Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

SKKN Cách dạy phần mở bài và giáo dục học sinh trong văn bản nhật dụng đối với môn ngữ văn 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.79 KB, 12 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
BÁO CÁO SÁNG KIẾN
Cách dạy phần mở bài và giáo dục học sinh trong văn bản nhật dụng đối với môn
ngữ văn 9
I/ LĨNH VỰC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN:
Cụm bài văn bản nhật dụng, môn ngữ văn 9, trường THCS Nặm Nhũng- Hà
Quảng- Cao Bằng.
II/ MÔ TẢ GIẢI PHÁP:
1. Tình trạng giải pháp đã biết/ thực trạng.
Căn cứ vào đặc điểm, tính chất của văn bản nhật dụng nói chung và văn bản nhật
dụng ở lớp 9 nói riêng: (cụm ba bài: Phong cách Hồ Chí Minh; Đấu tranh cho một thế
giới hoà bình; Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của
trẻ em) thì “khái niệm về văn bản nhật dụng không phải là khái niệm thể loại cũng
không phải kiểu văn bản mà nó chỉ đề cập tới chức năng, đề tài và tính cập nhật của nội
dung văn bản mà thôi”. Hơn nữa, đây là một loại văn bản đã được đưa vào học ở
chương trình cải cách 10 năm rồi nhưng việc thi cử ít đề cập tới, kết quả HS học chỉ là
để cho biết, nênkhi học thường chủ quan, lơi là… đặc biệt đối với học sinh lớp 9 cuối
cấp. Căn cứ vào tình hình hiện tại, việc học văn bản nhật dụng ở trường THCS nói riêng
và tình trạng học ngữ văn nói chung xu thế học sinh không ham học, không thích đọc…
đặc biệt là cụm 3 bài văn bản nhật dụng ở lớp 9, vì phương thức biểu đạt chủ yếu là
nghị luận xã hội nên tính lí luận nhiều, khô khan… giờ học thường căng thẳng, nặng nề
mang tính áp đạt, luân lý…vì thế học sinh khó nhận thức nội dung bài học, còn giáo
viên dạy loại văn bản này rất nặng nề.
Đối với người giáo viên, có trình độ, có năng lực, có phương pháp, có hướng dẫn
sách giáo viên, tài liệu… là chưa đủ mà cần phải luôn luôn tìm tòi qua phương pháp,
qua thực tế, lịch sử, qua tin tức thời sự quốc tế, trong nước, tin cập nhật…từng năm,
hàng ngày…để từ đó áp dụng vào từng bài cụ thể qua cách giới thiệu bài (mở bài) cách
liên hệ hợp lí ngay từng phần trong bài học để tạo và gây hứng thú cho học sinh khi học
loại văn bản này.
1


Đối với học sinh vùng cao trường THCS Nặm Nhũng dân trí còn thấp, điều kiện
kinh tế còn nhiều khó khăn phần nào đã tác động vào quá trình tiếp thu kiến thức của
học sinh nên đã tác có những hạn chế không nhỏ vào quá trình tiếp nhận văn bản, đặc
biệt là loại văn bản nhật dụng.
Căn cứ vào những ưu khuyết điểm của việc giảng dạy: “Cụm bài văn bản nhật
dụng, môn ngữ văn 9, trường THCS Nặm Nhũng”, với thời gian 5 năm liền nghiên
cứu về kiểu loại văn bản này bản thân tôi đã rút ra một số kinh nghiệm sau.
2. Nội dung giải pháp.
Như chúng ta đã biết vai trò và chức năng của văn bản nhật dụng nói chung và 3
bài văn bản nhật dụng lớp 9 nói riêng đều có đặc điểm nổi bật là: Về đề tài (văn bản
nhật dụng sử dụng có đề tài đa dạng, phong phú như: môi trường, nhà trường, gia đình,
xã hội…). Về chức năng:( Có thể bàn luận, thuyết minh, tường thuật, miêu tả…) về tính
cập nhật là tính thời sự kịp thời đáp ứng nhu cầu đòi của cuộc sống hằng ngày, cuộc
sống hiện tại, gắn liền với những vấn đề cơ bản của cộng đồng xã hội…
Vì thế học sinh học văn bản nhật dụng có vai trò và mục đích rất quan trọng bởi
vì:
- Học văn bản nhật dụng thì giá trị văn chương không phải là yêu cầu cao nhất
nhưng là quan trọng vì các văn bản nhật dụng đều vẫn thuộc về một kiểu văn bản nhất
định: Miểu tả, kể chuyện, thuyết minh, nghị luận…
- Học văn bản nhật dụng không để chỉ mở rộng hiểu biết toàn diện mà còn tạo
điều kiện tích cực để thực hiện nguyên tắc giúp học sinh hoà nhập với xã hội, rút ngăn
khoảng cách giữa nhà trường và xã hội. Nên tôi tự nhận ra rằng cần phải thay đổi cách
dạy qua phần mở bài và nội dung giáo dục của bài dạy qua đó giúp học sinh tiếp nhận
văn bản một cách nhẹ nhàng nhưng cuốn hút học sinh, đầy ý nghĩa.
a) Tính mới của việc thực hiện sáng kiến trong phạm vi trường
THCS Nặm Nhũng.
Qua kinh nghiệm những năm giảng dạy văn bản nhật dụng từ khối 6 đến khối 9
của tổ Xã hội và đặc biệt trong 5 năm liền tôi đều được phân công giảng dạy ngữ văn
khối 9. Trong đó có ba bài thuộc văn bản nhật dụng, tôi đã tìm tòi và vận dụng bước đầu
những kinh nghiệm này dần dần vào bài giảng và năm học này tôi đã thu được kết quả

2
khả quan trong bài dạy, gây được hứng thú cho học sinh khi học và dạy loại văn bản
này.
- Trước hết đối với giáo viên ngoài vận dụng nhuần nhuyễn sách giáo viên, thiết
kế bài giảng…thì tôi đã căn cứ vào đặc điểm của văn bản nhật dụng là tình thực tiễn,
cập nhật, lịch sử qua tài liệu, sách báo, thông tin qua mạng, từng ngày, từng năm…tình
hình trong nước, thế giới, các sự kiện qua đài, báo chí… để áp dụng vào phần mở bài,
và liên hệ trực tiếp vào từng phần của bài học để học sinh nắm bắt được các thông tin
cập nhật, gắn với thực tế, kích thích tính tò mò, tính chân thực của tác phẩm điều đó sẽ
tạo hứng thú, tạo sự ham học hơn, học sinh sẽ tích cực học môn ngữ văn hơn. Đồng thời
tạo niềm tin cho giáo viên hơn khi giảng dạy và giảm bớt sự căng thẳng, khô khan, tính
lí thuyết của văn bản.
Đặc biệt rút ngắn khoảng cách giữa nhà trường với xã hội và cộng đồng để học
sinh hoà nhập với cuộc sống thực tế chứ không phải chỉ là những cách đọc sách nhàm
chán.
Cụ thể qua các tiết dạy sau:
Bài 1: Văn bản: PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
(Lê Anh Trà)
- Mục đích và nội dung của văn bản: Đây là văn bản thuộc chủ đề về sự hội nhập
với thế giới và bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc. Văn bản không chỉ mang ý nghĩa cập
nhật mà còn mang ý nghĩa lâu dài: việc học tập phong cách Hồ Chí Minh là công việc
thường xuyên và cần thiết của mỗi người Việt Nam.
- Văn bản có hai nội dung ( tương đương hai luận điểm):
1- Con đường hình thành phong cách văn hoá Hồ Chí Minh.
2- Vẻ đẹp của phong cách Hồ Chí Minh thể hiện trong phong cách sống và làm
việc của Người.
Để học sinh nhận thức được điều đó một cách dễ dàng, giáo viên phải có phương
pháp đặt câu hỏi, tạo tình huống để gây hứng thú cho học sinh ngay ở phần mở bài
(phần giới thiệu).
Ví dụ 1:

+ Phần mở bài( phần giới thiệu bài).
* Cách 1: Hồ Chí Minh không chỉ là anh hùng dân tộc vĩ đại mà còn danh nhân
văn hoá thế giới (1990). Bởi vậy phong cách sống và làm việc của Bác không chỉ là
3
phong cách sống và làm việc của người anh hùng dân tộc vĩ đại mà còn là một nhà văn
hoá lớn, một con người của nền văn hoá tương lai…Bài viết của nhà giáo, nhà lí luận
phê bình văn học Lê Anh Trà là một minh chứng hùng hồn cho phong cách của
Người…
* Cách 2: Hiện nay, trong thời kì hội nhập với nền kinh tế thế giới, đời sống con
người ngày càng được cải thiện nâng cao. Hiện tượng một số cán bộ Đảng viên lạm
dụng chức quyền, thoái hoá biến chất, chỉ lo vun vén quyền lới ích kỉ cho bản thân,
dòng họ mình mà quên đi phẩm chất của người cán bộ cách mạng vì thế bài viết “
Phong cách Hồ Chí Minh” của Lê Anh Trà là một minh chứng để thức tỉnh mỗi một
chúng ta phải sống và làm việc như thế nào? để xứng đáng với tổ tiên, với dân tộc.
+ Phần liên hệ nội dung bài học:
Giáo viên không cần phân tích nhiều mà cho học sinh chuẩn bị trước: Tìm hiểu
những mẫu chuyện kể về Bác. (giáo viên phải định hướng những mẫu chuyện về chủ đề
nói về phong cách sống, làm việc, ăn ở giản dị cảm động của Bác)
Ví dụ 2:
- Trước khi mất Bác muốn nghe một câu hát dân ca, một câu hò xứ Nghệ
- Bác tiết kiệm: (đi một đôi dép cao su đã 11 năm, Bác gọt những quả chuối đã
nẫu rồi ăn mà vẫn khen ngon lành).
- Bác chăm rau, trồng rau, thăm đơn vị bộ đội. Bác nói: “ăn rau mà không biết
trồng rau thì chẳng khác gì con sâu”.
- Bác mặc áo Kaki rách cổ mà không chịu thay áo mới.
- Giáo viên đọc thơ: “Người đi tìm hình của nước”
( Chế Lan viên)
“Đời

bồi tàu lênh đênh theo sóng biển

Người đi tìm bóng hình khắp châu Mĩ, La tinh…”
- Với những liên hệ thực tế về Bác từ đó giáo dục học sinh về cách sống giản dị
để phù hợp với hoàn cảnh và môi trường xung quanh các em
Bài 2: Văn bản: ĐẤU TRANH CHO MỘT THẾ GIỚI HOÀ BÌNH
(G.G_Mác-Két)
Văn bản nêu ra nguy cơ chiến tranh hạt nhân đe doạ toàn bộ sự sống trên trái đất
là nhiệm vụ cấp bách của toàn thể nhân loại. Học sinh lớp 9 (tuổi cao nhất của cấp
THSC) cần phải biết hiện nay nguy cơ chiến tranh vẫn luôn tiềm ẩn và vũ khí hạt nhân
được phát triển mạnh là một hiểm học khủng khiếp nhất…Từ đó giúp học sinh nhận
4
thức đúng về nguy cơ chiến tranh và tham gia vào việc bảo vệ hoà bình là yêu cầu đặt ra
cho mỗi công dân, kể cả mỗi học sinh trong các trường THCS.
Để học sinh nắm được nội dung bài học đễ dàng thì giáo viên cần tạo hứng thú cho học
sinh ngay từ đầu ở phần mở bài (phần giới thiệu)
+ Phần mở bài:
* Cách1: Thế kỉ XX là thế kỉ đánh đấu sự phát triển nhảy vọt tiến bộ về công
nghệ khoa học với phát minh đầu tiên về nguyên tử hạt nhân đồng thời là sự phát minh
loại vũ khí huỷ diệt loài người ghê gớm nhất. Bằng chứng cụ thể: Tháng 8-1945 với 2
quả bom nguyên tử của Mĩ ném xuống 2 thành phố Hi-rô-si-ma và Na-ga-xa-ki đã huỷ
diệt 2 triệu người Nhật Bản mà đến bây giờ còn để lại nhiều di chứng thương tâm. Hôm
nay chúng ta được nghe tiếng nói của nhà văn Nam mĩ (Cô-lôm-bi-a) đã từng đạt giải
thưởng Nô-ben văn học nói về vấn đề này.
* Cách 2: Việt Nam trong những năm chiến tranh phá hoại do đế quốc Mĩ gây ra
1954 đến 1975 đã để lại nhiều mất mát và đau thương do sự huỷ diệt của bom Mĩ gây
ra. Chiến tranh đã lùi xa rất lâu nhưng di chứng, hậu quả của chiến tranh hạt nhân vẫn
mãi mãi là nỗi đau nhức nhối cho cả dân tộc Việt Nam. Tiếng nói của nhà văn Nam mĩ
G.G Mác-két giúp chúng ta thấy rõ nguy cơ về chiến tranh hạt nhân và chúng ta cần
phải làm gì để đấu tranh cho một thế giới hoà bình.
* Cách 3:
- Em biết gì về nguyên tử hạt nhân? Những ứng dụng của nó trong hoà bình và

trong chiến tranh?
- Chiến tranh thông thường và chiến tranh nguyên tử hạt nhân khác nhau như thế
nào? Hai cuộc chiến tranh thế giới (chiến tranh thế giới I và II). Các cuộc chiến tranh
chống xâm lược ở nước ta ở thế kỉ XX thuộc loại chiến tranh nào? Phải làm gì để ngăn
chặn nguy cơ chiến tranh hạt nhân trên thế giới? Bài viết của Mác-két hôm nay ta được
học sẽ bàn luận về những vấn đề thiết yếu và thời sự đó.
+ Phần liên hệ nội dung bài học:
Giáo viên cần đưa ra những dẫn chứng cập nhật mới nhất để liên hệ vào các luận
điểm trong bài.
Trong luận điểm 1: Hiểm hoạ của chiến tranh hạt nhân.
Giáo viên đưa ra dẫn chứng:
5
- Trong cuộc chiến tranh phá hoại ở nước ta đế quốc Mĩ đã rãi xuống Việt Nam
19 triệu gallon chất độc, trong đó 7 triệu gallon chất diệt cỏ, 12 triệu gallon chất độc
màu da cam.
Trong luận điểm 2: Đoàn kết ngăn chặn chiến tranh hạt nhân vì một thế giới hoà
bình là nhiệm vụ của mọi người.
Giáo viên đưa ra các dẫn chứng :
Ngày 9-10-2006 Liên hợp quốc, Nga và nhân dân thế giới phản đối kịch liệt vụ
thử thành công hạt nhân của CH nhân dân Triều Tiên (sau 4 năm chuẩn bị dưới lòng
đất) bất chấp mọi sức ép của cộng đồng thế giới.
- Tháng 4-2003, I-Ran đã từng bị thế giới trừng phạt vì sử dụng vũ khí hạt nhân.
- Tháng 11-2007, I-Ran vẫn sử dụng chất phóng xạ Uranium để phát triển vũ khí
hạt nhân hiện đang bị tổng thống Mĩ lên án kịch liệt về vấn đề này.
- Ngày 17-1-2008, Tổng thống But sang công du ở I-Xra-En và tuyên bố đối đầu
với I-Ran về việc I-Xra-en thử tên lửa mang đầu đạn hạt nhân. Mĩ đang cáo buộc Bình
Nhưỡng giúp Xi-Ri xây dựng lò thử hạt nhân nguyên tử.
- Rõ ràng hiện nay cả thế giới rất căm phận và lên án một số nước còn đối đầu sự
sống của loài người trong việc sử dụng vũ khí hạt nhân để thực hiện mục đích lợi nhuận
của mình làm ảnh hưởng đến hoà bình của thế giới.

Bài 3: TUYÊN BỐ THẾ GIỚI VỀ SỰ SỐNG CÒN, QUYỀN ĐƯỢC BẢO VỆ
VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TRẺ EM
(Lời tuyên bố của hội nghị cấp cao thế giới về quyền trẻ em họp tại trụ sở Liên hợp
quốc, Niu-Yooc ngày 30-9-1990)
Học văn bản này học sinh cần nhận thức được những điều cần thiết sau:
- Với trẻ em có liên quan trực tiếp đến tương lai của đất nước, tương lai của nhân
loại, bảo vệ và chăm lo cho trẻ em hiện đựơc coi là một trong những nhiệm vụ có ý
nghĩa quan trọng hàng đầu của từng quốc gia và cả cộng đồng quốc tế.
- HS cần hiểu rằng: Qua việc bảo vệ chăm sóc trẻ em, người ta có thể nhận ra
trình độ văn minh của một xã hội và vấn đề này đang được cộng đồng quốc tế dành sự
quan tâm thích đáng.
- HS cần hiểu biết vấn đề đó để xác định nhiệm vụ học tập phấn đấu sao cho xứng
đáng với sự quan tâm đó.
6
+ Phần mở bài (phần giới thiệu).
* Cách 1: “Trẻ em hôm nay- thế giới ngày mai” câu nói đó chính là thông điệp
gửi đến tất cả mọi người trên trái đất về tầm quan trọng của “vấn đề bảo vệ, chăm sóc
trẻ em, sự quan tâm của cộng đồng quốc tế” hiện nay như thế nào?
*Cách 2: Bác Hồ đã từng nói:
“Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn ngủ biết học hành là ngoan”.
Trẻ em Việt Nam cũng như trẻ em thế giới hiện nay đang đứng trước những
thuận lợi to lớn về sự chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục nhưng đồng thời cũng đang gặp
những thử thách những cản trở không nhỏ ảnh hưởng xấu đến tương lai phát triển của
trẻ em. Một phần văn bản: “Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và
phát triển của trẻ em tại hội nghị cấp cao thế giới họp tại Liên hợp quốc cách đây 18
năm (1990) đã nói lên tầm quan trọng của vấn đề này”.
+ Liên hệ nội dung bài học:
Trong mục: Các giải pháp cụ thể của cộng đồng quốc tế về quyền trẻ em- nhiệm
vụ. Giáo viên cần liên hệ đưa ra các thông tin cập nhật ở Việt Nam, thế giới với hình

thức đặt câu hỏi để học sinh thảo luận sau đó giáo viên đưa ra các số liệu, thông tin
quan trọng, cập nhật, cụ thể trong thời gian gần nhất:
Ví dụ:
+ Theo em trẻ em Việt Nam đã được hưởng những quyền lợi gì từ những nỗ lực
của Đảng và nhà nước ta? (quyền được học tập, quyền được chữa bệnh, được sáng tác,
được vui chơi…).
+ Việt Nam là nước đầu tiên kí công ước về quyên trẻ em với Liên hợp quốc
(1989) được Liên hợp quốc thông qua việc chăm sóc bảo vệ trẻ em.
- Về thế giới:
+ Đầu năm 2005 hội nghị trẻ em toàn thế giới có hoàn cảnh đặc biệt, nạn nhân
của thiên tai được tổ chức ở Tô-Ki-Ô (Nhật Bản) đó là những cuộc gặp gỡ giao lưu của
thanh thiếu nhi năm châu, những đứa trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ sau trận động đất, núi
lửa, bão biển, nạn khủng bố 11- 9 ở Mĩ…
7
+ Hiện nay một số cá nhân tổ chức vì mục đích lợi nhuận, ích kỉ đã biến trẻ em
thành những đứa trẻ bị phạm tội sớm, nạn nhân của bạo lực, của sự hành hung độc ác,
mù chữ, nạn nhân của tệ nạn xã hội, của các đại dịch… Bằng chứng cho thấy:
- Báo nhân dân 18-12-2007 đã đăng tin quyết định của Bộ giáo dục và đào tạo về
việc “ngăn chặn và xử lí nạn bạo hành học sinh và giáo viên”. Phát hiện và thống kê đến
tháng 12-2007 đã có 10 tỉnh trên cả nước có gần 20 vụ trẻ em bị giáo viên hành hạ bạo
hành, có những trường hợp bị thương tích nguy hiểm dẫn đến tình trạng như: bé Bảo
Trâm(18 tháng tuổi) ở trường mần non tư thục Thiên Thơ (Hồ Chí Minh) bị bảo mẫu Lê
Vi dùng băng keo dán miệng vì bé hay khóc.
- Một học sinh ở Đắc Lắc vì bị nghi ngờ ăn cắp tiền dẫn đến tự tử.
- Đồng Nai mẹ nuôi đánh con gây thương tích vì bắt con đi xin mỗi ngày phải có
200 000 đ và đã bị pháp luật xử lí.
- Các vụ bắt cóc trẻ em lợi dụng tình dục với trẻ em từ năm 2006 đến 2008 xảy ra
ở Việt Nam và thế giới không phải là con số nhỏ.
b) Tính hiệu quả về việc thực hiện sáng kiến.
Những năm học 2009-2010, và 2010-2011, Học sinh lớp 9 và giáo viên dạy học

tiếp xúc kiểu văn bản nhật dụng bằng cách áp dụng bài dạy qua thiết kế bài giảng và
sách giáo viên nên người dạy cảm thấy rất khô khan cứng nhắc. Học sinh rất khó hiểu,
có những lúc tôi cảm thấy thất bại vì số học sinh hiểu bài chỉ đạt 45% rất mơ hồ khi
học loại văn bản này và ít có tác dụng khi đó mọi phương tiện thông tin đại chúng còn
nhiều hạn chế.
Với điều kiện của trường THCS Nặm Nhũng hiện nay, năm học 2011-2012 được
sự quan tâm của phòng Giáo dục và đào tạo Hà Quảng cấp cho một máy chiếu để phục
vụ cho việc giảng dạy và học tập nên có thể đưa các thông tin lên máy chiếu để tiết dạy
thêm sinh động, cũng là cách cho học sinh cảm nhận được những vấn đề về xã hội
được các thông tin cập nhật hàng ngày vì là học sinh vùng cao điều kiện kinh tế còn
nhiều khó khăn.
Đến năm học 2012-2013, tôi đã suy nghĩ trăn trở, tìm tòi và đưa ra quyết định:
Dạy văn bản nhật dụng thì phải căn cứ vào đặc điểm nổi bật là tính cập nhật, tính thực
tế để vận dụng vào bài học với mục đích tạo hứng thú cho học sinh, gây sự háo hức sôi
8
nổi trong giờ học và để học sinh tiếp cận với kiến thức sách vở ra ngoài xã hội. Nên tôi
đã mạnh dạn tìm tòi thống kê, đưa kinh nghiệm này vào chương trình đầu năm học.
Kết quả cho thấy, trong tiết học: học sinh sôi nổi hơn, say sưa hơn, thích thảo
luận trao đổi nhiều hơn.
+ Qua một số câu hỏi thảo luận sau mỗi bài và bài kiểm tra thu hoạch tôi thấy:
học sinh hiểu bài dễ dàng hơn, 85-95% nắm vững kiến thức cơ bản bài giảng, học sinh
hứng thú ham học bộ môn ngữ văn hơn trong thời đại khoa học công nghệ hiện nay, qua
đó học sinh đã biết nhận xét đánh giá mọi vấn đề đang diễn ra trong xã hội hiện nay đặc
biệt môi trường sống có vai trò tác động đến nhận thức của các em.
+ Đối với giáo viên, tôi cảm thấy tự tin hơn vì có đủ những bằng chứng sống,
thông tin bổ ích giúp cho mình giảng dạy vững vàng hơn trong kiến thức khi truyền thụ
cho học sinh đặc biệt với loại văn bản nhật dụng này.
Ngoài kiến thức trong sách giáo khoa (văn bản), sách giáo viên, sách thiết kế, thì
người giáo viên đã cung cấp cho mình vốn tri thức từ thực tế vào quá trình đọc, tìm
hiểu về tác phẩm, tác giả, hoàn cảnh sáng tác, các tư liệu liên quan đến kiểu văn bản

nhật dụng…
Biết chọn lựa những phương pháp, những giải pháp, tình huống tích cực nhất để
vận dụng vào từng loại văn bản phù hợp với từng đối tượng học sinh từng vùng, từng
lớp, thậm chí từng nhóm đối tượng.
Đối với loại văn bản nhật dụng và văn bản nghị luận, tính lý luận cao nên thường
tâm lý học sinh căng thẳng vì kiến thức dài, khô khan, khó hiểu. Giáo viên biết vận
dụng các mẫu chuyện, dẫn chứng mang tính thực tế, lịch sử (áp dụng tuỳ vào nội dung
từng bài), để kích thích gây tòi mò, hứng thú, say mê cho học sinh. Giúp học sinh hiểu
bài dễ hơn, nhanh hơn qua phần giới thiệu bài và liên hệ ngay từng phần của bài học.
Ngoài ra giáo viên không chỉ giảng dạy rập khuôn, máy móc theo hướng dẫn sách
giáo viên mà đã biết tìm tòi, lắng nghe, nắm bắt thông tin cập nhật (liên quan đến nội
từng văn bản nhật dụng) qua đài, trên báo chí, qua thông tin mạng, qua tình hình thời sự
trong nước, quốc tế…, qua từng ngày, từng năm cụ thể để vận dụng vào bài giảng, liên
hệ vào phần nội dung phù hợp thì sẽ gây sự chú ý, tin tưởng hơn, giúp học sinh hiểu
nhanh hơn, hứng thú học bài hơn qua kiến thức sách giáo khoa và kiến thức thực tế.
c) Khả năng áp dụng:
9
Đây là một sáng kiến tôi đã áp dụng tại trường THCS Nặm Nhũng trong đầu năm
học 2012-2013, là một trường vùng cao khi điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, khi áp
dụng sáng kiến này đã phần nào thay đổi phương pháp day học nhàm chán và cách tìm
hiểu văn bản của các em. Vậy nên theo tôi nghĩ với sáng kiến này có thể áp được trong
tất cả các trường THCS trong toàn huyện đặc biệt là cụm bài văn bản Nhật dụng lớp 9.
d) Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ ngày 25 tháng 8 năm 2012 đến hết
học kì I năm học 2012-2013.
Trên đây là báo cáo sáng kiến của bản thân tôi trong năm học 2012-2013, trong
quá trình thực hiện chắc rằng còn nhiều thiếu sót cần phải bổ sung chỉnh sửa. Rất mong
sự đóng góp ý kiến của các đồng chí dạy cùng môn để bản báo cáo được hoàn thiện
hơn. Xin trân trọng cảm ơn.
Nặm Nhũng, ngày 24 tháng 10 năm 2012
Người viết báo cáo

Hoàng Thị Liên
10
11

12

×