Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Nợ công và tăng trưởng kinh tế nghiên cứu thực nghiệm tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH








PHAN MINH XÍCH TỰ







NỢ CÔNG VÀ TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ.
NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM TẠI VIỆT NAM








LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ






Thành Phố Hồ Chí Minh - Năm 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH





PHAN MINH XÍCH TỰ





NỢ CÔNG VÀ TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ.
NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM TẠI VIỆT NAM




Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60340201




LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ




Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. DIỆP GIA LUẬT



Thành Phố Hồ Chí Minh - Năm 2014



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
Tp.HCM, ngày 01 tháng 12 năm 2014
Tác Giả



PHAN MINH XÍCH TỰ


MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt

Danh mục bảng, biểu
Danh mục các hình vẽ, đồ thị

CHƢƠNG I : GIỚI THIỆU
1. 1. Lời mở dầu 1
1. 2. Lý do chọn đề tài 1
1. 3. Mục tiêu nghiên cứu 2
1. 4. Phương pháp nghiên cứu 2
1. 5. Đối tượng nghiên cứu 2
1. 6. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài 3
1. 7. Kết cấu của luận văn 3

CHƢƠNG II : TỔNG QUAN VỀ LÝ THUYẾT
2.1 . Lý Thuyết Về Tăng Trưởng Kinh Tế 4
2.1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế 4
2.1.2. Các chỉ số đo lường tăng trưởng 5
2.1.3. Tăng trưởng kinh tế và các mô hình lý thuyết 6
2.1.3.1. Mô hình tăng trưởng kinh tế của J.M.Keynes (1936) 6
2.1.3.2. Mô hình tăng trưởng kinh tế của Harrod và Domar (1940s) 6
2.1.3.3. Mô hình tăng trưởng kinh tế của Cobb-Douglas (1946) 7
2.1.3.4. Mô hình tăng trưởng kinh tế của P.A.Samuelson (1948) 7
2.1.3.5. Mô hình tăng trưởng mới của Romo Rucas và Scost (1980s) 8
2.2 . Lý Thuyết Về Nợ Công 9
2.2.1 . Khái quát về nợ công. 9
2.2.2 . Phân loại nợ công 10
2.2.3 . Các đặt trưng của nợ công 12
2.2.4 . Bản chất kinh tế của nợ công 12
2.2.5 . Các chỉ tiêu đánh giá nợ công. 13
2.3 . Tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế. 15
2.3 .1. Lý Thuyết Và Các Quan Điểm Của Các Nhà Kinh Tế Học Trên Thế Giới

Về Mối Quan Hệ Giữa Nợ Công Đối Với Tăng Trưởng Kinh Tế. 15
2.3 .1.1. Lý thuyết cân bằng của David Ricardo 15
2 .3.1.2. Lý thuyết Keynes và thuyết Tân cổ điển 16
2 .3.1.3. Lý thuyết “Nợ quá mức” (Debt-Overhang) và đường cong Laffer về nợ. 17
2 .3.1.4. Mối quan hệ phi tuyến giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế. 19
2.3 .2. Các nghiên cứu trước về tác động của nợ công
đến tăng trưởng kinh tế 20
2.3.2.1. Các nghiên cứu nước ngoài 20
2.3.2.2. Các nghiên cứu trong nước. 23
2.3.2.3. Nhận xét chung về các quan điểm 24
CHƢƠNG III : KHẢO SÁT MỐI QUAN HỆ GIỮA NỢ CÔNG VÀ
TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ VIỆT NAM 1986 – 2013
3.1. Tăng Trưởng Kinh Tế Của Việt Nam 27
3 .2. Nợ Công, Thâm hụt ngân sách và Đầu tư công ở Việt Nam 31
3.3 . Đánh giá về nợ công và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam 45
3.3.1 . Thành tựu 45
3.3.2 . Hạn Chế 46
CHƢƠNG IV: PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM
4.1. Giới Thiệu 49
4.2. Khuôn khổ mô hình lý thuyết 49
4.2. 1.Mô hình 49
4.2. 2. Các yếu tố cơ bản của mô hình nghiên cứu 52
4.3. Dữ liệu nghiên cứu 52
4.4. Phương pháp ước lượng 53
4.4.1. Kiểm định tính dừng 53
4.4.2. Đồng liên kết 55
4.4.3. Mô hình hiệu chỉnh sai số ECM 57
4.4.4. Cách tiếp cận mô hình ARDL đối với phân tích đồng liên kết 57
4.4.5. Kiểm định nhân quả Granger với mô hình VECM 59
4.5. Ước lượng mô hình và kết quả 60

4.5.1. Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị 60
4.5.2. Số lượng độ trể tối ưu của mô hình 61
4.5.3. Ước lượng mô hình ARDL 61
4.5.4. Kiểm định quan hệ Granger với mô hình VECM 65
CHƢƠNG V : KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
5. 1.Giới thiệu 67
5. 2.Các kết luận tổng quát. 67
5. 2.1.Các phát hiện chính 68
5. 2.2.Các hàm ý chính sách 69
5. 3.Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo 78

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT


Ký hiệu
Tên Tiếng Anh
Tên Tiếng Việt
ADB
Asian Development Bank
Ngân hàng phát triển châu Á
ARDL
Autoregressive Distributed Lag
Model
Mô hình Phân Phối Độ Trể Tự Hồi Qui
PDEBT

Debt percent of GDP
% dư nợ trên tổng sản phẩm quốc nội
DNNN

Doanh nghiệp nhà nước
ECM
Error Components Model
Mô hình hiệu chỉnh sai số
GDP
Gross Domestic product
Tổng sản phẩm quốc nội
GNI
Gross National Income
Tổng thu nhập quốc dân
GNP
Gross National product
Tổng sản lượng quốc gia
ICOR
Incremental Capital - Output Rate
Hệ số sử dụng vốn
IG
Investment Government
Đầu tư công
IMF
International Monetary Fund
Quỹ tiền tệ quốc tế
L
Labor
Lực lượng lao động
NSNN

Public budget
Ngân sách nhà nước
OPEN

Độ mở thương mại
PPF
Production possibilities frontier
Đường giới hạn khả năng sản xuất
VECM
Vector Error Correction Model
Mô hình Vector hiệu chỉnh sai số
WB
World Bank
Ngân hàng thế giới


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 3.1: Tốc độ tăng sản phẩm trong nước 29
Bảng 3.2: Cơ cấu kinh tế 29
Bảng 3.3: Hệ số ICOR Việt Nam giai đoạn 1986-1990 35
Bảng 3.4 : Nợ công, thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế 37
Bảng 3.5: Diễn biến nợ công và tăng trưởng kinh tế
giai đoạn 1986 – 2013 41
Bảng 3.6: Số liệu nợ công Việt Nam từ 2006 – 2012 42

Bảng 3.7: Tình hình trả nợ của Việt Nam 45
Bảng 4.1 Thống kê mô tả cơ bản của tất cả chuổi thời gian
trong mô hình nghiên cứu 53
Bảng 4.2. Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị 61

Bảng 4.3: Các tiêu chí lựa chọn độ trể của mô hình 61
Bảng 4.4: Ước lượng mô hình ARDL(1,1,1,1,1) biến phụ thuộc GDP 62
Bảng 4.5: Ước lượng các hệ số dài hạn của mô hình
ARDL(1,1,1,1,1) Biến phụ thuộc GDP 63
Bảng 4.6: Kết quả ước lượng mô hình hiệu chỉnh sai số 64
Bảng 4.7: Kết quả kiểm định nhân quả Granger 65


DANH MỤC HÌNH VẼ

Hình 2.1: Tăng trưởng và đường PPF trong dài hạn 5
Hình 2.2: Các thành phần của khu vực công theo định nghĩa của IMF 9
Hình 2.3: Đường cong Laffer về nợ 18
Hình 3.1: Vòng luẩn quẩn thâm hụt ngân sách và nợ công 32
Hình 3.2: Nợ công và thâm hụt ngân sách gia đoạn 1985 – 1989 34
Hình 3.3: Thu NSNN, chi NSNN và thâm hụt NSNN 36
Hình 3.4: Nợ công và thâm hụt so với GDP 38
Hình 3.5: Ổn định – Tăng trưởng và Hội nhập an toàn 39
Hình 3.6: Thu – Chi NSNN, Bội chi so với GDP
và tăng trưởng kinh tế 2001-2013 40
Hình 3.7: Nợ công, Bội chi so với GDP và
tăng trưởng kinh tế 2001-2013 41
Hình 3.8: Tỷ lệ nợ công trên GDP của Việt Nam và các nước
so sánh tính đến năm 2013 42
Hình 3.9: Cấu trúc nợ của Việt Nam (%GDP) tính đến cuối năm 2012 44
Hình 4.1: Kiểm định Cusum và Cusumsq 62

Trang 1

CHƢƠNG I: GIỚI THIỆU

1. 1. Lời mở đầu
Những thách thức về nợ công hiện nay cho thấy đã đến lúc cần có một cuộc cải
cách tài khóa triệt để và toàn diện nhằm đưa ngân sách dần trở về trạng thái cân bằng
nhằm bảo đảm tính bền vững của nợ công và duy trì sự ổn định lâu dài cho nền kinh
tế. Để có được các khuyến nghị chính sách khả thi đó, cần phải có các nghiên cứu để
đánh giá toàn diện thực trạng và dự báo nợ công nhằm nhận diện các rủi ro và thách
thức trong việc giám sát và quản lý nợ công.
1. 2. Lý do chọn đề tài.
Kinh tế Việt Nam đang trải qua những năm tháng được coi là rất khó khăn kể từ
khi bắt đầu đổi mới vào những năm đầu thập niên 1990. Tăng trưởng kinh tế đã liên
tục suy giảm, từ mức trên 7,6% trong giai đoạn 2000-2007, xuống còn xấp xỉ 6,0%
trong giai đoạn 2008-2011. Trong khi đó, tỉ lệ lạm phát liên tục ở mức cao, trung bình
lên tới hơn 14% mỗi năm. Thâm hụt thương mại trầm trọng, tăng lên trên 10% GDP
liên tục trong nhiều năm. Đặc biệt, thâm hụt ngân sách cao và nợ công tăng nhanh, do
hậu quả của những chính sách kích thích kinh tế kéo dài thông qua chi tiêu công, đang
tiếp tục là những nguy cơ tiềm ẩn làm xấu thêm các chỉ số kinh tế vĩ mô và đe dọa sự
ổn định của nền kinh tế trong tương lai. Thâm hụt ngân sách trong những năm gần đây
lên tới xấp xỉ 5-6% GDP, trong khi đó nợ công và nợ nước ngoài lần lượt tăng nhanh
lên mức 56,3% và 42,2% GDP vào cuối năm 2010. Dự báo, những con số này còn có
thể tăng lên tới 80%, hoặc thậm chí là 100%, trong vòng 10 năm tới, nếu như Việt
Nam không có những thay đổi chính sách kịp thời.
Nghiêm trọng hơn, sự quản lý lỏng lẻo cộng với những khó khăn kinh tế gần
đây đã khiến hàng loạt các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) làm ăn kém hiệu quả rơi
vào tình trạng thua lỗ và đứng trên bờ vực phá sản, dẫn đến hàng loạt các DNNN
không thể trả nợ đang phải tìm tới sự cứu trợ của nhà nước và đe dọa tới sự an toàn
của nợ công trong tương lai.
Quy mô nợ công của Việt Nam đã bắt đầu tăng tốc mạnh vào năm 2009 khi
Chính phủ Việt Nam quyết định đưa ra gói kích thích kinh tế quy mô lớn trong điều
kiện ngân sách vốn đang bị thâm thủng triền miên trong nhiều năm. Dù có vài tín hiệu
tích cực gần đây cho thấy Chính phủ đang tiến hành cắt giảm đầu tư công và giảm bội


Trang 2

chi ngân sách nhưng tỷ lệ nợ công trên GDP của Việt Nam vẫn tiếp tục tăng lên trong
khi kinh tế bắt đầu tăng trưởng chậm lại.
Nợ công tăng nhanh cùng với sự xấu đi của các điều kiện kinh tế đang làm hạn
chế các lựa chọn của Chính phủ trong việc đưa nền kinh tế thoát khỏi sự suy giảm hiện
thời. Trong bối cảnh đó việc đánh giá toàn diện thực trạng sự gia tăng trong nợ công
có ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của một quốc gia? Cơ chế tác động của nó ra
sao? Những kênh truyền dẫn trung gian nào khiến cho tăng trưởng kinh tế bị tác động
bởi nợ công? Đã có những minh chứng cụ thể nào từ nghiên cứu của các nhà kinh tế
học nổi tiếng trên thế giới làm cơ sở để xác định sự tác động đó? Đồng thời dự báo nợ
công nhằm nhận diện các rủi ro và thách thức trong việc giám sát và quản lý nợ công
trong tương lai là một việc làm hết sức cần thiết.
Để có được các khuyến nghị chính sách khả thi đó thì cần phải khảo sát thực tế
mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế. Đây cũng là lý do tác giả mạnh dạng
thực hiện đề tài: NỢ CÔNG VÀ TĂNG TƢỞNG KINH TẾ. NGHIÊN CỨU THỰC
NGHIỆM TẠI VIỆT NAM.
1. 3. Mục tiêu nghiên cứu.
Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu tìm hiểu thực trạng nợ công và phân tích mối
quan hệ tác động giữa nợ công đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Kết quả thực nghiệm có thể dược dùng như những khuyến nghị cho các chính
sách liên quan đến giám sát và quản lý nợ công tại Việt Nam.
1.4. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Nghiên cứu định lượng
1.5. Đối tƣợng nghiên cứu.
Để đạt mục tiêu nghiên cứu như nêu trên, luận văn hướng đến các đối tượng
nghiên cứu là mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế thông qua các biến
kiểm soát như:
- Đầu tư của khu vực công;

- Lực lượng lao động;
- Độ mở nền kinh tế.



Trang 3

1.6. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài.
- Luận văn khi đạt được mục tiêu nghiên cứu sẽ góp phần khẳng định mối quan hệ
giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong khoản thời gian nghiên cứu.
- Đồng thời có các khuyến nghị về chính sách cho Chính phủ hoàn thiện các thể
chế - hoạch định chính sách nợ công, tiến tới nâng cao hiệu quả quản lý vay nợ của
Việt Nam nhằm tránh những rủi ro khủng hoảng nợ mà Việt Nam có thể gặp phải
trong thời gian sắp tới.
- Làm phong phú thêm cho nguồn tài liệu tham khảo trong lĩnh vực quản lý Tài
Chính Công.
1.7. Kết cấu của luận văn.
Chương I : Giới Thiệu
Chương II : Tổng Quan Về Lý Thuyết
Chương III : Khảo Sát Mối Quan Hệ Giữa Nợ Công và Tăng Trưởng Kinh Tế
Việt Nam 1986 – 2013
Chương IV: Phân Tích Thực Nghiệm
Chương V : Kết Luận và Khuyến Nghị

Trang 4



CHƢƠNG II


TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VỀ NỢ CÔNG
VÀ TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ


4.1 .LÝ THUYẾT VỀ TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ.
Tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng một cách bền vững luôn là mục tiêu và khát vọng
của tất cả các quốc gia trong mọi thời đại. Có lẻ một trong những vấn đề được quan
tâm nhiều nhất và dai dẳng nhất trong kinh tế học là tìm hiểu các nhân tố khiến nền
kinh tế tăng trưởng. Có tăng trưởng kinh tế mới có thể tạo tiền đề cho sự phát triển của
đất nước, nâng cao mức sống của người dân một quốc gia.
4.1.1. Khái niệm tăng trƣởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về số lượng, chất lượng và quy mô sản lượng
của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Sự tăng trưởng được so sánh theo các thời
điểm gốc sẽ phản ánh tốc độ tăng trưởng. Đó là sự gia tăng quy mô sản lượng kinh tế
nhanh hay chậm so với thời điểm gốc. Quy mô và tốc độ tăng trưởng là “cặp đôi”
trong nội dung khái niệm tăng trưởng kinh tế.
Mặt số lượng biểu thị chiều rộng của tăng trưởng, được thể hiện thông qua các chỉ
tiêu đánh giá quy mô và tốc độ tăng trưởng của thu nhập. Mặt chất lượng của tăng
trưởng được thể hiện qua các tiêu chuẩn sau: (1) tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định
trong dài hạn, tránh được những tác động của các cú sốc từ bên ngoài; (2) Tăng trưởng
theo chiều sâu, thể hiện thông qua sự đóng góp cao và không ngừng gia tăng của năng
suất các yếu tố tổng hợp (TFP); (3) Đảm bảo nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế; (4) Tăng trưởng kết hợp với bảo vệ môi trường sinh thái, đảm bảo
phát triển môi trường bền vững; (5) Hỗ trợ đổi mới thể chế dân chủ; (6) Đạt mục tiêu
cải thiện phúc lợi xã hội, giảm đói nghèo và nâng cao đời sống của người dân.

Tăng trưởng kinh tế diễn ra khi đường giới hạn khả năng sản xuất của một nước
(PPF) dịch chuyển ra phía ngoài. Một sự gia tăng trong cung dài hạn được minh họa
bằng sự dịch chuyển ra ngoài của đường PPF.


Trang 5



Hình 2.1 Tăng trƣởng và đƣờng PPF trong dài hạn.
4.1.2. Các chỉ số đo lƣờng tăng trƣởng
Theo hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) các chỉ tiêu phản ánh tăng trưởng bao
gồm:
- Tổng sản phẩm quốc nội (GDP): là tổng giá trị tính bằng tiền của toàn bộ
hàng hoá và dịch vụ mà một nước sản xuất ra trên lãnh thổ của nước đó trong một thời
gian nhất định (thường là một năm).
- Tổng sản phẩm quốc dân (GNP): là tổng giá trị tính bằng tiền của những
hàng hoá và dịch vụ mà một nước sản xuất ra từ các yếu tố sản xuất của mình trong
một thời kỳ nhất định (thường là một năm).
Tăng trưởng kinh tế có thể được biểu thị bằng mức tăng trưởng tuyệt đối, tốc độ
tăng trưởng hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong một gia đoạn cụ thể.
Như vậy, mức tăng trưởng tuyệt đối là mức chênh lệch về quy mô của nền kinh tế giữa
hai kỳ mà chúng ta cần so sánh.
- Tốc độ tăng trƣởng kinh tế (y): được tính là phần trăm chênh lệch giữa quy
mô GDP của một nền kinh tế ở hiện tại với quy mô GDP của nó ở thời kỳ trước đó.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (y) được thể hiện bằng đơn vị %.
Công thức toán học xác định (y):
y = dY/Y x 100% = (Y
t
– Y
t-1
)/ Y
t-1
x 100%
Trong đó:

Y
t
là quy mô GDP của nền kinh tế vào năm t
Y
t-1
là quy mô của nền kinh tế năm t-1
y là tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm

Trang 6

4.1.3. Tăng trƣởng kinh tế và các mô hình lý thuyết
Để giải thích nguồn gốc tăng trưởng kinh tế các nhà kinh tế học dùng các mô
hình kinh tế. Trong khuôn khổ luận văn, tác giả tập trung vào các mô hình sau đây.
4.1.3.1. Mô hình tăng trƣởng kinh tế của J.M.Keynes (1936)
Theo Keynes, để đảm bảo sự cân bằng kinh tế, khắc phục thất nghiệp và khủng
hoảng thì không thể dựa vào cơ chế thị trường tự điều tiết, mà cần phải có sự can thiệp
của chính phủ vào nền kinh tế để tăng tổng cầu có hiệu quả, kích thích tiêu dùng, sản
xuất, đầu tư để đảm bảo việc làm và tăng thu nhập.
Keynes cho rằng ngân sách nhà nước là một công cụ hữu hiệu trong việc kích
thích đầu tư tư nhân cũng như tiêu dùng của chính phủ. Ông đi đến kết luận : Chính
phủ phải thực hiện điều tiết bằng các chính sách kinh tế, những chính sách này nhằm
tăng cầu tiêu dùng. Ông cũng cho rằng Chính phủ có vai trò to lớn trong việc sử dụng
những chính sách kinh tế: chính sách thuế, chính sách tiền tệ, lãi suất nhằm thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Những chính sách can thiệp của chính phủ theo Ông đề nghị bao
gồm :
- Chính phủ sử dụng ngân sách để kích thích đầu tư (thông qua các đơn đặt
hàng của Chính phủ, trợ cấp vốn cho các doanh nghiệp).
- Áp dụng nhiều biện pháp để tăng lợi nhuận, giảm lãi suất.
- Tăng khối lượng tiền trong lưu thông, lạm phát có mức độ.
- Coi trọng hệ thống thuế, áp dụng thuế thu nhập lũy tiến để làm cho phân phối

công bằng hơn.
- Coi trọng đầu tư của Chính phủ vào khu vực công cộng, trợ cấp thất
nghiệp,…như là một loại bơm trợ lực khi đầu tư tư nhân giảm sút.
Như vậy trong mô hình tăng trưởng kinh tế của Keynes, chi tiêu công đóng vai
trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế – thông qua chi đầu tư phát triển và chi
thường xuyên của Chính phủ.
4.1.3.2. Mô hình tăng trƣởng kinh tế của Harrod và Domar (1940s)
Mô hình xem xét quan hệ giữa tăng trưởng và nhu cầu về vốn, coi đầu ra của bất
kỳ đơn vị kinh tế nào cũng đều phụ thuộc vào vốn đầu tư dành cho nó.
Mô hình này sử dụng hệ số ICOR để đo lường tốc độ tăng trưởng kinh tế. Hệ số
ICOR (hệ số gia tăng vốn và đầu ra) nói lên để tăng một đơn vị sản lượng cần có thêm

Trang 7

bao nhiêu đơn vị tiết kiệm (cũng có nghĩa là phải có bao nhiêu đơn vị đầu tư tăng
thêm). Hệ số này cũng cho biết trình độ kỹ thuật của sản xuất.
Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế phụ thuộc vào vốn đầu tư dành cho nó, quá
trình đầu tư của chính phủ cho nền kinh tế chính là chi tiêu công bên cạnh đầu tư tư
nhân nhằm cung cấp vốn để thúc đẩy tăng trưởng.
4.1.3.3. Mô hình tăng trƣởng kinh tế của Cobb-Douglas (1946)
Mô hình này cho rằng tổng mức cung (Y) của nền kinh tế được xác định bởi các
yếu tố đầu vào của sản xuất : lao động (L), vốn sản xuất (K), tài nguyên thiên nhiên
được sử dụng (R), khoa học công nghệ (A). Nói cách khác hàm sản xuất có dạng:
Y= F (L,K,R,A ) (1.1)
Lý thuyết trên chọn hàm sản xuất dạng Cobb-Douglas để thể hiện tác động của
các yếu tố đến tăng trưởng kinh tế :
Y = AK
α
L
β

R
γ


(1.2)
g = a + αk + βl + γr (1.3)
Trong đó :
g : là tốc độ tăng trưởng GDP
k,l,r : là tốc độ tăng trưởng các yếu tố đầu vào
a : là phần dư còn lại, phản ánh tác động của khoa học công nghệ.
Hàm sản xuất Cobb – Douglas cho biết có 4 yếu tố cơ bản tác động đến tăng
trưởng kinh tế và cách thức tác động là khác nhau giữa các yếu tố K,L,R và yếu tố A.
Lý thuyết cũng cho rằng khoa học công nghệ có vai trò quan trọng nhất đối với phát
triển kinh tế. Để tác động vào các yếu tố trên và để phát triển khoa học công nghệ thì
chi tiêu công giữ vai trò định hướng và hỗ trợ về chính sách và tài chính để tạo điều
kiện thuận lợi cho nghiên cứu và áp dụng tiến bộ khoa học. Lý thuyết này đưa ra một
gợi ý về mặt chính sách: chính phủ phải nhìn nhận vai trò chủ chốt trong nghiên cứu
khoa học cơ bản, do vậy cần thiết dành ra một khoản chi cho nghiên cứu khoa học bên
cạnh các khoản chi quản lý hành chính, chuyển giao và đầu tư.
4.1.3.4. Mô hình tăng trƣởng kinh tế của P.A.Samuelson (1948)
Lý thuyết về “cái vòng luẩn quẩn” và “cú huých từ bên ngoài” của P.A.
Samuelson được xây dựng dựa trên sự đảm bảo của 4 nhân tố: nhân lực, tài nguyên,
vốn, kỹ thuật. Tuy nhiên ở các nước đang phát triển các nhân tố này đều khan hiếm

Trang 8

nên gặp trở ngại lớn trong việc kết hợp giữa chúng, dẫn tới “cái vòng luẩn quẩn” của
sự nghèo khổ. Để tăng trưởng và phát triển kinh tế, cần có “cú huých” từ bên ngoài để
phá vỡ cái vòng luẩn quẩn ấy.
Điều này nghĩa là phải có đầu tư từ nước ngoài vào các nước đang phát triển.

Muốn vậy các nước nghèo phải tạo điều kiện thuận lợi bằng các chính sách kinh tế và
sử dụng các công cụ tài chính nhằm kích thích sự tích cực đầu tư tư bản nước ngoài
qua đó thúc đẩy kinh tế phát triển. Một hình thức khác của cú huých là nợ của chính
phủ. Khi nguồn lực trong nước khai thác không đủ, cần phải vay từ nước ngoài. Tuy
nhiên, nợ là một con dao hai lưỡi. Nếu vay quá mức và kiểm soát đầu ra của nợ kém
hiệu quả sẽ gây nhiều hậu quả lâu dài và khó khắc phục.
4.1.3.5. Mô hình tăng trƣởng mới của Romo Rucas và Scost (1980s)
Mô hình kết hợp giữa tri thức và tư bản nhân lực, coi tiến bộ kỹ thuật là nhân tố
quyết định đối với tăng trưởng kinh tế, mậu dịch quốc tế và tiền tệ quốc tế là động cơ
của tăng trưởng kinh tế. Các yếu tố này kết hợp với nhau sẽ thúc đẩy mạnh mẽ kinh tế
phát triển.
Kết luận rút ra từ việc nghiên cứu các mô hình:
- Tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào các yếu tố: vốn, tài nguyên, lao động, kỹ
thuật công nghệ, quan hệ phụ thuộc quốc tế và được vận hành trong cơ chế thị trường.
- Các mô hình kinh tế trước Keynes đều không đề cao vai trò của Chính phủ
trong phát triển kinh tế, vì kinh tế thế giới chủ yếu là nền kinh tế tự cung tự cấp hoặc
nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh. Tuy nhiên, kể từ cuối thế kỷ 19 trở đi, nền
kinh tế thế giới có nhiều biến động sau các cuộc chiến tranh thế giới, các cuộc khủng
hoảng kinh tế diễn ra trên quy mô rộng lớn, các lý thuyết về phát triển kinh tế theo nền
kinh tế thị trường tự do không có sự can thiệp của chính phủ đã trở nên không còn
thích hợp trong việc giải quyết những vấn đề mà nền kinh tế đương đại đặt ra.
- Các mô hình hiện đại đều nhấn mạnh vai trò của Chính phủ. Chính phủ đã sử
dụng các chính sách kinh tế, các công cụ tài chính can thiệp để kích thích kinh tế phát
triển. Các công cụ tài chính nói chung hay chi tiêu công nói riêng được chính phủ sử
dụng trên 2 phương diện: Về phương diện kinh tế: thông qua các khoản chi tiêu công,
chính phủ tiến hành trợ cấp và chia sẻ rủi ro với các doanh nghiệp, các nhà đầu tư
trong các lĩnh vực có lợi cho quốc kế dân sinh. Về phương diện xã hội : bằng việc

Trang 9


phối hợp chính sách thuế và chính sách chi tiêu công, chính phủ hướng vào thực hiện
chính sách điều tiết và phân phối thu nhập công bằng giữa các đối tượng trong xã hội.
4.2 . LÝ THUYẾT VỀ NỢ CÔNG
4.2.1 . Khái niệm về nợ công
Có 3 quan điểm về nợ công: theo quan điểm của Việt Nam, của ngân hàng thế
giới (WB) và theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF).
- Theo định nghĩa nợ công của Ngân hàng thế giới (WB)
Nợ công được hiểu là nghĩa vụ nợ của bốn nhóm chủ thể bao gồm: (1) nợ của
chính phủ trung ương và các bộ, ban, ngành trung ương; (2) nợ của các cấp chính
quyền địa phương; (3) nợ của ngân hàng trung ương và (4) nợ của các thể chế độc lập,
nhưng nguồn vốn hoạt động của nó do ngân sách nhà nước quyết định (trên 50% vốn
thuộc sở hữu nhà nước) và trong trường hợp vỡ nợ nhà nước phải trả nợ thay cho các
thể chế đó.
- Theo định nghĩa nợ công của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (2010), thì nợ công được hiểu là nghĩa vụ trả nợ của khu vực
công. Đi kèm với đó là định nghĩa cụ thể về khu vực công, bao gồm khu vực Chính
phủ và khu vực các tổ chức công (Hình 1.2).
Hình 2.2: Các thành phần của khu vực công theo định nghĩa của IMF
- Theo định nghĩa nợ công của Việt Nam
Năm 2009, Quốc hội đã ban hành Luật quản lý nợ công, được xem là một bước
tiến bộ lớn trong hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam về vấn đề này. Theo Bộ

Trang 10

Luật này thì nợ công bao gồm nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ của
chính quyền địa phương.
 Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước và vay
nước ngoài được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính
phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, ủy quyền
phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao gồm các

khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính
sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
 Nợ được chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính,
tín dụng vay trong nước và nước ngoài được chính phủ bảo lãnh.
 Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương ký kết, phát hành hoặc ủy quyền phát hành.
Như vậy, định nghĩa của IMF đầy đủ và chi tiết hơn nhiều so với Luật quản lý nợ
công của Việt Nam và của WB. Tuy nhiên khó có thể nói là có sự khác biệt lớn giữa
các định nghĩa này, do có thể coi các khoản nợ của khu vực của các tổ chức công là
các khoản nợ mà chính phủ sẽ bảo lãnh trong trường hợp các tố chức này vỡ nợ.
4.2.2 . Phân loại nợ công


Việc phân loại nợ công có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quản lý và sử dụng
nợ công. Tương ứng với mỗi loại nợ sẽ có giải pháp quản lý bảo đảm quy mô nợ phù
hợp, qua đó sẽ chủ động tăng hay giảm nợ để tạo nguồn thúc đẩy phát triển kinh tế –
xã hội.
Có nhiều tiêu chí phân loại nợ công, mỗi tiêu chí có ý nghĩa khác nhau trong việc
quản lý và sử dụng nợ công.
- Theo tiêu chí nguồn gốc địa lí. Nợ công phân loại theo tiêu chí này bao gồm:
nợ trong nước và nợ nước ngoài.
 Nợ trong nước là nợ được vay từ các cá nhân, tổ chức Việt Nam.
 Nợ nước ngoài là nợ công mà bên cho vay là Chính phủ nước ngoài, vùng
lãnh thổ, tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức và cá nhân nước ngoài.
Việc phân loại nợ trong nước và nợ nước ngoài có ý nghĩa quan trọng trong quản
lý nợ, giúp xác định chính xác hơn tình hình cán cân thanh toán quốc tế. Việc quản lý

Trang 11

nợ nước ngoài còn nhằm đảm bảo an ninh tiền tệ, vì các khoản vay nước ngoài chủ

yếu bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi hoặc các phương tiện thanh toán quốc tế khác.
- Theo trách nhiệm đối với chủ nợ. Theo trách nhiệm đối với chủ nợ thì nợ
công được phân loại thành nợ công phải trả và nợ công bảo lãnh.
 Nợ công phải trả là các khoản nợ mà Chính phủ, chính quyền địa phương có
nghĩa vụ trả nợ.
 Nợ công bảo lãnh là khoản nợ mà Chính phủ có trách nhiệm bảo lãnh cho người
vay nợ, nếu bên vay không trả được nợ thì Chính phủ sẽ có nghĩa vụ trả nợ.
- Theo tính chất ưu đãi của khoản vay. Nợ công được phân loại theo cách này
có ba loại là nợ công từ vốn vay ODA, nợ công từ vốn vay ưu đãi và nợ thương mại
thông thường.
 Vay ODA là khoản vay dựa trên tư cách Nhà nước và Chính phủ Việt Nam từ
nhà tài trợ có thể là chính phủ nước ngoài, tổ chức tài trợ song phương, tỏ
chức liên quốc gia hoặc liên chính phủ có khoản không hoàn lại (thành tố ưu
đãi) ít nhất là 35% (đối với khoản vay có ràng buộc) hoặc 25% (đối với các
khoản vay không ràng buộc).
 Vay ưu đãi là khoản vay có điều kiện vay ưu đãi hơn so với vay thương mại
nhưng thành tố ưu đãi chưa đạt tiêu chuẩn của vay ODA.
 Vay thương mại là khoản vay theo điều kiện thị trường thông qua phát hành
trái phiếu trên các thị trường tài chính.
- Theo trách nhiệm đối với chủ nợ thì nợ công được phân loại thành nợ công
phải trả và nợ công bảo lãnh. Nợ công phải trả là các khoản nợ mà Chính phủ, chính
quyền địa phương có nghĩa vụ trả nợ. Nợ công bảo lãnh là khoản nợ mà Chính phủ có
trách nhiệm bảo lãnh cho người vay nợ, nếu bên vay không trả được nợ thì Chính phủ
sẽ có nghĩa vụ trả nợ.
- Theo cấp quản lý nợ thì nợ công được phân loại thành nợ công của trung ương
và nợ công của chính quyền địa phương. Nợ công của trung ương là các khoản nợ của
Chính phủ, nợ do Chính phủ bảo lãnh. Nợ công của địa phương là khoản nợ công mà
chính quyền địa phương là bên vay nợ và có nghĩa vụ trực tiếp trả nợ. Theo quy định
của Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 thì những khoản vay nợ của chính quyền địa
phương được coi là nguồn thu ngân sách và được đưa vào cân đối, nên về bản chất nợ


Trang 12

công của địa phương được Chính phủ đảm bảo chi trả thông qua khả năng bổ sung từ
ngân sách trung ương.
4.2.3 . Các đặc trƣng của nợ công
- Là khoản nợ ràng buộc trách nhiệm trả nợ của Nhà nước. Khác với nợ
thông thường, nợ công là khoản nợ mà Nhà nước có trách nhiệm chi trả khoản nợ ấy.
Trách nhiệm trả nợ của Nhà nước được thể hiện dưới hai góc độ trực tiếp và gián tiếp.
 Trực tiếp được hiểu là cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ là người vay và do
đó, cơ quan nhà nước ấy sẽ chịu trách nhiệm trả nợ khoản vay (Chính phủ Việt
Nam hoặc chính quyền địa phương).
 Gián tiếp là trong trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền đứng ra bảo
lãnh để một chủ thể trong nước vay nợ, trong trường hợp bên vay không trả
được nợ thì trách nhiệm trả nợ sẽ thuộc về cơ quan đứng ra bảo lãnh (Chính
phủ bảo lãnh để Ngân hàng Phát triển Việt Nam vay vốn nước ngoài).
- Được quản lý theo quy trình chặt chẽ với sự tham gia của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền. Quản lý nợ công chặt chẽ nhằm đảm bảo hai mục đích:
 Thứ nhất, đảm bảo khả năng trả nợ của đơn vị sử dụng vốn vay từ đó đảm bảo
cán cân thanh toán vĩ mô và an ninh tài chính quốc gia.
 Thứ hai là để đạt được những mục tiêu của quá trình sử dụng vốn.
- Mục tiêu cao nhất trong việc huy động và sử dụng nợ công là phát triển
kinh tế – xã hội vì lợi ích cộng đồng. Nợ công được huy động và sử dụng vì lợi ích
chung của đất nước. Xuất phát từ bản chất của Nhà nước là thiết chế để phục vụ lợi ích
chung của xã hội, Nhà nước là của dân, do dân và vì dân nên các khoản nợ công được
quyết định phải dựa trên lợi ích của nhân dân, nhằm mục tiêu phát triển kinh tế – xã
hội của đất nước và nâng cao đời sống của nhân dân.
4.2.4 . Bản chất kinh tế của nợ công
Bản chất nợ không phải hoàn toàn không tốt, nợ công có nhiều tác động tích cực
cho nền kinh tế. Thực tế, các nước muốn phát triển nhanh đều phải đi vay. Những nền

kinh tế lớn nhất thế giới như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản… lại cũng chính là những
con nợ lớn. Nợ công có nhiều tác động tích cực, nhưng cũng có không ít tác động tiêu
cực.


Trang 13

- Tác động tích cực chủ yếu của nợ công bao gồm:
 Thứ nhất, nợ công làm gia tăng nguồn lực cho Nhà nước, từ đó tăng cường
nguồn vốn để phát triển cơ sở hạ tầng và tăng khả năng đầu tư đồng bộ của
Nhà nước. Muốn phát triển cơ sở hạ tầng nhanh chóng và đồng bộ, vốn là yếu
tố quan trọng nhất. Với chính sách huy động nợ công hợp lý, nhu cầu về vốn
sẽ từng bước được giải quyết để đầu tư cơ sở hạ tầng, từ đó gia tăng năng lực
sản xuất cho nền kinh tế;
 Thứ hai, nợ công góp phần tận dụng được nguồn tài chính nhàn rỗi trong dân
cư. Một bộ phận dân cư trong xã hội có các khoản tiết kiệm, thông qua việc
Nhà nước vay nợ mà những khoản tiền nhàn rỗi này được đưa vào sử dụng,
đem lại hiệu quả kinh tế cho cả khu vực công lẫn khu vực tư;
 Thứ ba, nợ công tận dụng được sự hỗ trợ từ nước ngoài và các tổ chức tài
chính quốc tế. Tài trợ quốc tế là một trong những hoạt động kinh tế – ngoại
giao quan trọng của các nước phát triển muốn gây ảnh hưởng đến các quốc gia
nghèo, cũng như muốn hợp tác kinh tế song phương. Biết tận dụng tốt những
cơ hội này, thì sẽ có thêm nhiều nguồn vốn ưu đãi để đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng, trên cơ sở tôn trọng lợi ích đối tác, đồng thời giữ vững độc lập, chủ
quyền đất nước.
- Bên cạnh những tác động tích cực, nợ công cũng gây ra những tác động tiêu cực:
Nợ công gia tăng sẽ gây áp lực lên chính sách tiền tệ, đặc biệt là từ các khoản tài
trợ ngoài nước. Nếu kỷ luật tài chính của Nhà nước lỏng lẻo và thiếu cơ chế giám sát
chặt chẽ việc sử dụng và quản lý nợ công sẽ dẫn đến tình trạng tham nhũng, lãng phí
tràn lan. Tình trạng này làm thất thoát các nguồn lực, giảm hiệu quả đầu tư và điều

quan trọng hơn là giảm thu cho ngân sách. Nhận biết những tác động tích cực và tiêu
cực nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực là điều hết sức cần thiết trong
xây dựng và thực hiện pháp luật về quản lý nợ công.
4.2.5 . Các chỉ tiêu đánh giá nợ công.
Về bản chất, nợ công chính là các khoản vay để trang trải thâm hụt ngân sách.
Vay nợ thực chất là cách đánh thuế dần dần, được hầu hết chính phủ các nước sử dụng
để tài trợ cho các hoạt động chi ngân sách. Tỷ lệ nợ công/GDP chỉ phản ảnh một phần
nào đó về mức độ an toàn hay rủi ro của nợ công. Mức độ an toàn hay nguy hiểm của

Trang 14

nợ công không chỉ phụ thuộc vào tỷ lệ nợ/GDP mà quan trọng hơn, phụ thuộc vào tình
trạng phát triển của nền kinh tế.
Để đánh giá tính bền vững của nợ công, tiêu chí tỉ lệ nợ công/GDP được coi là
chỉ số đánh giá phổ biến nhất cho cách nhìn tổng quát về tình hình nợ công của một
quốc gia. Mức an toàn của nợ công được thể hiện qua việc nợ công có vượt ngưỡng an
toàn tại một thời điểm hay giai đoạn nào đó không. Tiêu chí để đánh giá mức an toàn
của nợ công được thể hiện cụ thể là:
- Thứ nhất, giới hạn nợ công không vượt quá 50% – 60% GDP hoặc không
vượt quá 150% kim ngạch xuất khẩu. Ngân hàng Thế giới đưa ra mức quy định
ngưỡng an toàn nợ công là 50% GDP. Các tổ chức quốc tế cho rằng, tỷ lệ nợ hợp lý
đối với các nước đang phát triển nên ở mức dưới 50% GDP.
- Thứ hai, dịch vụ trả nợ công không vượt quá 15% kim ngạch xuất khẩu và
dịch vụ trả nợ của Chính phủ không vượt quá 10% chi ngân sách. Tuy nhiên, trên
thực tế không có hạn mức an toàn chung cho các nền kinh tế. Không phải tỷ lệ nợ
công/GDP thấp là trong ngưỡng an toàn và ngược lại. Mức độ an toàn của nợ công phụ
thuộc vào tình trạng mạnh hay yếu của nền kinh tế thông qua hệ thống chỉ tiêu kinh tế
vĩ mô.
- Thứ ba, đánh giá nợ công trong mối liên hệ với các tiêu chí kinh tế vĩ mô. Để
đánh giá đúng mức độ an toàn của nợ công không thể chỉ quan tâm đến tỷ lệ nợ/GDP,

mà cần phải xem xét nợ một cách toàn diện trong mối liên hệ với các chỉ tiêu kinh tế vĩ
mô, nhất là tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động tổng hợp, hiệu
quả sử dụng vốn (qua tiêu chí ICOR), tỷ lệ thâm hụt ngân sách, mức tiết kiệm nội địa
và mức đầu tư xã hội… Bên cạnh đó, những tiêu chí như: cơ cấu nợ công, tỷ trọng các
loại nợ, cơ cấu lãi suất, thời gian trả nợ… cũng cần được xem xét khi đánh giá bản
chất nợ công, tính bền vững của nợ công. Khi nợ công tăng cao, vượt quá xa giới hạn
được coi là an toàn, nền kinh tế rất dễ bị tổn thương và chịu nhiều sức ép cả bên trong
và bên ngoài.





Trang 15

4.3 . Tác động của nợ công đến tăng trƣởng kinh tế
4.3.1 . Lý thuyết và các quan điểm của các nhà kinh tế học trên thế giới về mối
quan hệ giữa nợ công đối với tăng trƣởng kinh tế.
4.3.1.1 . Lý thuyết cân bằng của David Ricardo.
Lý thuyết này cho rằng người tiêu dùng hiểu rõ các ràng buộc ngân sách của
chính phủ, do đó việc thay đổi thuế ở bất cứ thời gian nào cũng sẽ không ảnh hưởng
đến mức chi tiêu của họ. Chính phủ có thể gia tăng chi tiêu của mình bằng cách tăng
thuế hoặc phát hành trái phiếu. Khi trái phiếu được mua thì cuối cùng khi đáo hạn nó
phải được hoàn trả cả vốn gốc và lãi bằng cách tăng thuế trong tương lai. Do đó việc
chính phủ tăng thuế hay vay nợ đơn giản là việc lựa chọn đánh thuế ở hiện tại hay
đánh thuế trong tương lai. Khi chính phủ lựa chọn chi tiêu thông qua thâm hụt ngân
sách (vay nợ hoặc giảm thuế), có nghĩa là chính phủ lựa chọn đánh thuế trong tương
lai, người đóng thuế biết được điều này và họ sẽ tiết kiệm trong hiện tại để có thể đáp
ứng gánh nặng thuế cao hơn trong tương lai. Giả sử người trả thuế sẽ tiết kiệm bằng
cách mua trái phiếu của chính phủ thông qua cắt giảm các khoản tiêu dùng trong hiện

tại, và do đó làm cho việc gia tăng chi tiêu của chính phủ không gây ra bất cứ tác động
nào lên tổng cầu.
Lý thuyết cân bằng Ricardo dựa trên giả thuyết ràng buộc ngân sách liên thời
gian của chính phủ và giả thuyết thu nhập vĩnh viễn.
- Giả thuyết ràng buộc ngân sách cho rằng nợ công là bền vững khi mà tổng dư
nợ hiện tại bằng với giá trị hiện tại của những khoản thặng dư chính phủ trong tương
lai.
- Giả thuyết thu nhập vĩnh viễn cho rằng hộ gia đình chi tiêu dựa trên thu nhập
vĩnh viễn của họ chứ không dựa trên thu nhập tạm thời, do đó họ sẽ không tăng chi
tiêu của mình khi mà thu nhập của họ sẽ chỉ gia tăng hiện thời.
Nếu lý thuyết cân bằng Ricardo là đúng thì chính sách tài khóa sẽ trở nên thừa
thải, tuy nhiên trên thực tế các chính sách tài khóa của chính phủ đều có tác dụng thúc
đẩy gia tăng tổng cầu, gia tăng thu nhập.
Như vậy, nguyên tắc ngân sách thăng bằng là một nguyên tắc quan trọng của
ngân sách nhà nước được các nhà kinh tế học cổ điển hết sức coi trọng và hiện nay vẫn
được ghi nhận trong pháp luật ở hầu hết các quốc gia về quản lý tài chính công.

×