Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

SKKN nghiên cứu và xây dựng các bước để rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn được tốt hơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.39 KB, 29 trang )


PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Như chúng ta đều biết: Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh THCS là
vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết trong việc tạo lập văn bản. Từ đó, giúp học
sinh hình thành ý thức và nhân cách cũng như trình độ học vấn cho các em ngay khi
đang học bậc học THCS và trưởng thành sau này. Qua việc rèn luyện kĩ năng viết
đoạn văn, ta rèn cho học sinh ý thức tự tu dưỡng, biết yêu thương, quí trọng gia
đình, bạn bè, có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những tình cảm
cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét
cái xấu, cái ác và cũng từ đó rèn cho các em tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước
đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mĩ trong nghệ thuật. Trước hết là
trong văn học có năng lực thực hành và năng lực sử dụng Tiếng Việt như một công
cụ để tư duy và giao tiếp.
Để rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết đoạn văn, giáo viên phải hướng dẫn cho
các em cách thức viết đoạn văn, cách sử dụng vốn từ ngữ, diễn đạt câu trong đoạn
văn, bố cục đoạn văn trong một văn bản, cách sử dụng các phương tiện liên kết
trong đoạn văn. Tuỳ theo từng phương thức diễn đạt khác nhau mà viết theo lối qui
nạp, diễn dịch, song hành hay móc xích.
Để viết được đoạn văn phải có nhiều câu kết hợp tạo thành, cũng như vậy để tạo
thành văn bản yêu cầu phải có các đoạn văn liên kết với nhau mà thành (khi đã dùng
các phương tiện liên kết trong văn bản).
Tuy vậy, trong giai đoạn hiện nay, có rất nhiều những phương tiện hiện đại,
thông tin đại chúng cập nhật liên tục khiến cho học sinh lao vào con đường say mê
“nghiện” sách vở bị lãng quên, ham bạo lực điện tử, sách kiếm hiệp. Vì vậy, các em
không còn ham đọc sách, ham nghiên cứu. Cho nên, việc viết một đoạn văn lại càng
là vấn đề đáng quan tâm khi chúng ta rèn luyện cho các em.Hơn thế nữa, tập làm
văn là môn học thực hành tổng hợp ở trình độ cao của môn Văn – Tiếng Việt, môn
Tập làm văn được xem như vị trí cốt lõi trong mối tương quan chặt chẽ với Văn và
Tiếng Việt. Như vậy, chúng ta dạy Tập làm văn cho học sinh là dạy cho các em nắm
vững văn bản, biết xây dựng các đoạn văn thông thường. Rèn luyện cho học sinh là


rèn luyện cho các em các thao tác, những cách thức, những bước đi trong quá trình
tạo lập văn bản. Vì thế, cách xây dựng đoạn văn trong phân môn tập làm văn được
coi như vị trí hàng đầu. Việc rèn cách viết đoạn văn cho học sinh THCS theo trục
tăng dần qua các thể loại văn học: tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận thuyết minh,
điều hành ( hành chính công vụ). Từ đó giúp các em biết vận dụng các thể loại văn
bản để phục vụ cho học tập và trong đời sống. Qua việc tiếp thu những kiến thức của
môn Văn – Tiếng Việt, học sinh vận dụng sáng tạo, tổng hợp để có thể nói hoặc viết
theo những yêu cầu, những đề tài khác nhau, những kiểu văn bản khác nhau mà cuộc
sống đặt ra cho các em.
Thông qua môn Tập làm văn, qua bài làm văn của mình, các em bọc lộ những
tri thức, vốn sống tư tưởng, tình cảm của cá nhân. Vì thế người giáo viên phải biết
nắm lấy ưu thế này để phát huy những khả năng của các em, đồng thời qua việc rèn
luyện kĩ năng viết đoạn văn giáo viên có dịp uốn nắn điều chỉnh những lệch trong
vốn sống, nhận thức, tư tưởng tình cảm - đặc biệt qua các thể loại văn học mà các
em sẽ học trong chương trình.
Trên đây là những lí do, vị trí, vai trò của việc xây dựng đoạn văn cho học sinh
THCS. Từ những mặt tích cực, hạn chế trên chúng tôi chọn đề tài này để nghiên
cứu và xây dựng các bước để rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn được tốt hơn .
II/ LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Như chúng ta đã biết, vấn đề nghiên cứu, rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn cho
học sinh đã đặt ra từ lâu nhưng chưa được quan tâm nhiều do phân môn Tập làm văn
chưa được xem là phân môn chính và có nhiều quan niệm khác nhau:
Trước cải cách giáp dục (Từ những năm 1980 trở về trước), phân môn Tập làm
văn thuộc về môn Văn, là bộ phận của môn Văn, quan niệm Tập làm văn giúp cho
học sinh tạo lập được những văn bản văn học.
Đến cải cách giáo dục (1980 – 2001), Tập làm văn là một phần của môn
TiếngViệt, quan niệm dạy môn này và Tiếng Việt có tính chất như là công cụ để học
tốt các môn học khác. Làm văn là quá trình giúp học sinh xây dựng văn bản.
Giai đoạn hiện nay: phân môn Tập làm văn có tính độc lập nhưng có mối quan
hệ trực tiếp đến phần Văn và phần Tiếng Việt.

Lần thay sách giáo khoa này, phân môn Tập làm văn được tích hợp cùng phân
môn Văn và Tiếng Việt trong chương trình Ngữ Văn mới. Các kiểu văn bản của Tập
làm văn chính là trục để xây dựng nội dung, chương trình Ngữ Văn THCS từ năm
học 2002 – 2003.
III/ MỤC ĐÍCH NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1. Mục đích .
Phân môn Tập làm văn giúp cho học sinh nắm được các thể loại trong chương
trình tập làm văn ở THCS như Tự sự, Miêu tả, Biểu cảm, Nghị luận, Thuyết minh,
Điều hành. Từ đó, giúp học sinh biết vận dụng các thể loại văn bản để phục vụ cho
học tập, trong đời sống. Đặc biệt đề tài này sẽ giúp cho các em biết cách xây dựng
đoạn văn biểu cảm nói riêng và đoạn văn thuộc các thể loại nói trên, với bố cục đoạn
văn dù ngắn hay dài đều phải đảm bảo mặt nội dung và hoàn chỉnh về hình thức,
hướng dẫn cho các em rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn theo bố cục ba phần: Mở bài,
Thân bài, Kết luận.
Mỗi đoạn văn đều bao hàm một ý chính của nó. Ý chính đó, có thể đứng ở đầu
đoạn văn theo cách diễn dịch hoặc đứng cuối đoạn văn theo cách qui nạp hoặc ý
chính của các câu bình đẳng nhau, ngang hàng nhau theo cách song hành.
Qua đó, rèn luyện cho học sinh kĩ năng diễn đạt đúng và hay bằng các hình thức
nói hoặc viết, tập vận dụng một cách sáng tạo, tổng hợp những kiến thức đã tiếp thu
được qua các môn Văn – Tiếng Việt và những kiến thức văn hoá xã hội để có thể nói
và viết theo yêu cầu, đề tài khác nhau, những kiểu văn bản khác nhau mà cuộc sống
đặt ra cho các em.
Viết đoạn văn (trong phân môn Tập làm văn còn trực tiếp rèn luyện cho học
sinh một số đức tính như lòng nhân ái, tính trung thực, sự kiên trì…Bởi vì môn này
góp phần phát triển trí tưởng tượng óc sáng tạo, biết phân biệt: đúng, sai, tốt, xấu,
phải, trái… Từ đó, nuôi dưỡng tâm hồn học sinh hướng tới cái chân, thiện, mĩ .
2. Nhiệm vụ
Người giáo viên phải nắm lấy ưu thế của học sinh như những tri thức, vốn sống,
tư tưởng, tình cảm để phát huy những khả năng cao hơn. Đồng thời, qua đó uốn nắn,
điều chỉnh, hạn chế những lệch lạc trong nhận thức, vốn sống, tư tưởng, tình cảm

của các em.
Củng cố kiến thức Tiếng Việt và Văn học góp phần bồi dưỡng tâm hồn, trí tuệ
để học sinh biết rung động trước cái hay, cái đẹp, hướng các em tới nhu cầu thẩm
mĩ, sáng tạo và biết tôn trọng những giá trị thẩm mĩ khi xây dựng đoạn văn.
Là bộ môn khó, đặc biệt yêu cầu kĩ năng càng khó hơn, đòi hỏi chúng ta phải
dày công, kiên trì dạy các em. Qua đó, hình thành thói quen, kĩ năng phân tích đề,
lập dàn ý, dùng từ, đặt câu, dựng đoạn, trình bày, diễn đạt. Trong đó, cách viết đoạn,
dựng đoạn càng quan trọng trong bước đầu tạo lập viết đoạn, dựng đoạn càng quan
trọng trong bước đầu lập văn bản. Cũng từ dựng đoạn, nhiệm vụ của giáo viên Ngữ
Văn là phát huy năng lực tư duy, năng lực sử dụng ngôn ngữ, giúp các em biết tích
luỹ vốn kiên thức, biết huy động vốn kiến thức, biết đặt ra các vấn đề và giải quyết
các vấn đề ấy. Qua đó, biết trình bày kết quả tư duy của mình một cách rõ ràng, chặt
chẽ, có sức thuyết phục trước từng vấn đề, từng kiểu văn bản khi viết đoạn và trong
giao tiếp. Là phân môn có tính thực hành cao, nên giáo viên cần cho học sinh đọc
nhiều đoạn văn mẫu, viết nhiều đoạn văn để tạo lập văn bản được dễ dàng hơn. Đó
là những mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của giáo viên Ngữ văn trong bước rèn
luyện kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh THCS.
IV/ ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Điều tra các đối tượng học sinh, phạm vi nghiên cứu ở một số trường trong
Huyện.
Đối tượng phần lớn là học sinh khối lớp 7 - bậc THCS.
V/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Trước hết, chúng ta phải có cái nhìn khái quát toàn bộ chương trình ở cấp
THCS như sau:
Chương trình Tập làm văn THCS đồng tâm với chương trình Tập làm văn của
Tiểu học nhưng ở yêu cầu cao hơn, tiếp tục và hoàn chỉnh chương trình ở THCS, mở
rộng các thể văn mới hơn, yêu cầu cao hơn đối với học sinh. Chương trình Tập làm
văn có mối quan hệ khá rõ ràng: Giữa Văn – Tiếng Việt – Tập làm văn. Để trở thành
thao tác tốt viết đoạn văn, giáo viên hướng dẫn học sinh như cách dùng từ đặt câu và
cao hơn là dựng đoạn. Vì vậy, có thể nói học sinh được học và thực hành 15 loại văn

bản ở bậc THCS, đủ để giao tiếp bằng văn bản và tiếp tục học lên ở những bậc trên.
1.Phương pháp lí thuyết .
Bước đầu dạy cho học sinh những khái niệm về từng thể loại văn, làm quen với
những đề văn mẫu, những bài văn mẫu và tìm hiểu cụ thể từng bài qua các tiết học:
Lí thuyết về đoạn văn. Qua đó, giúp học sinh học, tìm hiểu cách xây dựng đoạn văn,
bố cục đoạn văn, các câu chốt (câu chủ đề) trong đoạn văn, viết theo các cách diễn
dịch, qui nạp, song hành, móc xích …Từ đó, cho học sinh tập viết đoạn văn, có vận
dụng lí thuyết về thể loại văn ấy. Tuy nhiên, phương pháp lí thuyết không quá nặng.
2.Phương pháp nghiên cứu, tìm hiểu.
Học sinh là chủ thể trong quá trình dạy học để phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của các em trong quá trình tiếp nhận. Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu
cho học sinh tự thân vận động là chính, giáo viên im lặng đến mức tối đa để khuyến
khích học sinh sáng tạo trong giờ Tập làm văn. Vậy, trong tiết học Tập làm văn mà
đặc biệt là tiết rèn luyện viết đoạn văn, hướng dẫn các kĩ năng nghiên cứu, tìm hiểu
để vận dụng các kiến thức đã học để dựng đoạn theo đặc điểm thể loại để tạo lập văn
bản.
3. Phương pháp kiểm tra, khảo sát .
Với phương pháp này, đòi hỏi học sinh phải thực hành liên tục, chắc chắn các
thao tác từ lí thuyết về thể loại sau đó đến nghiên cứu, tìm hiểu. Từ đó, ta mới đi vào
kiểm tra, khảo sát để thấy được sự vận dụng tổng hợp, để sáng tạo văn bản qua
nhiều bước trong quá trình rèn luyện các kĩ năng. Đó là điều kiện để đánh giá học
sinh thông qua bài kiểm tra, bài viết ở lớp (hoặc ở nhà) đòi hỏi phải đánh giá đúng
năng lực của học sinh và đòi hỏi một sự nhạy cảm của thầy trước yêu cầu thực hành
của học sinh.
4. Phương pháp cố vấn, chuyên gia .
Đây là những phương pháp khó đối với học sinh. Học sinh thường không chú ý
đến những cái khó khăn này và cũng không cần hỏi ai những vấn đề cần tháo gỡ,
cần đến chuyên gia cố vấn.
Mặc dù, mức độ lí thuyết mang tính trừu tượng, việc kiểm tra, đánh giá, cố vấn,
chuyên gia, giáo viên giúp học sinh vận dụng kiến thức vào viết văn rõ ràng hơn.

Như vậy, việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nói chung và viết đoạn văn biểu
cảm nói riêng giáo viên phải định hướng cho các em biết đối chiếu giữa thực hành
và lí thuyết, đối chiếu kết quả thực hành của mình với yêu cầu chung. Nhưng,
phương pháp cố vấn, chuyên gia phải được liên hệ một cách chặt chẽ giữa giáo viên
với học sinh.
Trên đây là một số các phương pháp nghiên cứu đối với việc rèn luyện các kĩ
năng viết đoạn văn biểu cảm cho học sinh THCS.
PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG
A/ LÍ THUYẾT VỀ ĐOẠN VĂN VÀ THỰC TRẠNG VIẾT ĐOẠN VĂN BIỂU
CẢM CỦA HỌC SINH THCS .
I/ LÍ THUYẾT VỀ ĐOẠN VĂN
Như chúng ta đã biết, bài viết được cấu thành bởi các đoạn văn( văn bản) theo
những phương thức và bằng những phương tiện khác nhau. Dựng đoạn được triển
khai từ ý trong dàn bài. Có thể Đoạn văn là một ý hoặc nhiều ý và cũng có thể một ý
có nhiều đoạn. Trong đoạn văn thường có bố cục ba phần: mở đoạn, phát triển đoạn
và kết đoạn. Ở góc độ đặc điểm cấu trúc thì các đoạn văn có thể là đoạn diễn dịch,
qui nạp, móc xích, song hành…
Để rèn luyện được kĩ năng viết đoạn văn, đòi hỏi học sinh phải suy nghĩ yêu cầu
diễn đạt thành lời, thành đoạn, phải sử dụng các phương tiện ngôn ngữ sao cho phù
hợp với ý của đoạn để hiệu qủa biểu đạt cao hơn, đoạn văn có sức cuốn hút hơn với
người đọc. Kĩ năng dựng đoạn văn gắn với kĩ năng luyện nói trên lớp. Có triển khai
ý thành đoạn cũng mới tiến hành được. Đây là những thao tác, những kĩ năng có khi
thực hiện và rèn luyện đồng thời cùng một lúc.
Qua đó, ta có thể hiểu được: Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, bắt
đầu từ chỗ viết hoa lùi đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xưống dòng và thường
biểu đạt một ý tương đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo thành. Đoạn
văn thường có từ ngữ chủ đề và câu chủ đề. Từ ngữ chủ đề là các từ ngữ được dùng
làm đề mục hoặc các từ ngữ được lặp lại nhiều lần (thường là chỉ từ, đại từ, các từ
đồng nghĩa) nhằm duy trì đối tượng được biểu đạt. Câu chủ đề mang nội dung khái
quát, lời lẽ ngắn gọn, thường đủ hai thành phần chính và đứng ở đầu hoặc cuối đoạn

văn (hay còn gọi là câu chốt). Các câu trong đoạn văn có nhiệm vụ triển khai và làm
rõ chủ đề của đoạn bằng các phép diễn dịch, qui nạp, song hành…
Khi chuyển từ đoạn này sang đoạn khác, cần sử dụng các phương tiện liên kết
để thể hiện quan hệ ý nghĩa của chúng. Có nhiều phương tiện liên kết trong đoạn
văn: dùng từ ngữ có tác dụng liên kết, quan hệ từ, đại từ, chỉ từ, các cụm từ thể hiện
ý liệt kê, so sánh, đối lập, tổng kết, khái quát…,và dùng câu nối trong đoạn văn.
Đoạn văn liên kết nhằm mục đích tạo sự liền mạch một cách hợp lí, tạo tính chỉnh
thể cho văn bản.
Như vậy, các phương tiện liên kết vốn mang ý nghĩa, nhưng đồng thời chúng
cũng là hình thức làm rõ tính liên kết của nội dung đoạn văn. Mặt khác, lại có những
phương tiện liên kết đồng nghĩa, gần nghĩa với nhau, nên cần lựa chọn các phương
tiện liên kết cho phù hợp với ý đồ chủ quan của người viết, với sự việc được phản
ánh và tình huống giao tiếp cụ thể.
Vì vậy, chúng ta cần tận dụng những hiểu biết và khả năng trên của học sinh để
phát huy tính tích cực, tính chủ động và sáng tạo của học sinh trong việc rèn luyện kĩ
năng viết đoạn văn được tốt và làm nền tảng cho chương trình THPT. Mặc dù vậy,
học sinh ở các trường THCS, phần lớn có khuynh hướng không thích học văn mà
đặc biệt là phân môn tập làm văn. Và vì thế nó đã ảnh hưởng rất nhiều đến việc tiếp
thu, vận dụng sáng tạo các kĩ năng viết đoạn văn của các em.
II/ THỰC TRẠNG VIẾT ĐOẠN VĂN BIỂU CẢM CỦA HỌC SINH THCS
Cũng bộ môn Ngữ văn, nhưng theo khảo sát, phần lớn các em học phân môn
Tập làm văn còn yếu mà đặc biệt là cách dựng đoạn văn khiến cho giáo viên và học
sinh còn rất lúng túng. Thường thì thời lượng quá ngắn mà kiến thức nhiều, nên học
sinh không thể tìm hiểu kĩ các đoạn văn mẫu. Phần lớn học sinh hiểu sơ sài về mặt
Lí thuyết, vì thế xác định đề bài, chủ đề và bố cục đoạn văn càng bối rối: việc rèn kĩ
năng viết được tiến hành trong các tiết phân tích đề, dàn ý và dựng đoạn, liên kết
đoạn từ thấp đến cao, từ một tiêu đề, một ý, một đoạn văn đến nhiều đoạn, cuối cùng
là một văn bản hoàn chỉnh. Khi viết còn chưa hiểu kĩ đề bài nên hay bị sai lệch. Việc
phân phối thời gian, số lượng câu cho các đoạn, các ý lớn, ý nhỏ chưa rõ ràng, cụ
thể. Cho nên, có nhiều trường hợp viết thừa hoặc thiếu chưa xác định cụ thể đề tài,

chủ đề của đoạn văn. Quá trình lập luận, trình bày chưa chặt chẽ, lô gíc và sinh
động. Chưa biết vận dụng nhiều phương pháp liên kết trong một đoạn văn hoặc
nhiều đoạn văn. Vì thế các đoạn văn thường hay đơn thuần, nhàm chán.
Phần lớn học sinh chưa biết sử dụng ngôn ngữ cho phù hợp với từng kiểu văn
bản. Và đặc biệt là phong cách văn bản.
Qua Đề kiểm tra chất lượng học kì I - Môn Ngữ Văn - Năm học 2006 - 2007
(Đề của Sở giáo dục & Đào tạo Thanh Hoá):
Phần II. Tự luận:
Cảm nhận của em sau khi đọc bài thơ "Tiếng gà trưa" của Xuân Quỳnh.
Chúng tôi khảo sát thực tế bài làm của học sinh ở các nhà trường thấy rằng :
Trên 70% số học sinh chưa biết viết đoạn văn biểu cảm.
Số học sinh có khả năng dựng đoạn và sử lí yêu cầu của đề bài trên 21%, số học
sinh đạt giỏi là con số o - một con số đáng báo động trong việc học phân môn Làm
văn hiện nay trong nhà trường THCS.
Số liệu cụ thể ở trường THCS Quảng X như sau:
Phân
loại
Lớp
Giỏi Khá Trung bình yếu, kém
SL % SL % SL % SL %
7A = 35 0 0 0 0 6 17 29 83
7B = 37 0 0 2 5.4 5 13.6 30 81
7C = 37 0 0 3 8.1 6 16.2 28 75.7
Cộng: 109 0 0 5 4.6 17 15.5 87 79.9
Số liệu cụ thể ở trường THCS Quảng Y:
Giỏi Khá Trung bình yếu, kém
Phân
loại
Lớp
SL % SL % SL % SL %

7A = 31 0 0 3 9.7 8 26 20 64.3
7B = 30 0 0 2 6.6 6 20 22 73.4
7C = 33 0 0 2 6 9 27 22 67
Cộng: 94 0 0 7 7.4 23 24 64 68.6
Bài làm của học sinh là kết quả của quá trình tiếp thu lí thuyết và rèn luyện các
kĩ năng viết văn của học sinh và là sự vận dụng tổng hợp các năng lực tư duy, trình
độ, vốn sống, vốn ngôn ngữ và cả những cảm xúc và rung động thẩm mĩ. Cho nên,
việc rèn luyện các kĩ năng cho học sinh là cả quá trình lâu dài, việc tiến bộ của các
em cũng chậm (không như các môn khoa học tự nhiên). Vì vậy, giáo viên không nên
nóng vội mà phải rèn luyện cho học sinh tính kiên trì và giáo viên cũng cần kiên trì
khi dạy cho học sinh. Những tình trạng viết đoạn văn ở THCS như trên là do nhiều
nguyên nhân.
Điều ta cần nói trước là nguyên nhân khách quan: nó phụ thuộc vào tư tưởng
lập nghiệp của học sinh sau này như thi vào các trường Cao đẳng, Đại học Ngữ văn
ít hơn các môn khác. Và điều quan trọng nhất là cơ chế thị trường thực dụng, con
người khô khan, kênh thông tin văn hoá nghệ thuật đa dạng, nhiều loại hình cuốn hút
học sinh. Hơn thế nữa phụ huynh lại định hướng cho con em mình theo khuynh
hướng trên.
Và ngoài ra nó còn phụ thuộc vào nguyên nhân chủ quan là môn Tập làm văn
khó học, trừu tượng, học sinh không thích học, khó trở thành giỏi văn. Hơn thế nữa
nội dung, chương trình trong SGK còn quá tải, trình độ giáo viên chưa đáp ứng, chất
liệu của môn Ngữ văn bị giảm suốt vì đưa nhiều thể loại văn bản Nhật dụng, văn bản
Chính luận, văn bản Nghị luận vào, coi nhẹ giảng bình, giáo viên giao nhiều bài tập,
khó được điểm cao.
Trên đây là tình trạng viết văn, dựng đoạn văn của học sinh THCS và nó cũng
có nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan tác động. Cho nên chúng ta càng quan
tâm nhiều hơn nữa trong việc dạy một tiết Tập làm văn, đặc biệt là dạy một tiết dựng
đoạn văn trong văn bản.
B/ RÈN LUYỆN KĨ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN BIỂU CẢM
I/ ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐOẠN VĂN BIỂU CẢM

1. Khái niệm Văn biểu cảm
Văn biểu cảm là văn viết ra nhằm biểu đạt tình cảm, cảm xúc, sự đánh giá của
con người đối với thế giới xung quanh và khêu gợi lòng đồng cảm nơi người đọc.
Văn biểu cảm còn gọi là văn trữ tình, bao gồm các thể loại văn học như thơ trữ
tình, ca dao trữ tình, tuỳ bút.
Tình cảm trong văn biểu cảm thường là những tình cảm đẹp thấm nhuần tư
tưởng nhân văn sâu sắc.
Ngoài biểu cảm trực tiếp như tiếng kêu, lời than, đoạn văn biểu cảm còn sử
dụng các biện pháp tự sự, miêu tả để khơi gợi tình cảm.
( Sách giáo khoa – Ngữ Văn – 7 / Tập I – Trang 73)
2. Đặc điểm của đoạn văn biểu cảm .
2.1. Mỗi đoạn văn biểu cảm tập trung biểu đạt một tình cảm chủ yếu như yêu
thiên nhiên, yêu loài vật, yêu con người, yêu thương trường lớp, bạn hữu, yêu gia
đình, yêu quê hương đất nước, ghét thói tầm thường, độc ác…
2.2. Để biểu đạt tình cảm ấy, người viết có thể chọn hình ảnh có ý nghĩa ẩn dụ,
tượng trưng (một đồ vật, một loài cây cỏ, một danh lam thắng cảnh hay một hiện
tượng nào đó) để gửi gắm cảm xúc, ý nghĩ của mình, trang trải nỗi lòng mình một
cách kín đáo hoặc nồng hậu, mãnh liệt, thiết tha.
Ví dụ: Bằng Sơn qua bảo “ Tấm gương” đã lấy tấm gương làm ẩn dụ để ca
ngợi những đức tính tốt đẹp của con người của tình bạn trung thực, chân thành,
thẳng thắn, không nói dối, không nịnh hót hay độc ác với bất cứ ai. Đồng thời tác
giả chỉ rõ có một gương mặt đẹp quả là hạnh phúc lúc soi gương; nếu có thêm một
tâm hồn đẹp đẽ để soi vào tấm gương lương tâm thì hạnh phúc mới thật trọn vẹn”.
(Ngữ Văn – 7 / Tr-84,85)
2.3. Cũng như đoạn văn thuộc các thể loại khác, đoạn văn biểu cảm cũng có bố
cục ba phần.
Mở đoạn : Có thể giới thiệu sự vật, cảnh vật trong thời gian và không gian. Cảm
xúc ban đầu của người viết.
Phát triển đoạn : Biểu lộ cảm xúc, ý nghĩ một cách cụ thể, chi tiết, sâu sắc.


Kết thúc đoạn : Kết đọng cảm xúc, ý nghĩ của mình.
2.4. Đoạn văn biểu cảm chỉ thực sự có giá trị khi tình cảm và tư tưởng hoà quện
với nhau chặt chẽ. Cảm xúc phải chân thật, trong sáng, tư tưởng phải tiến bộ, đúng
đắn. Câu văn, lời văn, giọng văn phải có giá trị biểu cảm.
2.5. Trong văn biểu cảm, tình cảm con người đã qua suy nghĩ, khác với trạng
thái, cảm xúc ( biểu hiện ra nét mặt cử chỉ).
2.6. Có hai cách (lối) biểu cảm.
Biểu cảm trực tiếp: Thông qua cách sử dụng các từ cảm : ôi, hỡi, tôi, ta… Tác
dụng bộc lộ, biểu hiện tình cảm, thái độ đối với sự việc có liên quan. Điều này thấy
rõ nhất trong thơ trữ tình, trong tuỳ bút, trong đối thoại nội tâm của nhân vật.
Biểu cảm gián tiếp: Thông qua cách miêu tả cử chỉ, động tác, thái độ của nhân
vật và tình cảm của người viết.
Mặc dù vậy, biểu cảm trực tiếp, biểu cảm gián tiếp không đối lập nhau, không
tách rời nhau mà cần được bổ sung cho nhau để giúp cho biểu cảm sâu sắc tinh tế
hơn.
II/ YÊU CẦU CỦA ĐOẠN VĂN BIỂU CẢM
Cũng như các bài văn khác, đoạn văn trong văn biểu cảm cũng có những yêu
cầu cụ thể nhằm giúp học sinh nắm một cách khái quát về mặt hình thức cũng như
nội dung đoạn văn biểu cảm. Từ đó, các em mới có thể viết đoạn (xây dựng đoạn)
đúng với yêu cầu. Đoạn văn biểu cảm với việc nâng cao năng lực cảm thụ văn học
của học sinh là những yêu cầu, nội dung liên quan mật thiết với nhau.
Về mặt hình thức của đoạn văn :
Yêu cầu trước hết là học sinh phải nắm được dấu hiệu, qui ước khi viết đoạn
văn biểu cảm:
Đoạn văn là một phần của văn bản được tính từ chỗ viết hoa lùi đầu dòng
đến chỗ chấm xuống hàng .
Trước khi viết đoạn văn biểu cảm, giáo viên hướng dẫn cho các em tìm hiểu đề,
xác định ý và từ việc xác định được ý chính của bài mà đi đến xây dựng câu chủ đề.
Việc viết câu chủ đề đúng với ý chính đã tìm được ở trên sẽ giúp học sinh định
hướng cách lựa chọn nội dung trình bày theo cấu trúc diễn dịch, qui nạp hay các

kiểu cấu trúc khác. Đồng thời cũng định hướng cho các em lựa chọn các phép liên
kết, phương tiện liên kết, cách dùng từ ngữ cho phù hợp với cảm xúc trong bài viết
của mình.
Câu chủ đề có thể đứng ở đầu đoạn (theo cấu trúc diễn dịch), có thể đứng ở cuối
đoạn (theo cấu trúc qui nạp) v.v…Câu chủ đề phải mang nội dung khái quát, lời lẽ ngắn
gọn, hàm xúc và thường đủ hai thành phần chính của câu : chủ ngữ và vị ngữ. Các câu
còn lại trong đoạn văn có nhiệm vụ diễn giải, chứng minh, làm rõ hoặc kết luận những
cảm xúc đã thể hiện trong câu chủ đề.

Các câu trong đoạn văn biểu cảm phải được liên kết với nhau một cách chặt chẽ
bằng các phép liên kết, phương tiện liên kết, từ ngữ- câu liên kết, hoặc các mối quan
hệ phụ thuộc, không phụ thuộc giữa các đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài.
Đoạn văn phải có sự lựa chọn, sử dụng ngôn ngữ trong sáng, chuẩn mực, giàu
giá trị biểu cảm để gọi ra được cảm xúc, tình cảm của người viết, có sức thuyết
phục, lay động người đọc, người nghe. Từ ngữ ấy phải thể hiện được thái độ rõ ràng
của người viết: đó là tình cảm buồn, vui, yêu ghét, hay thích thú…Có thể biểu cảm
trực tiếp hoặc biểu cảm gián tiếp hoặc kết hợp cả hai lối biểu cảm…
Ví dụ 1 : Em thương con cò trong bài ca dao vì thân phận, vì cảnh ngộ, vì gieo
neo mà phải đi ăn đêm. Vạc mới đi ăn đêm, “ con cò mà đi ăn đêm” là một nghịch lí
đầy bi kịch. Bi kịch ấy làm ta rơi lệ khi nghe tiếng kêu thảm thiết của cò:
“Ông ơi ông vớt tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng.”
(Lê Hương Thảo, lớp 6A – Trường PTCS Thổ Trang – Vĩnh Tường – Vĩnh
Phúc Năm học 1994 – 1995)
Ví dụ 2: “ Hình ảnh người dân chài mới đẹp làm sao:
“ Dân chài lưới, làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm”
Vẻ đẹp của người lao động ở đây là vẻ đẹp khoẻ mạnh và tràn trề sức sống. Có
lẽ, biển cả vốn gần gũi thân yêu với họ đã cho họ vẻ đẹp cường tráng, đáng mến
ấy”.

(Khánh Vân– Lớp 6 Văn– Trường THCS Trần Phú– Hải Phòng–
Năm học 1993 – 1994)
Về mặt nội dung:
“Đoạn văn biểu cảm thể hiện được các năng lực: Tri giác ngôn ngữ nghệ
thuật, năng lực tưởng tượng, năng lực phân tích, chứng minh, năng lực cảm xúc
thẩm mĩ…”
(Trích: Giảng dạy Tập làm văn ở trường THCS – TS. Lê Xuân Soan – Nhà xuất
bản Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh).
Trên đây là những yêu cầu cơ bản nhất để có thể giáo viên vận dụng văn trong
nhà trường vào nghiên cứu soạn giảng Tập làm văn, đặc biệt là vận dụng vào các tiết
thực hành Tập làm văn và làm văn trong trường THCS.
III/ RÈN LUYỆN KĨ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN BIỂU CẢM
Rèn các kĩ năng làm văn nói chung và viết đoạn văn biểu cảm nói riêng không
chỉ xuất phát từ mục đích, yêu cầu của môn học (mang tính thực hành tổng hợp cao)
trong nhà trường THCS mà còn là trách nhiệm, nhiệm vụ của người thầy giáo trong
chương trình thay sách giáo khoa hiện nay. Điều quan trọng nhất khi viết đoạn văn
biểu cảm là học sinh nắm vững các thao tác, cách thức trình bày đoạn văn biểu cảm,
để từ các kĩ năng Tập làm văn phát triển thành kĩ xảo, thói quen làm văn.
Để thực hành những điều nói trên đây, chúng ta hãy thử kiểm chứng bằng một
ví dụ cụ thể sau:
Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về bài ca dao “ Đêm qua ra đứng bờ ao”:
“Đêm qua ra đứng bờ ao,
Trông cá cá lặn, trông soa sao mờ.
Buồn trông con nhện chăng tơ,
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai ?
Buồn trông chênh chếch sao mai,
Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ ?
Đêm đêm tưởng giải ngân hà,
Chuôi sao tinh đẩu đã ba năm tròn.
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn

Tào khê nước chảy hãy còn trơ trơ.”
Trên đây là một bài văn biểu cảm về một bài ca dao. Vì vậy, đề văn biểu cảm
bao giờ cũng nêu ra được đối tượng biểu cảm và định hướng tình cảm cho bài viết.
Xác định rõ các bước làm văn biểu cảm: Tìm hiểu đề, tím ý, lập dàn ý, viết các đoạn
văn mở bài, thân bài, kết bài.
Để tiến hành rèn luyện các kĩ năng Tập làm văn, trước hết học sinh phải xác
định ý cho đoạn văn.
1. Xác định ý cho bài văn biểu cảm.
Giáo viên định hướng cho học sinh xác định các vấn đề sau:
+ Đối tượng biểu cảm trong đề bài trên ?
+ Mục đích biểu cảm ?
+ Cảm xúc, tình cảm trong các trường hợp .
+ Tình cảm, cảm xúc phải chân thật, trong sáng có sức thuyết phục.
+ Lời văn, hơi văn, mạch văn phải phù hợp, gợi cảm.
Trước hết chúng ta hình dung cụ thể đối tượng biểu cảm ở đây là : Bài ca dao.
Bài ca dao ấy nói về lòng thương nhớ và tình cảm thuỷ chung của nhân vật trữ tình
khi xa quê hương.
Hình thành được cảm xúc tình cảm của mình sau khi đọc xong bài ca dao.
Lời văn, giọng văn phải bọc lộ cảm xúc, tình cảm chân thành khi đọc hiểu bài
dao: Bài ca dao thấm thía bao nỗi buồn thương tha thiết, mong chờ, nhớ trông…
Quá trình tìm hiểu đề là quá trình xác định ý cho bài văn biểu cảm. ý của bài văn
nằm ngay trong từ ngữ, hình ảnh: Đêm qua, đứng bờ ao, trông, buồn trông, buồn
trông( mức độ tăng dần), rồi: sao ơi, sao hỡi, tưởng, nhớ ba năm, Đà mòn, dạ chẳng
mòn ; trong kết cấu của bài ca dao…. Vấn đề là giáo viên tổ chức hướng dẫn như thế
nào để học sinh phát hiện ra các ý chính của bài mà đề yêu cầu. Có như vậy việc tìm ý,
triển khai ý mới trở thành kĩ năng ở các em. Tránh tình trạng khi viết đoạn lại không
trúng với ý mình đã xác lập, viết lan man, từ ngữ nghèo nàn không gọi ra được cảm
xúc, tình cảm của người viết.

Chẳng hạn theo yêu cầu của đề văn trên đây, giáo viên tổ chức cho các em xác

định được các ý chính:
+ Nỗi cô đơn, buồn vắng, chờ mong.
+ Cảnh vật với nỗi nhớ cố hương.
+ Sự gắn bó thuỷ chung của người lữ khách đối với gia đình và quê hương.
+ Nỗi lòng của nhân vật trữ tình trong bài ca dao và cảm xúc, tình cảm của
tâm hồn con người.
Như vậy, chúng ta đã xác định các ý trong bài văn biểu cảm và mỗi ý trên đây
có thể được xây dựng bằng một hoặc hai đoạn văn.
2 . Xác định câu chủ đề.
Từ những ý đã được xác định trên đây, giáo viên hướng dẫn cho học sinh tập
viết các câu chủ đề. Đây là khâu quan trọng trong việc tạo lập đoạn văn. Vì có viết
được câu chủ đề thì mới có thể triển khai ý của đoạn văn và lựa chọn nội dung trình
bày của đoạn văn.
Trước hết, chúng ta xác định câu chủ đề mang tính khái quát cho toàn bài văn:

Bài ca dao “ Đêm qua ra đứng bờ ao” diễn tả bao nỗi buồn thương nhớ, cô đơn
và lòng chung thuỷ của người lữ khách đối với quê nhà.
Ta xác định câu chủ đề cho từng đoạn văn như sau:
Câu chủ đề 1 : Tâm trạng của người lữ khách luôn lẻ loi, trống vắng, chờ trông
cứ vương vấn mãi không thôi.
Câu chủ đề 2 : Nỗi nhớ quê nhà của nhân vật trữ tình diễn ra triền miên.
Câu chủ đề 3 : Lời thơ thấm thía bao nỗi buồn thương, nhớ – tấm lòng thuỷ
chung đối với quê nhà.
Câu chủ đề 4 : Tấm lòng thuỷ chung toả sáng trong bài ca và tâm hồn con người.
Từ đó, giáo viên định hướng cho các em viết các đoạn văn bằng việc lựa chọn
các phép liên kết, phương tiện liên kết, từ ngữ liên kết v.v
3. Liên kết đoạn văn và cách dùng từ, ngữ khi xây dựng đoạn văn.
Cũng như các kiểu văn bản khác, bài văn biểu cảm là một thể thống nhất về
hình thức, hoàn chỉnh về nội dung. Trong đó, đoạn văn có một vai trò hết sức quan
trọng trong việc cấu thành một văn bản biểu cảm hoàn chỉnh. Vì vậy, các câu, các

đoạn trong văn bản phải liên kết với nhau một cách chặt chẽ.
Rèn kĩ năng viết đoạn văn và việc sử dụng các cách liên kết là một thao tác
không thể thiếu được. Các đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài có thể được viết theo
các cách như sau.
4 . Cách viết đoạn văn biểu cảm.
Trước hết, giáo viên hướng dẫn học sinh nắm một cách khái quát yêu cầu của
các đoạn văn mở bài, đoạn văn thân bài, đoạn văn kết bài.
Đoạn văn mở bài : Khái quát được cảm xúc, tình cảm của người viết khi đọc bài
ca dao “ Đêm qua ra đứng bờ ao”, nêu lên những ấn tượng sâu sắc nhất của mình.
Đoạn thân bài : Triển khai mạch cảm xúc, tình cảm của người viết bằng việc sử
dụng những từ ngữ gợi cảm xúc, tình cảm. Lần lượt nêu lên những suy nghĩ của riêng
mình về những khía cạnh của tác phẩm. Không lan man, dàn đều mà nên xoáy sâu vào
các trọng tâm, trọng điểm. Phải đi “a” qua “b, c, d”.

Đoạn kết bài : Nêu lên những cảm nghĩ chung, có thể đánh giá và liên hệ. Tránh
dài dòng, trùng lặp, đơn điệu.
Thao tác cơ bản : Phát biểu cảm nghĩ không thể nói chung chung mà rất cụ thể.
Phải chỉ ra được yêu thích, thú vị… ở chỗ nào, tại sao lại yêu thích, thú vị? Nghĩa là
phải phân tích, trích dẫn.
Có lúc phải khen chê. Khen, chê chính là viết lời bình. Giáo viên qua những bài
giảng cụ thể, qua việc hướng dẫn đọc sách sẽ giúp các em làm quen dần cách bình
văn, biến thành kĩ năng, kĩ xảo. Lúc nào viết được lời bình hay, sâu sắc thì bài cảm
nghĩ mới thực sự mang vẻ đẹp trí tuệ.
Có lúc phải biết liên tưởng so sánh. Từ hiện tượng này mà nghĩ, mà nhớ đến
hiện tượng khác tức là liên tưởng.
Viết lời bình, so sánh, liên tưởng là thao tác cơ bản trong văn biểu cảm.
4.1.Cách viết đoạn mở bài trong văn biểu cảm.
Trước hết phải nói rằng mở bài hay nhất, biểu cảm hay nhất là đạt hai yêu cầu
sau:
Tính khái quát.

Tính định hướng.
Từ đó, ta có thể trình bày một đoạn văn mẫu (đoạn mở bài) để học sinh học tập,
bắt chước(bắt chước nhưng không ghi chép nguyên mẫu), rồi vận dụng cách bài ấy
cho bài của mình.
Chẳng hạn, khi viết đoạn văn mở bài cho đề bài trên ta có thể viết như sau:
Từ lúc lọt lòng, khi còn nằm trên nôi, ta đã được nghe những lời ru ngọt ngào,
xúc động của bà, của mẹ: à ơi, “ Anh đi anh nhớ quê nhà ”. Lời ru ấy cứ giăng mắc
mãi lòng ta. Bài ca dao “ Đêm qua ra đứng bờ ao ” còn là một kỉ niệm không phai
mờ trong tâm trí tôi từ thuở bé thơ. Lớn lên, tôi vẫn thường ru em như thế:
“Đêm qua ra đứng bờ ao,
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ.
Buồn trông con nhện chăng tơ,
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai ?
Buồn trông chênh chếch sao mai,
Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ ?
Đêm đêm tưởng giải ngân hà,
Chuôi sao tinh đẩu đã ba năm tròn.
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Tào khê nước chảy hãy còn trơ trơ.”
Đoạn văn trên được viết theo lối biểu cảm trực tiếp: biểu lộ cảm xúc, tình cảm
của người viết thông qua việc sử dụng các từ ngữ: ta đã được nghe… không phai mờ
trong tâm trí tôi từ thuở bé thơ…
4.2. Cách viết đoạn thân bài
Quá trình viết đoạn văn thân bài, giáo viên lưu ý học sinh: Giọng văn, hơi văn
biểu cảm không gò bó, khô khan, đảm bảo được các yêu cầu diễn đạt, dùng từ, đặt
câu, lựa chọn các đặc điểm, nội dung trình bày của đoạn văn. Nghĩa là tuỳ thuộc vào
mạch cảm xúc của người viết mà có cách lựa chọn cho thích hợp.
Từ đề bài trên đây, ta có thể viết các đoạn văn thân bài như sau( lưu ý mỗi đoạn
văn được viết ra phải xuất phát từ các ý đã tìm được ở phần trên).
Đoạn văn 1 : Thao thức, lẻ loi, chỉ biết ra đứng bờ ao, nơi vắng vẻ ở cuối sân,

ngõ sau hay bờ ao. Cứ trông gần, trông xa, nhưng nào thấy, vì “cá lặn, sao mờ” tự
bao giờ. Các điệp từ ( trông, cá, sao ) gợi lên trong lòng lữ khách sự buồn vắng, chơi
vơi…
“ Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ”
Nỗi niềm ấy mới chỉ diễn ra “đêm qua” , còn đầy vơi trong lòng. Giữa đêm
khuya trống vắng, không một người thân thương, chỉ còn biết “buồn trông” và khẽ
thốt lên:
“Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi, nhện hỡi nhện chờ mối ai ?”
Nhện cỏn con bé tí. Nhện sao thấu hiểu nỗi buồn nhớ cô đơn của kẻ xa quê
hương. Đêm đã về khuya, sao mai đã “chênh chếch” nằm nghiêng nghiêng trên bầu
trời. Rồi “sao mờ” sắp tàn canh. Vẫn chỉ một mình li khách cô đơn và trơ trọi.
Lại “buồn trông” lên bầu trời, khi hỏi “sao mai” để trang trải lòng mình:
“ Buồn trông chênh chếch sao mai,
Sao ơi, sao hỡi nhớ ai sao mờ ? ”
Nỗi buồn nhớ quê hương, người thân không sao kể xiết ! Sau lời cảm thán
“nhện ơi, nhện hỡi?” , “sao ơi, sao hỡi?” là những tiếng khẽ thở dài, cất lên, những
giọt lệ rưng rưng rơi xuống. Đó là tâm trạng lẻ loi, trống vắng, chờ trông cứ
vương vấn mãi không thôi.
Câu in đậm trong đoạn văn trên là câu chủ đề (còn gọi là câu chốt) đứng ở vị trí
cuối đoạn có tác dụng khái quát cảm xúc tâm trạng của người lữ khách được diễn
giải ở các câu trên. Câu chốt này chính là câu chủ đề mà ta đã xác định ở phần trên.
Đoạnvăn 2 :
Nỗi nhớ quê nhà của nhân vật trữ tình cứ diễn ra triền miên . Không chỉ
mới “đêm qua” mà diễn ra trong “đêm đêm” . Không chỉ một tháng, một năm mà là
đã “ba năm tròn” , một thời gian dài. Không chỉ “buồn trông” mà là “tưởng”, là “
nhớ” , day dứt triền miên, không nguôi. Chữ " tưởng " là một nét tâm trạng buồn nhớ,
ngóng trông vô cùng da diết:
“Đêm đêm tưởng dải Ngân Hà

Chuôi sao Tinh Đẩu đã ba năm rồi”.
Đến đoạn văn này câu chủ đề lại đặt ở đầu đoạn để nêu lên “nỗi nhớ” mang tính
khái quát nhất, hàm xúc nhất cho toàn đoạn văn.
Đoạn văn thứ ba :
Hai câu cuối là hình ảnh tương phản rất đặc sắc: “đá mòn” với “dạ chẳng
mòn” :
“Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Tào khê nước chảy hãy còn trơ trơ.”
Lời thơ thấm thía bao nỗi buồn thương nhớ và cô đơn - đó là tấm lòng
thương nhớ, thuỷ chung đối với quê nhà.
Như vậy, mô hình cơ bản của đoạn văn biểu cảm là diễn dịch và qui nạp. Nó
phù hợp với mạch cảm xúc, tình cảm của người viết. Luyện viết đoạn văn biểu cảm
ở yêu cầu không khó khăn lắm là như cách trình bày trên. Tuy nhiên, để viết được
đoạn văn theo các cách trên, thì người viết phải bám sát các ý của bài, rồi luyện viết
với từng ý chính đã được xác định và các câu chủ đề đã được xác lập ban đầu.
4.3.Cách viết đoạn văn kết bài.
Đoạn văn kết bài nêu lên cảm nghĩ chung, có thể đánh giá và liên hệ. Vì vậy, để
có được một bài văn hoàn chỉnh không thể không viết đoạn kết bài.
Từ câu chủ đề đã xác định được như ở trên, ta có thể viết đoạn văn kết bài như
sau:
Ca dao là một tấm lòng. “Tào Khê nước chảy hãy còn trơ trơ” là tấm lòng của
nhân dân, của những ai xa gần, của ông tôi, bà tôi, mẹ tôi, chị em tôi… Tấm lòng
son sắt thuỷ chung đối với gia đình, quê hương luôn toả sáng trong bài ca dao và tâm
hồn con người.
Tóm lại , rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn trong bài văn biểu cảm là thực hiện
các thao tác tìm hiểu đề, tìm ý, xây dựng câu chủ đề- để từ đó định hướng cho việc
xây đựng từng đoạn văn. Cứ tập đi tập lại như thế ta sẽ thành thạo. Không phải chỉ
thành thạo dựng đoạn độc lập mà thành thạo và nhạy cảm trong dựng đoạn của bài
văn biểu cảm. Từ việc “Tập làm” đến việc “làm văn” là một quá trình đi từ việc rèn
luyện kĩ năng cần thiết đến kĩ xảo (thói quen, thành thạo)– Không khó nhưng cũng

không đơn giản chút nào nếu cả thầy và trò không chuyên tâm và không yêu thiết
tha một tác phẩm văn học.
Và thao tác cuối cùng trong một giờ luyện viết đoạn văn là : Luyện “nhận xét
văn người, sửa văn mình”.
Một số cách luyện tập viết văn biểu cảm ở đây không phải là tất cả nhưng là
cách cơ bản, chúng ta nên cố gắng thực hành. Trước khi thực hành đề bài các em
đọc kĩ phần dẫn giải, miêu tả về các cách ấy, tiếp nhận về mặt lí thuyết rồi bắt tay
vào làm theo sáng tạo.
Trong khâu tiến hành nếu thấy có gì chưa hợp lí với mình thì cần có sự điều
chỉnh hoặc sáng tạo thêm.
C/ TIẾN HÀNH THỰC NGHIỆM
Để kiểm chứng kĩ năng viết đoạn văn biểu cảm của học sinh tôi tiến hành các
bước thực nghiệm sau:
- Chọn đối tượng học sinh đại trà ở hai lớp: 7A và 7C (Đủ 3 đối tượng: giỏi,
khá, TB, yếu).
- Về cơ sở vật chất: Phòng học thông thoáng, có đủ bàn ghế, điện lưới để phục
vụ Dạy - Học.
- Sự chuấn bị của giáo viên ở 2 lớp:
+ Ở lớp 7A: Chúng tôi tổ chức ôn tập các đơn vị kiến thức về kiểu loại biểu
cảm.
+ Ở lớp 7C: Chúng tôi tổ chức cho các em rèn luyện cách viết các đoạn văn
Biểu cảm.
- Sự chuẩn bị của học sinh:
+ Sách giáo khoa, vở ghi, vở nháp, vở bài bập, các tài liệu có liên quan đến bài
học: Cách cảm thụ các dạng Tập làm văn - Lớp 6,7
- Về thời gian: Dạy - Học 3 tiết/lớp. Bố trí học 2 buổi chiều (Ngoài giờ học
chính khoá).
- Ra đề: Yêu cầu của đề bài phải mang tính vừa sức, tính khoa học, chính xác,
phù hợp với đối tượng học sinh lớp 7.
Đề bài1: Cảm nhận của em sau khi đọc bài thơ "Cảnh khuya" của Hồ Chí Minh.

(Lớp 7A)
Đề bài2: Cảm nhận của em về bài thơ "Rằm tháng giêng" của Hồ Chí Minh.
(Lớp 7C)
* QUI TRÌNH DẠY - HỌC
Ở LỚP 7A - CHÚNG TÔI THỰC HIỆN CÁC BƯỚC SAU:
Hoạt động 1 : Khởi động bằng việc kiểm tra sự chuẩn bị ở nhà của các em và
GV chọn một bài văn biểu cảm cho HS đọc trước lớp rồi xác định các phần trong bài
làm của người viết - Trình bày các ý chính trong mỗi phần: Mở bài, Thân bài, kết
bài.
Hoạt động 2 : GV tổ chức cho HS ôn tập các đơn vị kiến thức đã học về văn
Biểu cảm. Cụ thể:
I/ Khái niệm văn Biểu cảm.
II/ Đặc điểm của văn Biểu cảm.
III/ Các yêu cầu khi làm bài văn Biểu cảm.
Hoạt động 3 : GV tổ chức cho người học viết các đoạn văn biểu cảm theo yêu
cầu của người dạy. Đối tượng biểu cảm là một số tác phẩm thơ, hoặc đoạn thơ.
Hoạt động 4 : GV cho lớp tiến hành thảo luận và nhận xét, đánh giá các đoạn
văn của HS.
Hoạt động 5 : GV củng cố kiến thức và tiến hành khảo sát bằng đề bài sau:
Cảm nhận của em về bài thơ "Rằm tháng giêng" của Hồ Chí minh.
Hoạt động 6: GV thu bài và dặn dò HS.
Ở LỚP 7C - CHÚNG TÔI THỰC HIỆN CÁC BƯỚC SAU:
Hoạt động 1: GV tổ chức cho HS nắm lại các đơn vị kiến thức sau:
I/ Khái niệm văn Biểu cảm.
II/ Đặc điểm của văn Biểu cảm.
III/ Các yêu cầu khi làm bài văn Biểu cảm.
Hoạt động 2: Tổ chức rèn luyện các kĩ năng viết đoạn văn biểu cảm:
1. Xác định ý cho bài văn Biểu cảm.
2. Xác câu chủ đề cho mỗi đoạn văn.
3. Liên kết đoạn văn và cách dùng từ ngữ khi xây dựng đoạn văn.

4. Cách viết đoạn văn Biểu cảm :
4.1. Cách viết đoạn văn Mở bài.
4.2 .Cách viết đoạn văn Thân bài.
4.3. Cách viết đoạn văn Kết bài.
Hoạt động 3: GV củng cố cách viết đoạn văn Biểu cảm và tiến hành khảo sát
bằng đề bài sau:
Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ "Rằm tháng giêng" của Hồ Chí Minh.
Hoạt động 4: GV thu bài và dặn dò HS.
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC NHƯ SAU
Phân
loại
Lớp
Giỏi Khá Trung bình yếu, kém
SL % SL % SL % SL %
7A = 35 0 0 2 5.7 13 37.3 20 57
7C = 37 3 8 11 29 15 41 8 22
Nhận xét chung qua 2 kết quả trên
Qua quá trình Dạy - Học và tiến hành khảo sát thực nghiệm theo phương pháp
tích cực, chúng tôi nhận thấy một số điểm sau:
Đối với việc tổ chức Dạy - Học ở lớp 7A - khi chưa vận dụng triệt để phương
pháp tích cực theo chuyên đề thay SGK THCS và các bước tiến hành như đã trình
bầy trên đây chúng ta thấy: Số bài khá, giỏi chiểm tỉ lệ quá thấp. Số bài điểm yếu,
kém vẫn chiếm tỉ lệ lệ cao.
Rõ ràng nếu không có sự nghiên cứu, đầu tư các cách dạy học, ôn luyện cho HS
thì hiệu quả thực hành viết đoạn văn trong văn bản của các em là rất thấp. Nếu
không tổ chức các buổi ôn tập một cách bài bản, khoa học đúng theo phương pháp
đổi mới thì sẽ tạo cho các em sự hứng thú, say mê, tích cực trong giờ làm văn.
Ngược lại khi đã vận dụng triệt để các bước dạy học làm văn (như đã thực hiện
ở lớp 7C) thì học sinh hoàn toàn chủ động tìm hiểu, chiếm lĩnh kiến thức và vận
dụng các kĩ năng làm văn vào quá trình xây dựng đoạn văn - tạo lập văn bản. Và tất

yếu HS sẽ thích học phân môn TLV. Hiệu quả dạy học sẽ cao hơn.
Qua đây chúng ta thấy: Thời lượng giành cho luyện tập viết đoạn văn trong tiết
dạy chính khoá là quá ít. Vì vậy, HS chưa được rèn luyện nhiều để viết đoạn, tạo lập
văn bản.
Điều cốt lõi là làm sao đó trên mỗi trang giáo án, mỗi tiết dạy học thực hành –
rèn kĩ năng làm văn cho học sinh đều thể hiện tính nghiêm túc của người dạy và
những nét tình cảm nghề nghiệp, tình yêu con trẻ, những dấu ấn cảm xúc cá nhân
trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu, soạn giảng.
* MỘT VÀI ĐOẠN VĂN TIÊU BIỂU:
1.
“Trăng bao nhiêu tuổi trăng già,
Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non ?
Trăng bao nhiêu tuổi trăng tròn
Núi bao nhiêu tuổi núi còn trơ trơ ?"
( Ca dao)
Bài ca dao “ Trăng bao nhiêu tuổi trăng già”, được viết bằng thơ lục bát và
câu hỏi tu từ . Trăng và núi là hai ẩn dụ. Sự đối đáp ở đây không phải là câu đố về
thiên nhiên ( núi, trăng) như có người đã nhầm tưởng. Mà sự giao, ướm hỏi ( ướm
duyên) rất tình tứ, tế nhị của trai gái làng quê ngày xưa. Mộtk cách tỏ tình rất
duyên dáng và biểu cảm.
2.
“Trưa về đến sau đồi
Gọi con như mọi bận
Mà không nghe trả lời
Thì mẹ ơi đừng giận
Nhìn vở bài toán đố
Con làm còn dở dang
Bỏ quên bên cửa sổ
Đừng bảo con không ngoan
Sân nhà đầy lá rụng

Mẹ đừng trách con lười
Thấy áo con đẫm máu
Mẹ đừng khóc mẹ ơi !
Giặc mĩ nó nhằm con
Mà bắn vào tim mẹ
Đừng khóc con mẹ nhé
Khóc sao hả căm thù ”.
( Nguyễn Lê)
Bài thơ “Mẹ” của Nguyễn Lê nói lên nỗi đau đớn và cà căm thù của người
mẹ có đứa con ngoan bị máy bay Mĩ bắn chết . Vở bài toán đố còn dở dang con để
lại bên cửa sổ; Chiếc áo đẫm máu của con… như những vật kí thác đau thương.
Hồn con hiện về nói với mẹ, an ủi mẹ. Con vốn rất ngoan ngoãn, nhưng nay con
không thể nào quét sân giúp mẹ được nữa rồi…Giặc mĩ băn chêt con là chúng nó đã
băn vào tim mẹ. “Đừng khóc con mẹ nhé”, vì khóc con “ sao hả căm thù” mẹ ơi !
Một tứ thơ rất độc đáo nói lên nỗi lòng đau thương con và căm thù giặc Mĩ của bà
mẹ Việt Nam. Nhà biểu lộ niềm cảm thương đau đớn đối với những em thơ gần xa
đã bị giặc Mĩ giết hại một cách tàn ác.
3.
“ Bão bùng thân bọc lấy thân,
Tay ôm, tay níu, tre gần nhau thêm”.
Đấy là hai câu thơ đặc sắc nhất trong bài “ Tre Việt Nam” của Nguyễn Duy.
Tre không chỉ là vẻ đẹp thân mật của làng quê Việt Nam mà là biểu tượng cho
những phẩm chất cao quý của người dân Việt Nam. Cũng như tre gắn bó với nhau
“ nên luỹ, nên thành”, người dân cày Việt Nam, trong “bão bùng”, gian khổ, biết
yêu thương đoàn kết che chở nhau “ thân bọc lấy thân”, bảo vệ nhau “ tay ôm tay
níu” để cùng tồn tại, phát triển trong hạnh phúc. Điệp từ làm cho ý thơ được nhấn
mạnh, giọng thơ êm ái nhịp nhàng, gợi cảm. Niềm thương mến và tự hào của tác
giả được diễn tả trong một vần thơ hàm súc, hình tượng và truyền cảm sâu sắc.
4 Đêm đã về khuya, không gian yên tĩnh. chỉ có suối trong thanh như tiếng hát
từ xa vọng lại. Trăng sáng vằng vặc ôm trùm những ngọn cây. Bóng hoa in trên mặt

đất tạo nên những chùm hoa lung linh. Giữa cảnh khuya lộng lẫy yêu kiều ấy có một
người chưa ngủ, đó là Bác kính yêu. Bác chưa ngủ không phải để ngắm cảnh đẹp
mà vì lòng còn nặng nỗi lo toan việc nước…”.
5.
"Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
Ngọn lửa “ chờn vờn sương sớm” là ngọn lửa thực trong lòng bếp, bập bùng
nhen lên mỗi sớm mai. Nhưng ngọn lửa “ ấp iu nồng đượm” là ngọn lửa của tình bà
chăm sóc cưu mang theo trình tự thơ, ngọn lửa chập chờn, bập bùng, hình tượng
thơ cứ tỏ dần, tỏ dần: Bên bếp lửa là dáng hình của bà qua nắng mưa, năm
tháng.
( Bài làm của học sinh)
PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT

×