Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Các giai đoạn phát triển con người trung tâm nghiên cứu tư vấn CTXH PTCĐ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (600.04 KB, 62 trang )

T[Type text]

Tài li
ệu phát


Các giai đo
ạn phát triển của con ng
ư
ời


SDRC - CFSI

Bài 1: GIAI ĐOẠN THAI NHI
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THAI NHI
Sự phát triển trước khi sinh bắt đầu khi tinh trùng và trứng thụ tinh thành công
để tạo thành một sinh vật mới kết hợp một số đặc điểm của bố mẹ. Theo Rogers
Taun Annissa (2010), thai nhi phát triển qua ba giai đoạn:
1. Quý Thứ Nhất (Ba tháng đầu)
Từ tuần lễ 0 đến 13 được xem là quan trọng nhất trong việc chăm sóc thai
nhi và lây nhiễm những độc tố từ mẹ và môi trường
- Tháng thứ nhất

Cấu trúc não bộ căn bản, tim, phổi, hệ tiêu hóa và hệ thần kinh phát
triển vào cuối tháng thứ nhất

Bắt đầu có tay chân
- Tháng thứ 2

Cơ quan bên trong trở nên phức tạp hơn



Mắt, mũi, miệng được thành hình

Có thể dò được tim thai (nhịp tim)
Trước đó bé được gọi là phôi thai, giờ thì cho đến 8 tuần, bé được gọi là
bào thai
- Tháng thứ 3

Hình thành cánh tay, bàn tay, chân, bàn chân, móng, tóc và mí mắt

Chỉ tay xuất hiện

Giới tính bắt đầu rõ ràng (mặc dù tuần thứ 14 mới thấy qua siêu âm
được)

Phát triển hệ xương

Có thể cười, cau mày, bú và nuốt
Cuối quý thứ nhất, bé dài khoảng 7.5cm và cân nặng 28 gram
T[Type text]

Tài li
ệu phát


Các giai đo
ạn phát triển của con ng
ư
ời



SDRC - CFSI
2. Quý Thứ Hai
Tuần thứ 14 đến tuần 27 đánh dấu sự tiếp tục tăng trưởng và phát triển
Tất cả các bộ phận đều tiếp tục phát triển, cơ quan và các hệ thống rõ ràng
và hoàn chỉnh hơn
- Ngón chân và ngón tay tách rời nhau
- Móng tay và móng chân hoàn thiện
- Có sự chuyển động phối hợp
- Tóc, lông mi, lông mày xuất hiện
- Tim đập đều
- Chu kỳ thức - ngủ được thiết lập
Cuối quý thứ hai, bé dài 28 đến 35cm và cân nặng từ 1 đến 700gr.
3. Quý Thứ Ba
Tuần 18 đến 40 hay 38 đánh dấu những giai đoạn phát triển sau cùng
- Phát triển toàn diện, các cơ quan hoạt động
- Mô mỡ xuất hiện dưới da
- Bào thai ngọ ngoạy nhiều cho đến khi được sinh ra
- Phản ứng lại với âm thanh
Cuối quý thứ 3, bé dài khoảng 40cm và cân nặng trên dưới 2,7 kg.
Ta có thể nhận thấy rằng sự phát triển phức tạp và quan trọng nhất của bào
thai xảy ra trong ba tháng đầu. Vì lý do đó trong ba tháng này, cần phải
chăm sóc thai nhi cẩn thận và tránh những chất độc do bà mẹ và môi trường
đem lại. Vì các cơ quan và các hệ thống quan trọng như tim, mắt, tứ chi, tai,
răng và hệ thần kinh trung ương phát triển trong 9 tuần đầu nên những tổn
thương thể lý và cấu trúc có thể xuất hiện trong suốt giai đoạn này. Sau 9
tuần, tổn thương vẫn có thể xuất hiện nhưng ít nghiêm trọng hơn.
II. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TRẺ TRƯỚC
KHI SINH VÀ SAU NÀY
1. Sức khỏe thể chất, cảm xúc, tâm lý của cha mẹ

T[Type text]

Tài li
ệu phát


Các giai đo
ạn phát triển của con ng
ư
ời


SDRC - CFSI
- Nhân viên công tác xã hội phải đối phó với những vấn đề tâm sinh xã hội
khi làm việc với phụ nữ mang thai. Trước hết và trên hết, một số thân chủ
phải quyết định tiếp tục hay ngưng mang thai. Để giúp thân chủ có quyết
định về vấn đề này, nhân viên công tác xã hội có thể giúp thân chủ khám
phá niềm tin tôn giáo và tâm linh của mình, những trạng thái cảm xúc
khác nhau dẫn đến những quyết định khác nhau. Bên cạnh đó, nhân viên
công tác xã hội cũng giúp cho thân chủ chuẩn bị vai trò làm cha mẹ, nhận
con nuôi hay phá thai.
- Nếu thân chủ quyết định tiếp tục mang thai, nhân viên công tác xã hội
phải đánh giá sức khỏe thể chất của cả bố lẫn mẹ để giúp người mẹ có
sức khỏe tốt và dưỡng thai tốt để tránh vấn đề hậu sản. Tiến trình này bao
gồm khám phá những yếu tố như tuổi tác chế độ dinh dưỡng, bệnh tật,
stress, thể dục, và việc sử dụng các hóa chất của thân chủ.
- Độ tuổi sinh con của người phụ nữ là 20 đến đầu 30 tuổi, các bà mẹ vị
thành niên hoặc các bà mẹ tuổi trung niên, có nhiều khả năng sinh con
khuyết tật. Độ tuổi của bố 30 - 40. Tinh trùng làm trứng thụ tinh gia tăng.
Nam giới lớn tuổi có nhiều khả năng sinh con thừa 1 nhiễm sắc thể 21

dẫn đến hội chứng Down.
- Chế độ dinh dưỡng của người mẹ kém, làm việc và nghỉ ngơi không hợp
lí hoặc bị ốm đau bệnh tật, căng thẳng sẽ khiến trẻ bị suy dinh dưỡng
ngay khi còn ở bào thai và người mẹ có nhiều khả năng sinh non, sinh
con không đủ tháng, ảnh hưỏng đến sự phát triển của hệ thần kinh trung
ương của trẻ. Thường các bà mẹ có mức tăng cân ở cuối thai kì thấp,
dưới 6kg, chắc chắn là bào thai đã bị suy dinh dưỡng, khi sinh ra cân
nặng của trẻ sẽ rất thấp. Lý tưởng là cuối thai kỳ (tức sau 9 tháng 10
ngày), bà mẹ phải tăng cân được 12kg trở lên (3 tháng đầu chỉ tăng 1kg,
3 tháng thứ hai tăng 5kg, 3 tháng cuối mỗi tháng tăng 2kg). Số cân nặng
này chia cho bào thai, rau thai, nước ối, và máu hết 7,5kg, 5kg còn lại
được chuyển vào mô mỡ dự trữ để tiết sữa nuôi con.
- Suy dinh dưỡng xảy ra ở 3 tháng cuối của thai kì làm cho bộ não trẻ
chậm phát triển, sau này trẻ sẽ kém thông minh. Trẻ bị suy dinh dưỡng
T[Type text]

Tài li
ệu phát


Các giai đo
ạn phát triển của con ng
ư
ời


SDRC - CFSI
bào thai khi chào đời dễ bị hạ thân nhiệt, hạ đường máu gây rối loạn nhịp
thở, hạ canxi máu gây co giật. Nếu được nuôi dưỡng đúng, trẻ sẽ phát
triển bình thường và đạt mức cân nặng như những trẻ khác sau 2-3 tháng.

Ngược lại, nuôi dưỡng không tốt, trẻ tiếp tục bị suy dinh dưỡng, trẻ ốm
đau, quặt quẹo, còi cọc, chậm phát triển trí tuệ, kém thông minh.
- Thêm nữa, một số thân chủ có lịch sử gia đình có bệnh hay có vấn đề về
di truyền cũng cần được đi kiểm tra tính di truyền. Nhân viên công tác xã
hội hỗ trợ thân chủ bằng cách dạy cho họ biết tiến trình phát triển của
thai nhi và những hành vi nào thân chủ cần có để bảo vệ sức khỏe bà mẹ
và con trẻ.
- Những yếu tố khác cần xem xét bao gồm mức độ phát triển, mức độ cảm
xúc, chức năng nhận thức, tâm lý sẵn sàng làm cha mẹ, niềm tin tôn giáo,
hoàn cảnh kinh tế, những vấn đề về tương quan gia đình (cụ thể là nếu có
bạo lực gia đình thì đó là một vấn đề), tiếp cận các nguồn hỗ trợ và các
tài nguyên khác, và sự chuẩn bị làm cha làm mẹ.
2. Những hiểm nguy đối với sự phát triển của bào thai
Vì có nhiều vấn đề có thể xảy ra với bào thai, cho nên việc chăm sóc tiền
sinh sản và sức khỏe bà mẹ hết sức quan trọng khi làm việc với thân chủ đang
mang thai. Nhân viên công tác xã hội có thể giúp thân chủ ngăn ngừa được
những hiểm nguy và hỗ trợ thân chủ trong việc đối phó các vấn đề.
Một số hiểm nguy đối với sự phát triển của bào thai gồm có:
- CÁC CHẤT KÍCH THÍCH

Rượu

Nicotine

Các chất bất hợp pháp như cocaine, thuốc phiện, heroin
- CHẤT ĐỘC HẠI TRONG MÔI TRƯỜNG

Chất phóng xạ

Thuốc trừ sâu

T[Type text]

Tài li
ệu phát


Các giai đo
ạn phát triển của con ng
ư
ời


SDRC - CFSI

Hóa chất như chì, thủy ngân, pcb (polycholorinated biphenyls) có
trong máy biến thế và hội hoạ

Tia X
- CÁC YẾU TÔ LIÊN QUAN ĐẾN CHA MẸ

Bệnh tật ví dụ như rubella, giang mai, mồng gà, AIDS, vi rút cự bào

Chế độ dinh dưỡng kém

Stress

Tuổi tác (quá trẻ hoặc quá lớn tuổi)

Gien bất thường
3. Các biến chứng khi sinh

Nhìn chung, thời kỳ mang thai đầy đủ kéo dài từ 38 đến 40 tuần. Bé sinh
trước 36 tuần gọi là sinh non. Dù trẻ được 21 tuần trở xuống trong bụng mẹ có
thể sống sót nhưng trẻ sinh sớm sẽ có nhiều vấn đề về lâu về dài. Trẻ sinh non
thường có trọng lượng thấp, 2.500gr trở xuống. Trong 1 năm đầu trẻ sinh non
phát triển chậm hơn trẻ sinh đủ tháng. Khi trẻ 2 - 3 tuổi, sự khác biệt với trẻ
bình thường biến mất nếu được chăm sóc tốt về y tế và điều kiện gia đình hỗ
trợ tốt.
- Trẻ sinh thiếu cân hay sinh non là do nhiều yếu tố như mẹ hút thuốc,
bệnh tật hay mang thai khi quá trẻ hay quá lớn tuổi, lạm dụng ma túy, suy
dinh dưỡng, stress trầm trọng. Chúng có thể bị các vấn đề như tổn thương
não bộ, bại não. Hậu quả lâu dài của thiếu cân là khả năng nguy cơ tử
vong cao, hen suyễn, tiểu đường, suy dinh dưỡng, đau tim, có vấn đề học
tập, khuyết tật, rối loạn và nhược cơ.
- Cũng cần lưu ý rằng, khi trẻ lọt lòng mẹ, thở là điều quan trọng nhất.
Trong khoảnh khắc sau khi sinh trẻ sơ sinh phải lấy oxy từ chính phổi
của mình. Nếu thiếu oxy (do rối nhau, dây rốn nối với nhau bị kẹp hoặc
phổi của bé không phản ứng tốt) tế bào bắt đầu chết, nhất là tế bào não gây
giảm thiểu trí năng và liệt não.
Tóm lại: Nhân viên công tác xã hội cần có những kiến thức nhất định về
bào thai, sinh con và hậu sản. Thân chủ thường dựa vào những hiểu biết của
T[Type text]

Tài li
ệu phát


Các giai đo
ạn phát triển của con ng
ư
ời



SDRC - CFSI
nhân viên công tác xã hội để quyết định. Nhân viên công tác xã hội có thể hỗ
trợ và giáo dục thân chủ nhiều trong giai đoạn mang thai. Mặc dù hầu hết các
kiến thức về phát triển của thai nhi được trình bày trên đây lấy từ mô hình y tế
và tâm sinh xã hội, nhân viên công tác xã hội có thể phối hợp các thông tin từ
nhiều lý thuyết khác trong tiến trình can thiệp để giúp hiểu rõ hơn việc mang
thai và sự phát triển của bào thai ảnh hưởng thế nào đến thân chủ, và các mối
tương quan xã hội của họ.
III. PHÂN TÍCH TRƯỜNG HỢP
H là một nữ sinh 18 tuổi vừa mới phát hiện có thai hai tháng tuổi. Cha của đứa
bé là bạn trai 19 tuổi của H. Họ quen nhau được một năm. Cả hai đang học đại
học, có nhiều bạn bè và học hành tốt. Cha mẹ của H có cái nhìn bảo thủ về gia
đình, hẹn hò, hôn nhân, tôn giáo và vai trò của các thành viên trong gia đình. Vì lý
do đó, H sợ, không biết cha mẹ sẽ phản ứng ra sao nếu họ phát hiện em đang mang
thai. Thật ra cha mẹ của em còn không biết là em đang hẹn hò nữa. Khi không thể
chế ngự được những triệu chứng có vẻ như bệnh cảm, H mua que thử và biết mình
có thai. Em rất hoảng loạn, nửa muốn giữ lại thai nhi, nửa sợ rằng giữ lại thì cha
mẹ sẽ chối bỏ mình và không hỗ trợ gì. Bạn trai của H nói với em rằng nó sẽ
không giúp gì cho em nếu em quyết định giữ đứa bé lại. H cũng không muốn bỏ
học, vì thế em đang cố gắng khám phá mọi chọn lựa với bạn là nhân viên công tác
xã hội.
Tóm tắt ý chính: GIAI ĐOẠN THAI NHI
- Quá trình hình thành và phát triển của thai nhi theo từng quý trong đó quý thứ
nhất đóng vai trò quan trọng bậc nhất
- Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ trước khi sinh và sau này: sức
khỏe thể chất, tâm lý của cha mẹ, môi trường không an toàn và các biến chứng
khi sinh là những điều cần lưu ý trong giai đoạn này
- Thực hành phân tích trường hợp một em gái 18 tuổi có thai được hai tháng nhằm

nêu bật nhu cầu bảo đảm sức khỏe thể chất, tâm lý và cảm xúc của thân chủ này
T[Type text]

Tài li
ệu phát


Các giai đo
ạn phát triển của con ng
ư
ời


SDRC - CFSI

Bài 2: GIAI ĐOẠN TỪ 0 ĐẾN 6 TUỔI
I. THỜI KỲ SƠ SINH (0-2 THÁNG TUỔI)
Từ 0 - 2 tháng, trẻ rất yếu ớt, nếu tách khỏi người lớn thì không thể tồn tại được.
Não bộ của trẻ nặng khoảng 400gram, lượng tế bào thần kinh khá đầy đủ nhưng
các sợi dây thần kinh hoạt động còn rất hạn chế. Trong thời gian này, trẻ có một số
đặc điểm sau:
1. Sự phát triển các giác quan
- Bộ máy thị giác và thính giác của trẻ sơ sinh trong thời gian đầu hoạt
động chưa hoàn thiện, chỉ khi ở khoảng cách gần nhất mới gây ra phản
ứng nhìn và những âm thanh chói tai mới gây ra phản ứng nghe nơi trẻ.
Tuy nhiên hai bộ máy này cùng với sự phản ứng đối với các vật kích
thích bên ngoài sẽ được hoàn thiện nhanh chóng trong những tuần lễ và
những tháng đầu tiên dựa trên cơ sở trưởng thành của hệ thần kinh.
Trọng lượng của não tăng lên nhanh chóng, các dây thần kinh lớn lên và
hoàn thiện hơn giúp các giác quan và khả năng vận động phát triển.

- Sự phát triển này còn diễn ra dưới ảnh hưởng của những ấn tượng bên
ngoài mà đứa trẻ tiếp nhận được. Điều kiện cần thiết cho sự trưởng thành
của não trong thời kì sơ sinh là luyện tập các giác quan cho trẻ bằng cách
tạo nhiều cơ hội để các tín hiệu muôn hình muôn vẻ bên ngoài xâm nhập
vào não bộ của trẻ thông qua các giác quan đó. Nếu đứa trẻ bị rơi vào
tình trạng “biệt lập cảm tính” (không có đủ số lượng ấn tượng kích thích
bên ngoài) thì sự phát triển của nó bị chậm lại một cách rõ rệt.
2. Các phản xạ cơ bản
Hầu hết trẻ sơ sinh được chuẩn bị tốt để tương tác với thế giới xung quanh
thông qua một tập hợp các phản xạ không điều kiện đa dạng như:
Tên Phản xạ Ý nghĩa
T[Type text]

Tài li
ệu phát


Các giai đo
ạn phát triển của con ng
ư
ời


SDRC - CFSI
Tên Phản xạ Ý nghĩa
Phản xạ Babinski

Ngón chân xòe ra khi bàn chân bị cù từ gót
đến ngón chân (Trẻ bị tổn thương cột sống
không có phản xạ này)

Có thể là tàn dư của
sự tiến hóa
Chớp mắt Mắt bé nhắm khi quá sáng hoặc quá ồn Bảo vệ mắt
Phản xạ Moro
Bé duỗi thẳng cánh tay ra ngoài rồi sau đó
hướng vào bên trong (như ôm) để phản ứng
với tiếng ồn
Giúp bé bám chặt
mẹ
Lòng bàn tay
Bé nắm chặt đồ vật khi người khác đặt vào
lòng bàn tay
Dấu hiệu nắm bắt tự
ý
Phản xạ cơ bản
(Phản xạ tìm
kiếm)
Khi khều má bé, bé ngoảnh mặt sang bên má
bị khều rồi há miệng
Giúp bé tìm núm vú
Phản xạ bú Bé bú khi người khác đưa đồ vật vào miệng Cho phép nuôi ăn
Phản xạ rút chân
Bé rút bàn chân khi lòng bàn chân bị người
khác dùng kim gút cù nhẹ. (Trẻ bị tổn thương
dây thần kinh hông không có phản xạ này)
Bảo vệ bé tránh kích
thích khó chịu
Nếu bé không có được những phản xạ cơ bản trên, người chăm sóc phải để
ý và tìm hiểu nguyên nhân để có hướng can thiệp càng sớm càng tốt.
3. Các trạng thái cơ bản

Trong tháng đầu tiên, trẻ dành 80% thời gian để ngủ. Trẻ ngủ từ 18 - 20 giờ
mỗi ngày. Chu kỳ thức ngủ của trẻ sơ sinh khoảng mỗi 4 tiếng (ngủ 3 tiếng,
thức 1 tiếng), sau đó lại bắt đầu một chu kỳ mới. Trong giai đoạn này, trẻ có 6
trạng thái cần phải quan tâm:
- Ngủ ngon, say, hơi thở đều, mắt nhắm nghiền  tốt
- Ngủ không sâu, người co giật, hơi thở mạnh không đều  cần dỗ dành
- Ngủ lơ mơ, chập chờn  không tốt, cần để ý nguyên nhân
- Thức tỉnh táo, nằm yên không ngọ nguậy nhiều  tốt
T[Type text]

Tài li
ệu phát


Các giai đo
ạn phát triển của con ng
ư
ời


SDRC - CFSI
- Thức và cử động nhiều, ngọ nguậy khó chịu  có thể chậm tăng cân và
ảnh hưởng đến tâm lý
- Kêu khóc, gào thét cao độ, gồng người  trẻ gặp vấn đề bất an, khó chịu
Tiếng khóc là biểu hiện sự giao tiếp đầu tiên của trẻ với người lớn. Có ba
loại tiếng khóc dễ phân biệt (Holden, 1988):
- Tiếng khóc cơ bản bắt đầu thật khẽ sau đó dần dần mãnh liệt hơn diễn ra
khi trẻ đói hoặc mệt
- Tiếng khóc bực bội mãnh liệt hơn tiếng khóc cơ bản
- Tiếng khóc đau đớn bắt đầu bằng một loạt tiếng khóc đột ngột, kéo dài,

tiếp theo là sự tạm ngưng và thở hổn hển
Qua tiếng khóc, trẻ cho người lớn biết nó đói hoặc mệt, giận dữ hoặc đau.
4. Sự phát triển tâm lý
- Nhu cầu gắn bó
Đối tượng đầu tiên mà trẻ chú ý tới trong môi trường xung quanh là
gương mặt người lớn. Ở trẻ hình thành phức cảm hớn hở. Đây là phản xạ
xúc cảm có kèm theo sự vận động và âm thanh phát ra từ đứa trẻ. Khi
phát hiện ra người lớn, trẻ chủ động dùng loại phản xạ này để tác động
đến họ. Đặc biệt, đối với mẹ, trẻ có nhu cầu gắn bó đặc biệt. Ngay từ khi
lọt lòng mẹ, trẻ đã bắt được tín hiệu sự gắn bó giữa mẹ - con qua xúc
giác. Trẻ mút, bám, khóc, mỉm cười, rúc đầu vào ngực mẹ, tìm vú và
muốn được áp sát vào mẹ được ôm ấp vỗ về.
Thông qua những tín hiệu phát ra từ mẹ và con, nhiều công trình đã tổng
kết được 4 kiểu quan hệ mẹ con:

Kiểu thứ nhất: Tín hiệu phát ra ở cả mẹ và con đều mạnh, nghĩa là
nhu cầu gắn bó mẹ con điều tỏ ra bức thiết, mối quan hệ gắn bó mẹ
con được thiết lập dễ dàng (kiểu này phổ biến ở những cặp mẹ con
sinh nở bình thường, xuất phát từ lòng ước ao mong đợi của người
mẹ đón chờ sự ra đời của đứa con). Kiểu này thuận lợi cho sự phát
triển tâm lí của trẻ sau này.
T[Type text]

Tài li
ệu phát


Các giai đo
ạn phát triển của con ng
ư

ời


SDRC - CFSI

Kiểu thứ hai: Tín hiệu phát ra từ mẹ thì mạnh, nhưng từ con lại yếu.
Thường đây là những trẻ thiếu tháng hoặc khuyết tật bẩm sinh. Người
mẹ không nên giao tiếp với con quá mạnh mẽ hoặc hối hả, mà nên nhẹ
nhàng, từ tốn, nên thường xuyên trò chuyện với trẻ, kiên trì chờ tín
hiệu con đáp lại.

Kiểu thứ ba: Tín hiệu của con mạnh, nhưng của mẹ lại yếu. Kiểu này
thường xẩy ra ở những người mẹ mang tâm trạng riêng tư, phiền
muộn chán chường dẫn đến thái độ thờ ơ với con, không muốn âu
yếm vỗ về nó. Theo đó tín hiệu của đứa con phát ra cũng yếu dần đi,
có khi mất hẳn, trẻ rơi vào trạng thái ủ ê mệt mỏi, thu mình lại.

Kiểu thứ tư: Tín hiệu phát ra đều yếu ở mẹ và con. Đây thực sự là tai
họa, cần có sự tác động của thầy thuốc và những người xung quanh.
Tạo được sự gắn bó mẹ con ngay từ những ngày đầu trẻ mới ra đời là
cách phòng ngừa tốt nhất, tránh cho trẻ nguy cơ chậm phát triển và
những lệch lạc về sinh lí cũng như tâm lý sau này. Nhu cầu gắn bó mẹ -
con là cơ sở cho nhu cầu giao tiếp về sau của trẻ với những người xung
quanh. Mẹ là nguồn gây ấn tượng và là người tổ chức ấn tượng bên
ngoài cần thiết cho sự phát triển thần kinh và các giác quan tâm lí cho
trẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy những đứa trẻ thiếu sự yêu thương của
người mẹ từ nhỏ thường sống trong tình cảnh cô đơn, lo lắng và sợ hãi
sẽ mặc cảm trong giao tiếp với người khác.
- Nhu cầu tiếp nhận ấn tượng thế giới bên ngoài
Nhu cầu tiếp thu ấn tượng từ thế giới bên ngoài là cơ sở của các nhu

cầu xã hội khác như nhu cầu giao tiếp và nhu cầu nhận thức sau này
của trẻ. Nhu cầu này gắn liền với phản xạ định hướng. Trẻ nhìn theo
các vật sáng di động, nó phản ứng với âm thanh, đặc biệt giọng nói
của người mẹ. Trẻ có thể nín khóc để lắng nghe tiếng hát ru, giọng
dịu dàng của người lớn. Trẻ tập trung nghe âm thanh, nhìn ánh sáng,
màu sắc. Trẻ sơ sinh tháng thứ hai đã bắt đầu chú ý đến khuôn mặt
người lớn, trẻ thường mỉm cười khi người lớn cúi xuống trò chuyện
với nó. Người lớn cần đưa các ấn tượng bên ngoài đến trẻ. Nếu đứa
T[Type text]

Tài li
ệu phát


Các giai đo
ạn phát triển của con ng
ư
ời


SDRC - CFSI
trẻ bị "đói ấn tượng" nó sẽ chậm phát triển một cách nghiêm trọng
(hội chứng "nằm viện").
5. Khủng hoảng tuổi sơ sinh
- Khủng hoảng tuổi sơ sinh là một bước chuyển biến giữa hình thức sống
kí sinh trong bụng mẹ - một môi trường tương đối ổn định, sang hình
thức sống bên ngoài trong môi trường với vô số kích thích. Đối với trẻ, ra
đời là một cú sốc, mặc dù chúng không có một ý thức nào về việc này.
Các nhà phân tâm học gọi đó là tổn thương đầu tiên mà trẻ phải chịu
đựng và nó có tác động rất mạnh đến cả cuộc đời sau này của con người.

Đó là một sự đảo lộn hoàn toàn sự cân bằng, kéo theo sự biến đổi sâu
sắc. Không chỉ chịu mọi sức ép và những những cơn co thắt, mà trẻ còn
chịu một trạng thái nặng nề đột ngột từ một môi trường chất lỏng qua
môi trường không khí, cũng như đột ngột bị nhiễm lạnh. Nhu cầu oxy
làm cho hoạt động hô hấp bắt đầu, việc hít không khí lần đầu có lẽ là đau
đớn, kèm theo tiếng khóc đầu tiên.
- Vì thế sau khi ra đời, trẻ cần một giai đoạn thích nghi, cần được ở trong
bầu không khí tâm lí bình yên, được bảo vệ, che chở ấm áp tình cảm của
người mẹ. Thiếu sự an toàn, cảm xúc của trẻ sẽ bị rối loạn. Cần lưu ý,
trong tháng đầu tiên, nên hạn chế cho trẻ tiếp xúc với người lạ để tránh bất
an và vi khuẩn cho trẻ.
II. THỜI KỲ HÀI NHI (3 - 12/15 THÁNG)
1. Sự phát triển vận động
- Sự phát triển vận động thô
Sự vận động thô ở trẻ được diễn tiến như sau:

Thời điểm xuất hiện
các vận động
Phát triển vận động
1 tháng tuổi Nâng cằm
T[Type text]

Tài li
ệu phát


Các giai đo
ạn phát triển của con ng
ư
ời



SDRC - CFSI
2 tháng tuổi Nâng ngực
3 tháng tuổi Với tay về phía đồ vật như là vẫy
4 tháng tuổi Ngồi có người đỡ
5 tháng tuổi Nắm đồ vật trong tay
7 tháng tuổi Ngồi không cần đỡ
8 tháng tuổi Tự ngồi, không cần sự trợ giúp
9 tháng tuổi Bò úp bụng, đứng bám tay
10 tháng tuổi
Bò bằng bàn tay và đầu gối,
đi được nhờ người lớn giữ hai tay
11 tháng tuổi Tự đứng
12 tháng tuổi Đi được nhờ người lớn giữ một tay
- Sự phát triển vận động tinh

Trẻ ba tháng bắt đầu cầm đồ chơi lắc. Khi 4 tháng trẻ sử dụng cả hai
bàn tay cầm đồ chơi, nhưng chưa phối hợp hai tay. Khoảng 5 tháng
tuổi đứa trẻ có thể kết hợp cử động của hai bàn tay, trẻ dùng tay phải
cầm đồ chơi, tay trái vuốt ve. Động tác cầm nắm là hành động có tính
định hướng đầu tiên, là bước ngoặt trong sự phát triển của trẻ năm
đầu đời. Hành động cầm nắm có vai trò quan trọng trong sự phát triển
tâm lí của trẻ: Bàn tay trở thành cơ quan xúc giác, bàn tay biết "khám
phá". Sự cầm nắm được thực hiện dưới sự kiểm tra của mắt: Trẻ nhìn
theo tay, theo dõi tay chuyển động về phía đồ vật. Khi tác nhân kích
thích lọt vào mắt trẻ, hình ảnh chưa có. Hình ảnh chỉ xuất hiện khi có
sự tiếp xúc giữa sự sờ mó bằng tay lên chính đồ vật. Cầm nắm đồ vật
cũng là sự phối hợp hoạt động của tay và mắt. Nhờ động tác cầm nắm
mà đôi tay phát triển, bắt đầu có sự đặt ngón cái đối diện với các ngón

còn lại.

Trẻ 4 - 7 tháng, xuất hiện hành động dịch chuyển, lay động đồ vật, gõ
lắc tạo ra âm thanh. Khoảng 7 - 10 tháng, hình thành các động tác
T[Type text]

Tài li
ệu phát


Các giai đo
ạn phát triển của con ng
ư
ời


SDRC - CFSI
phối hợp: cầm nắm hai vật cùng một lúc, đẩy chúng ra xa. Cuối thời
kỳ hài nhi (10 - 11 tháng đến 14 tháng) xuất hiện hành động chức
năng: đặt cạnh, xếp chồng, lồng hộp, xâu chuỗi, xỏ các vật. Cầm nắm,
hướng tới đồ vật, là những hành động kích thích tư thế ngồi của trẻ.
Khi trẻ ngồi được, trước mắt trẻ xuất hiện nhiều đồ vật khác nhau. Trẻ
bị lôi cuốn, nó với tới đồ vật, nhưng để chạm đến đồ vật được, nó
phải nhờ sự giúp đỡ của người lớn. Nhờ vậy, giao tiếp có được sắc
thái mới, nó trở thành sự giao tiếp có chủ đích (vì đồ vật).
2. Sự phát triển hoạt động giao tiếp
- Giao tiếp xúc cảm trực tiếp (2 - 6 tháng): Trẻ tìm kiếm sự quan tâm, âu
yếm của người lớn (biểu hiện của nhu cầu giao tiếp) bằng cách nhìn
chằm chằm vào người lớn, cử động chân tay, phát ra những âm thanh nho
nhỏ, vui vẻ khi người lớn đến gần nói chuyện (hóng chuyện)… Người

lớn ở bên trẻ cần trò chuyện, mỉm cười, kể chuyện cho trẻ nghe, đừng
băn khoăn về việc trẻ không hiểu hết những điều người lớn nói.
- Giao tiếp tình huống công việc (bắt đầu từ nửa sau của năm thứ nhất): trẻ
không chỉ thỏa mãn bởi giao tiếp với người lớn bằng những cái vuốt ve
mà còn cần người lớn hợp tác với nó trong công việc. Trẻ tìm kiếm người
lớn, đòi hỏi một sự quan tâm từ phía họ. Trẻ mong chờ người lớn tỏ thái
độ với những gì nó làm, và chủ động tham gia vào công việc của nó
(làm/chơi cùng nó).
- Trong thời kì hài nhi, giao tiếp cảm xúc trực tiếp với người lớn được coi
là điều kiện tiên quyết để trẻ trở thành người. Nhờ hoạt động chủ đạo này
trẻ có những cảm xúc tích cực, có đời sống tâm lí ổn định. Qua giao tiếp
với người lớn, sự phát triển ngôn ngữ cũng dần được hình thành. Bên
cạnh đó, trong quá trình giao tiếp, người lớn luôn hướng dẫn, uốn nắn,
đánh giá hành vi của trẻ (bằng nụ cười bằng lòng hay vẻ mặt không đồng
ý) và trẻ nhận ra hành vi của mình đúng hay không đúng để từ đó học
được thói quen tốt và cách ứng xử phù hợp.
3. Cấu trúc tâm lý mới của tuổi hài nhi
T[Type text]

Tài li
ệu phát


Các giai đo
ạn phát triển của con ng
ư
ời


SDRC - CFSI

- Một loạt các hành động ở tuổi hài nhi thúc đẩy sự phát triển tâm lý nơi trẻ.
Việc cầm nắm đồ vật cho phép trẻ thực sự làm chủ thế giới ngay bên
cạnh, đem lại những vận động cho bàn tay, những kinh nghiệm (tự ăn/bị
bỏng, bị kẹp), và ý muốn vận động. Có hành động với đồ vật mới giúp trẻ
tìm hiểu các đối tượng, các thuộc tính của chúng và có được những ấn
tượng mới. Các hoạt động ngồi, đứng, bò rồi đi có giá trị phá vỡ tình
huống phát triển cũ. Khi trẻ biết đi, cái chính không phải là sự mở rộng
không gian tiếp xúc của trẻ, mà là trẻ đã tách mình khỏi người lớn, thể
hiện sự di chuyển độc lập đầu tiên. Bây giờ không phải mẹ dẫn dắt trẻ, mà
là trẻ dẫn mẹ đến nơi nó muốn. Hoạt động này giúp trẻ mở rộng tầm nhìn,
gia tăng khả năng hành động, và có được những kinh nghiệm đủ loại. Tuy
nhiên cần lưu ý để xa những vật nguy hại khỏi tầm tay của trẻ.
- Việc phát ra các từ vựng đầu tiên cũng có một ý nghĩa đặc biệt. Đó là thứ
ngôn ngữ tự cảm và chỉ có những người thân mới hiểu, ngôn ngữ này đặc
thù ở cấu trúc, nó hình thành từ những âm của từ. Các nhà tâm lý học gọi
nó là "tiếng vú em". Ngôn ngữ này là tiêu chí chứng tỏ tình huống xã hội
của sự phát triển cũ đã bị phá vỡ.
III. THỜI KỲ ẤU NHI (1 - 3 TUỔI)
1. Phát triển thể chất
- Khi trẻ em 3 tuổi, não của nó cân nặng 1.200 gram, gần bằng não người
lớn (1300 - 1400 gram). Tư thế đứng thẳng người và những bước đi ban
đầu từ cuối năm thứ nhất bây giờ đã vững chãi hơn. Trẻ không chỉ đi
được mà còn chạy nhảy trong một không gian ngày càng mở rộng. Khả
năng di chuyển có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển tâm lý, dẫn tới
khả năng giao tiếp với thế giới bên ngoài rộng rãi hơn, độc lập hơn, tự
chủ hơn. Trẻ 3 tuổi đã bắt đầu có khả năng tự phục vụ và tham gia vào
các mối quan hệ qua lại với những người lớn xung quanh.
2. Cấu trúc tâm lý
- Sự phát triển ngôn ngữ
T[Type text]


Tài li
ệu phát


Các giai đo
ạn phát triển của con ng
ư
ời


SDRC - CFSI
Giai đoạn ấu nhi là giai đoạn ngôn ngữ ở trẻ phát triển rất nhanh theo
hướng tăng vốn từ, và hiểu cấu trúc ngữ pháp qua giao tiếp với người
lớn và qua các hoạt động với đồ vật. Từ vựng của trẻ vừa có ý nghĩa chỉ
đối tượng cụ thể vừa có ý nghĩa khái quát hóa. Tạo hình và đồ chơi có
vai trò lớn trong quá trình này. Trong tạo hình, trẻ chỉ hình vẽ thay cho
đồ vật thật, trong vui chơi trẻ gọi ghế là ngựa Ngôn ngữ làm phát triển
trí tuệ, giải phóng trẻ khỏi sự phụ thuộc vào tri giác. Ngôn ngữ tham gia
vào quá trình trí nhớ, tư duy và tưởng tượng của trẻ.
- Sự phát triển tư duy
Ở trẻ ấu nhi tư duy chủ yếu là tư duy trực quan hành động. Những biểu
hiện tư duy gắn rất chặt với hành động trong những tình huống cụ thể.
Trẻ biết sử dụng mối liên hệ giữa đối tượng để đạt tới mục đích. Chẳng
hạn trẻ kéo cái rổ để lấy quả cam đựng trong đó, kéo cái khăn trải bàn
để lấy cái ly. Trẻ cũng khám phá ra rằng những đối tượng khác nhau có
thể được sử dụng bằng cách thức giống nhau. Ví dụ có thể dùng cây
gậy để khều quả cam ở gầm giường, chọc quả chuối ở trên cao, hoặc
hích trái banh từ góc này sang góc khác v.v. Tính khái quát ban đầu
của công cụ, và của kinh nghiệm hành động xuất hiện từ đây, làm nền

tảng quan trọng cho sự phát triển tư duy sau này.
- Quá trình xuất hiện "Cái tôi" và tiền đề của sự hình thành nhân cách
của trẻ ấu nhi

Theo Lewis (1987) sự phát triển cái tôi xuất hiện khi trẻ 20 - 24
tháng. Chúng bắt đầu nhận ra ảnh của mình trong ảnh đám trẻ con
cùng tuổi. Trẻ 28 tháng bắt đầu xác lập chủ sở hữu trên đồ chơi khi
chơi chung với bạn. Nếu nó lấy máy bay chơi trước mà bạn đến gần
định lấy thì nó vội giằng lấy và nói: "Cái này của tôi mà". Cuối tuổi
ấu nhi, trẻ bắt đầu nhận biết được mình là ngôi thứ nhất. Trẻ trò
chuyện đúng ngôi, ngay cả khi ở trong tình huống có nhiều ngôi khác
nhau (lúc này trẻ xưng con, xưng em và cả xưng tao). Đối với người
lớn, sự xuất hiện cái tôi của trẻ còn biểu hiện ở thái độ trẻ bắt đầu
“bướng”, đòi nằng nặc để theo ý mình, có ý chống đối (không chịu
T[Type text]

Tài li
ệu phát


Các giai đo
ạn phát triển của con ng
ư
ời


SDRC - CFSI
ăn, chịu ngủ ). Tuy nhiên, các nhà tâm lý cho rằng tính chống đối
của trẻ có chọn lọc, chỉ xảy ra đối với người lớn độc đoán, muốn hạn
chế sự tự do, tính độc lập của trẻ. Nếu biết khuyến khích tính độc lập

của trẻ một cách hợp lý thì những khó khăn trong quan hệ giữa trẻ và
người lớn sẽ được khắc phục, khủng hoảng sẽ nhanh chóng qua đi.

Cùng với sự hình thành của "cái tôi", tính tự ý thức cũng manh nha ở
thời kỳ này. Trẻ thường tự cố gắng trong hành động để được người
lớn khen thưởng. Trẻ mong muốn người lớn thừa nhận, khen ngợi
những nỗ lực của nó. Lời ngợi khen và tán thưởng của những người
xung quanh là nguồn cổ vũ quan trọng giúp trẻ hình thành tình cảm tự
hào, sự tự khẳng định mình. Chúng còn giúp trẻ tự điều chỉnh hành vi
của mình cho phù hợp với những chuẩn mực mà người lớn qui định.
Từ đó, trẻ phát triển cái tốt, cái đúng và hạn chế cái xấu, cái sai. Đây
là điều kiện góp phần hình thành nhân cách sau này của trẻ.
3. Hoạt động chủ đạo
Ở độ tuổi này, hoạt động chủ đạo của trẻ là hoạt động với đồ vật. Hoạt động
này giúp trẻ học biết được đặc điểm và phương thức sử dụng đồ vật. Hoạt
động với đồ vật gồm hai loại hành động:
- Hành động thiết lập mối tương quan: Là hành động đưa hai hoặc nhiều
đối tượng (hoặc các bộ phận của chúng) vào mối tương quan nhất định
trong không gian. Ví dụ trẻ có thể xếp chồng được các khối gỗ thành
hình tháp. Khi xếp trẻ phải tính đến những thuộc tính của các đối tượng
và thiết lập mối tương quan của chúng sao cho khối gỗ to nhất ở dưới
cùng và khối gỗ nhỏ dần ở phía trên. Trẻ có thể xâu chuỗi hạt theo thứ tự
các màu xanh - đỏ - vàng. Đây là những hoạt động khá phức tạp đối với
trẻ. Ban đầu chúng thường xếp lung tung và nhờ người lớn giúp bằng
cách làm mẫu. Về sau, trẻ tự làm theo lối thử – phạm lỗi rồi dần làm
được. Nhờ thế, các chức năng tâm lý như trí nhớ, tư duy, trí tưởng tượng
phát triển mạnh.
- Hành động công cụ: Là hành động trong đó một đồ vật nào đó được sử
dụng như một công cụ để tác động lên đồ vật khác. Ví dụ trẻ dùng muỗng
T[Type text]


Tài li
ệu phát


Các giai đo
ạn phát triển của con ng
ư
ời


SDRC - CFSI
để xúc cơm, dùng que để khều banh. Việc sử dụng công cụ đòi hỏi bàn
tay thao tác khéo léo và giúp trẻ biết được mục đích của hành động và
chức năng của công cụ. Ví dụ sau khi trẻ uống nước trong ly, trẻ mới
hiểu mục đích sử dụng ly là để uống nước.
Trong khi học biết cách thức sử dụng các đồ vật sinh hoạt hằng ngày, trẻ
cũng học được những qui tắc hành vi xã hội. Một đứa trẻ khi giận dỗi có thể
ném cái ly nước xuống sàn, nhưng bằng kinh nghiệm của mình (thông qua
thái độ của người lớn) dần dần nó nhận ra đó là một hành vi không đúng,
không phù hợp với qui tắc sử dụng đồ vật và lần sau, "lỡ" có làm như vậy, nó
tỏ ra sợ hãi khi nhìn vào mặt người lớn. Những qui tắc ứng xử xã hội sẽ được
hình thành dần dần như vậy.
4. Khủng hoảng tuổi lên 3
Khủng hoảng 3 tuổi là khủng hoảng về quan hệ xã hội. Mọi khủng hoảng
quan hệ xã hội đều là khủng hoảng đề cao "cái tôi" của bản thân. Trong tác
phẩm "Về nhân cách trẻ 3 tuổi", V.Keler mô tả sự khủng hoảng tuổi lên 3 với
các hiện tượng cơ bản sau:
- Bướng bỉnh: trẻ kiên quyết tìm cách thỏa mãn đòi hỏi của bản thân,
khăng khăng giữ quyết định của mình

- Ngang ngạnh: Gần giống với sự bướng bỉnh nhưng nó có đặc điểm đặc
trưng là tính công khai và tính thiếu cá tính. Trẻ phản kháng lại trật tự
trong gia đình, lăn ra ăn vạ, đập đầu, đạp tứ tung để đạt được mục đích
- Tự tiện: đây là xu hướng giải thoát khỏi người lớn. Trẻ muốn tự làm mọi
thứ giống người lớn. Trước mặt người lớn trẻ tỏ ra ngoan ngoãn, sau lưng
người lớn trẻ lén làm mọi thứ.
- Vô lễ với người lớn: Trẻ có thể nói người lớn “Đồ ngu” hay xưng “mày,
tao” với người lớn
- Chống đối: Tất cả hành vi của trẻ đều thể hiện sự chống đối, dường như
trẻ luôn nằm trong trạng thái chiến tranh với người xung quanh, ẩu đả với
người lớn. Có trẻ sẵn sàng cắn lại người lớn để không phải làm theo
mệnh lệnh của họ
T[Type text]

Tài li
ệu phát


Các giai đo
ạn phát triển của con ng
ư
ời


SDRC - CFSI
- Chuyên quyền: ở những gia đình có độc nhất một trẻ, chúng ta sẽ gặp
phải xu hướng chuyên quyền ở trẻ. Trẻ tỏ ra có áp lực chuyên quyền
trong quan hệ với tất cả mọi cái xung quanh và nó đưa ra hàng loạt các
phương thức chuyên quyền. Trẻ có thể khóc ré lên, hoặc khóc tỉ tê, hoặc
làm bộ mếu, hoặc dãy đành đạch để điều khiển người lớn theo ý mình.

Những lúc như vậy, trẻ thường liếc trộm người lớn xem phản ứng của
người lớn để điều chỉnh phương thức chuyên quyền của mình.
T[Type text]

Tài li
ệu phát


Các giai đo
ạn phát triển của con ng
ư
ời


SDRC - CFSI
IV. TUỔI MẪU GIÁO (3 - 6 TUỔI)
1. Sự phát triển thể chất
Ở trẻ từ 3 đến 6 tuổi có sự phát triển nhanh chóng về mặt sinh học. Trọng
lượng của não tăng nhanh chóng (từ 1.100 gram lên 1.300 gram), xương chắc
chắn hơn, cơ quan hô hấp và tuần hoàn, và các bộ máy nhận cảm phát triển
mạnh
2. Sự phát triển tâm lý
Đây là giai đoạn phát triển của cảm giác, tri giác, tưởng tượng, tư duy, ngôn
ngữ mạnh mẽ.
- Theo Piaget, khi trẻ lên 4 tuổi, có một sự chuyển biến trong tư duy. Tư
duy của trẻ lúc này có mang màu sắc của sự suy luận dựa trên những
biểu tượng cụ thể về thế giới khách quan. Những suy luận này gắn chặt
với hành động, bị chi phối bởi những ý nghĩ chủ quan, còn chưa xác
đáng. Ví dụ: nước biển mặn vì người ta bỏ muối vào, những người mặc
áo bơ-lu trắng đều là bác sĩ… Tuy nhiên đây là công cụ mạnh mẽ giúp trẻ

nhận thức thế giới xung quanh, tích lũy phong phú các biểu tượng bảo
đảm cho việc chuyển sang loại tư duy tiền thao tác ở giai đoạn sau.
- Vào 5 - 6 tuổi ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo phát triển mạnh, đạt chất lượng
cao cả về mặt phát âm, vốn từ và những hình thức ngữ pháp. Điều cần
lưu ý là quá trình tưởng tượng phát triển rất mạnh ở lứa tuổi này, thể hiện
trong trò chơi, trong các bức vẽ, trong các câu chuyện "bịa" của trẻ. Các
trò chơi phân vai theo chủ đề giúp trẻ tưởng tượng ra nhiều nhân vật đặc
sắc.
- Trí tưởng tượng của trẻ đầu tuổi mẫu giáo chủ yếu là không chủ định.
Những gì làm trẻ xúc động mạnh sẽ trở thành đối tượng của tưởng tượng.
Do ảnh hướng của trò chơi, trẻ "sáng tác" những truyện cổ tích, nhiều trẻ
khi "sáng tác" mà chưa biết câu truyện của mình sẽ nói về cái gì. Trí
tưởng tượng có chủ định hình thành ở trẻ mẫu giáo lớn trong quá trình
phát triển các dạng hoạt động sáng tạo (vẽ, nặn, thiết kế trong xây dựng
T[Type text]

Tài li
ệu phát


Các giai đo
ạn phát triển của con ng
ư
ời


SDRC - CFSI
và kể chuyện). Trong các hoạt động này có sự điều chỉnh hành vi của trẻ
bằng ngôn ngữ (Trẻ tự nghĩ ra khúc cuối của một câu chuyện, sáng tác
truyện theo chủ đề, vẽ tranh theo mục đích đặt ra từ trước).

3. Sự phát triển về mặt tương tác môi trường xã hội
Trẻ mẫu giáo bắt đầu đi học nên mối liên hệ xã hội của trẻ có những thay
đổi quan trọng. Hoạt động cùng nhau ở giai đoạn trước được thay thế bằng
việc thực hiện những nhiệm vụ độc lập theo những lời chỉ dẫn của người lớn.
Trẻ phải hoàn thành một số nghĩa vụ sơ đẳng đối với bản thân và những người
xung quanh. Trẻ một mặt ngày càng tách mình ra khỏi người lớn, mặt khác
muốn bắt chước để xử sự như người lớn. Trẻ phân biệt được đồ vật của mình,
việc làm của mình với đồ vật, việc làm của người khác: "Cái này của con, cái
đó của mẹ", "Mình làm việc này, bạn làm việc khác”. Như vậy, trong suốt
tuổi mẫu giáo "cái tôi" phát triển mạnh và dần dần trở thành ý thức về bản
thân.
4. Sự hình thành nhân cách
Nhân cách là tổ hợp các thuộc tính tâm lý ổn định và tuổi mẫu giáo là tuổi
xây nền nhân cách. Nhìn vào trẻ, người ta có thể biết được cá tính của nó ra
sao. Nhân cách của trẻ được hình thành qua bắt chước và qua sự giáo dục của
người lớn. Nếu người lớn chuẩn mực, trẻ bắt chước được điều hay. Nếu người
lớn giáo dục đúng cách, trẻ sẽ có nhiều đức tính tốt.
Tính cách của trẻ mẫu giáo thể hiện qua:
- Hành động hợp đích: Trẻ ráng ăn để được đi chơi
- Các loại tình cảm cấp cao khác với con vật ở cấp thấp:

Tình cảm đạo đức: những rung cảm, xúc cảm của con người trên
những hành vi đạo đức. Trẻ có thái độ tương ứng đối với hành vi - tốt
thì khen ngợi, tự hào; xấu thì chê bai, căm ghét. Trẻ bắt đầu có tiếng
nói lương tâm, lương tri (trẻ ghét các nhân vật ác trong phim, trong
kịch). Nếu bị hạn chế, sự phát triển nhân cách về sau sẽ tệ hại. Ví dụ
trẻ dỗ dành bạn bằng cách cho đồ chơi và bị bố mẹ mắng là ngu thì
T[Type text]

Tài li

ệu phát


Các giai đo
ạn phát triển của con ng
ư
ời


SDRC - CFSI
tình cảm đạo đức bị giập tắt. Về sau, trẻ có thể vô cảm, không có tình
người

Tình cảm trí tuệ: Trẻ thích tìm hiểu thế giới xung quanh, tự khám phá,
đặt nhiều câu hỏi (búp bê có mỏi mắt không, tại sao con gà lại chỉ có
hai chân trong khi con chó lại có bốn chân!?!)

Tình cảm thẩm mỹ: Trẻ đều cảm nhận được và có thái độ trước cái
đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài, cái hào hùng. Đẹp - trầm trồ, xấu - gớm,
anh hùng - ngưỡng mộ, làm theo, hài - cười, bi - buồn
5. Hoạt động vui chơi
Vui chơi là hoạt động chủ đạo ở tuổi mẫu giáo. Trong trò chơi, trẻ thể hiện
ước vọng làm người lớn. Chúng phân vai theo chủ đề (ví dụ trò bác sĩ - bệnh
nhân, cô giáo - học trò, ba - mẹ - con…) và mô phỏng theo đời sống lao động
của người lớn cùng với những mối quan hệ xã hội của họ. Chính trong khi vui
chơi, trẻ nhận ra những nghĩa vụ, quyền hạn của con người trong xã hội, học
các đức tính tốt và các kỹ năng (ví dụ sự đồng cảm, lòng nhân ái, tính tự lập,
hợp tác, chủ động, lãnh đạo….). Các hoạt động mang tính mỹ thuật, tạo ra sản
phẩm nhất định (ví dụ như vẽ, nặn, ghép hình, xây dựng….) cũng rất quan
trọng, góp phần hình thành và phát triển trí tuệ, năng lực sáng tạo, óc thẩm mỹ

và nhân cách ở giai đoạn này.
6. Hoạt động học tập và lao động
- Ở lứa tuổi mẫu giáo, hoạt động học tập đang ở thời kì sơ khai. Trẻ được
tiếp thu một lượng tri thức chung về thế giới xung quang do trực tiếp
nhìn, nghe, qua tranh ảnh, chuyện kể… Những tri thức này làm nảy sinh
tính ham hiểu biết, hứng thú nhận thức nơi trẻ mà biểu hiện của nó là
việc trẻ không ngừng đặt câu hỏi. Tuy nhiên cần chú ý rằng hoạt động
học tập của trẻ ở giai đoạn này chưa đặt nặng vấn đề cung cấp kiến thức
và mà chỉ chuẩn bị cho trẻ các kỹ năng học tập về sau (lắng nghe, chú ý,
giữ trật tự….). Vì thế không nên thúc giục trẻ học quá sớm.
- Trẻ mẫu giáo thực hiện các nhiệm vụ lao động đơn giản: lao động tự
phục vụ (để dép lên kệ, xếp ghế, lau mặt, đánh răng, ), lao động phụ giúp
T[Type text]

Tài li
ệu phát


Các giai đo
ạn phát triển của con ng
ư
ời


SDRC - CFSI
người lớn (bê thức ăn, dọn bàn…), chăm sóc cây cối, vật nuôi, làm các
đồ vật và đồ chơi đơn giản (bằng giấy, vải vụn, hột hạt…). Lao động có
những ý nghĩa nhất định cho sự phát triển nhân cách về sau. Qua lao
động trẻ học cách hợp tác, quan tâm và chia sẻ trách nhiệm. Trẻ ham làm
thì chừa thói xấu, lười biếng, ỷ lại và biết được giá trị sức lao động

Tóm tắt ý chính: GIAI ĐOẠN TỪ 0 ĐẾN 6 TUỔI
Ngoài việc lưu ý đến những sự phát triển thể chất ở từng độ tuổi, cần quan tâm
đến những điểm sau:
- Thời kỳ sơ sinh (0 - 2 tháng tuổi): trẻ cần một giai đoạn thích nghi, cần được ở
trong bầu không khí tâm lí bình yên, được bảo vệ, che chở ấm áp tình cảm của
người mẹ. Thiếu sự an toàn, cảm xúc của trẻ sẽ bị rối loạn.
- Thời kỳ hài nhi (3 - 12/15 tháng): giao tiếp cảm xúc trực tiếp với người lớn được
coi là điều kiện tiên quyết để trẻ trở thành người - phát triển những cảm xúc tích
cực, có đời sống tâm lí ổn định, hình thành ngôn ngữ, học được thói quen tốt và
cách ứng xử đúng.
- Thời kỳ ấu nhi (1 - 3 tuổi): Trẻ thường tự cố gắng trong hành động để được người
lớn khen thưởng, thừa nhận. Lời ngợi khen và tán thưởng của những người xung
quanh là nguồn cổ vũ quan trọng giúp trẻ hình thành tình cảm tự hào, sự tự khẳng
định mình và giúp trẻ tự điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với những
chuẩn mực đạo đức.
- Tuổi mẫu giáo (3 - 6 tuổi): Vui chơi là hoạt động chủ đạo góp phần hình thành và
phát triển trí tuệ, năng lực sáng tạo, óc thẩm mỹ và nhân cách ở giai đoạn này.
T[Type text]

Tài li
ệu phát


Các giai đo
ạn phát triển của con ng
ư
ời


SDRC - CFSI


Bài 3: GIAI ĐOẠN NHI ĐỒNG
(TUỔI HỌC SINH CẤP I)
Tuổi nhi đồng là ở độ tuổi 7 đến 12 tuổi. Đây là lúc sự trưởng thành và phát triển
của thể chất, nhận thức và kỹ năng vận động tiếp tục hình thành và ổn định. Trong
suốt giai đoạn này, trẻ tham gia vào thế giới bên ngoài với chúng bạn càng lúc càng
nhiều và trẻ quan tâm đến sự thành đạt và tự kiểm soát mình.
I. SỰ PHÁT TRIỂN THỂ CHẤT
- Trẻ cấp 1 gia tăng chiều cao, trọng lượng, cơ bắp và các kỹ năng phối hợp.
Bộ xương vẫn tiếp tục phát triển, trong đó cột sống có những thay đổi lớn: độ
cong ở cổ, ở ngực, ở thắt lưng hình thành tạo ra độ mềm dẻo, linh hoạt hơn
trong cử động. Các dây chằng, cơ bắp được tăng cường. Các đốt ngón tay
được hoàn thiện. Cơ tim phát triển mạnh và được cung cấp đủ máu nên trong
não trẻ có sẵn năng lượng hoạt động khá hơn tuổi mẫu giáo. Trọng lượng của
não tăng gần bằng người lớn với cấu trúc hoàn thiện, đặc biệt thùy trán rất
phát triển, tạo điều kiện cho việc hình thành những chức năng tâm lý bậc cao.
Răng cố định và xương trở nên cứng cáp hơn. Cần lưu ý rằng vệ sinh răng
miệng và thói quen dinh dưỡng trong thời gian này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến
cuộc sống sau này của trẻ.
- Trẻ tiếp tục phát triển các kỹ năng vận động như chạy, nhảy, leo trèo và các
hoạt động khác sử dụng ngón tay và bàn tay. Mặc dù trẻ có thể ngồi yên và
tham gia công việc, chúng cần các hoạt động thể chất để tiếp tục phát triển
các kỹ năng vận động. Vi tính, ti vi và các phương tiện điện tử khác làm
giảm đi sự phát triển các kỹ năng tinh xảo của trẻ và làm cho trẻ béo phì và
sinh ra những vấn đề khác sau này. Đây là lúc trẻ cần có sự quân bình giữa
hoạt động thể chất và trí tuệ cũng như có chế độ dinh dưỡng và những thói
quen tích cực để gia tăng sức khỏe về lâu về dài.
II. SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ
T[Type text]


Tài li
ệu phát


Các giai đo
ạn phát triển của con ng
ư
ời


SDRC - CFSI
- Về mặt nhận thức, trẻ tiếp tục phát triển kỹ năng phản hồi và khả năng suy
nghĩ linh hoạt và phức tạp hơn trước. Trẻ nhớ lâu, tập trung và có khả năng
suy đoán được chi tiết của công việc được giao. Khả năng nối kết thông tin
mới với những kiến thức có sẵn có khuynh hướng gia tăng trong giai đoạn
này. Trẻ cũng có khả năng hiểu sự việc ở mức độ sâu xa hơn và so sánh,
đánh giá thông tin ở nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên khả năng chú ý ở
trẻ còn kém, dễ bị cuốn hút điều mới lạ, dễ phân tán, hay liên tưởng nên hay
hỏi chuyện khác trong khi học.
- Đời sống xúc cảm, tình cảm của học sinh nhỏ khá phong phú, đa dạng và cơ
bản là mang tính tích cực. Trẻ sống hồn nhiên, hướng thiện. Trẻ rất vui mừng
vì có bạn, tự hào vì được gia nhập Đội, hãnh diện vì được giáo viên giao cho
những công việc cụ thể. Trẻ tiếp tục phát triển khả năng tự đánh giá bản thân
và cảm xúc. Ban đầu, trẻ đánh giá bản thân dựa vào những đặc điểm bên
ngoài như tuổi tác, màu mắt, màu tóc. Về sau, trẻ nhìn vào những đặc điểm
bên trong để đánh giá bản thân. Ví dụ trẻ mô tả mình là tử tế, thông minh,
rộng rãi, hay được yêu mến. Khả năng hiểu và bày tỏ những cảm xúc phức
tạp như tự hào, tội lỗi, ganh tị gia tăng không ngừng. Thêm vào đó, những
trạng thái cảm xúc này có khuynh hướng trở thành một phần bản thân trẻ.
Trẻ cũng nhận ra trách nhiệm của bản thân trong việc tạo ra và kiểm soát

những cảm xúc khác nhau. Trẻ hiểu hơn rằng cảm xúc liên quan với sự kiện
và hành động và chúng tìm cách che giấu một số cảm xúc hay bày tỏ cảm
xúc theo phương cách được xã hội chấp nhận.
- Sự phát triển nhân cách của học sinh nhỏ chủ yếu diễn ra và bị chi phối bởi
hoạt động chủ đạo là hoạt động học tập. Qua học tập, tập dần với việc tự điều
khiển mình tuân theo những qui định của trường lớp. Tuy nhiên, ý chí của trẻ
còn non nớt. Trẻ thiếu tính độc lập, dễ bắt chước, làm theo người khác, khả
năng tự chủ kém, dễ phạm lỗi, kiên trì yếu, dễ bỏ cuộc (chỉ nhìn những gì
trước mắt). Trẻ nhận thức bản thân theo ý kiến của người khác (biết nhà
mình giàu hay nghèo, biết thân phận), trẻ hình dung bản thân mình theo nhận
xét của những người xung quanh. Đối với trẻ, ý kiến của người lớn, đặc biệt
của giáo viên là cơ bản nhất, quan trọng nhất và không thể chống đối lại. Vì
T[Type text]

Tài li
ệu phát


Các giai đo
ạn phát triển của con ng
ư
ời


SDRC - CFSI
thế, trẻ sẽ gặp khó khăn và hoang mang khi đứng trước những ý kiến khác
biệt hoặc mâu thuẫn về chính bản thân mình.
III. HOẠT ĐỘNG CHỦ ĐẠO
- Học tập là hoạt động chủ đạo của học sinh nhỏ. So với lứa tuổi mẫu giáo,
hoạt động học tập giai đoạn này vừa đòi hỏi trí tuệ tiếp thu những tri thức, kỹ

năng, kỹ xảo vừa cần nơi trẻ một năng lực, một ý chí nhất định để tự kiềm
chế bản thân, vượt khó khăn, cố gắng thực hiện những yêu cầu của giáo viên.
Do những qui định chặt chẽ về mục đích, mục tiêu của giáo dục, trẻ không
thể thích thì làm, không thích thì thôi như thời mẫu giáo nữa. Ngược lại, nó
phải biết thích ứng với những tình huống xã hội mới ở lớp học, và trong giao
tiếp với thầy cô và bạn bè.
- Qua học tập, trí tuệ của trẻ phát triển, trẻ gia tăng óc quan sát, trí nhớ, tư duy,
tưởng tượng. Tuy nhiên, trong năm đầu khả năng trí tuệ này chưa thật tinh tế.
Trẻ dễ viết thiếu nét, đọc nuốt chữ, nhầm lẫn những chi tiết gần giống nhau
như oa - ao. Cấu trúc lớp học, tương quan với thầy cô cũng đổi khác rất
nhiều, do đó, trẻ cần cha mẹ hỗ trợ trong khoảng một học kỳ đến 1 - 5 năm
để có thể thích nghi và đáp ứng nhiệm vụ học tập.
IV. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NHI ĐỒNG
1. Nhóm bạn cùng trang lứa
Đây là một phần của môi trường gần gũi với trẻ có những ảnh hưởng lâu dài
đến sự phát triển của trẻ. Qua những tương quan đồng đẳng tích cực, trẻ phát
triển những tương quan thân thiết và nảy sinh sự đồng cảm và thuận thảo. Trái
lại, những tương quan bạn cùng lứa có thể để lại những hậu quả tiêu cực trên
sự phát triển của trẻ. Cảm giác bị gạt bỏ, thù địch, đơn độc và trầm uất là kết
quả của những tương quan xấu với bạn bè có thể ảnh hưởng đến quan hệ sau
này của trẻ với người khác.
2. Hình thức kỷ luật của cha mẹ

×