Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

SKKN nghiên cứu tìm ra những phương pháp để dạy tốt một bài ôn tập Tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.33 KB, 26 trang )

ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY VÀ HỌC TÍCH CỰC VÀO DẠY
TIẾT ÔN TẬP TIẾNG VIỆT
Lời nói đầu
Như chúng ta đã biết nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục
trong thời kì đổi mới là nhằm xây dựng, đào tạo những con người, những thế
hệ có năng lực tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Phát huy tiềm
năng dân tộc và tính tích cực cá nhân làm chủ tri thức, có kĩ năng thực hành
giỏi, có tư duy sáng tạo, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức, tính kỉ
luật, sức khỏe để xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thực hiện công nghiệp hóa và
hiện đại hóa đất nước.
Để đạt được nhiệm vụ trên thì giáo dục phải được coi là nhiệm vụ của
toàn đảng, toàn dân, toàn xã hội, trong đó nhà trường giữ vai trò quan trọng
nhất.
Với nhà trường phổ thông ngoài việc trang bị cho học sinh những tri thức,
phẩm chất của người lao động mới còn phải trang bị cho các em tình yêu
thương, tinh thần hợp tác, đoàn kết và lòng nhân ái. Trong đó việc trang bị
cho HS những tri thức khoa học cũng là một nhiệm vụ cơ bản vì tri thức là
chìa khóa mở cửa cho tất cả các bộ môn khoa học.
Mỗi môn học trong nhà trường đều có đặc thù riêng, một phương pháp
nhận thức. Đặc điểm bộ môn và phương pháp nhận thức có nghĩa hết sức
quan trọng trong quá trình tìm tòi và thiết kế những giải pháp dạy và học bộ
môn.
Đối với môn nhữ văn : Là một môn học có vị trí đặc biệt trong việc thực
hiện mục tiêu chung của nhà trường THCS . Góp phần hình thành con người
có ý thức tu dưỡng, biết yêu thương, quý trọng gia đình, bạn bè, có lòng yêu
nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp
như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái
sấu cái ác. Bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mĩ trong
nghệ thuật, trước hết là trong văn học, có năng lực thực hành và năng lực sử
dụng tiếng việt như một công cụ để tư duy và giao tiếp.


Qua nghiên cứu tài liệu và thực tế giảng dạy tôi mạnh dạn đưa ra một số
phương pháp để dạy tốt một tiết ôn tập Tiếng Việt. Đề tài này cũng mới chỉ là
ý kiến chủ quan của cá nhân tôi chắc chắn có nhiều thiếu sót. Tôi rất mong
nhận được các ý kiến góp ý của cấp trên và đồng nghiệp để đề tài được hoàn
thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
I. PHẦN MỞ ĐẦU
I.1. Lý do chọn đề tài
Bộ môn Ngữ văn nói chung, phân môn Tiếng Việt nói riêng là bộ môn
quan trọng trong hệ thống chương trình giảng dạy ở trường THCS. Nó cung
cấp cho học sinh vốn ngôn ngữ. Một công cụ giáo tiếp giúp cho học sinh nói
đúng viết đúng tiến tới nói hay và viết hay tiếng Việt.
Mặt khác dạy Tiếng Việt là dạy tiếng mẹ đẻ, giúp các em thêm hiểu và và
yêu tiếng mẹ đẻ.
Với phân môn Tiếng Việt nội dung dạy học có khá nhiều vấn đề mới
không chỉ cung cấp kiến thức, cung cấp vốn từ để học sinh có thể dùng từ
viết câu và tiên kết câu trong văn bản mà còn có khả năng vận dụng rộng rãi
trong việc phân tích văn bản trong phân môn Văn và phân môn Tập làm văn.
Chương trình Ngữ văn 9 giành một thời lượng cho các phần ôn tập, tổng
kết, tổng kết,kiểm tra không chỉ ôn tập phần tổng kết những vấn đề ôn tập
của lớp 9 mà của cả cấp học, ở học kì I, về tiếng việt số tiết ôn tập, tổng kết
và kiểm tra gần bằng số tiết học bài mới. Phối hợp một cách hợp lí có hiệu
quả việc ôn tập tổng kết và cung cấp kiến thức mới là một đòi hỏi khắt khe
đối với việc tổ chức dạy- học Ngữ văn 9 ( cuối bậc THCS, cuối kì II của
chương trình thay sách)
Với phạm vi chương trình này tôi xin đề cập đến việc: nghiên cứu tìm ra
những phương pháp để dạy tốt một bài ôn tập Tiếng Việt cho học sinh THCS
nói chung và học sinh lớp 9 nói riêng. Dạy là vấn đề nan giải mà trong quá
2
trình ôn tập ( giảng dạy ) chúng tôi đã gặp phải rất nhiều khó khăn cả về phía

giáo viên và học sinh.
I.1.1. Cơ sở lí luận:
Trong sách lý luận dạy và học có nhiều định nghĩa khác nhau về phương
pháp dạy học( PPDH) mỗi định nghĩa nhấn mạnh một vài khía cạnh nào đó
phản ánh sự phát triển nhận thức của các nhà khoa học, các nhà sư phạm về
bản chất của khái niệm PPDH ở một thời kỳ khác nhau.
Hiện nay toàn nghành Giáo dục và đào tạo đang nỗ lực đổi mới PPDH
theo hướng phát huy tính tích cực của HS trong hoạt động học tập, theo tôi
định nghĩa sau được xem là phù hợp: " Phương pháp dạy học là cách thức
hoạt động của giáo viên trong chỉ đạo, tổ chức các hoạt động học tập nhằm
giúp HS chủ động đạt các mục tiêu dạy học."
Trong tiến trình một tiết dạy thì nội dung và phương pháp dạy học bao
giờ cũng gắn bó với nhau mỗi nội dung đòi hỏi một phương pháp
thích hợp. Các kĩ năng giao tiếp không thể được hình thành và phát
triển bằng con đường truyền giảng thụ động. Muốn phát triển kĩ năng này học
sinh phải được hoạt động trong môi trường giao tiếp dưới sự hướng dẫn của
thầy (cô).Các kiến thức về ngôn ngữ văn học, văn hóa xã
hội có thể được tiếp thu qua lời giảng, học sinh chỉ làm chủ được kiến thức
khi các em chiếm lĩnh chúng bằng chính hoạt động có ý thức của mình. Cũng
như vậy những tư tưởng tình cảm nhân cách tốt đẹp có thể được hình thành
chắc chắn thông qua sự rèn luyện, thông qua thực tế
( học đi đôi với hành ,lí thuyết gắn với bài tập luyện tập). Đó là những lí do
cắt nghĩa sự ra đời của phương pháp dạy học mới. Phương pháp tích cực hóa
hoạt động của người học: lấy học sinh làm trung tâm trong đó giáo viên là
người tổ chức hoạt động của học sinh, mỗi học sinh đều được tham gia hoạt
động, đều được bộc lộ mình và phát triển rèn luyện
I.1.2. Cơ sở thực tiễn:
Nghị quyết TW 4 khóa VII/1993 đã đề ra nhiệm vụ " đổi mới phương
pháp dạy học ở tất cả các cấp học bậc học " Nghị quyết TW2 khóaVII ( 12-
1996)nhận định : Phương pháp giáo dục đào tạo chậm được đổi mới, chưa

phát huy được tính tích cưc, chủ động sáng tạo của người học"
3
Trong những năm gần đây các trường THCS đã xuất hiện ngày càng
nhiều tiết dạy tốt áp dụng một số phương tiện dạy học hiện đại như dạy học
bằng công nghệ thông tin, phát huy được tính tích cực, chủ động chiếm lĩnh
trí thức của học sinh. Tuy nhiên vẵn còn không ít trường hợp dạy theo
phương pháp thầy đọc trò chép hoặc giảng giải xen kẽ vấn đáp. Đứng trước
một tiết ôn tập giáo viên ngữ văn thường hay mắc phải sai sót về thời gian
cho tiết học tức là chưa xác định được thời gian giành cho lý thuyết và vận
dụng cho học sinh thực hành là bao nhiêu. Trong khi đó thời gian thì hạn hẹp,
kết quả là học sinh chỉ học một cách thụ động như vậy đi ngược với phương
pháp đổi mới dạy học hiện nay.
Nguyên nhân:
- Học sinh vẫn quen lối học thụ động ( đối với học sinh lớp 6 ), gây khó
khăn cho việc áp dụng phương pháp mới vào dạy học.
- Nhiều giáo viên còn lúng túng khi vận dụng phương pháp mớivào bài
dạy.
- Đối với tiết ôn tập GVchưa áp dụng được nhiều phương pháp dạy học có
sáng tạo, linh hoạt, kích thích để các em phát triển tư duyvà ngôn ngữ trau rồi
vốn tiếng việt.
Vậy làm thế nào để có một tiết ôn tập Tiếng việt đạt hiệu quả đó là vấn
đề mà rất nhiều giáo viên Ngữ văn quan tâm.
I.2.Mục đích nghiên cứu:
Dạy bài ôn tập Tiếng Việt mục đích là:
- Hệ thống hóa kiến thức tiếng Việt đã học trong học kì I( hoặc học kì II)
của các lớp.
- Kết hợp với các bài tập làm văn và các văn bản văn đã học để rèn luyện
các kĩ năng tổng hợp về sử dụng tiếng Việt trong nói và viết.
I.3.Thời gian- địa điểm:
I.3.1. Thời gian:

Thời gian thực hiện đề tài trong năm học trên cơ sở của những tiết ôn tập
cụ thể ( ôn tập tiếng Việt 9)
I.3.2. Địa điểm:

4
I.3.3. Phạm vi đề tài:
Một số phương pháp dạy tiết ôn tập Tiếng việt nói chung và tiết ôn
tập Tiếng Việt 9 nói riêng.
I.3.3.1 Giới hạn đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: HS - THCS
I.3.3.2. Giới hạn về địa bàn nghiên cứu
Nơi nghiên cứu trường THCS Tiên Lãng- Tiên yên- QN
I.3.3.3. Giới hạn về khách thể khảo sát
Đối tượng là học sinh lớp 9
I.4. Đóng góp mới về mặt lý luận, về mặt thực tiễn:

II. PHẦN NỘI DUNG
II.1. Chương 1: Tổng quan
Môn Ngữ văn nói chung và phân môn Tiếng việt nói riêng là phân môn
quan trọng trong hệ thống chương trìng giảng dạy ở trường
THCS. Nó cung cấp cho học sinh vốn ngôn ngữ, một công cụ giao tiếp giúp
học sinh nói đúng viết đúng tiến tới nói hay, viết hay Tiếng việt. Mặt khác
dạy Tiếng việt là dạy tiếng mẹ đẻ, giúp các em thêm hiểu và yêu tiếng mẹ đẻ.
Phần Tiếng việt nội dung dạy học có khá nhiều vấn đề mới không chỉ
cung cấp kiến thức, cung cấp vốn từ để học sinh có thể dùng từ viết câu và
liên kết câu trong văn bản mà còn có khả năng vận dụng rông rãi trong việc
phân tích văn bản trong phân môn văn và phân môn Tập làm văn.
Chương trình Ngữ văn 9 giành một thời lượng khá nhiều cho các phần
ôn tập, tổng kết. Không chỉ ôn tập tổng kết những nội dung học ở lớp 9 mà
của cả cấp học, ở học kì I,về Tiếng việt số tiết ôn tập, tổng kết và kiểm tra

gần bằng số tiết học bài mới. Phối hợp một cách hợp lý có hiệu quả việc ôn
tập tổng kết và cung cấp kiến thức mới là một đời hởi khắt khe đối với việc tổ
chức dạy- học Ngữ văn 9 . Với phạm vi chương trình này tôi xin đề cập đến
việc "Vận dụng phương pháp đổi mới vào dạy một giờ ôn tập Tiếng việt"cho
HS THCS nói chung và HS lớp 9 nói riêng. Đây là một vấn đề nan giải mà
trong quá trình ôn tập ( giảng dạy) chúng tôi đã gặp và giải quyết.
5
II.1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu



II.1.2. Cơ sở lý luận:
* Phương pháp tích cực là gì ?
Phương pháp tích cực ( PPTC )
-PPTC hướng tới hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của
người học.
- Tích cực hóa trong hoạt động học tập liên quan trước hết đến động cơ
học tập. Động cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú đúng là tiền đề của tự giác.
Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tâm lý tính tích cực. Tính tích cực sản sinh
ra nếp tư duy độc lập.Suy nghĩ đọc lập là mầm mống của sáng tạo. Ngược lại
phong cách học tập tích cực độc lập sáng tạo sẽ phát triển tự giác, hứng thú
bồi dưỡng động cơ học tập.
- Tính tích cực học tập biểu hiện ở những dấu hiệu : Hăng hái trả lời các câu
hỏi của giáo viên( GV), bổ sung các câu hỏi của bạn, thích phát biểu ý kiến
của mình trước vấn đề đề ra, hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích căn kẽ
những vấn đề chưa rõ, chủ động vận dụng kiến thức kỹ năng đòi hỏi để nhận
thức vấn đề mới. Tập chung chú ý vào những vấn đề đang học, kiên trì hoàn
thành bài tập, không nản trước những tình huống khó khăn.
- Tính tích cực học tập đạt được những cấp độ từ thấp đến cao:
+ Bắt trước gắng sức làm theo mẫu hành động của thầy của bạn.

+ Tìm tòi động lập suy nghĩ giải quyết vấn đề nêu tìm kiếm những cách giải
quyết khác nhau về một vấn đề.
+Sáng tạo: Tìm ra cách giải quyết mới, độc lập, hữu hiệu.
*Dạy và học tích cực là thế nào?
+ Hướng dạy và học tích cực
- Thực hiện dạy và học có nghĩa là gạt bỏ các phương pháp dạy học
(PPDH) truyền thống. Trong hệ thống các PPDHquen thuộc chỉ rõ : Về mặt
nhận thức thì các phương pháp thực hành là tích cực hơn các phương pháp
trực quan, phương pháp trực quan thì tích cực hơn phương pháp dùng lời.
6
- Nhóm phương pháp dùng lời thì lời (của thầy, của trò, của sách) đóng vai
trò là nguồn " tri thức chủ yếu " đặc biệt quan trọng là lời của thầy. Trong các
phương pháp dùng lời, ngay cả phương pháp tập chung vào cho GV như
thuyết trình trần thuật, giảng giải, bình luận vẫn rất cần thiết. Các phương
pháp vấn đáp làm việc với sách đều có nhiều thuận lợi để phát huy tính tíc
cực của người học.
- Trong nhóm các phương tiện trực quan thì phương tiện trực quan được sử
dụng như là " nguồn " chủ yếu dẫn đến kiến thức mới, lời của thầy đóng vai
trò tổ chức, hướng dẫn tri giác các tài liệu trực quan ( biểu mẫu tranh ảnh,
băng hình )
- Trong nhóm thực hành, học sinh trực tiếp thao tác trên các đối tượng thực
hành ( vấn đề khía cạnh, vấn đề bài tập )
+ Các phương pháp tích cực cần được phát triển ở trường phổ thông :
- Vấn đáp, tìm tòi.
- Đặt và giải quyết vấn đề.
- Dạy học theo nhóm.
+ Đặc trưng của phương pháp tích cực:
- Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động của học sinh.
- Chú trong rèn luyện phương pháp tự học
- Tăng cường học tập cá thể với phối hợp học tập hợp tác.

- Kết hợp sự đánh giá của giáo viên và tự đánh giá của học sinh.
Kết luận chương 1




II.2. Chương 2: Nội dung vấn đề nghiên cứu:
II.2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu :
+ Nhiệm vụ về lý luận
Trong hệ thống trương trình Tiếng Việt 6,7,8,9 tiết ôn tập chiếm một vị
trí không nhỏ theo chúng tôi đây là những tiết học vô cùng quan trọng. Ôn
tập Tiếng Việt tức là giúp học sinh hệ thống hóa toàn bộ kiến thức đã học
7
một học kì, cả năm học hay liên cấp học. Nói như vậy có thể coi giờ học ôn
tập là một giờ củng cố, khắc sâu kiến thức Tiếng Việt lần 2, thông qua đó học
sinh tự đánh giá kiến thức của mình và chuẩn bị tốt cho kì thi I+ II và cả năm
học.
Về cấu trúc chương trình : thời lượng giành cho tiết ôn tập, tổng kết được
bố trí một cách hợp lí, có hệ thống nhằm tạo điều kiện cho học sinh nắm
được bài theo trình tự trong hệ thống ấy. Cụ thể : ở lớp 6 có hai tiết ôn tập
Tiếng Việt ở cuối chương trình ( Tiết 66 và tiết 135 ) Lớp 7 và lớp 8 đều có 3
tiết ôn tập Tiếng Việt nhưng tới lớp 9 tổng số tiết ôn tập Tiếng Việt là 11 tiết.
Điều này cho thấy việc tăng dần thời thời lượng ôn tập ở các lớp 6,7,8 và
tăng vọt ở lớp 9 là một sự thay đổi lớn của chương trình SGK mới . Tất cả
nhằm giúp cho học sinh có thể thưch hiện tốt việc cửng cố, hhệ thống hóa
kiến thức trong một chương trình đã học, nhất là đối với học sinh lớp 9 chuẩn
bị cho các em nắm vững kiến thức để học tiếp chương trình Tiếng Việt ở
trung học phổ thông.
Với thời lượng không nhỏ như vậy trong chương trình bộ môn ngữ văn
giành cho các tiết ôn tập, tổng kết tiếng Việt là một lý do khiến người giáo

viên Ngữ văn cần phải lưu tâm. Cũng chính vì lý do này, phối hợp một cách
hợp lí, có hiệu quả của việc ôn tập, tổng kết và cung cấp kiến thức mới là một
vấn đề cần phải đầu tư thời gian, công sức, trí tuệ đối với mỡi giáo viên đứng
lớp.
+ Nhiệm vụ thực tiễn:
* Thực trạng của việc dạy tiết ôn tập trước kia và nhữnh năm gần đây:
Trong thời gian trước kia ( khi chưa thay sách giáo khoa ) và những năm
gần đây ( đổi mới chương trinhg SGK ) Việc dạy tiết ôn tập làm thế nào cho
tốt cũng không được nhiều giáo viên dạy Ngữ Văn quan tâm. Bởi lẽ tiết ôn
tập là tiết dạy khó, cần phải đầu tư nhiều thời gian, công sức, trí tuệ cho việc
soạn giảng. Khi dạy tiết này giáo viên phải nắm vững kiến thức và truyền đạt
một cách có hệ thống, mang tính khái quat cao. Đồng thời trong gìơ học
không khí học tập của học sinh các giờ ôn tập thường kếm sôi nổi hơn so với
các giờ học kiến thức mới. Vì vậy đa số giáo viên rất ngại đăng kí thao giảng,
dự giờ vào những tiết ôn tập chương hay tổng kết ôn tập cuối kì.
8
Việc thực hiện chương trình, SGK cũ còn có những hạn chế, đó là do cấu
trúc của tiết ôn tập Tiếng Việt hoặc tổng kết Tiếng Việt thường tách ra hai
phần rõ rệt: phần lý thuyết trước, thực hành sau. Khi soạn giảng giáo viên
thường căn cứ vào định hướng cửa SGK và SGV để dạy. Thường thì giáo
viên hay cho học sinh ôn và hệ thồng hết toàn bộ lý thuyết có trong SGK rồi
mới cho học sinh làm bài tập ôn luyện, thực hành. Việc tách rời giữa lý
thuyết và thực hành như vậy thường khiến cho các giờ học sa đà việc ôn tập
củng cố lý thuyết nhiều hơn là làm bài tập thực hành. Điều này dẫn tới việc
học sinh thụ động nắm bài, không tích cực trong giờ ôn luyện và kết quả là
nhiều học sinh hiểu và nắm kiến thức theo kiểu học vẹt, không sâu.
Một số yếu tố nữa ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả dạy học của một tiết
ôn tập, tổng kết là về phía học sinh. Trừ một số ít học sinh khá, giỏi và ý thức
học tập tương đối tốt thì phần lớn học sinh còn lười học, chuẩn bị bài qua loa,
hình thức gây trở ngại lớn tới việc ôn tập. Vì vậy lớp học không thể tích cực

chủ động tham gia vào giờ học dẫn tới kết quả học tập trên lớp chưa cao.
Song điều này cũng có một phần trách nhiệm của giáo viên trực tiếp giảng
dạy chưa coi trọng việc hướng dẫn học sinh chuẩn bị chu đáo bài vở trước
khi đến lớp .
Từ tế trên, trong mấy năm gần đây thực hiện chương trình thay sách giáo
khoa mới, tôi nhận thấy chương trình SGK mới có nhiều cải tiến theo hướng
tích cực. Với phương pháp giảng dạy : Thầy đóng vai trò là người hường dẫn,
trò chủ động tích cực trong việc lĩnh hội kiến thức tạo cho giáo viên và học
sinh làm việc trong giờ học nhịp nhàng và cởi mở hơn. Đối với các môn học
khác nói chung và môn Ngữ văn nói riêng , tất cả đều được giảng dạy theo
quan điểm tích hợp và tích cực. Bộ môn Ngữ văn không tách rời giữa phân
môn Văn - Tiếng Việt- Tập làm văn tạo cho chúng có mối quan hệ khăng
khít, hỗ trợ bổ sung cho nhau. Học tốt phần Tiếng Việt không chỉ giúp học
sinh có khẳ năng sử dụng tốt Tiếng Việt trong giao tiếp và tạo lập văn bản mà
còn giúp học sinh tìm hiểu để thấy cái hay, cái đẹp trong cảm thụ văn
chương. Ngược lại học tốt phần văn học cũng giúp học sinh có thêm kiến
thức, kĩ năng để học tốt phần Tiếng Việt. Vì vậy các giờ học Tiềng Việt đặc
biệt là các tiết Ôn tập, tổng kết Tiếng Việt chú trọng rèn luyện cho học sinh
9
khả năng thực hành, hiểu và vận dụng tốt những kiến thức đã học vào thực tế
cuộc sống. Cấu trúc SGK mới không tách rời phần lý thuyết và phần thực
hành. Phần lớn các tiết ôn tập và tổng kết được trình bày bằng một hệ thống
các bài tập nhằm giúp học sinh nhận diện, luyện tập, củng cố, năng cao hơn
những kiến thức đã học. Đó cững là điều kiện thuận lợi hơn cho giáo viên và
học sinh trong quá trình giảng dạy và học tập.Giáo viên hướng dẫn học sinh
chú trọng vào việc rèn kĩ năng luyện tập và thực hành. Tính tích cực chủ
động của học sinh trong giờ học được năng cao hơn. Với lượng kiến thức
được sắp xếp như vậy học sinh sẽ đầu tư hơn vào công việc chuẩn bị bài ở
nhà, bởi vì học sinh phải ôn kĩ lí thuyết trước thì mới có khả năng làm bài tập
trên lớp được.Điều này khiến cho giờ học đạt kết quả cao hơn so với khi chưa

đổi mới chương trình SGK mới.
Vì vậy giờ đây các tiết ôn tập Tiếng Việt đã được nhiều giáo viên quan
tâm và bắt đầu có hứng thú nghiên cứu giảng dạy. ở trường chúng tôi đã vận
dụng " Phương pháp dạy học tích cực vào dạy một tiết ôn tập Tiếng Việt". Đã
được đưa ra trao đổi thảo luận trong tổ, nhóm chuyên môn, rồi nâng lên thành
chuyên đề để thống nhất nội dung và cách thức giảng dạy. Đến nay đã có
nhiều giáo viên mạnh dạn đăng kí những giờ thao giảng, dự giờ các giờ giảng
đó đều đánh giá cao và đạt kết quả đúng theo tinh thần đổi mới của phòng
GD và sở GD- ĐT.
Nhưng thiết nghĩ để dạy giờ ôn tập Tiềng Việt được tốt bản thân tôi và
đồng nghiệp muốn đề xuất một yêu cầu nhỏ với Bộ và sở GD là tăng thời
lượng đối với mỗi bài ôn tập để HS nắm trắc hơn kiến thức và GV cững rèn
nhiều hơn cho HS kĩ năng viết đoạn văn, dùng từ, đặt câu.
II.2.2.Các nội dung cụ thể trong đề tài:
Nội dung 1: Quy trình dạy bài ôn tập nói chung:( đối với các lớp
6,7,8,9)
a. Giáo viên kiểm tra bài cũ:
- Yêu cầu nêu ngắn gọn những điều đã được học ở tiết trước, cho ví dụ
minh học hoặc giải các bài tập cửng cố vân dụng kiến thức đã học.
- Hoặc GV không kiểm tra bài cũ mà kết hợp kiểm tra kiến thức cũ trong
giờ ôn
10
- TRong trường hợp bài ôn không có câu hỏi củng cố lí thuyết thì giáo
viên yêu cầu học sinh nhắc lại lý thuyết có liên quan và cho ví dụ minh họa.
Ví dụ : tiết 73 : Ôn tập Tiếng Việt ( lớp 9). Nội dung ôn về các phương
chân hội thoại, Xưng hô trong hội thoại, Cách dẫn trực tiếp và cách dẫn gián
tiếp.Khi kiểm tra bài cũ GV đưa ra một tình huống về một phương châm hội
thoại bất kì và đưa ra câu hỏi : Em cho biết tình huống trên thuộc phương
châm hội thoại nào?Em hiểu gì về phương châm hội thoại đó? Sau câu hỏi
này GV dẫn vào bài. Như vậy khi vào bài sẽ tạo cho học sinh hứng thú lấy

các tình hướng thuộc các phương châm hội thoại khác.
b. Dạy bài mới:
- Khi giới thiệu bài, giáo viên nêu yêu cầu của tiết học, chú ý làm nổi bật
mối quan hệ giữa nội dung bài ôn tập.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh ôn tập lí thuyết ( theo quy trình trong
SGK) giáo viên hướng đẫn học hinh trả lời câu hỏi hoặc thực hiện bài tập
củng cố lí thuyết bằng các phương pháp sau:
* Giúp HS nắm vững yêu cầu của bài tập hoặc câu hỏi.
* Cho HS đọc thầm rồi trình bày lại yêu cầu của câu hỏi hoặc bài tập.
* Giáo viên giải thích thêm cho rõ yêu cầu của câu hỏi hoặc bài tập ( nếu
cần )
* Tổ chức cho học sinh thực hiện làm mẫu một phần của cau hỏi hoặc bài
tập để cả lớp nắm được yêu cầu của giờ ôn tập ( nếu đó là bài tập khó) . Sau
đó giáo viên tổ chức cho học sinh trả lời câu hỏi hoặc thực hiện bài tập theo
các hình thức: làm việc cá nhân hoặc trao đổi theo cặp, nhóm để trả lời câu
hỏi và thực hiện bài tập . Tổ chức cho học sinh báo cáo kết quả bằng nhiều
hình thức khác nhau, trao đổi với học sinh, sửa lỗi cho HS hoặc tổ chức cho
HS góp ý cho nhau và tự đánh giá nhau trong quá trình làm bài. Cuối cùng là
sơ kết tổng kết ghi bẳng nếu cần thiết.
c. Hướng dẫn luyện tập.
Đa số các bài ôn tập Tiếng Việt từng phần lí thuyết đan xen với thực
hành vì vậy GV hướng dẫn HS làm bài tập thực hành như cách hướng dẫn
luyện tập bài lý thuyết đã nêu ở trên, cần chú ý các dạng bài tập, nếu bài tập
lập bảng biểu thì giáo viên chú ý lược đồ cho học sinh và so sánh kiến thức
11
học trước đó, rèn kĩ năng thực hành, củng có, khắc sâu kiến thức của toàn bài
ôn tập.
Nội dung 2: Cách tiến hành dạy một giờ ôn tập Tiếng Việt.
Dạy một tiết ôn tập, chúng ta không sa vào lý thuyết, mục đích là thực
hành ứng dụng để mang lại hiệu quả thiết thực, luôn gắn với văn bản, trở

thành công cụ để làm rõ cho việc đọc văn và làm theo tinh thần tích hợp, ưu
tiên cho bài tập rèn luyện kĩ năng. Từ yêu cầu trên đòi hỏi giờ ôn tập Tiếng
Việt cần thực hiện theo các bước sau.
* Lựa chọn hệ thống bài tập phải đủ để thực hiện các yêu cầu: củng cố
kiến thức, rèn luyện kĩ năng, phát triển tư duy dưới nhiều hình thức ( trắc
nghiệm, điền vào dấu ,bài tập nhận biết, bài tập sáng tạo ). Nhằm củng cố
kiến thức đã học cho học sinh, năng cao phương pháp, rèn kĩ năng nói - viết,
bồi dưỡng năng lực khác: xây dựng đoạn văn, bài văn, nói hay, viết
thạo ,huy động sự lựa chọn chính xác, tìm được phương án tối ưu, phát huy
khả năng suy nghĩ độc lập, khả năng sáng tạo của học sinh.
* Xây dựng nhóm bài tập cho mức độ khác của từng đơn vị kiến thức, bài
học dựa trên cơ sở những bài tập đã có trong SGK, SBT để vừa dẫn dắt HS
vưà rà soát lại, củng cố lại kiến thức, rèn luyện kĩ năng Nhóm bài tập này
được GV thể hiện qua bảng phụ, phiếu học tập, sơ đồ, lược đồ.
Ví dụ khi dạy tiết ôn tập : Tổng kết từ vựng ở lớp 9 ( tiết 44) để củng cố
về cấp độ khái quát nghĩa của từ GV yêu cầu học sinh điền từ ngữ vào các ô
trống cho thích hợp trong sơ đồ


12
GV giúp học sinh giải thích nghĩa của các từ ngữ trong sơ đồ bằng cách sử
dụng từ ngữ nghĩa rộng để giải thích nghĩa của các từ ngữ nghĩa hẹp.
Ví dụ: Từ ghép là từ phức được tạo bằng cách ghép các tiếng có quan hệ với
nhau về nghĩa.
* Giúp HS phát hiện, tìm tòi lời giải cho những bài tập đó, chỉ ra được
những kiến thức, những kĩ năng phương pháp giải hệ thống bài tập. Tất cả
học sinh được chủ động suy nghĩ nhiều hơn, được hoạt động nhiều hơn, đặc
biệt là học sinh phát huy được năng lực sáng tạo trong giờ học.
* Rút ra những mục đích của từng dạng bài tập, định hướng cho học sinh
xâu chuỗi các kiến thức đã học, tập luyện được các kĩ năng cần thiết

Như vậy GV đã thiết kế được một hệ thống bài tập nhằm giúp học sinh
năm vững kiến thức, có kĩ năng giải các bài tập Tiếng Việt, tự khám phá, tự
trình bày theo cách hiểu đúng của mình.
Trong giờ ôn tập Tiếng Việt, dựa trên những cơ sở, những yêu cầu trên
GV đã định hướng được kiến thức theo từng mảng, từng phần trong gìơ ôn
tập.Phân môn Tiếng Việt ở các khối lớp 6,7,8 đã được tiến hành ôn tập theo
trình tự của tiết học là đi từ hệ thống bài tập như lập bảng biểu , lược đồ đến
củng cố lí thuyết cho từng phần. Hệ thống bài tập được sắp xếp từ đơn giản
đến phức tạp, từ bài tập củng cố đến bài tập rèn luyện kĩ năng, phát triển óc
tư duy sáng tạo của học sinh.
Đối với tiết ôn tập Tiếng Việt của lớp 9 cũng dùng lược đồ, bảng so sánh
nhưng hình thức ôn tập phong phú hơn. Vì lớp 9 là lớp cuối cùng của cấp
học, thời lượng kiến thức tăng do đó hệ thống bài tập cũng đa dạng, phong
phú đòi hỏi học sinh phái suy nghĩ nhiều hơn, có nhiều câu hỏi, bài tập phải
vận dụng kiến thức kĩ năng cả ba phân môn ( Văn - Tiếng Việt - Tập làm
văn)ở mức độ cao hơn.
Nội dung 3: Biện pháp thực hiện
* Với học sinh:
Giáo viên hướng dẫn học sinh xây dựng tiết ôn tập ngay từ đầu năm học
vì kiến thức ôn tập là một hệ thống. Chúng tôi cho học sinh lập cuốn " Sổ tay
13
Tiếng Việt", tạo cho các em một thói quen ghi lại những kiến thức cơ bản sau
mỗi giờ học Tiếng Việt. Đến giờ học với những câu hỏi dạng lý thuyết như :
nêu khái niệm,so sánh, đối chiếu ,các em có thể làm ngay được.
Ví dụ: nêu một số biện pháp tư từ từ vựng:Điệp ngữ , chơi chữ, ẩn dụ
hoán dụ, nhân hóa, so sánh
Với những câu hỏi khái niệm này, với cuốn "Sổ tay Tiếng Việt "thì học
sinh dễ dàng trả lời.
Để chuẩn bị tốt cho tiết học ôn tập, giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn bị
trước ở nhà thật kĩ càng.Đây là công việc quan trọng bởi nó phản ánh kết

quả học tập của cô và trò trong giờ học ôn tập. Đã là ôn tập thì các em không
được bỏ qua một kiến thức nào. Các em cần phải có một sự chuẩn bị chu đáo,
hệ thống hóa toàn bộ kiến thức, toàn bộ chương trình đã học.
Về khái niệm, ví dụ minh họa có sử dụng trong các văn bản đã học. với
học sinh trung bình, yếu, kém giáo viên có thể giới hạn kiến thức vừa sức.
Ví dụ các em phải nêu được khái niệm, ví dụ minh họa.
Còn học sinh khá giỏi phải chuẩn bị được đầy đủ kiến thức và nâng cao
kiến thức.như các em có thể chuẩn bị trước đoạn văn mẫu có sử dụng kiến
thức đã học một cách chuẩn xác.
* Với giáo viên:
Muốn dạy tốt một tiết ôn tập Tiếng Việt, giáo viên cần đầu tư thật sâu
vào các bài giảng lý thuyết. Như vậy tiết ôn tập thầy dạy học sinh học một
cách nhịp nhàng bởi chính kiến thức ôn tập nằm ngay trong những giờ học
hàng ngày của các em.
Nghiên cứu SGK là yêu cầu chung cho việc soạn bài lên lớp, đối với
môn Tiếng Việt cần phải nhấn mạnh hơn vì SGK hiện nay có nhiều điểm mới
so với sách cũ.
Ví dụ: Khai thác kiến thức từ các văn bản đã học
- Tích hợp phân môn văn - tập làm văn.
- Nhiều kiến thức mới được đưa vào ( Ví dụ: Các phương châm hội thoại-
Tiếng Việt 9 )
Xác định mục tiêu tiết học là khâu quan trọng đối với giáo viên khi soạn
bài và đứng lớp. Đối với tiết ôn tập thì mục tiêu chủ yếu là hệ thống khắc sâu
14
củng cố kiến thức đã học. Thông qua đó học sinh vận dụng một cách linh
hoạt để giải các bài tập.Vì vậy việc xây dựng hệ thống câu hỏi cần phải
lôgích hợp lí phù hợp với nhận thức của học sinh. Câu hỏi mang tính hệ
thống khái quát song cũng cần có câu hỏi phản đề, so sánh, suy luận để kích
thích tư duy sáng tạo của học sinh.
Ví dụ : Bài 16 tiết 63 lớp 8 học kì II

Nối nội dung ở cột A với nội dung thích hợp ở cột B để được những định
nghĩa hoàn chỉnh.
A B
1.Trợ
từ
a.Là những từ được thêm vào câu để cấu tạo câu nghi vấn, câu
cầu khiến, câu cảm thán và biểu thị sắc thái tình cảm của người
nói.
2.Câu
ghép
b.Là những từ chuyên đi kèm với một từ ngữ trong câu để nhấn
mạnh hoặc biểu thị thái độ đánh giá sự vật, sự việc được nói
đến ở từ ngữ đó.
3.Tình
thái từ
c.Là những câu do 2 hoặc nhiều cụm C-V không bao chưa
nhau tạo thành. Mỗi cụm C-V được gọi là một vế câu.
4.Thán
từ
d.Là những từ dùng để bộc lộ tình cảm , cảm xúc thái độ của
người nói hoặc dùng để gọi đáp.
Ngoài ra GV còn xây dựng một hệ thốnh câu hỏi tối ưu có tính khoa học,
tính sư
phạm và có tính tư tưởng, dạng câu hỏi này có thể khai thác ngay trong văn
bản các em đã học hoặc thông qua các bài viết Tập làm văn của học sinh qua
đó khắc sâu kiến thức. Mục đích các tiết ôn tập không chỉ dừng lại ở hệ thống
khái niệm mà phải đạt đén kĩ năng. Muốn hình thành kĩ năng phải coi trọng
việc luyện tập và giành nhiều cho luyện tập. Bài tập tối ưu chính là ta đã tíc
hợp được môn văn - Tập làm văn.
Ví dụ : Bài ôn tập và kiểm tra tra phần Tiếng Việt - Bài 3, tiết 126,lớp 8kỳ

II
Mục II. Hành động nói - đưa bài tập
15
Hãy viết một hoặc vài ba câu theo một trong những yêu cầu nêu dưới
đây.Xác định mục đích của hành động nói.
a. Cam kết không tham gia các hoạt động tiêu cực như đua xe trái phép, cờ
bạc, nghiện hút,
b.Hứa tích cực học tập, rèn luyện và đạt kết quả tốt trong năm học tới.
Với học sinh khá giỏi các em đã có sự chuẩn bị ở nhà, giáo viên có thể cho
học sinh trình bày trước lớp và học sinh khác nhận xét.
Học sinh trung bình yếu kém Gv có thể đưa ra một số bài tập phát hiện về
hành động nói bằng cách cho sẵn một đoạn văn để học sinh xác định.
Nội dung 4: Sử dụng đồ dùng , phương tiện dạy học
Để giờ ôn tập dạt hiệu quả cao giáo viên chú trọng tới việc đầu tư làm và
sử dụng thiết bị, đồ dùng dạy học. Đối với phân môn Tiếng Việt, có lẽ đồ
dùng không thể thiếu đó là bảng phụ, nó giúp cho học sinh nhận diện kiến
thức thông qua các bài tập đã được ghi trên đó. ở một số tiết, bảng phụ còn
được dùng để ghi những sơ đồ ôn tập còn thiếu, khuyết nội dung. Giáo viên
có thể gọi học sinh lên điền những nội dung còn thiếu khuyết vào bảng phụ
rồi thông qua sơ đồ có thể hệ thống lại kiến thức một cách rõ ràng cho học
sinh dễ nắm bài hơn. Tuy nhiên khi sử dụng bảng phụ cần chú ý đến yêu cầu:
rõ ràng, khoa học,và mang tích thẩm mĩ cao.
Ví dụ khi dạy tiết 137- 138 Ôn tập Tiếng Việt ( Lớp 9 )
Dạy phần 1: Khởi ngữ và các thành phần biệt lập
Giáo viên treo bảng phụ:
Khởi Thành phần biệt lập
Tình thái Cảm thán Gọi- đáp Phụ chú

Yêu cầu học sinh đọc nội dung bài tập 1 ? Cho biết những từ ngữ in đậm là
thành phần gì của câu . Ghi kết quả phân tích vào bảng.

GV gọi 4 học sinh lên bảng làm 4 phần của bài tập 1
Từ bảng phụ này GV có thể hỏi học sinh về kiến thức phần lí thuyết
16
? Vì sao những từ bạn vừa điền là thành phần tình thái ? Cho biết thành phần
tình thái là gì ?
Với những câu hỏi như vậy GV giúp HS củng cố lại định ngữ về các thành
phần biệt lập và yêu cầu học sinh cho ví dụ .
Kết luận chương 2


II.3. Chương 3: Phương pháp nghiên cứu - kết quả nghiên cứu:
II.3.1. Phương pháp nghiên cứu:
* Phương pháp dạy bài ôn tập Tiếng Việt đi từ hệ thống bài tập để
củng cố lí thuyết
Từ trước tới nay, dạy bài ôn tập Tiếng Việt thường có hai cách: Cách1 : đi
từ lí thuyết đến giải hệ thống bài tập; cách 2 : đi từ hệ thống bài tập đến củng
cố lí thuyết vì vậy nhiều GV dạy bài ôn tập theo quy trình GSK ( tức là đi từ
lí thuyết đến bài tập củng cố ). Quy nghiên cứu nội dung bài ôn tập chúng tôi
nhận thấy việc thực hiện phương pháp dạy bài ôn tập cho học sinh đi từ hệ
thống bài tập để củng cố kiến thức lí thuyết là hợp lí hơn và thu được kết quả
cao hơn.
Nhưng tiến hành dạy bài này như thế nào ? phương pháp cụ thể ra sao tùy
thuộc vào khả năng của từng người. Mục đích cuối cùng của giáo viên phải
đạt được là: Củng cố khắc sâu kiến thức bài học cũ, chuẩn bị tâm thế cho HS
làm bài kiểm tra và thi học kì đạt kết quả. Từ thực tế dạy các tiết ôn tập Tiếng
Việt của các khối lớp trong những năm qua. Tôi đã đúc rút được vài kinh
nghiệm cho giờ dạy như sau:
Theo tôi để dạy tốt một bài ôn tập Tiếng Việt theo phương pháp dạy học
tích cực thì GV phải xác định được mục tiêu, yêu cầu cơ bản của bài dạy là gì
? ( Giúp HS hệ thống hóa một số nội dung kiến thức đã học rèn cho học sinh

các kĩ năng tổng hợp về sử dụng Tiếng Việt trong nói, viết,tích hợp các kiến
thức của cả ba phân môn Văn - nTiếng Việt- Tập làm văn.
Để đạt được những mục tiêu trên GV cần hướng dẫn cho học sinh chuẩn
bị bài cho tiết học cụ thể:
17
Bài Ôn tập Tiếng Việt - Bài 15- Tiết 73-lớp 9 kỳ I
Đối với bài này GV phải có một hệ thống câu hỏi, bài tập để hướng dẫn
cho học sinh và các bảng, lược đồ, bảng phụ ( Tức là GV phải chuẩn bị tốt
các đồ dùng dạy học )
Giáo viên yêu cầu học sinh ôn lại kiến thức đã học đã học, nghiên cứu kĩ
hệ thống câu hỏi, bài tập trong SGK, đọc kĩ các văn bản liên quan đến bài tập
ôn tập.
+ Cách tổ chức và phương pháp dạy học.
Giáo viên cần xác định hình thức ôn tập: Đi từ hệ thống bài tập rút ra lí
thuyết đã học từ đó tiếp tục hướng dẫn cho học sinh vận dụng củng cố kiến
thức vừa ôn .
Phần thứ nhất: Nhìn tổng quát chương trình Tiếng Việt ở học kì I.
Giáo viên đưa ra gợi dẫn 1: Chương trình Tiếng Việt ở học kì I đã
đem lại cho em những hiểu biết gì về Tiếng Việt.
Yêu cầu học sinh trả lời được: Trong học kì I chúng ta đã học những kiến
thức sau đây về Tiếng Việt.
1. Các phương châm hội thoại.
2. Xưng hô trong hội thoại.
3.Cách dẫn trực tiếp cách dẫn gián tiếp.
4. Thuật ngữ.
5.Sự phát triển của từ vựng.
6. Trau rồi vốn từ.
7.Tổng kết từ vựng.
8.Phương ngữ ( chương trình địa phương )
Tuy nhiên bài ôn tập này chie ôn lại những kiến thức và kĩ năng mới

được học trong học kì I và chưa được ôn trong bài tổng kết từ vựng.
Phần thứ hai: Hướng dẫn cho học sinh ôn tập ba nội dung kiến thức
cơ bản.
Hoạt động1: GV hướng dẫn học sinh ôn các phương châm hội thoại:
Sử dụng một số tình huống giao tiếp để dẫn vào bài hoặc đưa một số
câu ca dao tục ngữ thể hiện các phương châm hội thoại để học sinh phát hiện
18
nhập tâm nội dung bài ôn tập, sau đó GV hướng đẫn học sinh làm bài tập 2
SGK trang 190.
Gợi dẫn 2: Hãy kể một số tình huống một số tình huống giao tiếp mà
trong đó có một hoặc một số phương châm hội thoại nào đó không được tuân
thủ ? ở tình huống này GV có thể đưa sẵn 2 ví dụ trên bảng phụ như sau :
Ví dụ 1: Truyện thứ nhất
Trong giờ vật lí, thầy giáo hỏi một học sinh đang mải nhìn qua cửa sổ:
- Em cho thầy biết sóng là gì ?
Học sinh :
- Thưa thầy " sóng "là bài thơ của Xuân Quỳnh ạ !
Ví dụ 2: Truyện thứ 2.
Truyện cười Tây Ban Nha " Hết bao lâu"
" Một bà già tới phòng bán vé máy bay hỏi:
- Xin làm ơn chơ biết Pa ri tới Mê hi cô bay hết bao lâu ?
Nhân viên bán vé máy bay đang bận việc gì đó liền đáp:
- Một phút nhé !
- Xin cảm ơn - bà già đáp và đi ra "
* Giáo viên gợi dẫn và yêu cầu học sinh chỉ rõ:
+ Câu chuyện thứ nhất: Người nói vi phạm phương châm quan hệ.
+ Câu chuyện thứ hai: Người nói vi phạm phương châm về lượng.
Từ hai ví dụ trên GV có thể cho HS lấy thêm một số ví dụ khác.Sau đó
giáo viên yêu cầu học sinh thực hiện gợi dẫn 2:
Khi giao tiếp chúng ta cần tuân thủ phương châm hội thoại nào? yêu cầu

học sinh điền vào lược đồ như (SGK trang 190) trên bảng
19
? Khí giao tiếp chúng ta cần tuân thủ các phương châm nào?
Từ đó học sinh rút ra kết luận
Khi giao tiếp cần tuân thủ các phương châm sau:
- Nói phải có nội dung, nội dung của lời nói phải đáp ứng yêu cầu của một
cuộc giao tiếp không thừa, không thiếu ( phương châm về lượng )
- Đừng nói những điều mà mình không tin là đúng hay không có bằng
chứng xác thực ( phương châm về chất)
- Cần nói đúng về đề tài giao tiếp, tránh nói lạc đề ( Phương châm quan hệ )
- Cần tế nhị và tôn trọng người khác ( phương châm lịch sự ).
GV cần lưu ý cho học sinh để tuân thủ các phương châm hội thoại, người
nói phải làm gì ?( Phải nắm trắc được các đặc điểm của tình huống giao tiếp:
Mục đích, không gian, thời gian giao tiếp và trạng thái tâm lí, sức khỏe, công
việc, vốn hiểu biết, văn hóa của người nghe )
? Phương châm hội thoại có phải là căn cứ chung bắt buộc trong mọi tình
huống giao tiếp không? vì sao? ( Phương châm hội thoại là yêu cầu chung
trong giao tiếp chứ không phải là những quy định có tính chất bắt buộc trong
mọi tình huống. Do đó, có những trường hợp trong đó một số phương châm
hội thoại nào đó không được tuân thủ).
+ Những trường hợp nào vi phạm phương châm hội thoại
Đó là do :
-Người nói vô ý, vụng về,thiếu văn hóa trong giao tiếp.
- Phải ưu tiên cho phương châm hội thoại quan trọng hơn.
- Người nói muốn hướng người nghe hiểu câu nói theo một hàm ẩn nào đó.
Muốn vậy, từ gợi dẫn (1) và (2) như trên giáo viên từ đó củng cố kiến thức
về phương châm hội thoại rèn cho học sinh những kĩ năng cơ bản khi sử
dụng phương châm hội thoại trong giao tiếp phù hợp với tình hình giao tiếp.
20
Sau đó giáo viên có thể đưa ra một hệ thống câu hỏi trắc nghiệm lại kiến

thức vừa ôn ở phần trên lấy thên ví dụ khác để khắc sâu kiến thức và chuyển
tiếp sang hoạt động thứ 2
*Phương pháp học hợp tác ( Thảo luận nhóm và tranh luận )
Tùy tường bài ôn tập cụ thể và yêu cầu cuả vấn đề học tập giáo viên có
thể phân nhóm, chuẩn bị nội dung câu hỏi cũng như bài tập cho từng nhóm .
Các nhóm tự bầu ra nhóm trưởng , trong nhóm nhỏ mỗi thành viên thực hiện
một công việc, mỗi thành viên đều được hoạt động tích cực, không ỷ lại vào
một người năng động nổi trội hơn. Các thành viên trong nhóm giúp nhau tìm
hiểu vấn đề trong không khí thi đua với các nhóm khác. Kết quả thảo luận
của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả chung của cả lớp. Để trình bày kết
quả của nhóm trước lớp có thể bằng hình thức báo cáo, hình thức báo cáo
cũng rất đa dạng: có thể báo cáo trước GV, có thể báo cáo trước lớp, báo cáo
bằng giấy, bảng phụ, bảng chính.
Ví dụ khi dạy tiết 43: Tổng kết từ vựng ( lớp 9)
Tiết ôn tập thứ nhất có 4 phần : Từ đơn , từ phức - Thành ngữ - Nghĩa của
từ - Từ nhiều nghĩa và hiện tượng chuyển nghĩa của từ . Giáo viên có thể chia
lớp thành 4 nhóm, mỗi tổ 1 nhóm , mỗi nhóm một phần trước hết yêu cầu HS
các nhóm làm bài tập rồi từ bài tập các em rút ra khái niệm chung của mỗi
phần. Giáo viên phát mỗi nhóm một bảng phụ nhỏ , ghi kết quả thảo luận vào
đó trong thời gian 15 đến 20 phút các em treo kết quả của nhóm mình lên trên
bảng chính. Các nhóm khác nhận xét và chữ lỗi cho các nhóm nếu sai. Như
vậy tiết ôn tập mất rất ít thời gian, thời gian còn lại GV đưa ra một số bài tập
nâng cao củng cố thêm kiến thức và rèn cho học sinh kĩ năng viết đoạn văn
theo nội dung vừa ôn tập tổng kết.
Với phương pháp làm việc nhóm cho phép các thành viên trong nhóm chia
sẻ các suy nghĩ , hiểu biết của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức, thái
độ mới. Bằng cách nêu suy nghĩ mỗi em có thể nhận rõ trình độ hiểu biết của
mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm những gì . Giờ ôn tập trở
thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải là sự tiếp cận thụ động từ
giáo viên. Phương pháp này giúp học sinh dễ hiểu dễ nhớ hơn dễ nhớ hơn vì

21
các em được tham gia trao đổi trình bày vấn đề nêu ra, cảm thấy hào hứng
khi thành công chung của tổ, lớp có phần đống gióp của mình.
* Các hoạt động giống trò chơi:
Thường tiết ôn tập bao giờ kiến thức cũng nặng, giờ học rất trầm, nhưng
nếu giáo viên biết cách tổ chức hoạt động dạy cho phù hợp thì vẫn gây được
không khí hào hứng như các giờ dạy kiến thức mới. Có thể trong giờ học GV
tổ chức chơi các trò chơi, tổ chức thi đua giữa các tổ, nhóm với nhau, đôi khi
có cả phần thưởng nho nhỏ để tạo hứng thú cho giờ học.Tuy nhiên việc áp
dụng cũng phải linh hoạt theo từng bài, không nên gượng ép.
Ví dụ khi dạy tiết 43: Tổng kết từ vựng (lớp 9)
Phần 1 : Từ đơn và từ phức
Bài tập . Trong các từ sau, từ nào là từ ghép, từ nào là từ láy?
ngặt nghèo, nho nhỏ,giam giữ, gật gù, bó buộc, tươi tốt,lạnh lùng,bọt bèo,xa
xôi,cổ cây, đưa đón, nhường nhịn, rơi rụng, mong muốn,lấp lánh.
Từ ghép Từ láy




-



-
Với dạng bài tập này GV có thể chọn hai đội lên chơi trò chơi tiếp sức. Bằng
cách trong vòng 1 phút đội nào viết được nhiều từ vào bảng đội đó sẽ thắng.
Phần II: Thành ngữ
Phần bài tập giáo viên có thể cho HS chơi trò chơi tiếp sức giữa hai dãy
bàn tìm các thành ngữ mà em biết ghi lên bảng ( Trong vòng 3 phút đội nào

tìm được nhiều thành ngữ đội đó sẽ thắng).
Hoặc với trò chơi như vậy khi ôn tập về phương châm lịch sự ở tiết 73
( lớp 9 ) GV có thể yêu cầu HS
? Trong kho tàng tục ngữ ca dao Việt Nam có nhiều câu nêu lên những lời
khuyên, những kinh nghiệm hay, sâu sắc về cách xưng hô, cách ăn nói trong
22
giao tiếp, ứng xử . Các nhóm hãy lấy một vài câu ca dao, tục ngữ nói về nội
dung đó.
Những trò chơi này vừa giúp HS củng cố thêm kiến thức lí thuyết trong
tiết ôn tập vừa giúp các em học tập được những lời hay ý đẹp từ những câu
thành ngữ, tục ngữ, ca dao đó.
II.3.2.Kết quả nghiên cứu thực tiễn
Với những phương pháp như vậy khí áp dụng vào bài giảng chúng tôi
đã thu được những kết quả sau:
- Học sinh biết hệ thống toàn bộ kiến thức đã học.
-Học sinh phát triển ngôn ngữ khả năng tư duy, trau dồi vốn từ vựng,
làm việc độc lập.
- Qua đồ dùng dạy học và áp dụng trò chơi đã phát huy được hiệu quả
giờ học, kích thích tinh thần học tập của học sinh.
- Áp dụng dụng được nhiều dạng bài tập cho học sinh.
- Chú ý được nhiều đối tượng học sinh trong lớp.












23
24
25

×