Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm:Một số kinh nghiệm gây hứng thú cho học sinh khi dạy học môn ngữ văn 9 về cụm văn bản nhật dụng lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.07 KB, 9 trang )

Một số kinh nghiệm gây hứng thú cho học sinh khi dạy học
môn ngữ văn 9 về cụm văn bản nhật dụng lớp 9
I/ Nhận thức cũ và tình trạng cũ:
Căn cứ vào đặc điểm, tính chất của văn bản nhật dụng nói chung và văn bản
nhật dụng ở lớp 9 nói riêng: (cụm ba bài: Phong cách Hồ Chí Minh; Đấu tranh cho
một thế giới hoà bình ; Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền đợc bảo vệ và phát
triển của trẻ em.) thì khái niệm về văn bản nhật dụng không phải là khái niệm thể loại
cũng không phải kiểu văn bản mà nó chỉ đề cập tới chức năng, đề tài và tính cập nhật
của nội dung văn bản mà thôi. Hơn nữa, đây là một loại văn bản mới đợc đa vào học
ở chơng trình cải cách 4 năm rồi nhng việc thi cử ít đề cập tới, kết quả HS học để cho
biết, nên học thờng chủ quan, lơi là đặc biệt đối với học sinh lớp 9 cuối cấp. Căn cứ
vào tình hình hiện tại, việc học văn bản nhật dụng ở trờng PTTH, PTCS nói riêng và
tình trạng học ngữ văn nói chung. Xu thế học sinh không ham học, không thích học
đặc biệt là cụm 3 bài văn bản nhật dụng ở lớp 9, phơng thức biểu đạt chủ yếu là nghị
luận xã hội nên tính lí luận nhiều, khô khan giờ học thờng căng thẳng, nặng nề mang
tính áp đạt, luân lývì thế học sinh khó nhận thức nội dung bài học, giáo viên dạy loại
văn bản này rất nặng nề .
Đối với ngời giáo viên, có trình độ, có năng lực, có phơng pháp, có hớng dẫn
sách giáo viên, tài liệu Cha đủ mà cần phải luôn luôn tìm tòi qua phơng pháp, qua
thực tế, lịch sử, qua tin tức thời sự quốc tế, trong nớc, tin cập nhậttừng năm, hàng
ngàyđể từ đó áp dụng vào từng bài cụ thể qua cách giới thiệu bài (mở bài) cách liên
hệ hợp lí ngay từng phần trong bài học để tạo và gây hứng thú cho học sinh khi học
loại văn bản này.
II/ Nhận thức mới và ph ơng pháp mới:
Nh chúng ta đã biết vai trò và chức năng của văn bản nhật dụng nói chung và 3
bài văn bản nhật dụng lớp 9 nói riêng đều có đặc điểm nổi bật là: Về đề tài (văn bản
nhật dụng sử dụng có đề tài đa dạng, phong phú nh: môi trờng, thân nhân, gia đình, xã
hội). Về chức năng:( Có thể bàn luận, thuyết minh, tờng thuật, miêu tả) về tính cập
nhật là tính thời sự kịp thời đáp ứng nhu cầu đòi của cuộc sống hằng ngày, cuộc sống
hiện tại, gắn liền với những vấn đề cơ bản của cộng đồng xã hội
Vì thế học sinh học văn bản nhật dụng có vai trò và mục đích rất quan trọng


bởi vì:
- Học văn bản nhật dụng thì giá trị văn chơng không phải là yêu cầu cao nhất
nhng là quan trọng vì các văn bản nhật dụng đều vẫn thuộc về một kiểu văn bản nhất
định: Miểu tả, kể chuyện, thuyết minh, nghị luận
- Học văn bản nhật dụng không để chỉ mở rộng hiểu biết toàn diện mà còn tạo
điều kiện tích cực để thực hiện nguyên tắc giúp học sinh hoà nhập với xã hội, rút ngăn
khoảng cách giữa nhà trờng và xã hội.
Qua kinh nghiệm những năm giảng dạy văn bản nhật dụng từ khối 6 đến khối
9 của tổ xã hội và đặc biệt trong ba năm liền tôi đều đợc phân công giảng dạy ngữ văn
khối 9 (chơng trình cải cách). Trong đó có ba bài thuộc văn bản nhật dụng, tôi đã tìm
tòi và vận dụng bớc đầu những kinh nghiệm này dần dần vào bài giảng và năm học
này 2007-2008 tôi đã thu đợc kết quả khả quan trong bài dạy, gây đợc hứng thú cho
học sinh khi học và dạy loại văn bản này.
- Trớc hết đối với giáo viên ngoài vận dụng nhuần nhuyễn sách giáo viên, thiết
kế bài giảngthì tôi đã căn cứ vào đặc điểm của văn bản nhật dụng là tình thực tiễn,
cập nhật, lịch sử qua tài liệu, sách báo, thông tin qua mạng, từng ngày, từng nămtình
hình trong nớc, thế giới, các sự kiện qua đài, báo chí để áp dụng vào phần mở bài, và
liên hệ trực tiếp vào từng phần của bài học để học sinh nắm bắt đợc các thông tin cập
nhật, gắn với thực tế, kích thích tính tò mò, tính chân thực của tác phẩm điều đó sẽ tạo
hứng thú, tạo sự ham học hơn, học sinh sẽ tích cực học môn ngữ văn hơn. Đồng thời
tạo niềm tin cho giáo viên hơn khi giảng dạy và giảm bớt sự căng thẳng, khô khan,
tính lí thuyết của văn bản.
Đặc biệt rút ngắn khoảng cách giữa nhà trờng với xã hội và cộng đồng để học
sinh hoà nhập với cuộc sống thực tế chứ không phải chỉ là những con mọt sách.
Cụ thể:
Bài 1: Văn bản : Phong cách Hồ Chí Minh
(Lê Anh Trà)
- Mục đích và nội dung của văn bản: Đây là văn bản thuộc chủ đề về sự hội
nhập với thế giới và bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc. Văn bản không chỉ mang ý nghĩa
cập nhật mà còn mang ý nghĩa lâu dài: việc học tập phong cách Hồ Chí Minh là công

việc thờng xuyên và cần thiết của mỗi ngời Việt Nam.
- Văn bản có hai nội dung ( tơng đơng hai luận điểm): 1- con đờng hình thành
phong cách văn hoá Hồ Chí Minh. 2- Vẽ đẹp của phong cách Hồ Chí Minh thể hiện
trong phong cách sống và làm việc của Ngời.
Để học sinh nhận thức đợc điều đó một cách dễ dàng, giáo viên phải có phơng
pháp đặt câu hỏi, tạo tình huống để gây hứng thú cho học sinh ngay ở phần mở bài
(phần giới thiệu).
Ví dụ:
1.Phần mở bài( phần giới thiệu bài)
*Cách 1: Một sự kiện rất quan trọng và nội bật về tình hình chính trị hiện nay
của 2007 đầu 2008 mà cả nớc từ các cơ quan dân chính Đảng đến các trờng học các tổ
chức đều thi đua học tập vấn đề gì?
*Cách 2: Hồ Chí Minh không chỉ là anh hùng dân tộc vĩ đại mà còn danh nhân
văn hoá thế giới (1990). Bởi vậy phong cách sống và làm việc của Bác không chỉ là
phong cách sống và làm việc của ngời anh hùng dân tộc vĩ đại mà còn là một nhà văn
hoá lớn, một con ngời của nền văn hoá tơng laiBài viết của nhà giáo, nhà lí luận phê
bình văn học Lê Anh Trà là một minh chứng hùng hồn cho phong cách của Ngời
* Cách 3: Hiện nay, trong thời kì hội nhập với nền kinh tế thế giới, đời sống con ngời
ngày càng đợc cải thiện nâng cao. Hiện tợng một số cán bộ Đảng viên lạm dụng chức
quyền, thoái hoá biến chất, chỉ lo vun vén quyền lới ích kỉ cho bản thân, dòng họ mình
mà quên đi phẩm chất của ngời cán bộ cách mạng vì thế bài viết Phong cách Hồ Chí
Minh của Lê Anh Trà là một minh chứng để thức tỉnh mỗi một chúng ta phải sống và
làm việc nh thế nào? để xứng đáng với tổ tiên, với dân tộc.
1. Phần liên hệ nội dung bài học:
Giáo viên không cần phân tích nhiều mà cho học sinh chuẩn bị trớc: Tìm hiểu
những mẫu chuyện kể về Bác. (giáo viên phải định hớng những mẫu chuyện về chủ đề
nói về phong cách sống, làm việc, ăn ở giản dị cảm động của Bác)
Ví dụ:
- Trớc khi mất Bác muốn nghe một câu hát dân ca, một câu hò xứ Nghệ
- Bác tiết kiệm: (đi một đôi dép cao su đã 11 năm, Bác gọt những quả chuối đã

nẫu rồi ăn mà vẫn khen ngon lành)
- Bác chăm rau, trồng rau, thăm đơn vị bộ đội. Bác nói: ăn rau mà không biết
trồng rau thì chẳng khác gì con sâu
- Bác mặc áo Kaki rách cổ mà không chịu thay áo mới.
- Bác về làng Vĩnh Thành thăm hỏi bà con những gia đình nghèo, khó khăn,
thăm và chia kẹo cho các cháu mẫu giáo (1964).
- Giáo viên đọc thơ: Ngời đi tìm hình của nớc
( Chế Lan viên)
Đời

bồi tàu lênh đênh theo sóng biển
Ngời đi tìm bóng hình khắp châu Mĩ, La tinh
- Trong di chúc Bác viết: Tôi chỉ có một ham muốn. Tôi sẽ đi khắp hai
miền nam bắc
Bài 2: Văn bản: Đấu tranh cho một thế giới hoà bình
(G.G_Mác-Két)
Văn bản nêu ra nguy cơ chiến tranh hạt nhân đe doạ toàn bộ sự sống trên trái
đất và nhiệm vụ cấp bách của toàn thể nhân loại. Học sinh lớp 9 (tuổi cao nhất của cấp
THSC) cần phải biết hiện nay nguy cơ chiến tranh vẫn luôn tiềm ẩn và vũ khí hạt nhân
đợc phát triển mạnh là một hiểm học khủng khiếp nhấtTừ đó giúp học sinh nhận
thức đúng về nguy cơ chiến tranh và tham gia vào cuộc chiến tranh cho hoà bình là
yêu cầu đặt ra cho mỗi công dân, kể cả mỗi học sinh trong các trờng PT.
Để học sinh nắm đợc nội dung bài học đễ dàng thì giáo viên cần tạo hứng thú cho học
sinh ngay từ đầu ở phần mở bài (phần giới thiệu)
1. Phần mở bài:
* Cách1: Thế kỉ XX là thế kỉ đánh đấu sự phát triển nhảy vọt tiến bộ về công
nghệ khoa học với phát minh đầu tiên về nguyên tử hạt nhân đồng thời là sự phát minh
loại vũ khí huỷ diệt loài ngời ghê gớm nhất. Bằng chứng cụ thể: Tháng 8-1945 với 2
quả bom nguyên tử của Mĩ ném xuống 2 thành phố Hi-rô-si-ma và Na-ga-xa-ki đã huỷ
diệt 2 triệu ngời Nhật Bản mà đến bây giờ còn để lại nhiều di chứng thơng tâm. Hôm

nay chúng ta đợc nghe tiếng nói của nhà văn Nam mĩ (Cô-lôm-bi-a) đã từng đạt giải
thởng Nô-ben văn học nói về vấn đề này.
* Cách 2: Việt Nam trong những năm chiến tranh phá hoại do đế quốc Mĩ
gây ra 1954 đến 1975 đã để lại nhiều mất mát và đau thơng do sự huỷ diệt của bom
nguyên tử hạt nhân. Chiến tranh đã lùi xa rất lâu nhng di chứng, hậu quả của chiến
tranh hạt nhân vẫn mãi mãi là nỗi đau nhức nhối cho cả dân tộc Việt Nam. Tiếng nói
của nhà văn Nam mĩ G.G Mác-két giúp chúng ta thấy rõ nguy cơ về chiến tranh hạt
nhân và chúng ta cần phải làm gì để đấu tranh cho một thế giới hoà bình.
* Cách3:
- Em biết gì về nguyên tử hạt nhân? Những ứng dụng của nó trong hoà
bình và trong chiến tranh?
- Chiến tranh thông thờng và chiến tranh nguyên tử hạt nhân khác nhau nh
thế nào? Hai cuộc chiến tranh thế giới (chiến tranh thế giới I và II). Các cuộc chiến
tranh chống xâm lợc ở nớc ta ở thế kỉ XX thuộc loại chiến tranh nào? Phải làm gì để
ngăn chặn nguy cơ chiến tranh hạt nhân trên thế giới? Bài viết của Mác-két hôm nay ta
đợc học sẽ bàn luận về những vấn đề thiết yếu và thời sự đó.
2. Phần liên hệ nội dung bài học:
Giáo viên cần đa ra những dẫn chứng cập nhật mới nhất để liên hệ vào các
luận điểm trong bài.
Trong luận điểm 1: Hiểm hoạ của chiến tranh hạt nhân.
Giáo viên đa ra dẫn chứng:
- Trong cuộc chiến tranh phá hoại ở nớc ta đế quốc Mĩ đã rãi xuống Việt
Nam 19 triệu gallon chất độc, trong đó 7 triệu gallon chất diệt cỏ, 12 triệu gallon chất
độc màu da cam.
Trong luận điểm 2: Đoàn kết ngăn chặn chiến tranh hạt nhân vì một thế giới
hoà bình là nhiệm vụ của mọi ngời.
Giáo viên đa ra các dẫn chứng :
9-10-2006 Liên hợp quốc, Nga và nhân dân thế giới phản đối kịch liệt vụ thử
thành công hạt nhân của CH nhân dân Triều Tiên (sau 4 năm chuẩn bị dới lòng
đất) bất chấp mọi sức ép của cộng đồng thế giới.

- Tháng 4-2003, I-Ran đã từng bị thế giới trừng phạt vì sử dụng vũ khí hạt
nhân.
- Tháng 11-2007, I-Ran vẫn sử dụng chất phóng xạ Uranium để phát triển vũ
khí hạt nhân hiện đang bị tổng thống Mĩ lên án kịch liệt về vấn đề này.
- Ngày 17-1-2008, Tổng thống But sang công du ở I-Xra-En và tuyên bố đối
đầu với I-Ran về việc I-Xra-en thử tên lửa mang đầu đạn hạt nhân. Mĩ đang cáo buộc
Bình Nhỡng giúp Xi-Ri xây dựng lò thử hạt nhân nguyên tử.
Rõ ràng hiện nay cả thế giới rất căm phận và lên án một số nớc còn đối đầu sự
sống của loài ngời trong việc sử dụng vũ khí hạt nhân để thực hiện mục đích lợi nhuận
của mình làm ảnh hởng đến hoà bình của thế giới.
Bài 3 : Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền đợc bảo vệ và phát triển của trẻ em
(lời tuyên bố của hội nghị cấp cao thế giới về quyền trẻ em họp tại trụ sở Liên hợp
quốc, Niu-Yooc ngày 30-9-1990)
Học văn bản này học sinh cần nhận thức đợc những điều cần thiết sau :
- Với trẻ em có liên quan trực tiếp đến tơng lai của đất nớc, tơng lai của nhân
loại, bảo vệ và chăm lo cho trẻ em hiện đựơc coi là một trong những nhiệm vụ có ý
nghĩa quan trọng hàng đầu của từng quốc gia và cả cộng đồng quốc tế.
- HS cần hiểu rằng : Qua việc bảo vệ chăm sóc trẻ em, ngời ta có thể nhận ra
trình độ văn minh của một xã hội và vấn đề này đang đợc cộng đồng quốc tế dành sự
quan tâm thích đáng.
- HS cần hiểu biết vấn đề đó để xác định nhiệm vụ học tập phấn đấu sao cho
xứng đáng với sự quan tâm đó.
1. Phần mở bài (phần giới thiệu)
* Cách1: Trẻ em hôm nay- thế giới ngày mai câu nói đó chính là thông điệp
gửi đến tất cả mọi ngời trên trái đất về tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ, chăm sóc
trẻ em, sự quan tâm của cộng đồng quốc tế hiện nay nh thế nào?
* Cách2: Bác Hồ đã từng nói: Trẻ em nh búp trên cành
Biết ăn ngủ biết học hành là ngoan.
Trẻ em Việt Nam cũng nh trẻ em thế giới hiện nay đang đứng trớc những thuận lợi to
lớn về sự chăm sóc nuôi dỡng, giáo dục nhng đồng thời cũng đang gặp những thử

thách những cản trở không nhỏ ảnh hởng xấu đến tơng lai phát triển của trẻ em. Một
phần văn bản: Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền đợc bảo vệ và phát triển của
trẻ em tại hội nghị cấp cao thế giới họp tại Liên hợp quốc cách đây 18 năm
(1990) đã nói lên tầm quan trọng của vấn đề này.
2. Liên hệ nội dung bài học:
- Trong mục: * Các giải pháp cụ thể của cộng đồng quốc tế về quyền trẻ em-
nhiệm vụ.
Giáo viên cần liên hệ đa ra các thông tin cập nhật ở Việt Nam, thế giới với
hình thức đặt câu hỏi để học sinh thảo luận sau đó giáo viên đa ra các số liệu, thông tin
quan trọng, cập nhật, cụ thể trong thời gian gần nhất:
Ví dụ:
+ Theo em trẻ em Việt Nam đã đợc hởng những quyền lợi gì từ những nỗ lực
của Đảng và nhà nớc ta? (quyền đợc học tập, quyền đợc chữa bệnh, đợc sáng tác, đợc
vui chơi).
+ Việt Nam là nớc đầu tiên kí công ớc về quyên trẻ em với Liên hợp quốc
(1989) đợc Liên hợp quốc thông qua việc chăm sóc bảo vệ trẻ em.
- Về thế giới:
+ Đầu năm 2005 hội nghị trẻ em toàn thế giới có hoàn cảnh đặc biệt, nạn nhân
của thiên tai đợc tổ chức ở Tô-Ki-Ô (Nhật Bản) đó là những cuộc gặp gỡ giao lu của
thanh thiếu nhi năm châu, những đứa trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ sau trận động đất, núi
lửa, bão biển, nạn khủng bố 11-9 ở Mĩ
+ Hiện nay một số cá nhân tổ chức vì mục đích lợi nhuận, ích kỉ đã biến trẻ
em thành những đứa trẻ bị phạm tội sớm, nạn nhân của bạo lực, của sự hành hung độc
ác, mù chữ, nạn nhân của tệ nạn xã hội, của các đại dịch Bằng chứng cho thấy:
- Báo nhân dân 18-12-2007 đã đăng tin quyết định của Bộ giáo dục và đào tạo
về việc ngăn chặn và xử lí nạn bạo hành học sinh và giáo viên. Phát hiện và thống kê
đến tháng 12-2007 đã có 10 tỉnh trên cả nớc có gần 20 vụ trẻ em bị giáo viên hành hạ
bạo hành, có những trờng hợp bị thơng tích nguy hiểm dẫn đến tình trạng nh: bé Bảo
Trâm(18 tháng tuổi) ở trờng mần non t thục Thiên Thơ (Hồ Chí Minh) bị bảo mẫu Lê
Vi dùng băng keo dán miệng vì bé hay khóc.

Bé Trâm ở trờng tiểu học An Hiệp (Đồng Tháp) bị nghi ngờ lấy trộm tiền cô
giáo đã giao cho công an tra hỏi dẫn đến chấn thơng tâm lí.
Một học sinh ở Đắc Lắc vì bị nghi ngờ ăn cắp tiền dẫn đến tự tử.
ở Đồng Nai mẹ nuôi đánh con gây thơng tích vì bắt con đi xin mỗi ngày phải
có 200 000 đ và đã bị pháp luật xử lí.
Các vụ bắt cóc trẻ em lợi dụng tình dục với trẻ em từ năm 2006 đến 2008 xảy ra
ở Việt Nam và thế giới không phải là con số nhỏ.
III/ So sánh kết quả hiện nay với kết quả khi ch a thực hiện kinh nghiệm
này.
- Những năm học đầu 2005-2006, và 2006-2007, học sinh lớp 9 và giáo viên
mới đợc dạy học và tiếp xúc kiểu văn bản nhật dụng mới này tôi mới chỉ áp dụng bài
dạy qua thiết kế bài giảng và sách giáo viên nên ngời dạy cảm thấy rất khô khan cứng
nhắc. Học sinh rất khó hiểu, có những lúc tôi cảm thấy thất bại (Đặc biệt năm học đầu)
vì số học sinh hiểu bài chỉ đạt 50% và đều cho rằng học loại văn bản này ít có tác
dụng.
- Năm học 2006-2007, tôi đã suy nghĩ trăn trở, tìm tòi và đa ra quyết định:
Dạy văn bản nhật dụng thì phải căn cứ vào đặc điểm nổi bật là tính cập nhật, tính thực
tế để vận dụng vào bài học với mục đích tạo hứng thú cho học sinh, gây sự háo hức sôi
nổi trong giờ học và để học sinh tiếp cận với kiến thức sách vở ra ngoài xã hội. Nên tôi
đã mạnh dạn tìm tòi thống kê, đa kinh nghiệm này vào chơng trình đầu năm học. Kết
quả cho thấy, trong tiết học: học sinh sôi nổi hơn, say sa hơn, thích thảo luận trao đổi
nhiều hơn.
Qua một số câu hỏi thảo luận sau mỗi bài và bài kiểm tra thu hoạch tôi thấy:
học sinh hiểu bài dễ dàng hơn, 85-95% nắm vững kiến thức cơ bản bài giảng, học sinh
hứng thú ham học bộ môn ngữ văn hơn.
Đối với giáo viên, tôi cảm thấy tự tin hơn vì có đủ những bằng chứng sống,
thông tin bổ ích giúp cho mình giảng dạy vững vàng hơn trong kiến thức khi truyền
thụ cho học sinh đặc biệt với loại văn bản nhật dụng này.
* Những bài học rút ra:
Dạy văn bản nhật dụng nói riêng và dạy ngữ văn nói chung ở trờng THCS,

muốn tạo hứng thú say mê cho học sinh học và đạt đợc kết quả cao trong giờ dạy thì
ngời giáo viên cần:
1. Ngoài kiến thức trong sách giáo khoa (văn bản), sách giáo viên, sách thiết
kế, thì ngời giáo viên cần phải đọc, tìm hiểu thật kỹ về tác phẩm, tác giả, hoàn cảnh
sáng tác. Đọc và tìm hiểu thêm các t liệu liên quan đến kiểu văn bản nhật dụng
2. Ngời giáo viên cần phải tìm hiểu trăn trở, suy nghĩ những phơng pháp,
chọn lựa những giải pháp, tình huống tích cực nhất để vận dụng vào từng loại văn bản
phù hợp với từng đối tợng học sinh từng vùng, từng lớp, thậm chí từng nhóm đối tợng.
3. Đối với loại văn bản nhật dụng và văn bản nghị luận, tính lý luận cao nên
thờng tâm lý học sinh căng thẳng vì kiến thức dài, khô khan, khó hiểu. Giáo viên cần
vận dụng các mẫu chuyện, dẫn chứng mang tính thực tế, lịch sử (áp dụng tuỳ vào nội
dung từng bài), để kích thích gây tòi mò, hứng thú, say mê cho học sinh. Giúp học
sinh hiểu bài dễ hơn, nhanh hơn qua phần giới thiệu bài và liên hệ ngay từng
phần của bài học.
4. Để đạt đợc những yêu cầu, kết quả đó, ngời giáo viên không chỉ giảng
dạy rặp khuôn, máy móc theo hớng dẫn sách giáo viên mà phải luôn luôn tìm tòi, lắng
nghe, nắm bắt thông tin cập nhật (liên quan đến nội từng văn bản nhật dụng) qua đài,
trên báo chí, qua thông tin mạng, qua tình hình thời sự trong nớc, quốc tế, qua từng
ngày, từng năm cụ thể để vận dụng vào bài giảng, liên hệ vào phần nội dung phù hợp
thì sẽ gây sự chú ý, tin tởng hơn, giúp học sinh hiểu nhanh hơn, hứng thú học bài hơn
qua kiến thức sách giáo khoa và kiến thức thực tế.
Nh vậy theo tôi để dạy học thành công một tiết văn bản nhật dụng, giáo
viên cần chuẩn bị đầy đủ các bớc, các khâu nh dạy các tiết văn bản khác. Ngoài ra ng-
ời giáo viên cần tìm hiểu thêm về các kiến thức thực tế, cập nhật để vận dụng linh hoạt
vào bài giảng một cách cụ thể, phong phú thì mới giúp học sinh dễ hiểu và gây đợc
hứng thú, đam mê khi học kiểu văn bản này. Kinh nghiệm này không phải là tất cả,
song theo tôi nó rất quan trọng để giúp học sinh ham thích học môn ngữ văn hơn trong
thời đại khoa học công nghệ hiện nay.
Phòng GD & ĐT yên thành

Tr ờng thcs hoa thànhCộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
Một số kinh nghiệm
Gây hứng thú cho học sinh khi dạy học môn ngữ văn 9
Về cụm văn bản nhật dụng
ở tr ờng trung học cơ sở
Giáo viên: Nguyễn Thị Quyên
Phan Thị Nhạc
TrờngTHCSHoaThành
Yên Thành-Nghệ an
Năm học : 2007-2008

×