Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Mối quan hệ giữa thời tiết và lợi nhuận thị trường chứng khoán TP. Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
  
HUỲNH NGỌC TRÂM
MỐI QUAN HỆ GIỮATHỜI TIẾT VÀ LỢI
MỐI QUAN HỆ GIỮATHỜI TIẾT VÀ LỢI


NHUẬN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
NHUẬN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN


TP.HCM
TP.HCM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Tp.HCM - Năm 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

HUỲNH NGỌC TRÂM
MỐI QUAN HỆ GIỮATHỜI TIẾT VÀ LỢI
NHUẬN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
TP.HCM
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60.34.0201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ THỊ KHOA NGUYÊN
Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2013
Page - 1 -
TÓM TẮT
Thị trường chứng khoán là một bộ phận quan trọng của thị trường vốn, hoạt động


của nó nhằm huy động những nguồn vốn tiết kiệm nhỏ trong xã hội tập trung thành
nguồn vốn lớn tài trợ cho doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và Chính phủ để phát triển
sản xuất, tăng trưởng kinh tế hay cho các dự án đầu tư.
Là một bộ phận trong thị trường chứng khoán thế giới, nhưng so với những thị
trường chứng khoán có lịch sử hàng trăm năm thì Việt Nam là một trong những thị
trường non trẻ nhất thế giới. Ngày 11/07/1998 Chính phủ đã ký Nghị định số 48/CP
ban hành về chứng khoán và thị trường chứng khoán, khai sinh cho thị trường chứng
khoán Việt Nam.
Được chính thức khánh thành đầu tiên vào ngày 20/07/2000 tại thành phố thương
mại lớn nhất Việt Nam, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (HOSTC) là nơi
niêm yết và giao dịch chứng khoán của các Công ty lớn. Đến ngày 08/08/2007,
HOSTC được đổi tên thành Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
(HOSE). Hiện nay, Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh được đặt tại
số 16 đại lộ Võ Văn Kiệt, Phường Nguyễn Thái Bình, Quận 1, Thành phố Hồ Chí
Minh.
Qua 13 năm hoạt động, thị trường chứng khoán TP.HCM đã không ngừng biến
động và phát triển, tuy nhiên diễn biến thay đổi của thị trường lại không theo quy luật
nào rõ nét.
Có rất nhiều nhân tố tác động dẫn đến quyết định cuối cùng của nhà đầu tư như
tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tình hình kinh tế quốc gia, chính
sách nhà nước, hệ thống pháp lý …, các nhân tố này cũng đã được nghiên cứu rất
nhiều và các kết quả thường chỉ ra ảnh hưởng nhất định của chúng.
Page - 2 -
Tuy nhiên, có một nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến thể chất con người nhưng
chưa được nghiên cứu nhiều về tác động của nó đối với nhà đầu tư trên thị trường
chứng khoán, đó chính là thời tiết. Vậy thời tiết có ảnh hưởng đến quyết định của nhà
đầu tư hay không? Lợi nhuận của thị trường chứng khoán nói chung và thị trường
chứng khoán TP.HCM nói riêng có bị ảnh hưởng bởi nhân tố thời tiết?
Để trả lời những thắc mắc này, tôi đã thực hiện nghiên cứu này trong giới hạn
khả năng của mình để xem xét về ảnh hưởng của thời tiết đối với thị trường chứng

khoán TP.HCM.
Mục đích của nghiên cứu này là để khảo sát mối quan hệ có thể có giữa thời tiết
(nhiệt độ, độ ẩm, số giờ nắng, lượng mưa) và lợi nhuận thị trường chứng khoán
Tp.HCM bằng cách sử dụng các dữ liệu tài chính và thời tiết hàng ngày. Liệu rằng các
nhà đầu tư có thể xem xét thời tiết là nhân tố để ra quyết định đầu tư hay không?
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Mối quan hệ giữa thời tiết và lợi nhuận thị trường
chứng khoán Tp.HCM” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả
nghiên cứu được sử dụng trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong các
công trình khác.
Tác giả luận văn
Huỳnh Ngọc Trâm
MỤC LỤC
Tóm tắt 1
Chương 1: Giới thiệu 3
1.1/ Tác nhân ảnh hưởng quyết định đầu tư 3
1.2/ Tâm lý học môi trường, các nhân tố thời tiết và lợi nhuận chứng khoán 5
1.3/ Sự cần thiết của đề tài 9
1.4/ Cấu trúc bài nghiên cứu 10
Chương 2: Tổngquan các kết quả nghiên cứu trước đây 11
2.1/ Cơ sở lý luận 11
a/ Tâm lý học – Lý thuyết ra quyết định 13
b/ Thời tiết ảnh hưởng đến tâm trạng 15
2.2/ Các kết quả nghiên cứu trước đây 16
a/ Các nghiên cứu tìm thấy ảnh hưởng của thời tiết 16
b/ Các nghiên cứu không tìm thấy ảnh hưởng của thời tiết 27
2.3/ Vấn đề nghiên cứu của đề tài 31
Câu hỏi nghiên cứu 31
Tóm tắt 31
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu 33

3.1/ Phương pháp nghiên cứu 33
3.2/ Phương thức thu thập và xử lý số liệu 33
Chương IV: Nội dung và kết quả nghiên cứu 42
4.1/ Unit Root Test - Kiểm tra tính dừng 42
4.2/ Mô hình GARCH 44
4.3/ Kết quả nghiên cứu 49
4.4/ Ý nghĩa nghiên cứu 52
Chương V: Kết luận 53
Tài liệu tham khảo 55
Phụ lục 60
DANH SÁCH BẢNG BIỂU
Bảng Trang
Bảng 1.Bảng tóm tắt các kết quả nghiên cứu trước đây 29
Bảng 2.Bảng mô tả thống kê của thời tiết và lợi nhuận chỉ số VNIndex hàng ngày. 34
Bảng 3.Bảng kết quả kiểm định nghiệm đơn vị - Unit Root Test 43
Bảng 4.Bảng kết quả mô hình AR(1) – GARCH (1,1) 45
Bảng 5.Bảng kết quả mô hình AR(1) – GARCH (1,1) với phân phối thường (Normal),
phân phối Student’s – t và phân phối sai số tổng quát (GED) 48
DANH SÁCH BIỂU ĐỒ
Biểu đồ Trang
Biểu đồ 1.Biểu đồ tần số và thống kê mô tả biến lợi nhuận thị trường chứng khoán
Tp.HCM 37
Biểu đồ 2.Biểu đồ tần số và thống kê mô tả biến nhiệt độ 38
Biểu đồ 3 Biểu đồ tần số và thống kê mô tả biến độ ẩm 39
Biểu đồ 4.Biểu đồ tần số và thống kê mô tả biến số giờ nắng 40
Biểu đồ 5.Biểu đồ tần số và thống kê mô tả biến lượng mưa 41
DANH SÁCH ĐỒ THỊ
Đồ thị Trang
Đồ thị 1.Đồ thị lợi nhuận chứng khoán hàng ngày của chỉ số VNIndex từ năm 2002 -
2012 37

Đồ thị 2.Đồ thị nhiệt độ trung bình hàng ngày của Tp.HCM từ năm 2002 - 2012 38
Đồ thị 3.Đồ thị độ ẩm trung bình hàng ngày của Tp.HCM từ năm 2002 - 2012 39
Đồ thị 4.Đồ thị số giờ nắng hàng ngày của Tp.HCM từ năm 2002 – 2012 40
Đồ thị 5.Đồ thị lượng mưa hàng ngày của Tp.HCM từ năm 2002 – 2012 41
Page - 3 -
Chương 1
GIỚI THIỆU
1.1/ Tác nhân ảnh hưởng quyết định đầu tư
Trên thị trường chứng khoán, về nguyên tắc, trước khi quyết định giao dịch loại
cổ phiếu nào các nhà đầu tư trước tiên sẽ phải xem xét tình hình hoạt động của doanh
nghiệp, quy mô doanh nghiệp, tiềm năng phát triển, thị trường của doanh nghiệp, chiến
lược kinh doanh, tính thanh khoản… từ đó ra quyết định mua bán. Tuy nhiên, tại
những thị trường chứng khoán non trẻ, quyết định của các nhà đầu tư lại thường chịu
ảnh hưởng rất lớn từ tâm lý, đây nhiều khi lại là điều ảnh hưởng lớn nhất đối với họ
hơn tất cả, nơi mà những thông tin doanh nghiệp được công bố thường thiếu độ chuẩn
xác và khả năng phân tích của nhà đầu tư còn hạn chế. Điều này sẽ dẫn đến một thực
trạng: cảm xúc chi phối thị trường, tâm lý đám đông bầy đàn. Khi một người cảm thấy
tốt (hoặc xấu), họ có thể lạc quan (hoặc bi quan) đầu tư và truyền sự lạc quan (hoặc bi
quan) đó cho những người khác, những người không có đủ những thông tin hoặc
không đủ khả năng phân tích thông tin sẽ dễ tin vào sự lạc quan (hoặc bi quan) đó và ra
quyết định mua - bán. Từ đó thị trường chứng khoán lại có những đợt “sóng” lên
xuống thất thường mà hầu như không có khả năng giải thích được nguyên do rõ ràng.
Không ngoại lệ, thị trường chứng khoán TP.HCM cũng là một trong số đó.
Thời tiết được coi là một đại diện cho các nhân tố ảnh hưởng lên tâm trạng từ đó
tác động đến quyết định của các nhà đầu tư. Giả thuyết cho rằng các nhà đầu tư có xu
hướng lạc quan hơn về triển vọng thị trường trong những ngày thời tiết ấm áp và nhiều
nắng, bi quan hơn trong những ngày trời mưa và nhiều mây (Eagles (1994); Rind
(1996)). Do đó những người tham gia thị trường sẽ dễ dàng mua chứng khoán khi thời
tiết tốt và bán chúng khi thời tiết xấu.
Page - 4 -

Những thay đổi bất thường của thị trường chứng khoán thường dựa trên tâm lý
của các nhà đầu tư cùng với các nhân tố khác trên thị trường chứng khoán liên quan
đến các chiến lược kinh doanh của họ. Thực tế, ta dường như có thể nhận thấy được
một số yếu tố thời tiết tác động lên biểu hiện và tâm trạng nhà đầu tư, dẫn đến những
ảnh hưởng đáng kể việc mua bán cổ phiếu và giá cả thị trường.
Các nghiên cứu tâm lý học ủng hộ sự tồn tại của thời tiết ảnh hưởng đến tâm trạng
con người. Nghiên cứu tâm lý học chỉ ra rằng nhiệt độ tác động đáng kể lên tâm trạng,
và tâm trạng thay đổi dẫn đến hành vi thay đổi. Nghiên cứu trong lĩnh vực tài chính
hành vi cho thấy nhiệt độ thấp có thể dẫn đến sự quyết đoán và táo bạo, trong khi nhiệt
độ cao có thể dẫn đến sự thờ ơ thụ động và cả sự quyết đoán, táo bạo (Cao và Wei
(2005)). Sự quyết đoán, táo bạo đưa đến khả năng chấp nhận rủi ro cao hơn, trong khi
sự thờ ơ, thụ động có thể ngăn cản khả năng chấp nhận rủi ro. Vì thế, chúng ta mong
đợi nhiệt độ thấp dẫn tới lợi nhuận chứng khoán cao và nhiệt độ cao dẫn tới lợi nhuận
chứng khoán có thể cao hơn hoặc thấp hơn phụ thuộc vào sự đánh đổi giữa hai hiệu
ứng cạnh tranh.
Khuynh hướng cụ thể ở TP.HCM, người ta buộc phải tự hỏi nếu bất kỳ nhân tố
thời tiết nào ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán TP.HCM trong tình huống tương
tự. Do đó, nghiên cứu này đề cập đến vấn đề này để xác định mức độ nếu có của thời
tiết TP.HCM tác động đến lợi nhuận chứng khoán hàng ngày được niêm yết trên sàn
giao dịch chứng khoán TP.HCM. Bài viết này tìm hiểu xem liệu có mối quan hệ giữa
lợi nhuận cổ phiếu ở TP.HCM với các biến đại diện ảnh hưởng lên tâm trạng, cụ thể:
nhiệt độ, độ ẩm, số giờ nắng và lượng mưa. Lưu ý rằng mặc dù các biến thời tiết có
tính trung lập về mặt kinh tế, nhưng chúng thuộc tâm lý học quan trọng. Trong khi các
nghiên cứu trước chủ yếu tập trung vào các mối quan hệ tuyến tính thì nghiên cứu này
sử dụng một kỹ thuật kinh tế lượng mới được phát triển gần đây của mô hình GARCH
để khảo sát mối quan hệ giữa bốn nhân tố thời tiết (nhiệt độ, độ ẩm, số giờ nắng, lượng
Page - 5 -
mưa) và lợi nhuận thị trường chứng khoán ở TP.HCM sử dụng dữ liệu hàng ngày trong
giai đoạn 01/03/2002 đến 28/12/2012. Để hiểu rõ hơn mối quan hệ giữa thời tiết và lợi
nhuận thị trường chứng khoán, tôi cũng xem xét liệu lợi nhuận chứng khoán có cao

hơn vào tháng đầu tiên của năm (hiệu ứng tháng Giêng) và trong ngày đầu tiên của
tuần (hiệu ứng thứ Hai).
1.2/ Tâm lý học môi trường, các nhân tố thời tiết và lợi nhuận chứng khoán
Là chủ đề tập trung vào nghiên cứu mối quan hệ giữa môi trường và hành vi con
người, tất nhiên tâm lý học môi trường tìm cách giải thích hầu hết các hiện tượng liên
quan đến hành vi con người. Môi trường bao gồm nhiều yếu tố, chẳng hạn như thời
tiết, tiếng ồn, màu sắc, các công trình kiến trúc, đám đông, … nhưng chủ yếu của
nghiên cứu này là thời tiết và làm thế nào thời tiết tác động đến tâm trạng con người,
đặc biệt là làm thế nào tâm trạng tác động đến hành vi của nhà đầu tư trên thị trường
chứng khoán.
Rất nhiều nghiên cứu cho thấy chắc chắn rằng thời tiết là một nhân tố quan trọng
tác động đến tâm trạng con người, đặc biệt người ta biểu lộ những hành vi khác nhau
khi trời cực kỳ lạnh hoặc cực kỳ nóng. Trong một nghiên cứu xã hội gần đây của Mỹ,
cho thấy rằng có nhiều bạo lực đáng kể trong xã hội khi trời rất nóng, một hiện tượng
mà các nhà tâm lý học gọi là “hiệu ứng mùa hè”. Bên cạnh đó, chương trình Uniform
Crime Reports (UCR) của Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI) thậm chí còn lập danh
sách nóng gắt như một nhân tố kích thích chính dẫn con người đến phạm tội. Ngay cả
trong Liên đoàn Bóng chày chuyên nghiệp theo như tin đưa nhiều cú ném dữ dội hơn
khi nhiệt độ cao hơn. Các nhà khoa học đã chứng minh rằng người ta cảm thấy thiếu
kiên nhẫn hay thậm chí giận dữ khi nhiệt độ trên 84.2 độ F (tương đương 29 độ C). Khi
cường độ lạnh cao, một số nhà tâm lý học khẳng định rằng sự lạnh lẽo thường làm cho
người ta thiếu kiên nhẫn hoặc buồn bã, nhưng các nhà khoa học cũng chỉ ra rằng không
giống như nóng, lạnh không có ảnh hưởng đáng kể đến hành vi của con người.
Page - 6 -
Ngoài nhiệt độ, độ ẩm còn là một nhân tố quan trọng kể từ khi các nhà tâm lý học
đưa ra giả thuyết rằng ngay cả khi nhiệt độ giống nhau, người ta cảm thấy ít thoải mái
hơn nếu độ ẩm cao. Ánh sáng mặt trời là nhân tố thời tiết thứ ba tác động đến hành vi
con người. Cho rằng thời tiết rõ ràng ảnh hưởng đến tâm trạng con người, chúng ta
mong đợi rằng thời tiết có thể đóng vai trò quan trọng khi các nhà đầu tư đưa ra các
quyết định trong quan điểm về giới hạn hợp lý.

Trong kinh tế học truyền thống, các nhà kinh tế học xác định con người là những
chủ thể kinh tế hợp lý, chủ thể kinh tế hợp lý đưa ra những lựa chọn hợp lý bằng cách
đo lường chi phí cơ hội và doanh thu. Sự lựa chọn hợp lý nhất sẽ là một trong những tỷ
lệ sinh lợi mang lại lợi nhuận kinh tế tối đa, lợi nhuận kinh tế là kết quả của doanh thu
trừ đi chi phí cơ hội. Tuy nhiên, Simon (1976) khẳng định rằng hầu như không có khả
năng con người luôn luôn có những lựa chọn hợp lý dựa trên căn cứ rằng con người
không bao giờ biết giá chứng khoán sẽ đi đâu bởi có quá nhiều nhân tố tác động lên thị
trường. Nói cách khác, những người tham gia thị trường chứng khoán chắc chắn chỉ có
giới hạn hợp lý. Tuy nhiên, các nhà đầu tư có những kỳ vọng của họ, kỳ vọng hợp lý là
một trong số các kỳ vọng dựa trên tất cả thông tin mà chủ thể có, và sau đó sẽ được đi
theo một quá trình học hỏi dẫn đến cá nhân đưa ra một lựa chọn tối ưu. Mặc dù những
kỳ vọng hợp lý không thể dự đoán kết quả chính xác, nhưng người ta không liên tục
đưa ra những sai lầm có tính hệ thống bởi vì quá trình học hỏi mà họ đã trải qua. Nói
chung, khi người ta có những kỳ vọng hợp lý, họ có khuynh hướng có những kỳ vọng
càng ngày càng chính xác hơn do có nhiều quá trình học hỏi, và điều này có nghĩa rằng
cuối cùng họ có thể đưa ra những lựa chọn tối ưu. Từ quan điểm này, nếu người ta mắc
sai lầm, thì những sai lầm đó phải xảy ra ngẫu nhiên, những sai lầm không có tính hệ
thống.
Vấn đề cố hữu với những kỳ vọng hợp lý là người ta không thể đưa ra những kỳ
vọng hợp lý dựa trên những hệ thống khác nhau. Vì nó là một sản phẩm của sự hình
Page - 7 -
thành các kỳ vọng hợp lý, quá trình học hỏi không còn hữu ích khi người ta có được
thông tin từ các hệ thống khác. Nền tảng của thị trường chứng khoán trong thế giới
thực thay đổi liên tục, sự thay đổi cho thấy chắc chắn rằng thông tin hôm nay có thể rất
tốt nhưng còn không khả thi, huống chi nói đến việc hữu ích vào ngày mai. Theo đó
người ta thường đưa ra những sai lầm không có tính hệ thống trên thị trường chứng
khoán bởi vì các nhân tố bất ngờ thường xuyên phát sinh. Người ta thường theo đuổi
những thông tin hữu ích nhất liên quan đến thị trường chứng khoán trong thế giới thực,
nhưng nó hầu như thay đổi quá nhanh chóng để người ta luôn luôn có thể bắt kịp.
Thực tế, những người giao dịch trên thị trường cố gắng xác định các quy tắc giao

dịch trong nhiều năm cho nỗi sợ của việc đưa ra các quyết định sai lầm nhưng thị
trường không bao giờ hết ngạc nhiên với bất cứ ai. Những người giao dịch trên thị
trường chứng khoán có thể chỉ học được một điều, tức là luôn chắc chắn có bất ngờ
mới. Vấn đề đầu tư hoặc không đầu tư luôn là quyết định khó chịu nhất khi người ta
không có cơ hội để sửa chữa những gì họ đã thực hiện khi có thông tin mới về một tình
huống thay đổi được công bố. Trong ngắn hạn, những người giao dịch trên thị trường
sử dụng những thông tin hiện có chỉ một lần duy nhất.
Khi tương lai không chắc chắn và thông tin khan hiếm, người ta đưa ra những kỳ
vọng hợp lý bằng cách thu thập càng nhiều thông tin càng tốt; tuy nhiên, các nhà đầu tư
trên thị trường chứng khoán nhận biết rất rõ ràng rằng các thông tin mà họ có không
thể hoàn toàn giải thích tương lai và họ không thể không bao giờ đưa ra sai lầm một lần
nữa. Điều này bắt buộc người ta tự hỏi thông tin họ có chính xác có nghĩa gì, ví dụ giá
chứng khoán tăng hoặc giảm? Điều quan trọng nhất trong vấn đề này là câu hỏi này
được trả lời trong chính tâm trí của họ để đánh giá tất cả các thông tin hiện có và cố
gắng chứng minh các quyết định của họ là đúng. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng tâm trí một
người luôn luôn bị tác động bởi tâm trạng. Nếu người đó ở trong tâm trạng tốt thì tâm
Page - 8 -
trí có thể giải thích thông tin một cách lạc quan, và do bởi niềm tin của người đó rằng
điều gì đó tốt đẹp sẽ xảy ra, có khả năng người đó sẽ mua một chứng khoán cụ thể.
Như đã đề cập trước đó, các nhân tố thời tiết tác động đến tâm trạng con người
được chấp nhận rộng rãi, như thế thời tiết làm cho họ cảm thấy tốt hoặc xấu. Do đó,
chúng ta dự đoán rằng trong tâm trạng tốt làm người ta lạc quan, trong khi trong tâm
trạng xấu làm họ bi quan. Cân nhắc điều này, chúng ta giả định rằng nếu những người
trên thị trường lạc quan (hoặc bi quan), họ có thể tin rằng những thông tin mà họ nhận
được mang tính biểu thị rằng thị trường sẽ tăng (hoặc giảm). Với những lý do này,
chúng ta thấy hợp lý để kết luận rằng thời tiết phải có tác động đáng kể lên hành vi của
nhà đầu tư đối với thị trường chứng khoán.
Trong mọi trường hợp, giả định này không nhìn nhận rằng người ta có những kỳ
vọng hợp lý đối với thị trường chứng khoán, nhưng những gì chúng ta đặt câu hỏi ở
đây là quá trình học hỏi. Vấn đề của giả định là khi người ta không có ý tưởng về

tương lai, thì cách họ giải thích những thông tin mới là rất quan trọng. Chúng ta không
chỉ giả định mà còn tin rằng mặc dù tâm trạng tác động đến tâm trí con người là
nguyên nhân của bất kỳ quyết định nào mà họ đưa ra, dù sao người ta cũng hợp lý bởi
vì họ vẫn thực hiện theo cách mà họ cho là thích hợp nhất để đạt được mục tiêu.
Trong nghiên cứu của Lo và cộng sự (2001) tập trung vào vai trò của cảm xúc tác
động lên hành vi và việc ra quyết định của những nhà đầu tư trên thị trường chứng
khoán. Họ tìm thấy mối tương quan có ý nghĩa giữa thái độ tâm lý và cách thị trường
hoạt động (ví dụ như lên/xuống) và cho rằng cảm xúc nâng cao hiệu quả của các nhà
đầu tư và khả năng điều chỉnh để thích nghi với môi trường biến động. Một nghiên cứu
khác được thực hiện bởi Ashbury và cộng sự (1999) cũng cho thấy những người có
tâm trạng tốt thực hiện tốt hơn khi họ có khuynh hướng đặt triển vọng lạc quan hiện tại
lên trên việc chuyển nhượng được thực hiện ở thời điểm đó.
Page - 9 -
Tâm lý học về môi trường cố gắng giải thích những ngoại vi tác động lên hành vi
con người như thế nào. Thời tiết là một trong những nhân tố chính ảnh hưởng đến tâm
trạng của một người và cách người đó cảm thấy như thế nào. Thực nghiệm của Bell và
cộng sự (2003) chỉ ra rằng trời lạnh làm người ta dễ dẫn đến buồn rầu và u sầu nhưng
ảnh hưởng nhẹ và hầu như không đáng kể. Mặt khác, Bell và cộng sự (2003) lập luận
rằng hơi nóng có tác động tiêu cực mạnh lên hành vi con người và cho là bạo lực gia
tăng nhanh chóng trong các kỳ nhiệt độ cao của năm.
Các nhà tâm lý học cũng nói rằng người ta trở nên lạc quan hơn trong thời tiết có
nắng và bi quan hơn trong những ngày nhiều mây hoặc có mưa (Eagles (1994); Rind
(1996)). Nói cách khác, tâm trạng tốt và triển vọng lạc quan tác động tích cực đến nhận
thức về thực tại và tương lai (Herren, Arkes và Isen (1988)). Như vậy, một cảm giác
tích cực tác động đến quyết định của con người thường được thực hiện phù hợp với
tâm trạng (Schwarz (1990)). Vì vậy, các nhà đầu tư đang ở trong một tâm trạng tốt có
xu hướng đầu tư vào các dự án rủi ro cao hơn khi họ tin vào thành công của những dự
án kinh doanh mạo hiểm (Herren, Arkes và Isen (1988)).
1.3/ Sự cần thiết của đề tài
Nghiên cứu mối quan hệ giữa thời tiết (nhiệt độ, độ ẩm, số giờ nắng, lượng mưa)

và lợi nhuận thị trường chứng khoán Tp.HCM để có thể trả lời câu hỏi: thời tiết có ảnh
hưởng như thế nào đến thị trường chứng khoán bằng cách tác động vào hành vi của các
nhà đầu tư trên thị trường? Liệu rằng các nhà đầu tư có thể xem xét thời tiết là nhân tố
để ra quyết định đầu tư hay không?
Trả lời cho câu hỏi trên sẽ góp phần giúp cho các nhà đầu tư trên thị trường có
thêm thông tin, đồng thời cũng giúp cho các chuyên gia phân tích có thể đưa ra những
nhận định chính xác hơn về thị trường. Việc nghiên cứu này sẽ mang lại lợi ích cho các
nhà quản lý tài chính, các nhà đầu tư và những người giao dịch trên thị trường chứng
khoán Tp.HCM.
Page - 10 -
1.4/ Cấu trúc bài nghiên cứu:
Bài nghiên cứu này gồm năm phần chính:
Phần thứ nhất:
- Cơ sở lý luận cho quan điểm thời tiết tác động lên thị trường chứng khoán.
Phần thứ hai:
- Xem xét các kết quả nghiên cứu của các chuyên gia tâm lý học, các nhà kinh tế
học, các nghiên cứu sinh… ở nhiều quốc gia khác nhau về vấn đề ảnh hưởng của thời
tiết đối với thị trường chứng khoán.
Phần thứ ba:
Thu thập dữ liệu, áp dụng phương pháp nghiên cứu để xử lý số liệu về thời tiết và
lợi nhuận thị trường chứng khoán Tp.HCM để xem xét mức độ ảnh hưởng của thời tiết
đối với lợi nhuận thị trường chứng khoán Tp.HCM.
Nghiên cứu sử dụng mô hình GARCH - một kỹ thuật kinh tế lượng mới được phát
triển gần đây. Dữ liệu được lấy trong giai đoạn từ 01/03/2002 đến 28/12/2012 tại
Tp.HCM.
Phần thứ tư:
Kết quả nghiên cứu và kết luận về ảnh hưởng của thời tiết đối với lợi nhuận thị
trường chứng khoán TP.HCM.
Phần thứ năm:
Kết luận

Page - 11 -
Chương 2
TỔNG QUAN CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
2.1/ Cơ sở lý luận
Các tài liệu tài chính truyền thống thường cho rằng thị trường là hiệu quả và các
nhà đầu tư hành động hợp lý. Các nhà kinh tế học truyền thống (như Fama (1970))
định nghĩa một thị trường hiệu quả là thị trường nơi mà giá cả phản ánh tất cả các
thông tin sẵn có và các nhà đầu tư thực hiện mọi quyết định hợp lý sau khi suy nghĩ
thông qua tất cả các thông tin và kết quả có thể có. Bằng cách này, người ta thực hiện
tất cả các quyết định để tối đa hóa lợi ích của họ. Con người được xem như luôn luôn
có khả năng tùy ý phức hợp các suy luận hướng về mục đích đó. Các mô hình hợp lý
nổi tiếng nhất là lý thuyết độ thỏa dụng kỳ vọng của Von Neumann và Morgenstern
(1944), đó là cơ sở cho nhiều tài liệu tài chính truyền thống theo sau. Lý thuyết phát
biểu rằng độ thỏa dụng của một nhà đầu tư người đang phải đối mặt với sự không chắc
chắn được tính toán bằng cách xem xét độ thỏa dụng trong từng kết quả có thể có và
sau đó xây dựng một trung bình có trọng số. Theo lý thuyết này, việc ra quyết định
dưới sự rủi ro được xem như là một sự lựa chọn giữa những triển vọng và may rủi;
người ra quyết định phải sắp xếp hợp lý các ưa thích của mình theo các kết quả của các
lựa chọn quyết định khác nhau. Độ thỏa dụng kỳ vọng dựa trên 3 nguyên tắc chính sau:
(i) tổng thỏa dụng của một triển vọng là độ thỏa dụng kỳ vọng của các kết quả của triển
vọng, (ii) miền xác định của hàm thỏa dụng là những trạng thái cuối cùng (bao gồm cả
tình trạng tài sản của người ra quyết định) hơn là lãi hoặc lỗ, và (iii) người ra quyết
định luôn luôn không thích rủi ro.
Tuy nhiên, mô hình độ thỏa dụng kỳ vọng không cung cấp một mô tả về quá trình
ra quyết định bởi vì con người thường không có tất cả các thông tin cần thiết để thực
hiện một quyết định. Ngoài ra, con người thiếu khả năng kết hợp và cân nhắc các thông
Page - 12 -
tin hợp lý. Kahneman và Tversky (1979) cho thấy ba nguyên tắc chính của giả thuyết
độ thỏa dụng kỳ vọng thường bị vi phạm. Kahneman và Tversky (1979) chứng minh
rằng người ra quyết định tính cả trạng thái cuối cùng của các tài sản vào lợi ích. Quan

trọng hơn, các nhà đầu tư biểu lộ sự không thích rủi ro khi họ đang ở trạng thái chiến
thắng, nhưng lại biểu lộ hành vi tìm kiếm rủi ro khi trong trạng thái thua cuộc. Họ kết
luận rằng chắc chắn những người ra quyết định luôn không hành động hợp lý và nhiều
yếu tố (thái độ cá nhân đối với rủi ro hay điểm tham chiếu) có thể có ảnh hưởng đến
quá trình ra quyết định. Ngoài ra, tâm trạng của người ra quyết định và cảm xúc hiện
tại cũng có thể có ảnh hưởng lớn đến hành vi trong quá trình ra quyết định. Kahneman
và Tversky (1979) cho thấy rằng, trong lĩnh vực tài chính, nhiều nhân tố có thể khiến
thị trường đi lệch khỏi hoạt động hiệu quả. Đây là một chủ đề quan trọng trong các tài
liệu tài chính hành vi. Tài chính hành vi giả định rằng “Tâm lý học là cơ sở cho những
ham muốn, mục tiêu và động cơ của con người, và nó cũng là cơ sở cho sự đa dạng
rộng lớn của những sai lầm của con người xuất phát từ những ảo tưởng nhận thức, quá
tự tin, quá tin vào quy tắc ngón tay cái (dựa vào kinh nghiệm để giải quyết vấn đề) và
cảm xúc” (Shefrin (2002)).
Kết quả nghiên cứu trước đây thảo luận cả tài chính truyền thống và tài chính
hành vi xem xét quá trình ra quyết định của con người như thế nào và điều này ảnh
hưởng như thế nào đến việc hình thành giá cả. Cụ thể, thảo luận về sự khác biệt tài
chính giữa hành vi hợp lý và hành vi không hợp lý của con người. Các tài liệu tài chính
này kết luận rằng con người không phải lúc nào cũng đưa ra các quyết định hợp lý và
lý do quan trọng cho điều này là tâm trạng của người ra quyết định và các cảm xúc ở
thời điểm ra quyết định ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định. Trong việc thực hiện
các lựa chọn, những người hạnh phúc thì lạc quan hơn những người buồn bã (Bower và
Cohen (1982) và Blaney (1986)). Ngoài ra, những người hạnh phúc thì ít quan trọng
trong quá trình xử lý thông tin, ngược lại những người buồn bã có khuynh hướng phân
tích thái quá các chi tiết trong quá trình ra quyết định (Schwarz (1990)). Nói cách khác,
Page - 13 -
tâm trạng là phần quan trọng được chứng minh bị ảnh hưởng bởi điều kiện thời tiết.
Các tâm trạng lạc quan có tương quan thuận với số giờ của ánh sáng mặt trời và nhiệt
độ, trong khi chúng có tương quan nghịch với độ ẩm và lượng mưa (Howarth và
Hoffmann (1984)).
Khi thời tiết ảnh hưởng đến tâm trạng con người và tâm trạng con người ảnh

hưởng đến quá trình ra quyết định, điều đó lập luận rằng các quyết định đầu tư bị tác
động bởi điều kiện thời tiết ở thời điểm ra quyết định. Kết quả là, các quyết định đầu tư
của con người tác động lên giá chứng khoán. Do đó, theo lập luận này, thời tiết ảnh
hưởng đến giá cả chứng khoán. Nếu đây là trường hợp, các nhà đầu tư không hành
động hợp lý và thị trường không hiệu quả. Mặc dù hầu hết các nghiên cứu đều tìm thấy
các nhân tố thời tiết tác động lên các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán, cần lưu ý
rằng không có nghiên cứu nào tìm thấy bằng chứng thực nghiệm giải thích cho tất cả
các hành vi của nhà đầu tư và do đó thời tiết chỉ giải thích như một phần nhỏ của vấn
đề đó.
a/ Tâm lý học – Lý thuyết ra quyết định:
Mọi người không phải lúc nào cũng hành động hợp lý và thị trường không phải
lúc nào cũng hoạt động hiệu quả. Lý do quan trọng cho hành vi ra quyết định không
hợp lý của con người là sự ảnh hưởng của cảm xúc trong quá trình ra quyết định.
Trong lĩnh vực tâm lý học, một lượng lớn tài liệu thảo luận các ảnh hưởng của tâm
trạng và cảm xúc con người tác động lên hành vi. Wright và Bower (1992) lập luận
rằng, để ra quyết định cho những lựa chọn khác nhau và xác suất xảy ra của chúng
được kiểm tra bằng cách truy tìm thông tin từ bộ nhớ trong dài hạn. Trong phạm vi vấn
đề này, xác suất là cách thể hiện cho mức độ tin cậy của một cá nhân trong một vấn đề.
Cách thức và số lượng truy tìm bộ nhớ bị tác động bởi tâm trạng con người, dẫn đến
tâm trạng một người cũng có ảnh hưởng đến việc ra quyết định. Trong bài viết của
mình, Wright và Bower nhắc lại 3 phát hiện về ảnh hưởng và nhận thức từ Bower và
Page - 14 -
Cohen (1982) và Blaney (1986): (i) cảm giác hoạt động như là một bộ lọc được chú ý
tuyển chọn đối với kích thích mới, tập trung sự chú ý vào các khía cạnh của tình huống
phù hợp với tâm trạng. Do đó cảm giác phần nào chứng minh một kích thích được mã
hóa như thế nào trong bộ nhớ; (ii) cảm giác tác động đến những gì mà thông tin xảy ra
sau được truy tìm từ bộ nhớ, hiệu ứng truy tìm phạm vi tâm trạng; (iii) ngoài bất kỳ
những hiệu ứng truy tìm bộ nhớ ra, cảm giác ảnh hưởng đến sự sẵn có của các cấu trúc
khác nhau và những chiến lược được sử dụng để đạt tới các nhận thức xã hội, các đánh
giá tính cách, các quyết định mạo hiểm (chẳng hạn như đầu tư), và các đánh giá khác,

tức là quá trình xử lý thông tin để mang lại một kết luận và tính chất của những kết
luận đó. Những kết quả của chúng cho thấy rằng những người hạnh phúc lạc quan
trong việc đưa ra những đánh giá và lựa chọn hơn những người buồn bã, tức là họ đang
ấn định các trường hợp tích cực có khả năng xảy ra nhiều hơn cũng như các trường hợp
tiêu cực có khả năng xảy ra ít hơn. Đối với đầu tư, điều này ngụ ý rằng những người
hạnh phúc có khuynh hướng đầu tư sớm hơn bởi vì họ ấn định các trường hợp tích cực
(tức là sự gia tăng trong giá chứng khoán sau khi mua chứng khoán dẫn đến lợi nhuận)
có nhiều khả năng xảy ra hơn các trường hợp tiêu cực (tức là sự sụt giảm trong giá
chứng khoán sau khi mua dẫn tới thua lỗ).
Ngoài ra, Schwarz (1990) thấy rằng những người trong tâm trạng tốt có nhiều khả
năng biểu lộ hành vi theo kinh nghiệm và ít phán đoán trong quá trình xử lý thông tin.
Mặt khác, những người trong tâm trạng xấu có khuynh hướng phân tích thái quá các
chi tiết trong quá trình ra quyết định. Phân tích thái quá có thể làm cho những người
tính khí kém phần lớn xem xét các mặt tiêu cực của đầu tư. Mặt khác, những người
tính khí tốt biểu lộ hành vi theo kinh nghiệm (hành vi dựa trên quy tắc ngón tay cái,
các phỏng đoán được chỉ dẫn và các đánh giá trực quan) chỉ có thể xem xét các mặt
tích cực của đầu tư. Tuy nhiên, cả tâm trạng tốt và xấu có thể dẫn tới những quyết định
bất hợp lý.
Page - 15 -
Loewenstein và cộng sự (2001) đã phát triển một mô hình “rủi ro là cảm giác”
(“risk as feelings”) hoạt động như mô hình mô tả quá trình ra quyết định trong điều
kiện rủi ro và không chắc chắn. Đặc biệt, Loewenstein và cộng sự (2001) cố gắng giải
thích quá trình ra quyết định dưới sự ảnh hưởng của cảm giác khác với quá trình ra
quyết định hợp lý như thế nào. Do thiếu hoặc thừa thông tin hoặc một số hạn chế nhận
thức, người ta không phải lúc nào cũng có thể đưa ra các quyết định hợp lý khi đối mặt
với các vấn đề phức tạp, giống như đầu tư. Trong trường hợp này, người ta có khuynh
hướng đưa ra các quyết định đem lại sự hài lòng hơn là các quyết định tối ưu và ngạc
nhiên là người ta có khuynh hướng hướng về những cảm xúc để giúp họ đưa ra những
cảm xúc đem lại sự hài lòng. Tất nhiên những quyết định này không được gọi là hợp
lý.

Ngoài ra, Johnson và Tversky (1983) thảo luận về vấn đề người ta nhận thức và
đánh giá rủi ro như thế nào và thấy rằng tâm trạng có một tác động mạnh mẽ lên những
đánh giá rủi ro. Johnson và Tversky (1983) lập luận rằng những quyết định và đánh giá
bị ảnh hưởng mạnh bởi cảm giác và cảm xúc và do đó những quyết định và đánh giá
không chỉ bị ảnh hưởng bởi suy nghĩ hợp lý.
b/ Thời tiết ảnh hưởng đến tâm trạng:
Tâm trạng và cảm xúc con người ảnh hưởng đến hành vi và việc ra quyết định.
Nói cách khác, điều này có thể gây ra những ảnh hưởng không hợp lý lên giá chứng
khoán. Thời tiết, cụ thể là số giờ có nắng - độ ẩm và nhiệt độ, ảnh hưởng đáng kể lên
tâm trạng và cảm xúc (Howarth và Hoffmann (1984); Cunningham (1979); Persinger
(1975)). Do đó, theo lý luận này, thời tiết có thể tác động gián tiếp lên giá chứng
khoán. Howarth và Hoffmann (1984) liên hệ 10 biến tâm trạng với 8 biến thời tiết
trong một nghiên cứu đa chiều. Các biến tâm trạng như sau: tập trung, hợp tác, lo lắng,
quyền lực, quyết đoán, trầm cảm, buồn ngủ, hoài nghi, kiểm soát, và lạc quan. Các
Page - 16 -
biến thời tiết bao gồm: số giờ có nắng, lượng mưa, nhiệt độ, hướng gió, vận tốc gió, độ
ẩm, thay đổi trong áp suất khí quyển và áp suất khí quyển tuyệt đối.
Howarth và Hoffmann (1984) nhận thấy rằng độ ẩm, nhiệt độ và số giờ có nắng
có ảnh hưởng lớn nhất đến tâm trạng. Tâm trạng tốt có tương quan thuận với số giờ có
nắng, trong khi tâm trạng tốt tương quan nghịch với độ ẩm. Thông thường nhiệt độ có
ảnh hưởng thuận lên tâm trạng con người, trừ phi nhiệt độ quá cao, tức là khi nhiệt độ
trở nên nóng khó chịu. Cunningham (1979) tiến hành hai lĩnh vực nghiên cứu về mối
quan hệ của các biến thời tiết đối với “hành vi giúp đỡ”. Cũng giống như Howarth và
Hoffmann (1984), Cunningham (1979) thấy rằng lượng ánh nắng mặt trời là một nhân
tố rất mạnh mẽ của sự sẵn sàng giúp đỡ ai đó, cũng như nhiệt độ, độ ẩm, vận tốc gió và
các tuần trăng ở vị trí thấp hơn.
2.2/ Các kết quả nghiên cứu trước đây
a/ Các nghiên cứu tìm thấy ảnh hưởng của thời tiết tác động lên lợi
nhuận thị trường chứng khoán:
Như đã giải thích ở trên, tâm trạng con người ảnh hưởng đến quá trình ra quyết

định và trạng thái thời tiết ảnh hưởng đến tâm trạng con người. Bước tiếp theo của lý
luận này là để mô tả thời tiết tác động đến việc ra quyết định đầu tư của con người như
thế nào. Một số tác giả xem xét thời tiết ảnh hưởng lên hành vi của những nhà đầu tư
trên thị trường và sau đó là trên thị trường tài chính. Tác giả đầu tiên viết về ảnh hưởng
của thời tiết lên thị trường tài chính là Roll (1984). Roll kiểm tra sự tương tác giữa giá
của các hợp đồng tương lai nước cam đông lạnh và thời tiết như một yếu tố quyết định
của giá trị ngoại sinh thực. Các kết quả của Roll cho thấy giá tương lai của nước cam
ảnh hưởng ở mức độ không đáng kể, nhưng bị ảnh hưởng đáng kể bởi nhiệt độ lạnh, và
không có ảnh hưởng nào của lượng mưa lên giá được phát hiện. Roll tìm thấy không có
các nhân tố cung hoặc cầu khác chịu ảnh hưởng đáng kể để giải thích cho những biến
động hàng ngày của giá nước cam tương lai. Mặc dù nghiên cứu này cho thấy thời tiết
Page - 17 -
là tác nhân rõ ràng và đáng kể nhất tác động lên giá nước cam, thời tiết chỉ giải thích
một phần nhỏ của sự biến động trong giá tương lai, do đó vẫn còn một lượng lớn của
biến động giá không thể giải thích được. Trong cách nhìn đầu tiên, đánh giá về bài viết
của Roll có thể dường như có phần hơi lạ trong nghiên cứu này bởi vì Roll nghiên cứu
ảnh hưởng của thời tiết lên giá tương lai của một sản phẩm riêng lẻ. Tuy nhiên, kể từ
khi Roll là tác giả đầu tiên viết về ảnh hưởng của thời tiết lên thị trường tài chính, Roll
đã truyền cảm hứng cho nhiều tác giả khác nghiên cứu về ảnh hưởng của thời tiết lên
các loại thị trường tài chính khác.
Bằng chứng về hành vi của các nhà đầu tư trên thị trường được gây ra bởi thời
tiết, đầu tiên Saunders (1993) chỉ ra lượng mây che phủ trong Thành phố New York có
tương quan thuận với các chỉ số chứng khoán chính ở New York và ảnh hưởng thời tiết
này loại bỏ nghi ngờ về tính hợp lý của thị trường chứng khoán. 6 loại dữ liệu khí
tượng học cuối mỗi ngày, từ 01/01/1927 đến 31/12/1989 được cung cấp bởi Trung tâm
dữ liệu khí hậu quốc gia (National Climatic Data Center); nhiệt độ, độ ẩm tương đối,
lượng mưa, gió, ánh nắng mặt trời và mây che phủ. Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ sử
dụng phần trăm mây che phủ hàng ngày như là biến thời tiết. Đối với chỉ số giá chứng
khoán nghiên cứu này sử dụng 3 biến khác nhau: phần trăm thay đổi hàng ngày trong
chỉ số Dow Jones Industrial Average (DJIA) từ 01/01/1927 đến ngày 01/12/1989; phần

trăm thay đổi hàng ngày có trọng số đều và có giá trị gia quyền trong chỉ số
NYSE/AMEX (lợi nhuận không bao gồm cổ tức) từ 06/07/1962 đến 31/12/1989. Đầu
tiên, dữ liệu phần trăm mây che phủ được ghép đôi với giá cả của chỉ số giá hàng ngày
và tính toán được trung bình phần trăm thay đổi hàng ngày và tần số của những thay
đổi xác thực hàng ngày. Kết quả cho thấy phần trăm của mây che phủ thấp hơn, lợi
nhuận trung bình của giá chứng khoán cao hơn, điều đó cho thấy rằng lượng mây che
phủ thực sự có ảnh hưởng đáng kể lên hành vi của các nhà đầu tư trên thị trường.
Trong phần nghiên cứu này, Saunders so sánh lợi nhuận của 0-20% mây che phủ với
lợi nhuận của 100% mây che phủ. Trong một loạt các hồi quy bổ sung với các biến giả

×