BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TỪ THỊ ĐỊNH
MỐI QUAN HỆ GIỮA
GIÁ CHỨNG KHOÁN VÀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI:
NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM TẠI VIỆT NAM
Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2013
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TỪ THỊ ĐỊNH
MỐI QUAN HỆ GIỮA
GIÁ CHỨNG KHOÁN VÀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI:
NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài Chính – Ngân hàng
Mã Số: 60340201
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa
Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2013
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này hoàn toàn do tôi thực hiện. Các trích dẫn và số liệu
tôi sử dụng trong luận văn đều được dẫn nguồn rõ ràng và chính xác.
TPHCM, ngày 13 tháng 11 năm 2013
Người viết đề tài
Từ Thị Định
MỤC LỤC
o0o
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục bảng, biểu đồ
Tóm tắt
LỜI CAM ĐOAN 1
1. GIỚI THIỆU 3
1.1 Tính cấp thiết của Đề tài 3
1.2 Đối tƣợng và mục tiêu nghiên cứu: 4
1.3 Phạm vi nghiên cứu: 4
1.4 Phƣơng pháp nghiên cứu: 4
1.5 Kết cấu của Đề tài 5
2. CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM LIÊN QUAN 6
2.1 Mối quan hệ giữa chỉ số giá chứng khoán và tỷ giá hối đoái: 6
2.2 Mối quan hệ giữa chỉ số giá chứng khoán và các biến kinh tế vĩ mô khác: 18
3. DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 36
3.1 Tổng quan về thị trƣờng chứng khoán và các biến kinh tế vĩ mô: 36
3.2 Dữ liệu nghiên cứu: 43
3.3 Phƣơng pháp nghiên cứu: 43
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 49
4.1 Kết quả kiểm định tính dừng của các chuỗi dữ liệu thời gian: 49
4.2 Kiểm định mối quan hệ đồng liên kết giữa các biến: 52
4.3 Ƣớc lƣợng mối quan hệ ngắn hạn giữa chỉ số giá chứng khoán và các biến
kinh tế vĩ mô theo mô hình ARDL: 53
5. KẾT LUẬN VÀ NGỤ Ý CHÍNH SÁCH 55
Phụ lục
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
1. Bảng 2.1: Tóm tắt các kết quả nghiên cứu thực nghiệm
2. Bảng 4.1: Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
1. Biểu đồ 3.1: Chỉ số giá chứng khoán Việt Nam (VN-Index)
2. Biểu đồ 3.2: Tỷ giá hối đoái tại Việt Nam (USD/VND)
3. Biểu đồ 3.3: Chỉ số giá tiêu dùng tại Việt Nam (%)
4. Biểu đồ 3.4: Diễn biến giá dầu thế giới (OP)
1
TÓM TẮT
Thị trường chứng khoán là định chế tài chính cao nhất của một nền kinh tế phát
triển. Những biến động thăng trầm của thị trường với những rủi ro tiềm ẩn và lợi nhuận
vượt trội luôn là những chủ đề hấp dẫn cho các nhà nghiên cứu kinh tế cũng như các nhà
đầu tư trên thị trường chứng khoán. Đối với thị trường chứng khoán Việt Nam với tuổi
đời chưa nhiều nhưng đã mang lại không ít niềm vui và nổi buồn cho những ai quan tâm
đến chứng khoán từ khi thị trường ra đời cho đến nay.
Trong số các yếu tố tác động lên sự biến động của thu nhập từ thị trường chứng
khoán, thì các yếu tố thuộc về chính sách vĩ mô đã thu hút được khá nhiều sự quan tâm
của các nhà nghiên cứu trong nước cũng như trên thế giới. Tại Việt Nam, các biến số
kinh tế vĩ mô như tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP), chỉ số giá tiêu dùng (CPI), chỉ số sản
xuất công nghiệp (IP), lãi suất, cung tiền và tỷ giá hối đoái … đã thu hút nhiều nghiên
cứu thực nghiệm của các học giả. Tuy nhiên, các kết luận xung quanh mối quan hệ giữa
các yếu tố vĩ mô đối với chỉ số giá chứng khoán không có một sự thống nhất rõ ràng giữa
các nghiên cứu.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam liên tục nhập siêu, cộng với áp
lực từ nhu cầu vàng trong nước… đẩy nhu cầu ngoại tệ tăng cao, trong khi đó dự trữ
ngoại tệ tại Việt Nam còn khá khiêm tốn, điều đó tạo áp lực lên các cơ quan điều hành
trong vấn đề kiểm soát tỷ giá giữa VND và USD. Thực tế cho thấy, sự biến động của tỷ
giá hối đoái sẽ tác động đến khá nhiều yếu tố kinh tế xã hội như kết quả kinh doanh của
các doanh nghiệp xuất khẩu, nhập khẩu, dòng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ nước
ngoài, nợ quốc gia, tâm lý của người dân đối với việc nắm giữ đồng nội tệ và tình trạng
đôla hóa trong nền kinh tế,… Xuất phát từ những vấn đề thực tiễn nêu trên, tác giả đã
chọn đề tài “Mối quan hệ giữa giá chứng khoán và tỷ giá hối đoái – Nghiên cứu thực
nghiệm tại Việt Nam” để làm rõ sự ảnh hưởng của một số yếu tố vĩ mô bao gồm tỷ giá
hối đoái, lạm phát và giá dầu lên thu nhập từ thị trường chứng khoán. Luận văn sử dụng
dữ liệu chuỗi thời gian theo tháng kết hợp với phương pháp phân tích đồng tích hợp và
mô hình hiệu chỉnh sai số ECM để xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố trên đến
2
chỉ số VN-INDEX trong mối quan hệ ngắn hạn và dài hạn trong giai đoạn từ tháng 11
năm 2007 đến tháng 07 năm 2013.
Kết quả thực nghiệm cho thấy, tại Việt Nam có tồn tại mối quan hệ đồng tích hợp
giữa các biến trong nghiên cứu. Trong dài hạn, tỷ giá hối đoái và giá dầu có tác động tích
cực lên giá chứng khoán, ngược lại lạm phát có tác động ngược chiều. Trong ngắn hạn,
tác động của tỷ giá hối đoái lên chỉ số giá chứng khoán dường như không tồn tại, trong
khi đó giá dầu có tác động tích cực lên giá chứng khoán, ngoài ra lạm phát có mối quan
hệ nhân quả hai chiều với chỉ số giá chứng khoán.
3
1. GIỚI THIỆU
1.1 Tính cấp thiết của Đề tài
Kinh tế Việt Nam đã có những thay đổi rõ rệt, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân
và tăng trưởng GDP bình quân đầu người trong giai đoạn 1985 – 1999 lần lượt đạt
6,4%/năm và 4,5%/năm; đạt 7,0% và 5,7% trong giai đoạn 2000 - 2012 (Worldbank
Indicators, 2013). Với sự kiện thành lập được thị trường giao dịch chứng khoán chính
thức vào năm 2000 và gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào năm 2007,
Chính Phủ Việt Nam đã thể hiện quyết tâm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua chính
sách huy động các nguồn lực tài chính bao gồm cả trong nước và ngoài nước, trong đó
dòng vốn đầu tư từ nước ngoài đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế
(Solow, 1956).
Sau khi gia nhập WTO, kinh tế Việt Nam đã có sự tăng trưởng kinh tế đáng kể,
thúc đẩy sự phát triển của thương mại, đầu tư, tự do hóa ngành Tài chính và thể hiện rõ
nhất là sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán . Thành tựu quan trọng mà thị
trường chứng khoán Việt Nam đạt được kể từ khi tham gia WTO chính là sự gia tăng
đáng kể của dòng vốn đầu tư vào thị trường trong nước. Trong số các nhân tố tác động
đến sự thay đổi của dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam thì sự ổn định tỷ giá hối
đoái là một nhân tố khá quan trọng. Sự thay đổi dòng vốn đầu tư nước ngoài sẽ ảnh
hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế, qua đó ảnh hưởng đến sự thay đổi của chỉ số giá
chứng khoán. Cho đến nay đã có nhiều nghiên cứu thực nghiệm để kiểm định mối quan
hệ giữa chỉ số giá chứng khoán và tỷ giá hối đoái. Trên cơ sở đó, đề tài “Mối quan hệ
giữa giá chứng khoán và tỷ giá hối đoái – Nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam” sẽ
góp phần bổ sung thêm các kết quả thực nghiệm liên quan đến mối quan hệ giữa các biến
vĩ mô như tỷ giá hối đoái, lạm phát, giá dầu và chỉ số giá chứng khoán.
Bài viết được thực hiện dựa trên cơ sở dữ liệu chuỗi thời gian của chỉ số giá chứng
khoán (đại diện là Vn-Index) và tỷ giá hối đoái USD/VND trong giai đoạn từ tháng 11
năm 2007 đến tháng 07 năm 2013. Bài viết cung cấp và phân tích các số liệu để tìm hiểu
4
các lựa chọn chính sách của Việt Nam, từ đó gợi ý một số giải pháp chính sách nhằm
hướng đến một nền kinh tế phát triển bền vững.
1.2 Đối tƣợng và mục tiêu nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là mối quan hệ dài hạn giữa chỉ số giá
chứng khoán Việt Nam (VN-Index) và tỷ giá hối đoái, lạm phát và giá dầu thô.
Mục tiêu nghiên cứu để trả lời cho các câu hỏi sau:
Xác định liệu có hay không mối quan hệ dài hạn giữa chỉ số giá chứng khoán và
tỷ giá hối đoái, lạm phát và giá dầu thô trong trường hợp tại Việt Nam ?
Ngoài tác động của tỷ giá hối đoái, các biến số kinh tế khác như : lạm phát và giá
dầu lên chỉ số giá chứng khoán tại Việt Nam như thế nào ?
1.3 Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian từ tháng 11 năm 2007 đến tháng 07
năm 2013.
Dữ liệu gồm chỉ số giá chứng khoán Việt Nam (VN-Index), tỷ giá hối đoái danh
nghĩa (USD/VND), chỉ số giá tiêu dùng tại Việt Nam và giá dầu thế giới được cung cấp
từ Bloomberg, Sở giao dịch chứng khoán, Tổng cục thống kê.
1.4 Phƣơng pháp nghiên cứu:
Đầu tiên, Nghiên cứu áp dụng kiểm định ADF và PP được đề xuất bởi Dickey
and Fuller (1979, 1981) và Phillips-Perron (1988) để kiểm tra tính dừng của các chuỗi dữ
liệu.
Tiếp theo, Nghiên cứu kiểm định mối quan hệ đồng liên kết giữa các biến bằng
phương pháp ARDL.
Cuối cùng, Tác giả ước lượng mối quan hệ ngắn hạn giữa chỉ số giá chứng khoán
và các biến kinh tế vĩ mô theo mô hình ARDL.
5
Nghiên cứu sử dụng phần mềm Eview 6.0 để thực hiện các kiểm định và ước
lượng cho dữ liệu chuỗi thời gian tại Việt Nam.
1.5 Kết cấu của Đề tài
Đề tài được thực hiện sẽ bổ sung thêm bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ
giữa chỉ số giá chứng khoán, tỷ giá hối đoái, lạm phát và giá dầu trong trường hợp của
Việt Nam với dữ liệu được sử dụng là dữ liệu chuỗi thời gian hàng tháng từ tháng 11
năm 2007 đến tháng 07 năm 2013.
Đề tài gồm có 5 phần như sau:
Phần Giới thiệu sẽ được tác giả giới thiệu tóm tắt các nội dung quan trọng của
Nghiên cứu như tính cấp thiết của Đề tài, đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên
cứu, phạm vi và ý nghĩa của Nghiên cứu.
Phần thứ hai, tác giả sẽ giới thiệu tóm tắt các nghiên cứu thực nghiệm liên quan
làm cơ sở lý thuyết cho Nghiên cứu này.
Phần thứ ba, tác giả sẽ giới thiệu về dữ liệu nghiên cứu, tổng quan về thị trường
chứng khoán và các biến số kinh tế vĩ mô, phương pháp nghiên cứu của Đề tài.
Phần thứ tư, tác giả sẽ trình bày tóm tắt các kết quả nghiên cứu của Đề tài.
Trong phần thứ năm, tác giả sẽ tóm tắt các kết luận của Nghiên cứu này, ngụ ý
đối với các chính sách kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong quá trình xây dựng và phát triển
thị trường tài chính, thị trường chứng khoán, mà cụ thể là chính sách về tỷ giá hối đoái,
kiểm soát lạm phát tại Việt Nam.
6
2. CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM LIÊN QUAN
2.1 Mối quan hệ giữa chỉ số giá chứng khoán và tỷ giá hối đoái:
2.1.1 Nghiên cứu của Abdalla, I.S.A và Murinde V. (1997) – Exchange Rate and
Stock Price Interactions in emerging Financial Markets: Evidence of India,
Korea, Pakistan and Philippines
Mục đích chính: Abdalla và Murinde (1997) nghiên cứu các mối tương tác giữa
các tỷ giá hối đoái và các chỉ số giá chứng khoán trên các thị trường tài chính của 4 quốc
gia mới nổi bao gồm Ấn Độ, Hàn Quốc, Pakistan và Philippines. Động cơ thúc đẩy để
thiết lập các mối quan hệ nhân quả giữa từ sự truyền dẫn giá cả vào thị trường ngoại hối
và thị trường chứng khoán, các mối quan hệ này ngụ ý cho những cố gắng đang diễn ra
để phát triển thị trường chứng khoán trong các nền kinh tế mới nổi đồng thời với sự dịch
chuyển chính sách hướng tới tỷ giá hối đoái thả nổi một cách độc lập.
Dữ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu hàng tháng trong giai đoạn từ tháng 01 năm 1985 tới
tháng 07 năm 1994 cho các biến trong mô hình là các chỉ số giá chứng khoán của các
quốc gia và chỉ số thị trường chứng khoán IFC được thu thập từ Datastream và tỷ giá hối
đoái thực hàng tháng (REER) được cung cấp từ công ty Morgan Guaranty Trust tại New
York. Lý thuyết về chỉ số tỷ giá hối đoái thực theo Rhomberg (1981).
Đầu tiên, các Tác giả sử dụng kiểm định ADF theo Augmented Dickey-Fuller
(1979) để kiểm tra nghiệm đơn vị của các chuỗi dữ liệu. Kết quả kiểm định cho thấy,
chuỗi dữ liệu của tất cả các biến không dừng ở bậc gốc và chỉ dừng sau khi lấy sai phân
bậc 1. Tiếp theo, Nghiên cứu áp dụng phương pháp kiểm định đồng liên kết theo Engle
and Granger (1987) để xác định mối quan hệ dài hạn giữa các biến quan sát. Sau đó, các
Tác giả tiến hành kiểm định mối quan hệ nhân quả Granger giữa các biến theo 2 phương
pháp: 1) Kiểm định nhân quả Granger chuẩn được thực hiện cho các biến không có mối
quan hệ đồng liên kết (tại Hàn Quốc và Pakistan); 2) Kiểm định nhân quả Granger dựa
trên mô hình ECM cho các biến có mối quan hệ đồng liên kết (tại Ấn Độ và Philippines)
vì sử dụng hình thức tự hồi quy vector chuẩn để sai phân dữ liệu đối với các biến có mối
7
quan hệ đồng liên kết là sai quy định theo MacDonald and Kearney (1987); Miller and
Russek (1990); Lyons and Murinde (1994).
Trước khi áp dụng kiểm định nhân quả Granger, các Tác giả cũng đã xác định độ
trễ tối ưu cho mô hình nghiên cứu. Tuy nhiên, các tiêu chuẩn gồm Akaike’s final
prediction error criterion (FPE), Akaike’s information criterion (AIC) and the Schwartz-
Bayes information criterion cho các kết quả trái ngược nhau. Do vậy, các Tác giả đã đề
xuất chọn độ trễ tối ưu theo tiêu chuẩn R2. Ngoài ra, Nghiên cứu cũng thực hiện các
kiểm định White, kiểm định Glejser and Ramsey để kiểm tra hiện tượng phương sai sai
số thay đổi; kiểm định Lagrange multiplier (LM) để kiểm tra hiện tượng tự tương quan;
kiểm định phá cấu trúc Chow.
Cuối cùng, các Tác giả kiểm định các mối tương tác giữa 4 thị trường tài chính
mới nổi bằng cách tính toán hệ số tương quan của các mức thu nhập trên các thị trường.
Theo Pindyck and Rubinfeld (1991, p. 64), phương pháp tương quan không liên quan đến
giả định ngầm của quan hệ nhân quả trong phân tích hồi quy, tuy nhiên các mối tương
quan này có thể làm sáng tỏ những cơ hội cho các nhà đầu tư trong vấn đề đa dạng hóa
trên các thị trường này, và về những tác động của sự đa dạng hóa đối với các Nghiên cứu
về quan hệ nhân quả từ tỷ giá hối đoái lên chỉ số giá chứng khoán.
Kết quả nghiên cứu: Abdalla và Murinde (1997) đã làm sáng tỏ các mối quan hệ
giữa các tỷ giá hối đoái và các chỉ số giá chứng khoán trong một số thị trường mới nổi.
Kết quả nghiên cứu cho thấy không có sự thống nhất về mối quan hệ giữa hai biến tỷ giá
hối đoái và giá chứng khoán trên các thị trường. Tại thị trường Philippines không có mối
liên hệ trong dài hạn, nhưng ở Hàn Quốc, Pakistan và Ấn Độ có tồn tại mối liên hệ trong
ngắn hạn và dài hạn giữa tỷ giá hối đoái và giá cổ phiếu. Đối với mối quan hệ nhân quả,
kết quả nghiên cứu cho thấy ở Hàn Quốc, Pakistan và Ấn Độ, có tồn tại sự tác động của
tỷ giá hối đoái tác động lên giá chứng khoán, trong khi đó ở Philippines tồn tại sự tác
động của giá chứng khoán lên tỷ giá. Kết quả thực nghiệm này phù hợp với một số
nghiên cứu trước đó được thực hiện trên nền các kinh tế phát triển. Theo Tác giả, trong
trường hợp của quan hệ nhân quả Granger từ tỷ giá hối đoái đến giá cổ phiếu, những thay
8
đổi trong tỷ giá hối đoái sẽ ảnh hưởng đến các công ty xuất khẩu và cuối cùng ảnh hưởng
đến giá cổ phiếu. Do vậy, Tác giả cho rằng các Chính phủ của 4 thị trường mới nổi nên
thận trọng trong việc thực hiện các chính sách tỷ giá hối đoái, vì chúng sẽ tác động lên
thị trường chứng khoán còn non trẻ.
2.1.2 Nghiên cứu của Nath and Samanta (2003) - Relationship Between Exchange
Rate and Stock Prices in India – An Empirical Analysis
Mục đích chính: Nath and Samanta (2003) kiểm tra mối liên hệ động giữa thị
trường ngoại hối và thị trường chứng khoán tại Ấn Độ. Theo hai tác giả, trong khi các
nghiên cứu trước đây đã cho thấy có tồn tại sự tương tác có ý nghĩa giữa hai thị trường,
Nghiên cứu này tiếc lộ rằng thu nhập từ thị trường ngoại hối và thị trường chứng khoán
tại Ấn Độ không liên quan đến nhau, mặc dù trong những năm gần đây, thu nhập từ thị
trường chứng khoán có tác động nhân quả lên thu nhập từ thị trường ngoại hối và chịu
tác động nhẹ theo hướng ngược lại.
Dữ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu: Nghiên cứu sử dụng dữ liệu hàng ngày
của chỉ số thị trường chứng khoán và tỷ giá hối đoái (tỷ giá giữa đồng Rupi Ấn Độ và đô
la Mỹ) tại Ấn Độ. Dữ liệu được thu thập trong giai đoạn từ tháng 3 năm 1993 đến tháng
12 năm 2002. Chỉ số chứng khoán S&P CNX NIFTY của Sở giao dịch chứng khoán
quốc gia Ấn Độ (NSE) được chọn để đại diện cho thị trường chứng khoán Ấn Độ. Để
phân tích mối quan hệ giữa chỉ số thị trường chứng khoán (NF) và tỷ giá hối đoái (ER)
tại Ấn Độ, đầu tiên các tác giả sử dụng phương pháp ADF theo Augmented Dickey-
Fuller (1979) để kiểm định tính dừng của hai chuỗi dữ liệu. Tiêu chuẩn Schwarz
Criterion được chọn để tìm độ trễ tối ưu. Các dữ liệu được lấy logarit tự nhiên trước khi
phân tích. Kết quả kiểm định ADF cho thấy hai chuỗi dữ liệu có nghiệm đơn vị ở bậc ban
đầu và chỉ dừng ở sai phân bậc 1. Tiếp theo, phương pháp kiểm định đồng liên kết của
Johansen (1991) được sử dụng để kiểm tra mối quan hệ dài hạn giữa hai biến. Kiểm định
Trace cho thấy NF và ER tại Ấn Độ không tồn tại mối quan hệ đồng liên kết. Sau cùng,
các tác giả tăng độ trễ lên trễ 5 với kỳ vọng 5 ngày giao dịch trong 1 tuần là giai đoạn đủ
9
để có được sự ảnh hưởng của một thị trường lên thị trường còn lại và thực hiện kiểm định
Granger để tìm kiếm quan hệ nhân quả giữa hai biến.
Kết quả nghiên cứu: Nath and Samanta (2003) tìm thấy rằng, đối với giai đoạn
mẫu đầy đủ, các kết quả đều đưa đến kết luận hai thị trường này đã không có bất kỳ mối
quan hệ nhân quả nào. Nếu kiểm tra theo từng năm, kết quả nghiên cứu cho thấy không
có bất kỳ mối quan hệ nhân quả quan trọng nào giữa tỷ giá và biến động giá cổ phiếu,
ngoại trừ một số năm gồm 1993, 2001 và 2002 có ảnh hưởng nhân quả một chiều từ thu
nhập của chỉ số chứng khoán lên thu nhập của thị trường ngoại hối được phát hiện (tương
ứng với trị thống kê F ở mức ý nghĩa 5%). Ảnh hưởng quan hệ nhân quả rất nhẹ theo
chiều ngược lại cũng được tìm thấy trong một số năm (1997, 2002). Những kết quả này
đã mở ra một số vấn đề thú vị liên quan đến tỷ giá hối đoái và giá cổ phiếu của mối quan
hệ nhân quả.
2.1.3 Nghiên cứu của Morales (2007) – Dynamic Relationship Between Stock Prices
and Exchange Rates: Evidence from Four Transition Economies
Mục đích nghiên cứu: Morales (2007) kiểm tra mối quan hệ giữa tỷ giá và giá
chứng khoán ở thị trường 04 quốc gia Đông Âu gồm Cộng Hòa Séc, Hungary, Ba Lan
and Slovakia, và giá chứng khoán trên 3 thị trường khác gồm Mỹ, Đức và Anh – đại diện
cho môi trường tài chính quốc tế.
Dữ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu:
Tác giả sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian theo ngày từ năm 1999 đến năm 2006 cho
các biến trong mô hình lần lượt gồm tỷ giá hối đoái (Czech Koruna, Hungarian Forint,
Polish Zloty) và chỉ số giá chứng khoán (Prague Se PX, Budapest BUX, Warsaw General
Index, Slovakia SAX 16) của 4 quốc gia Đông Âu và 3 chỉ số thị trường chứng khoán
gồm Đức (DAX), Anh (FTSE 100) và Mỹ (Down Jones Industrial).
Để phân tích mối quan hệ bao gồm cả ngắn hạn và dài hạn giữa các biến, đầu tiên,
tác giả sử dụng kiểm định ADF theo Augmented Dickey-Fuller (1979) và kiểm định PP
10
theo Phillips & Perron (1988) để tìm nghiệm đơn vị của các chuỗi dữ liệu. Kết quả kiểm
định ADF cho thấy tất cả các chuỗi dữ liệu đều có nghiệm đơn vị ở bậc gốc và chỉ dừng
khi lấy sai phân bậc 1. Ngoài ra, bậc trễ tối ưu trong nghiên cứu này được lựa chọn theo
tiêu chuẩn Akaike Information Criterion (AIC) và Hannan Quinn criterion (HQ). Kiểm
định Lagrange Multiplier (LM) cũng được áp dụng để kiểm tra hiện tượng tự tương quan.
Cuối cùng, nghiên cứu sử dụng phương pháp Johansen để kiểm tra mối quan hệ đồng
liên kết giữa các biến quan sát. Ước lượng VECM và kiểm định nhân quả Granger được
sử dụng để phân tích mối quan hệ giữa các biến.
Kết quả nghiên cứu chính: Morales (2007) cho thấy rằng không có bằng chứng
thống nhất về mối quan hệ giữa giá cổ phiếu và tỷ giá trong ngắn hạn hoặc dài hạn tại các
quốc gia. Kết quả của phương pháp VECM cho thấy có một mối quan hệ ngắn hạn tồn tại
giữa giá cổ phiếu và tỷ giá hối đoái của Slovakia, và giá cổ phiếu của Đức. Kết quả kiểm
định Granger cho thấy một mối quan hệ tác động một chiều từ tỷ giá hối đoái lên giá cổ
phiếu trong trường hợp của Czech Republic, Hungary, Poland. Ngoài ra còn có bằng
chứng về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái của Hungary lên giá chứng khoán của Anh, tỷ
giá hối đoái từ Ba Lan lên giá cổ phiếu của Anh, từ tỷ giá hối đoái của Cộng hòa Séc lên
giá cổ phiếu Anh, và tỷ giá hối đoái của Slovakia lên giá cổ phiếu Anh. Và cuối cùng Tác
giả cũng tìm thấy bằng chứng về quan hệ nhân quả từ giá cổ phiếu với giá cổ phiếu trong
trường hợp của Hungary đến Anh, Anh đến Ba Lan và Hoa Kỳ đến Ba Lan.
2.1.4 Nghiên cứu của Rahman (2009) - Dynamic Relationship between Stock Prices
and Exchange Rates: Evidence from Three South Asian Countries
Mục đích chính của Nghiên cứu: Rahman (2009) kiểm tra mối quan hệ giữa chỉ
số giá chứng khoán và tỷ giá hối đoái ở 03 nước Nam Á mới nổi gồm Bangladesh, India
and Pakistan.
Dữ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu: Nghiên cứu sử dụng dữ liệu chuỗi thời
gian hàng tháng từ tháng 1 năm 2003 đến tháng 6 năm 2008. Các biến nghiên cứu chính
gồm có tỷ giá hối đoái danh nghĩa giữa đồng Taka của Bangladeshi, đồng Rupee của
Indian và đồng Rupee của Pakistan với đồng đôla Mỹ và chỉ số chứng khoán Dhaka,
11
Bombay và Karachi. Đầu tiên, tác giả sử dụng hai kiểm định ADF và PP theo
Augmented Dickey-Fuller (1979) và Phillips & Perron (1988) để kiểm tra tính dừng của
các chuỗi dữ liệu. Kết quả kiểm định ADF và PP cho thấy, các chuỗi dữ liệu ban đầu của
tỷ giá hối đoái và chỉ số giá chứng khoán có nghiệm đơn vị và chỉ dừng ở sai phân bậc 1.
Tiếp theo, phương pháp kiểm định đồng liên kết theo Johansen and Juselius (1990) được
sử dụng để tìm kiếm mối quan hệ dài hạn giữa các biến. Sau cùng, tác giả sử dụng kiểm
định Granger dựa trên ước lượng VECM theo Granger (1988) để xác định mối quan hệ
nhân quả giữa các biến.
Kết quả nghiên cứu chính: Trong nghiên cứu này, Rahman (2009) đã tìm thấy tỷ
giá hối đoái và giá cổ phiếu là hai chuỗi dữ liệu không dừng. Phương pháp Johansen
cũng cho thấy không có mối quan hệ đồng tích hợp giữa các cặp dữ liệu và phương pháp
Granger cho kết quả là không có mối quan hệ nhân quả nào giữa giá cổ phiếu và tỷ giá
hối đoái ở các quốc gia này. Theo tác giả, có một niềm tin chung giữa các nhà đầu tư
rằng có một mối liên hệ giữa tỷ giá hối đoái và giá cổ phiếu và họ có thể dự đoán trên cơ
sở các giá trị của các biến số khác nhau. Nhưng kết quả của nghiên cứu này cho thấy
giữa các biến không tồn tại mối quan hệ đồng liên kết, do vậy không thể dự báo được sự
thay đổi của biến này trên cơ sở các giá trị quá khứ của một biến khác.
2.1.5 Nghiên cứu của Aliyu (2009) - Stock Prices and Exchange Rate Interactions in
Nigeria: An Intra-Global Financial Crisis Maiden Investigation
Mục đích chính của Nghiên cứu: Aliyu (2009) kiểm tra các mối tương tác trong
cả ngắn hạn và dài hạn giữa chỉ số giá chứng khoán và tỷ giá hối đoái ở Nigeria trong
giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2008. Tuy nhiên, để có thể thấy rõ hơn các mối tương tác
giữa các biến theo từng giai đoạn kinh tế, tác giả thực hiện tách mẫu nghiên cứu thành 2
giai đoạn là trước khủng hoảng từ tháng 01 năm 2001 đến tháng 12 năm 2006 và giai
đoạn khủng hoảng từ tháng 1 năm 2007 đến tháng 12 năm 2008. Như vậy, các mối tương
tác giữa chỉ số giá chứng khoán và tỷ giá hối đoái ở Nigeria sẽ được xem xét theo 3 mô
hình là mô hình trước khủng hoảng, mô hình khủng hoảng và mô hình cơ bản.
12
Dữ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu: Nghiên cứu sử dụng dữ liệu theo ngày
trong giai đoạn từ tháng 01 năm 2001 đến tháng 12 năm 2008 cho hai biến quan sát của
mô hình nghiên cứu là tỷ giá hối đoái danh nghĩa giữa đồng Nigeria so với đôla Mỹ (ER)
và chỉ số giá chứng khoán All Share Index (ASI) của Sở giao dịch chứng khoán Nigeria.
Hai chuỗi dữ liệu được lấy logarit tự nhiên trước khi tiến hành phân tích. Đầu tiên, tác
giả sử dụng kiểm định ADF và PP theo Augmented Dickey-Fuller (1979) và Phillips &
Perron (1988) để kiểm tra nghiệm đơn vị của các chuỗi dữ liệu. Kết quả kiểm định ADF
và PP đều cho thấy, trong cả 3 mô hình, hai chuỗi ER và ASI đều không dừng ở bậc gốc
và chỉ dừng khi lấy sai phân bậc 1. Tiếp theo, tác giả sử dụng cả hai phương pháp kiểm
định đồng liên kết của Engle & Granger (1987) và Johansen and Juselius (1990) để xác
định mối quan hệ dài hạn của các biến quan sát. Sau cùng, tác giả sử dụng phương pháp
VECM để ước lượng mối quan hệ dài hạn của các biến quan sát trong 3 mô hình và kiểm
định quan hệ nhân quả Granger để kiểm tra mối quan hệ nhân quả giữa các biến. Ngoài
ra, một số kiểm định như kiểm định Breusch and Godfrey đối với hiện tượng tự tương
quan, kiểm định White đối với hiện tượng phương sai sai số thay đổi cũng được tác giả
thực hiện.
Kết quả nghiên cứu chính: Aliyu (2009) đã tìm thấy giữa hai biến quan sát là chỉ
số giá chứng khoán và tỷ giá hối đoái ở Nigeria có tồn tại mối quan hệ cân bằng dài hạn.
Hơn nữa, kết quả kiểm định quan hệ nhân quả Granger cũng cho thấy bằng chứng mạnh
mẽ của mối quan hệ nhân quả hai chiều giữa giá cổ phiếu và tỷ giá hối đoái trong các mô
hình.
2.1.6 Nghiên cứu của Richards và Simpson (2009) - The Interaction between
Exchange Rates and Stock Prices: An Australian Context
Mục đích chính của Nghiên cứu: Richards và Simpson (2009) điều tra mối quan
hệ giữa giá cổ phiếu và tỷ giá hối đoái tại Úc và sau đó mở rộng các phân tích để điều tra
những thay đổi trong các biến kinh tế trọng điểm và các mối quan hệ giữa những thay đổi
thông qua quá trình kiểm tra quan hệ nhân quả Granger-Sim. Động lực cho nghiên cứu
13
này là để kiểm tra mức độ tương tác giữa giá cổ phiếu và biến động tỷ giá ở Úc theo ngày
từ năm 2003 đến năm 2006. Trong giai đoạn này, giá trị của thị trường chứng khoán Úc
tăng hai phần ba, trong khi tỷ giá đô la Úc được định giá cao khoảng 32% so với đồng đô
la Mỹ. Điều này có nghĩa là một mối quan hệ tích cực mạnh tồn tại giữa hai biến trong
khoảng thời gian quan sát.
Dữ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu: Nghiên cứu sử dụng dữ liệu theo ngày
trong khoảng thời gian ngày 02 tháng 1 năm 2003 đến ngày 30 tháng 06 năm 2006 cho
hai biến quan sát chính trong mô hình là tỷ giá hối đoái giữa đồng đôla Australian và
đôla Mỹ (ER) và chỉ số giá chứng khoán All Ordinaries stock price index của Sở giao
dịch chứng khoán Australia (SP). Trước khi phân tích, dữ liệu của 2 biến ER và SP được
lấy sai phân bậc 1, cả chuỗi dữ liệu gốc và dữ liệu liệu sai phân bậc 1 đều được chuyển
thành logarit tự nhiên. Đầu tiên, tác giả sử dụng phương pháp hồi quy OLS để ước lượng
mối quan hệ giữa các biến quan sát dựa trên chuỗi dữ liệu gốc và chuỗi dữ liệu sai phân
bậc 1. Tiếp theo, tác giả sử dụng kiểm định ADF để kiểm tra tính dừng của chuỗi dữ liệu
SP và ER trong cả trường hợp gốc và sai phân bậc 1. Kết quả kiểm định ADF cho thấy, ở
chuỗi ban đầu, ER và SP không dừng, trong khi đó ở sai phân bậc 1, ER và SP dừng.
Ngoài ra, tác giả cũng sử dụng kiểm định ARCH LM cho các biến để kiểm tra hiện tượng
phương sai sai số thay đổi (Heteroskedasticity). Sau cùng, tác giả sử dụng mô hình VAR
và kiểm định nhân quả Granger để ước lượng mối quan hệ giữa hai biến.
Kết quả nghiên cứu chính: Qua phân tích thực nghiệm, Richards và Simpson
(2009) đã cung cấp bằng chứng về mối quan hệ đồng liên kết cùng chiều giữa ER và SP
tại Australia. Quan hệ nhân quả Granger xác nhận có tác động từ giá cổ phiếu đến tỷ giá
hối đoái trong giai đoạn nghiên cứu. Theo tác giả, mặc dù giá cả hàng hóa không được kể
đến, tuy nhiên ý nghĩa của các kết quả thực nghiệm đã hỗ trợ cho quan điểm cho rằng hai
biến số tài chính quan trọng có sự tương tác một cách nhất quán với mô hình cân bằng
danh mục đầu tư, có nghĩa là sự biến động giá cổ phiếu sẽ làm thay đổi tỷ giá hối đoái.
Điều này thách thức quan điểm truyền thống của nền kinh tế Australia như phụ thuộc
xuất khẩu, và cũng cho thấy rằng thị trường chứng khoán Úc có độ sâu và tính thanh
14
khoản với cả dòng vốn trong nước và quốc tế đủ để cạnh tranh với các thị trường lớn hơn
khác.
2.1.7 Nghiên cứu của Agrawal (2010) - A Study of Exchange Rates Movement and
Stock Market Volatility
Mục đích chính của Nghiên cứu: Agrawal (2010) kiểm tra các động thái giữa sự
biến động của lãi cổ phiếu (SP) và sự dịch chuyển của tỷ giá hối đoái giữa đồng Rupi và
đôla Mỹ (ER) về mức độ phụ thuộc lẫn nhau và quan hệ nhân quả.
Dữ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu: Nghiên cứu sử dụng dữ liệu theo ngày
trong khoảng thời gian ngày 11 tháng 10 năm 2007 đến ngày 09 tháng 03 năm 2009 cho
hai biến quan sát chính trong mô hình là tỷ giá hối đoái giữa đồng Rupee của Ấn Độ và
đôla Mỹ (ER) và chỉ số giá chứng khoán Nifty index của Sở giao dịch chứng khoán Ấn
Độ (SP). Trước khi phân tích, dữ liệu của 2 biến ER và SP được chuyển thành logarit tự
nhiên. Đầu tiên, tác giả áp dụng kiểm định Jarque-Bera (JB) theo Gujarati (2003) để
kiểm tra phân bố xác suất của từng biến quan sát. Tiếp theo, tác giả sử dụng kiểm định
ADF theo Augmented Dickey-Fuller (1979) để kiểm tra tính dừng của các chuỗi dữ liệu,
kết quả kiểm định ADF cho thấy hai chuỗi ER và SP đều dừng, Do vậy, tác giả sử dụng
kiểm định Bivariate Granger để xác định mối quan hệ giữa hai biến quan sát. Các tiêu
chuẩn gồm final prediction error (F & E), AKaike information criterion (AIC), Schwarz
information criterion (SC) và Hannan–Quin information criterion (HQ) được xem xét để
chọn độ trễ tối ưu.
Kết quả nghiên cứu chính: Agrawal (2010) cho thấy rằng thu nhập của chỉ số
Nifty cũng như tỷ giá hối đoái tại Ấn Độ đều không phải là phân phối chuẩn. Thông qua
kiểm tra nghiệm đơn vị, tỷ giá hối đoái và thu nhập của chỉ số Nifty đều dừng ở chuỗi
ban đầu. Mối tương quan giữa thu nhập của chỉ số Nifty và tỷ giá hối đoái đã được tìm
thấy là ngược chiều. Kiểm tra sâu hơn vào mối quan hệ nhân quả giữa hai biến sử dụng
kiểm định nhân quả Granger cho thấy có tồn tại mối quan hệ một chiều giữa thu nhập của
chỉ số Nifty và tỷ giá hối đoái.
15
2.1.8 Nghiên cứu của Lee (2012) - A Study of the Causal Relationship between Real
Exchange Rate of Renminbi and Hong Kong Stock Market Index
Mục đích chính của Nghiên cứu: Lee xem xét mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái
thực của đồng Nhân dân tệ và chỉ số chứng khoán thị trường Hồng Kông.
Dữ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu:
Dữ liệu hàng tháng của tỷ giá hối đoái danh nghĩa của đồng nhân dân tệ quy đổi
đô la Hồng Kông, chỉ số giá tiêu dùng tổng hợp của Hồng Kông, chỉ số giá tiêu dùng của
Trung Quốc, và chỉ số Hang Seng được thu thập trong khoảng thời gian từ tháng 8 năm
2005 đến tháng 3 năm 2012.
Nghiên cứu sử dụng phương pháp đồng liên kết và kiểm định Granger trên các dữ
liệu hàng tháng của tỷ giá hối đoái thực của Nhân dân tệ so với đôla Hông Kông và chỉ
số chứng khoán Hang Seng kể từ khi chính sách ngoại hối của Trung Quốc được cải cách
từ tháng 7 năm 2005.
Kết quả nghiên cứu: cho thấy có tồn tại một mối quan hệ cân bằng dài hạn
dương giữa tỷ giá hối đoái của đồng nhân dân tệ quy đổi đôla Hong Kong và chỉ số Hang
Seng thông qua kiểm định đồng liên kết. Ngoài ra, phương pháp VECM cũng cho thấy
có sự hiệu chỉnh sai số giữa REX và HIS trong ngắn hạn. Cuối cùng, kiểm định Granger
chỉ ra rằng có sự tác động trực tiếp một chiều từ tỷ giá hối đoái của đồng Nhân dân tệ so
với đola Hong Kong lên chỉ số Hang Seng.
2.1.9 Nghiên cứu của Rjoub (2012) - Stock prices and exchange rates dynamics:
Evidence from emerging markets
Mục đích chính của Nghiên cứu: điều tra các mối quan hệ động giữa giá cổ
phiếu Thổ Nhĩ Kỳ và tỷ giá hối đoái, cũng như xem xét mối quan hệ với giá cổ phiếu tại
Mỹ như là chỉ số đại diện cho thị trường thế giới, trong dài hạn và ngắn hạn.
Dữ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu: Nghiên cứu sử dụng dữ liệu chuỗi thời
gian cho các biến tỷ giá hối đoái danh nghĩa giữa đồng nội tệ với đôla Mỹ, giá cổ phiếu
16
Thổ Nhĩ Kỳ và Mỹ được sử dụng trong nghiên cứu này được lấy từ IMF, tổ chức Thống
kê tài chính quốc tế (IFS) và kéo dài trong giai đoạn 2001:08 đến 2009:08 để trên cơ sở
hàng tháng.
Kết quả nghiên cứu: cho thấy có tồn tại mối quan hệ dài hạn giữa tỷ giá hối đoái,
giá chứng khoán tại Thổ Nhĩ Kỳ và giá chứng khoán tại Mỹ. Tỷ giá hối đoái có tác động
ngược chiều, trong khi thị trường chứng khoán Mỹ có một tác động cùng chiều lên thị
trường chứng khoán Thổ Nhĩ Kỳ trong giai đoạn phân tích. Kết quả này chỉ ra rằng, thị
trường chứng khoán Thổ Nhĩ Kỳ được hội nhập với thế giới. Kiểm định quan hệ nhân
quả xác định rằng có mối quan hệ hai chiều giữa tỷ giá hối đoái và giá cổ phiếu Thổ Nhĩ
Kỳ. Ngoài ra, mối quan hệ ngắn hạn được duy trì giữa các thị trường chứng khoán Thổ
Nhĩ Kỳ và tỷ giá hối đoái.
2.1.10 Nghiên cứu của Kisaka (2012) - The Causal Relationship between Exchange
Rates and Stock Prices in Kenya
Mục đích chính của Nghiên cứu: Kisaka (2012) kiểm tra mối quan hệ giữa tỷ giá
hối đoái và giá chứng khoán tại Kenya, thiết lập mối liên hệ nhân quả giữa sự truyền giá
cả vào thị trường ngoại hối và thị trường chứng khoán Nairobi.
Dữ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu: Nghiên cứu sử dụng dữ liệu về giá chứng
khoán tại Kenya đại diện là chỉ số NSE 20-share Index (SP) và tỷ giá hối đoái giữa đồng
Shilling và đôla Mỹ (ER) từ tháng 11 năm 1993 đến tháng 5 năm 1999. Nghiên cứu giả
định giữa SP và ER tại Kenya tồn tại mối quan hệ ngược chiều và có tác động nhân quả
từ tỷ giá hối đoái lên giá chứng khoán. Tác giả sử dụng mô hình Bivariate VAR theo
Granger (1969) để xác định mối quan hệ nhân quả giữa hai biến quan sát. Trước đó, kiểm
định nghiệm đơn vị ADF theo Augmented Dickey-Fuller (1979) được sử dụng để kiểm
tra tính dừng của các chuỗi dữ liệu. Kết quả kiểm định ADF cho thấy, SP và ER là các
chuỗi có nghiệm đơn vị ở chuỗi ban đầu. Do đó, tác giả sử dụng phương pháp kiểm định
đồng liên kết theo Engle and Granger (1987) để xác định mối quan hệ dài hạn giữa các
biến. Cuối cùng, tác giả kiểm định quan hệ nhân quả Granger dựa trên mô hình VECM.
17
Kết quả nghiên cứu: Kisaka (2012) đã tìm thấy tác động của tỷ giá hối đoái lên
giá chứng khoán trong trường hợp của Kenya. Theo tác giả, hướng của quan hệ nhân quả
Granger từ tỷ giá hối đoái lên giá cổ phiếu có một số ngụ ý đối với các nhà đầu tư và
định chế tài chính trong thị trường. Các cú sốc của giá cổ phiếu chịu tác động từ các cú
sốc của tỷ giá hối đoái có thể gây ra hoảng loạn cho các nhà quản lý danh mục đầu tư.
Điều này sẽ khiến họ phải thanh lý một phần danh mục đầu tư cổ phiếu của họ để phòng
vệ trước thiệt hại tiền tệ. Tác động ròng sẽ là một sụt giảm của chỉ số NSE.
2.1.11 Nghiên cứu của Tavakoli A., (2013) - Dynamic Linkages between Exchange
Rates and Stock Prices, Evidence from Iran and South Korea
Mục đích chính của Nghiên cứu: là phân tích mối quan hệ giữa giá cổ phiếu và
tỷ giá hối đoái trong hai quốc gia châu Á là Iran và Hàn Quốc .
Dữ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu: Nghiên cứu sử dụng dữ liệu về chỉ số giá
chứng khoán và tỷ giá danh nghĩa của mỗi quốc gia. Chỉ số giá tiêu dùng nội địa và quốc
tế - trong đó chỉ số CPI của Mỹ được sử dụng là chỉ số giá quốc tế. Dữ liệu của các biến
này được thu thập từ tháng 07 năm 2002 đến tháng 03 năm 2012 từ Ngân hàng Trung
Ương mỗi quốc gia và WDI. Nghiên cứu sử dụng kiểm định nghiệm đơn vị PP để đảm
bảo dữ liệu được sử dụng là dừng, và áp dụng mô hình đa biến MGARCH được phát
triển bởi Bollerslev, Engle, and Wooldridge (1988) và phần mềm Stata để ước lượng mối
quan hệ giữa hai biến trên hai thị trường.
Kết quả nghiên cứu: cho thấy không có mối quan hệ hai chiều giữa hai biến
trong cả nền hai kinh tế và chỉ có một mối quan hệ một chiều từ thu nhập chứng khoán
đối với tỷ giá trong nền kinh tế Hàn Quốc . Không có mối quan hệ nào được tìm thấy
giữa hai biến trong nền kinh tế của Iran. Khi những cú sốc biến động của hai thị trường
được xem xét, kết quả Nghiên cứu cho thấy những cú sốc đang gia tăng trong quá khứ
phát sinh từ thị trường ngoại có tác động mạnh mẽ hơn đến sự biến động trong tương lai
của thị trường này ở nền kinh tế Hàn Quốc so với nền kinh tế Iran. Nghiên cứu này cho
thấy, các nhà hoạch định chính sách tài chính nên xem cả thị trường chứng khoán và thị
18
trường ngoại hối trong nền kinh tế Hàn Quốc để ngăn chặn hiện tượng lan truyền sự bất
ổn của thị trường chứng khoán lên thị trường ngoại hối.
2.2 Mối quan hệ giữa chỉ số giá chứng khoán và các biến kinh tế vĩ mô khác:
2.2.1 Nghiên cứu của Parsva và Lean (2011) - The Analysis of Relationship between
Stock Prices and Exchange Rates: Evidence from Six Middle Eastern Financial
Markets
Mục đích chính của nghiên cứu: Parsva và Lean (2011) tìm kiếm mối quan hệ
nhân quả hai chiều giữa giá cổ phiếu và tỷ giá hối đoái trong cả ngắn hạn và dài hạn.
Ngoài ra, các Tác giả cũng bổ sung vào nghiên cứu các yếu tố kinh tế vĩ mô khác gồm lãi
suất, tỷ lệ lạm phát và giá dầu để xem xét mối quan hệ với chỉ số giá chứng khoán.
Dữ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu: Các tác giả sử dụng dữ liệu của sáu quốc
gia Trung Đông, cụ thể là Ai Cập, Iran, Jordan, Kuwait, Oman, và Ả Rập Saudi trước và
trong khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007 diễn ra. Các biến trong Nghiên
cứu được thu thập từ tháng 1 năm 2004 đến tháng 9 năm 2010. Các biến như chỉ số giá
chứng khoán (SP), tỷ giá hối đoái (ER) và giá dầu (OP) được lấy logarit tự nhiên, trong
khi đó các biến còn lại gồm tỷ lệ lạm phát và lãi suất được giữ ở đơn vị %. Đầu tiên,
nghiên cứu sử dụng kiểm định ADF và PP để kiểm định tính dừng của các chuỗi dữ liệu.
Độ trễ tối ưu được lựa chọn theo tiêu chuẩn Akaike Information Criteria (AIC). Phương
pháp đồng liên kết của Johansen (2000) được sử dụng để kiểm định mối quan hệ cân
bằng dài hạn giữa các biến. Cuối cùng, mô hình VECM được sử dụng để ước lượng mối
quan hệ dài hạn, kiểm định Granger cũng được thực hiện để xem xét mối quan hệ nhân
quả giữa các biến.
Kết quả nghiên cứu: Parsva và Lean (2011) cho thấy có tồn tại mối quan hệ nhân
quả hai chiều giữa giá cổ phiếu và tỷ giá hối đoái trong cả ngắn hạn và dài hạn đối với Ai
Cập, Iran và Oman trước cuộc khủng hoảng. Nghiên cứu không tìm thấy mối tương quan
giữa thị trường trong Jordan và Saudi Arabia trong ngắn hạn, trong khi một mối quan hệ
nhân quả từ tỷ giá hối đoái với giá cổ phiếu tồn tại ở Kuwait. Hơn nữa, sự tương tác giữa
19
các thị trường đã tăng lên trong thời khủng hoảng, như mối quan hệ nhân quả hai chiều
được tìm thấy cho tất cả các nước, ngoại trừ Iran.
2.2.2 Nghiên cứu của Geetha và cộng sự (2011) – The relationship between inflation
and Stock market: Evidence from Malaysia, United States and China
Mục đích chính: Geetha và cộng sự (2011) nghiên cứu mối quan hệ giữa lạm
phát và thị trường chứng khoán tại 3 quốc gia là Malaysia, Mỹ và Trung Quốc. Trong
nghiên cứu này, các Tác giả xem xét tách biệt giữa lạm phát kỳ vọng và lạm phát thực tế
trong mối quan hệ với thu nhập từ chứng khoán. Ngoài ra, một số biến kinh tế vĩ mô
khác gồm tỷ giá hối đoái, lãi suất và GDP tại các quốc gia này cũng được đưa vào phân
tích.
Dữ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu: Tác giả sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian
theo tháng từ tháng 1 năm 2000 đến tháng 9 năm 2009. Dữ liệu của các biến được lấy
logarit trước khi phân tích hồi quy. Đầu tiên, Nghiên cứu thực hiện kiểm định tính dừng
của các chuỗi dữ liệu bằng kiểm định ADF. Tiếp theo, kiểm định đồng liên kết được thực
hiện để kiểm tra mối quan hệ dài hạn giữa các biến. Cuối cùng, Tác giả ước lượng mối
quan hệ ngắn hạn và dài hạn giữa các biến bằng mô hình VECM.
Kết quả nghiên cứu chính: Theo Geetha, C. và cộng sự (2011), tại các quốc gia
như Malaysia, Mỹ và Trung Quốc có tồn tại mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa thị
trường chứng khoán và các biến vĩ mô gồm tỷ lệ lạm phát kỳ vọng, tỷ giá hối đoái, tỷ lệ
lạm phát thực tế, lãi suất và GDP. Tuy nhiên, tại mỗi quốc gia, mối quan hệ giữa các biến
có sự khác nhau. Cụ thể: tại Malaysia, tỷ lệ lạm phát kỳ vọng, tỷ lệ lạm phát thực tế, tỷ
giá hối đoái, lãi suất tác động ngược chiều lên sự thay đổi của giá chứng khoán, trong khi
đó GDP có tác động cùng chiều lên giá chứng khoán. Tại Mỹ, tỷ lệ lạm phát kỳ vọng, tỷ
lệ lạm phát thực tế, tỷ giá hối đoái, lãi suất tác động cùng chiều lên sự thay đổi của giá
chứng khoán, trong khi đó GDP có tác động ngược chiều lên giá chứng khoán. Tại Trung
Quốc, tỷ lệ lạm phát kỳ vọng, tỷ lệ lạm phát thực tế, tỷ giá hối đoái tác động ngược chiều
lên sự thay đổi của giá chứng khoán, trong khi đó, lãi suất và GDP có tác động cùng