm lĩnh được thị phần, các doanh
nghiệp, các ngành sản xuất sản phẩm phải nâng cao được năng lực cạnh tranh
của mình.
1.1.1.2. Năng lực cạnh tranh:
Trong môi trường cạnh tranh, từng chủ thể kinh tế thể hiện vị thế của
mình so với các chủ thể khác. Vị thế đó, dựa trên những ưu thế nhất định về
các điều kiện sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Sức cạnh tranh, năng lực cạnh
tranh, khả năng cạnh tranh đều phản ánh vị thế cạnh tranh của các chủ thể

kinh tế, vị thế đó là những điều kiện để các chủ thể kinh tế tham gia vào hoạt
động cạnh tranh.
Theo từ điển thuật ngữ chính sách thương mại: Năng lực cạnh tranh của
một doanh nghiệp là năng lực của một doanh nghiệp hoặc một ngành, thậm
chí một quốc gia không bị doanh nghiệp khác, ngành khác hoặc nước khác
đánh bại về năng lực kinh tế[27].
Theo dự án VIE/025: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đo
bằng khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp
trong môi trường cạnh tranh trong nước và ngoài nước[27].
Những quan niệm trên cho thấy năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp dựa
trên hai tiêu chí chủ yếu là thị phần và lợi nhuận. Những tiêu chí này chỉ đánh
giá trạng thái “tĩnh” của ngành (doanh nghiệp hoặc sản phẩm) trong một thời
điểm, trong khi đó cạnh tranh là một quá trình mang tính “động”, vì vậy khi
phân tích cạnh tranh, người ta thường bổ sung vào một số yếu tố “động” khác
như mức độ ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, vòng đời sản




9
phẩm v.v. Trên cơ sở phân tích này, các nhà kinh doanh có thể đưa ra những
chiến lược kinh doanh phù hợp với thị trường để duy trì và phát huy vị thế
của mình trên thị trường hoặc đưa ra những biện pháp phòng ngừa rủi ro có
thể xảy ra. Một chủ thể có sức cạnh tranh cao là chủ thể có lợi thế, biết tạo ra
lợi thế để thu được lợi nhuận cao hơn so với các chủ thể khác.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là cái hiện hữu trong sản phẩm, việc
phân tích đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm thường được tiến hành
đồng thời bằng 3 phương pháp: (1) đánh giá trực tiếp trên sản phẩm (tính
năng, giá cả, sự tiện ích, mẫu mã v.v.), (2) đánh giá trực tiếp thị trường
(doanh số bán, thị phần, tốc độ tăng thị phần, hệ thống phân phối v.v.), (3)

điều tra xã hội học, chủ yếu qua phiếu thăm dò khách hàng (sự thoả mãn nhu
cầu, sự nhận biết tên sản phẩm, sự trung thành với nhãn hiệu v.v.). Sau đó so
sánh các tiêu chí đó với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh trên cùng thị trường,
tại cùng thời điểm để xác định năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm là tìm ra những biện pháp tác
động vào quá trình sản xuất và lưu thông sản phẩm, làm cho nó có “tính vượt
trội” so với sản phẩm cùng loại của đối thủ cạnh tranh hoặc làm tăng thêm
sức mạnh cho sản phẩm, làm cho “tính trội” của nó ở mức tốt hơn, cao hơn
trên thị trường tiêu thụ. Nói cách khác: nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản
phẩm là sử dụng một số yếu tố tác động nhằm khắc phục những tồn tại được
coi là trở ngại làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm, đồng thời hoàn thiện
những nhân tố làm tăng tính trội của nó so với đối thủ khác, nhằm làm cho thị
phần của sản phẩm tăng lên so với thị phần của đối thủ cạnh tranh.
1.1.2 Vai trò của nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Cạnh tranh có thể đưa đến lợi ích cho người này và thiệt hại cho người
khác, song xét dưới góc độ toàn xã hội cạnh tranh luôn có tác động tích cực.




10
Cạnh tranh điều chỉnh cung cầu hàng hoá trên thị trường, khi cung một hàng
hoá nào đó lớn hơn cầu, cạnh tranh giữa những người bán làm cho giá cả thị
trường giảm xuống, chỉ những doanh nghiệp nào đủ khả năng cải tiến công
nghệ, trang bị kỹ thuật, phương thức quản lý và hạ giá thành sản phẩm mới có
thể tồn tại. Với ý nghĩa đó, cạnh tranh là nhân tố quan trọng kích thích việc
ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến trong sản xuất.
Khi cung một hàng hoá nào đó thấp hơn cầu, hàng hoá đó trở nên khan
hiếm trên thị trường, giá cả tăng lên tạo lợi nhuận cao hơn mức bình quân, khi
đó người sản xuất kinh doanh sẽ đầu tư vốn xây dựng thêm cơ sở sản xuất

mới hoặc nâng cao năng lực sản xuất của những cơ sở sản xuất sẵn có. Đó là
động lực quan trọng nhất làm tăng thêm lượng vốn đầu tư cho sản xuất, kinh
doanh, nâng cao năng lực sản xuất trong toàn xã hội. Điều quan trọng là động
lực đó hoàn toàn tự nhiên, không theo và không cần bất kỳ một mệnh lệnh
chính nào của cơ quan quản lý Nhà nước [13].
Việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có vai trò vô cùng
quan trọng trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế, điều đó được thể
hiện ở các nội dung cơ bản sau:
- Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế mở ra cho các nước khả năng
tiếp cận các nguồn đầu tư, các nguồn lực từ bên ngoài để phát triển nền kinh
tế. Nền kinh tế trở nên nhạy cảm hơn với những biến động của thị trường thế
giới, nếu mỗi quốc gia không xây dựng được đường lối hội nhập chủ động,
không tích luỹ đủ khả năng kháng cự thì sẽ khó tránh khỏi những tác động
tiêu cực mà toàn cầu hoá mang lại, trước tình hình đó doanh nghiệp nào có
sức kháng tốt thì sẽ tồn tại, doanh nghiệp nào yếu kém thì sẽ bị tiêu diệt, do
đó việc nâng cao năng lực cạnh tranh là điều kiện tất yếu để các doanh nghiệp
Việt Nam tồn tại và phát triển [15].




11
- Trong bối cảnh toàn cầu hoá, các doanh nghiệp đang phải đối mặt với
các đối thủ ngày càng lớn, mạnh hơn trên nhiều phương diện, từ tiềm lực tài
chính, trình độ công nghệ - kỹ thuật, kinh nghiệm cạnh tranh trên thương
trường, cuộc cạnh tranh diễn ra trong bối cảnh quốc tế không ổn định, khó dự
đoán, môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt do đó đòi hỏi doanh nghiệp
muốn đứng vững và phát triển thì phải nâng cao năng lực cạnh tranh.
- Thách thức không kém phần nghiêm trọng sẽ xảy ra ngay trên thị
trường nội địa nước ta, vì khi tham gia vào các tổ chức, diễn đàn quốc tế Việt

Nam phải cam kết dần dần cắt giảm các mức thuế, xoá bỏ các hàng rào về
thuế quan và phi thuế quan, áp dụng chế độ đãi ngộ quốc gia đối với các
doanh nghiệp nước ngoài trên thị trường Việt Nam. Với các cam kết cắt giảm
thuế, những biện pháp bảo hộ bị gỡ bỏ, hàng hoá của nước ngoài ồ ạt nhập
vào thị trường với giá rẻ hơn, chất lượng, hình thức hấp dẫn hơn. Trong điều
kiện năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn yếu kém,
nhiều doanh nghiệp còn lệ thuộc vào sự bao cấp của nhà nước, để có thể tồn
tại và phát triển doanh nghiệp phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
- Trong nền kinh tế hiện nay, việc dựa vào lợi thế cạnh tranh truyền
thống như tài nguyên thiên nhiên và chi phí nhân công rẻ đang dần dần giảm
sút. Tri thức, công nghệ - kỹ thuật cao đang trở thành yếu tố quyết định đến
sự thành công trong cạnh tranh. Sự thay đổi này có ảnh hưởng không nhỏ tới
sự phát triển của các doanh nghiệp trong hiện tại, mà phải chuẩn bị các điều
kiện để chuyển sang nền kinh tế tri thức, chuẩn bị cạnh tranh trong tương lai
khi doanh nghiệp còn đang ở trình độ yếu kém về năng lực cạnh tranh[16].
1.1.3 Các tiêu chí phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
Để lựa chọn các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
của sản phẩm cần phải có các tiêu chí định lượng để đo lường và đánh giá




12
chúng. Để đánh giá năng lực cạnh tranh sản phẩm cần sử dụng các tiêu chí
định lượng và định tính dưới đây nhằm phân tích năng lực cạnh tranh sản
phẩm trên phạm vi quốc gia.
(1) Các tiêu chí thuộc sản phẩm (tính năng, chất lượng giá cả, sự tiện
ích, mẫu mã .v.v.)
- Tính năng sản phẩm đó có phù hợp với yêu cầu khách hàng hay không:
Sản phẩm có tính năng, công dụng phù hợp hơn với yêu cầu của khách hàng

sẽ có năng lực cạnh tranh cao hơn.
- Mức độ hấp dẫn của sản phẩm đó về mẫu mã kiểu cách so với các đối
thủ cạnh tranh. Trong quá trình quyết định mua của mình khách hàng thường
xem xét mẫu mã, kiểu dáng của sản phẩm có phù hợp với yêu cầu và thị hiếu
của mình hay không trước khi tìm hiểu những thông tin khác về sản phẩm.
- Mức chênh lệch về giá của mặt hàng đó so với các đối thủ cạnh tranh,
giá cả là một trong những yếu tố quan trọng nhất thể hiện năng lực cạnh tranh
của sản phẩm. Với hai sản phẩm tương tự nhau, khách hàng sẽ lựa chọn sản
phẩm nào có giá thấp hơn.
- Mức chênh lệch về chất lượng sản phẩm so với sản phẩm cùng loại của
đối thủ cạnh tranh. Ngày nay chất lượng sản phẩm là yếu tố được quan tâm
hàng đầu, sản phẩm được coi là có năng lực cạnh tranh nếu các tính năng của
sản phẩm đó vượt trội hơn so với sản phẩm cạnh tranh trên thị trường. Yếu tố
này có thể đánh giá thông qua so sánh hai sản phẩm với nhau về chất lượng,
độ bền, tiện ích trong sử dụng … đây là một trong những yếu tố tương đối để
so sánh đối với đa số những sản phẩm đơn giản. Tuy nhiên, nhiều sản phẩm
phức tạp khách hàng không thể đánh giá ngay được chất lượng sản phẩm, do
đó khách hàng sẽ đánh giá chất lượng sản phẩm gián tiếp thông qua uy tín của
người sản xuất, của nước sản xuất.




13
(2) Các tiêu chí trên thị trường (doanh số bán, thị phần, tốc độ tăng thị
phần, hệ thống phân phối…)
- Mức doanh thu của sản phẩm đó trong từng năm: Năng lực cạnh tranh
cũng biểu hiện qua doanh thu của sản phẩm trên thị trường nội địa. Nếu sản
phẩm có doanh thu cao, tốc độ tăng doanh thu cao so với đối thủ cạnh tranh
chứng tỏ sản phẩm có năng lực cạnh tranh cao, chỉ tiêu này thể hiện khả năng

chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm so với đối thủ cạnh tranh.
- Thị phần của sản phẩm trên thị trường nội địa: Tuỳ theo loại mặt hàng,
thị trường và theo quy mô của thị trường có thể xem xét năng lực cạnh tranh
của sản phẩm trên thị trường, thông qua đánh giá thị phần của sản phẩm đó.
Một sản phẩm được coi là có năng lực cạnh tranh cao trên thị trường khi
chúng chiếm thị phần lớn so với sản phẩm cùng loại được nhập khẩu và bán
trên thị trường, tuy nhiên cũng phải vận dụng tiêu chí này một cách linh hoạt.
Với một số sản phẩm mới ra đời, chưa chiếm lĩnh được thị trường thì không
thể sử dụng chỉ tiêu này để đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm đó trên
thị trường vì khi đó phân tích sẽ có sự sai lệch nhất định.
- Tốc độ tăng thị phần của sản phẩm có thể so sánh theo tính lịch sử, tức
là năm sau tốt hơn năm trước, để đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
Nếu sản phẩm có tốc độ tăng thị phần cao thì sản phẩm có năng lực cạnh
tranh cao và ngược lại, nếu thị phần của sản phẩm cạnh tranh tăng chậm hơn
thì sản phẩm có năng lực cạnh tranh thấp hơn so với sản phẩm cạnh tranh.
- Hệ thống phân phối: Hệ thống phân phối cho sản phẩm càng hợp lý thì
thị phần do hàng hoá chiếm lĩnh sẽ càng lớn, hệ thống phân phối được thiết kế
hợp lý so với cách thức phân phối của sản phẩm cạnh tranh khác, cùng với
việc đẩy mạnh xúc tiến bán hàng sẽ tăng thêm năng lực cạnh tranh của sản
phẩm do đáp ứng kịp thời yêu cầu của thị trường về số lượng và chất lượng.




14
- Một hệ thống phân phối hợp lý bao gồm mạng lưới các cơ sở giúp
doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá với mọi hình thức bán
buôn, bán lẻ vừa thích hợp với phong tục,tập quán địa phương, tiện lợi cho
người tiêu dùng đồng thời phù hợp với khả năng thanh toán của khách hàng.
- Kênh phân phối còn giúp khách hàng tiếp cận với các dịch vụ của nhà

sản xuất dễ dàng hơn như dịch vụ trước, trong và sau khi bán hàng.
(3) Các tiêu chí liên quan đến quan điểm của khách hàng (sự thoả mãn
nhu cầu, sự nhận biết tên sản phẩm, sự trung thành với nhãn hiệu .v.v.)
- Trong quá trình phân tích, đánh gía sẽ rất khó khăn cho việc lượng hoá
toàn bộ các yếu tố thể hiện năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Vì vậy, chúng
ta phải kết hợp vừa định lượng vừa định tính nhằm xác định năng lực cạnh
tranh thực sự của sản phẩm hàng hoá trên thị trường. Nếu như trước kia hai
yếu tố chất lượng, giá cả có tính quyết định đến năng lực cạnh tranh của sản
phẩm thì ngày nay cùng với quá trình toàn cầu hoá, phạm vi đánh giá các tiêu
chí thể hiện năng lực cạnh tranh cần phải được mở rộng hơn. Trong quá trình
đánh giá cũng cần đưa thêm các yếu tố định tính khác như hình ảnh của các
doanh nghiệp tham gia thị trường, hình ảnh của quốc gia, lòng tin của khách
hàng đối với sản phẩm, sự thoả mãn của khách hàng đối với sản phẩm,
thương hiệu của sản phẩm.
Năng lực cạnh tranh được phân biệt ở ba cấp độ, bao gồm năng lực cạnh tranh
quốc gia, năng lực cạnh tranh doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của sản
phẩm dịch vụ.
- Năng lực cạnh tranh quốc gia: được định nghĩa là năng lực của một
nền kinh tế đạt được tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu tư, bảo đảm ổn
định kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống của người dân, chủ yếu nhờ khả năng




15
nâng cấp công nghệ hoặc bằng cách tự sáng tạo hoặc tiếp thu nhanh chóng và
tích cực công nghệ từ nước khác. [11].
Ngày nay, lợi thế cạnh tranh truyền thống dựa trên tài nguyên thiên nhiên và
chi phí lao động thấp, tuy còn có giá trị, song mới chỉ là điểm khởi đầu, tri
thức và kỹ năng đang trở thành một nhân tố then chốt đảm bảo tính cạnh tranh

cao.
- Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: là khả năng vượt qua các đối
thủ cạnh tranh để duy trì và phát triển bản thân doanh nghiệp. Thông thường
người ta đánh giá khả năng này thông qua các yếu tố nội tại của doanh nghiệp
như: quy mô, khả năng tham gia cạnh tranh và rút khỏi thị trường, sản phẩm,
năng lực quản lý, năng suất lao động, trình độ công nghệ và lao động. Tuy
nhiên những khả năng này lại bị tác động đồng thời bởi nhiều yếu tố bên
ngoài như Nhà nước và các thể chế trung gian.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đo bằng khả năng duy trì và mở
rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh
trong và ngoài nước. Một doanh nghiệp có thể kinh doanh một hay nhiều sản
phẩm hàng hoá dịch vụ, vì vậy người ta còn phân biệt năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp với năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ.
- Năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ: được đo bằng thị phần của
sản phẩm hay dịch vụ đó trên thị trường. Một sản phẩm dịch vụ được coi là có
năng lực cạnh tranh cao khi giá thành sản phẩm thấp, quy mô cung ứng, tính
độc đáo của sản phẩm dịch vụ được người tiêu dùng chấp nhận thể hiện ở thị
phần của sản phẩm đó trên thị trường vượt trội so với các sản phẩm tương tự
của các đối thủ cạnh tranh. Đối với hàng hoá chế biến nông sản thực phẩm, để
đánh giá năng lực cạnh tranh ngoài các chỉ tiêu trên người ta còn phải quan




16
tâm đến các yếu tố như độ an toàn về thực phẩm, xuất sứ, hương vị đặc trưng
của sản phẩm.
Năng lực cạnh tranh ở ba cấp độ đó có mối quan hệ qua lại mật thiết
với nhau, tạo điều kiện cho nhau, chế định và phụ thuộc lẫn nhau. Một nền
kinh tế có năng lực cạnh tranh quốc gia cao phải có nhiều doanh nghiệp có

năng lực cạnh tranh cao, ngược lại để tạo điều kiện cho doanh nghiệp có năng
lực cạnh tranh, các điều kiện, tiền đề kinh doanh của nền kinh tế phải thuận
lợi để các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp thể hiện qua chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời
thể hiện thông qua năng lực cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ mà
doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh. Ngược lại năng lực cạnh tranh của
sản phẩm và dịch vụ phụ thuộc vào năng lực cạnh tranh quốc gia và năng lực
tổ chức quản lý của doanh nghiệp.
1.2 Các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp:
Có rất nhiều yếu tố chi phối đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm -
hàng hoá - dịch vụ như: giá cả, chất lượng, nhu cầu thị trường, lao động, công
nghệ, môi trường kinh doanh… vì thế muốn nâng cao năng lực cạnh tranh bất
cứ một sản phẩm nào cũng cần phải kết hợp tất cả những yếu tố nói trên trong
điều kiện có thể. Đồng thời phải thực hiện hàng loạt các biện pháp và duy trì
ở mức tối ưu các mối quan hệ đa tầng và đa chiều. Tuy nhiên, xem xét tất cả
các yếu tố nói trên, chúng ta có thể nhận thấy rằng việc áp dụng chúng đều
hướng tới mục tiêu: nâng cao chất lượng và hạ thấp giá thành sản phẩm nhằm
mở rộng thị trường. Ngược lại khi sản phẩm - hàng hoá - dịch vụ có năng lực
cạnh tranh tốt thì mới có khả năng về vật chất và kỹ thuật để tái đầu tư cho
hoạt động sản xuất, nâng cao chất lượng và hạ giá thành.




17
1.2.1 Môi trường kinh tế:
Đây là nhân tố quan trọng nhất tác động đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Tính ổn định hay bất ổn định về kinh tế có tác động
trực tiếp đến hoạt động kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.

Tính ổn định về kinh tế trước hết và chủ yếu là ổn định nền tài chính quốc
gia, ổn định tiền tệ, khống chế lạm phát. Nền kinh tế được ổn định sẽ là điều
kiện tốt để tăng trưởng. Khi một nền kinh tế phát triển với tốc độ cao sẽ kéo
theo sự tăng thu nhập cũng như khả năng thanh toán của người dân. Mặt khác
nền kinh tế phát triển mạnh có ý nghĩa là khả năng tích tụ và tập trung tư bản
lớn như vậy tốc độ đầu tư phát triển cho hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ
tăng lên, đây chính là cơ hội tốt cho doanh nghiệp phát triển. Doanh nghiệp
nào có khả năng nắm bắt được những cơ hội này thì chắc chắn sẽ thành công
và sức cạnh tranh cũng tăng lên. Tuy nhiên do sự tăng trưởng của nền kinh tế
sẽ kéo theo sự tăng lên một cách nhanh chóng số lượng các doanh nghiệp
tham gia thị trường và như vậy mức độ cạnh tranh sẽ trở nên gay gắt, ai đi
trước trong cuộc cạnh tranh này người đó sẽ chiến thắng. Ngược lại, khi nền
kinh tế đang trong giai đoạn suy thoái, tỷ lệ lạm phát tăng làm cho giá cả tăng,
sức mua của người dân bị giảm sút, các doanh nghiệp phải tìm mọi cách giữ
khách hàng, do đó cạnh tranh trên thị trường sẽ khốc liệt hơn.
Các chính sách phát triển kinh tế của nhà nước có tác dụng cản trở hoặc
ủng hộ lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, có khi một
chính sách kinh tế của nhà nước tạo cơ hội đối với doanh nghiệp này nhưng
làm mất cơ hội cho doanh nghiệp khác.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, môi trường kinh tế là một yếu
tố rất nhạy cảm, dễ bị tác động. Thật vậy, khủng hoảng kinh tế không bao giờ




18
ảnh hưởng chỉ trong phạm vi một quốc gia mà tác động lan truyền trong cả
khu vực, thậm chí trên phạm vi toàn cầu.
1.2.2 Môi trường luật pháp, chính trị:
Chính trị và pháp luật là nền tảng cho phát triển kinh tế cũng như là cơ

sở pháp lý để các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường.
Luật pháp rõ ràng, chính trị ổn định là môi trường thuận lợi đảm bảo sự bình
đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả, ổn
định về chính trị đem lại sự lành mạnh hoá xã hội, ổn định kinh tế, tạo hành
lang thông thoáng cho sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp.
Trong điều kiện bình thường, một doanh nghiệp vẫn có thể bị ảnh
hưởng do thay đổi của hệ thống pháp luật. Luật pháp là yếu tố dễ dàng bị áp
đặt nên dễ dàng bị thay đổi. Nhưng ảnh hưởng của những thay đổi gây khó
khăn cho doanh nghiệp trong việc hoạch định chiến lược kinh doanh lâu dài
của mình.
Trong quá trình toàn cầu hoá, doanh nghiệp phải tìm mọi cách đưa
hàng hoá xâm nhập vào thị trường các nước. Điều này đồng nghĩa với việc
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi các quy định,
luật pháp, thủ tục của nước sở tại. Mọi sự biến động về môi trường luật pháp,
chính trị của một nước trên thế giới đều có khả năng ảnh hưởng đến các
doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo trong nước. Trong điều kiện đó, sự thấu hiểu
thông lệ và luật pháp quốc tế là cơ sở quan trọng giúp doanh nghiệp tránh
được những tổn thất không đáng có trong nỗ lực chiếm lĩnh thị trường [l]
1.2.3 Khả năng gia nhập thị trường của các doanh nghiệp tiềm ẩn:
Đó là sự xuất hiện của các công ty mới tham gia vào thị trường nhưng
có khả năng mở rộng sản xuất, chiếm lĩnh thị trường của các công ty khác. để

×