Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Tín dụng Ngân hàng đối với Doanh nghiệp nhỏ và vừa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.8 KB, 73 trang )

Chương I
Tín dụng Ngân hàng đối với Doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.1 Doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.1.1 Khái niệm Doanh nghiệp nhỏ và vừa
Doanh nghiệp vừa và nhỏ có tầm quan trọng ngày càng lớn vì phạm vi
hoạt động của họ có ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực của nền kinh tế thế giới.
Theo Cơ quan quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ thì DNVVN chiếm tới 90 %
số lượng doanh nghiệp trên thế giới và 40 – 50 % GDP của các nước. Tại
khu vực APEC, số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm hơn 80% và sử
dụng khoảng 60 % lực lượng lao động. Hiện nay, trên thế giới, không có
khái niệm chuẩn mực về doanh nghiệp vừa và nhỏ. Rất nhiều các nước, các
cơ quan, các tổ chức, các nhà nghiên cứu kinh tế đã đưa ra các tiêu chí khác
nhau để xác định DNVVN nhằm mục đích phục vụ cho công tác quản lý,
nghiên cứu của mình. Do đó, định nghĩa về DNVVN là tương đối khác
nhau, có xu hướng thay đổi theo tính chất hoạt động, mục đích của việc xác
định và mức độ phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Tuy
nhiên, hiện nay hầu hết các nước trên thế giới đều xác định quy mô doanh
nghiệp dựa trên hai tiêu thức chủ yếu: tổng vốn kinh doanh và tổng số lao
động để phân biệt quy mô lớn với quy mô vừa và nhỏ.
Theo Liên minh Châu Âu, doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp có
số lượng công nhân không vượt quá 250. Tại Úc, doanh nghiệp vừa và nhỏ
là doanh nghiệp có số lượng công nhân tối đa không vượt quá 300, còn tại
Mỹ là không quá 1000. trong đó, doanh nghiệp có số lao đọng 200 trở xuống
là doanh nghiệp nhỏ.
1
Theo Nhật Bản, doanh nghiệp có dưới 300 lao động hoặc vốn đầu tư
nhỏ hơn 1 triệu USD được coi là doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, trong
đó, doanh nghiệp có dưới 20 lao động là doanh nghiệp nhỏ.
Theo ngân hàng thế giới, DNVVN có thể chia thành ba loại cũng căn
cứ vào quy mô đó là doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh
nghiệp vừa. Doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp có số lượng lao động


dưới 10 người, doanh nghiệp nhỏ có số lượng lao động từ 10 đến dưới 50
người, còn doanh nghiệp vừa có từ 50 đến 300 lao động.
Tại Việt Nam, theo điều 3 của Nghị định 90/2001/NĐ - CP định nghĩa
về DNVVN như sau: "DNVVN là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã
đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10
tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người".
Định nghĩa này cũng chỉ mang tính chất tương đối, bởi một doanh
nghiệp có thật sự nhỏ khi có số lao động nhỏ hơn 300 hay không thì còn tùy
thuộc vào lĩnh vực hoạt động. Do vậy, chúng ta có thể hiểu DNVVN là một
doanh nghiệp hoạt động độc lập trong một lĩnh vực kinh doanh nhưng không
thống trị trong lĩnh vực kinh doanh của mình. Tuy nhiên, đây là định nghĩa
mới nhất đang được áp dụng về DNVVN ở Việt Nam. Định nghĩa này được
coi là cần thiết và phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của nước ta trong
giai đoạn hiện nay nhằm nhận thức đúng vị trí, vai trò của DNVVN trong
nền kinh tế. Cùng với sự tăng trưởng, phát triển không ngừng của nền kinh
tế, cùng xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, định nghĩa về DNVVN sẽ có thể
tiếp tục thay đổi.
Ngân hàng TMCP Quân Đội quy định: Doanh nghiệp nhỏ và vừa là
doanh nghiệp vốn chủ sở hữu ≤ 10 tỷ, doanh thu ≤ 50 tỷ, tổng tài sản ≤ 50
tỷ.
1.1.2 Đặc điểm Doanh nghiệp nhỏ và vừa
2
 Đặc điểm chung của DNVVN trong nền kinh tế:
Tuy định nghĩa về DNVVN ở các nước, các khu vực là không giống
nhau nhưng hầu hết các DNVVN ở các nước đều mang những đặc điểm
chung sau đây:
- Quy mô nhỏ : DNVVN là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ về vốn
hay số lượng lao động, mô hình quản lý đơn giản , chi phí quản lý đào tạo
không lớn do đó dễ dàng thành lập và chuyển đổi mặt hàng sản xuất kinh
doanh. Hoạt động của các doanh nghiệp này hướng vào lĩnh vực phục vụ

trực tiếp đời sống, những sản phẩm có sức mua cao, dung lượng thị trường
lớn, đáp ứng nhu cầu cần thiết của dân cư. Các DNVVN đóng vai trò quan
trọng trong lưu thông và cung cấp hang hóa, dịch vụ.bổ sung cho các doanh
nghiệp lớn.DNVVN là những vệ tinh, những xí nghiệp gia công cho những
doanh nghiệp lớn trong cùng hệ thống và cũng chính là mạng lưới tiêu thụ
hàng hóa cho các doanh nghiệp lớn.
- Tổ chức của các DNVVN đơn giản, chi phí thấp:
Việc tổ chức sản xuất cũng như bộ máy quản lý của các DNVVN tương
đối đơn giản , gọn nhẹ do đặc thù về quy mô vốn nhỏ hay số lượng lao động
không nhiều. Người chủ doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc nắm bắt thông
tin, quản lý điều hành , có sự gần gũi thường xuyên đối với các nhân viên dô
vậy các quyết định, các chỉ tiêu đến với người lao động một cách nhanh
chóng, hạn chế dược nhiều khâu trung gian, tiết kiệm chi phí cho doanh
nghiệp.
- DNVVN năng động, nhạy bén và dễ thích ứng với sự thay đổi của thị
trường. Với quy mô vừa và nhỏ, bộ máy quản lý gọn nhẹ, các DNNVV dễ
dàng tìm kiếm và đáp ứng các yêu cầu có hạn trong những thị trường chuyên
môn hóa. Mặt khác, các DNVVN thường có mối liên hệ trực tiếp với thị
trường và người tiêu thụ nên có phản ứng nhanh nhạy với sự biến động của
3
thị trường, có thể phản ứng kịp thời, đáp ứng được xu thế tiêu dùng. Hiện
nay trên toàn cầu tính chất cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đang chuyển
hướng từ cạnh tranh giá cả sang cạnh tranh về chất lượng và công nghệ nên
lợi thế của các DNVVN càng thể hiện rõ nét. Với cơ sở vật chất kỹ thuật
không lớn, DNVVN đổi mới linh hoạt hơn, dễ dàng chuyển đổi sản xuất
hoặc thu hẹp quy mô mà không gây ra những hậu quả nặng nề cho xã hội,
đồng thời DNVVN cũng có thể kết hợp được cả công nghệ truyền thống và
công nghệ hiện đại.
- DNVVN tạo điều kiện duy trì tự do cạnh tranh. Khác với các doanh
nghiệp lớn cần thị trường lớn, đôi khi đòi hỏi có sự bảo hộ của Chính phủ và

dẫn tới độc quyền, DNVVN hoạt động với số lượng đông đảo, thường không
có tình trạng độc quyền, dễ dàng và sẵn sàng chập nhận tự do cạnh tranh.
Các DNVVN có tính tự chủ cao hơn, không ỷ lại vào sự giúp đỡ, hỗ trợ của
Nhà nước và vì mục tiêu lợi nhuận các doanh nghiệp sẵn sàng khai thác các
cơ hội để phát triển mà không ngại rủi ro.
- DNVVN có vai trò tích cực trong việc tạo lập sự phát triển cân bằng
giữa các vùng trong một quốc gia. Với sự tạo lập dễ dàng, DNVVN có thể
phát triển rộng rãi ở mọi vùng lãnh thổ , thâm nhập vào các thị trường nhỏ lẻ
mà các doanh nghiệp lớn còn bỏ ngỏ và tạo ra những sản phẩm phong phú,
đa dạng, hiện diện ở khắp mọi miền đất nước, kể cả nông thôn và miền núi,
vùng sâu vùng xa. Hoạt động của các DNVVN thúc đẩy việc khai thác thế
mạnh về tài nguyên , đất đai , lao động của các địa phương từ đó phát triển
kinh tế địa phương, thu hẹp khoảng cách chênh lệch về phát triển kinh tế
giữa các vùng miền.
Trong điều kiện nền kinh tế hiện nay DNVVN đã thể hiện những ưu thế
rõ rệt tuy nhiên, bên cạnh đó các DNVVN cũng có những khó khăn, hạn chế
nhất định như: Các DNVVN do có quy mô không lớn lắm nên thường hoạt
4
động thiếu vững chắc, không có hoặc ít có khả năng phản ứng trước những
thay đổi về quy định pháp lý, dễ rơi vào tình trạng phá sản. Mặt khác, trong
quá trình hoạt động, các DNVVN còn có thể nảy sinh một số tiêu cực ảnh
hưởng không tốt đến đời sống kinh tế - xã hội như hiện tượng trốn thuế,
chạy theo lợi nhuận mà không chú ý đến bảo vệ môi trường, kể cả các hành
vi phạm pháp như làm hàng giả, hàng không đảm bảo chất lượng…
 Đặc điểm DNVVN ở Việt Nam:
Ngoài những đặc điểm chung của DNVVN trong nền kinh tế thị trường,
các DNVVN ở Việt Nam còn mang những đặc thù về sản xuất kinh doanh
riêng:
Khi nói đến các DNVVN là nói đến các doanh nghiệp thuộc khu vực
ngoài quốc doanh. Các DNVVN chủ yếu gồm các loại hình doanh nghiệp tư

nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần có quy mô nhỏ, phân
tán, khả năng liên kết với nhau kém, hoạt động trong nhiều lĩnh vực nhưng
chủ yếu tập trung trong các lĩnh vực chính là thương mại và dịch vụ đời
sống, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, xây dựng và dịch vụ vận chuyển
hàng hóa, hành khách

Đặc điểm của các
DNVVN
ở nước ta là bộ máy quản lý gọn nhẹ, quy
mô nhỏ, không cồng kềnh, phương thức quản lý năng động linh hoạt, phần
lớn phát triển ở thành thị và nông thôn, nhưng thường tập trung ở các đô thị
lớn, ven đô thành phố. Đây là nguyên nhân dẫn đến sự di chuyển của lao
động nông thôn ra thành thị. Theo số liệu thống kê của Bộ kế hoạch và Đầu

DNVVN
cho đến đầu năm 2009 ở nước ta DNVVN đang chiếm khoảng
95%
trong tổng số gần 350.000 doanh nghiệp đã thành lập trên toàn quốc
với số vốn đăng ký lên đến 1389000 ty đồng tương đương hơn 84 tỷ USD.
Các doanh nghiệp này đang đóng góp khoảng 40% GDP, 31% giá trị tổng
5
sản lượng công nghiệp, tạo ra khoảng 77% việc làm phi nông nghiệp , hơn
50% số lao động làm việc trong doanh nghiệp và mỗi năm tăng thêm nửa
triệu lao động. Chủ các DNVVN phần lớn là lớp người trẻ, năng động, nhạy
bén với
kinh tế thị trường, có óc sáng tạo, dám nghĩ, dám làm mạnh dạn,
quyết đoán trong kinh doanh và có nhiều ý tưởng vươn tới, có định hướng
chiến lược lâu dài.
Quy mô sản xuất kinh doanh của các DNVVN ở Việt Nam còn nhỏ
xuất phát từ vấn đề về vốn. Nhìn chung ở nước ta phần lớn các DNVVN

hoạt động trong tình trạng thiếu vốn. Nguồn vốn hoạt động chủ yếu dựa vào
vốn tự có và vay trên thị trường phi tài chính. Các DNVVN ít có khả năng
tiếp cận nguồn tín dụng ngân hàng do không đảm bảo các điều kiện cần thiết
về tài sản đảm bảo cũng như các điều kiện vay vốn khác. Đặc biệt trong năm
2008 chịu sự tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu,
các doanh
nghiệp Việt Nam nhất là DNVVN đang gặp rất nhiều khó khăn. Vấn đề tiếp
cận với nguồn vốn của DNVVN vốn đã hạn chế nay lại càng cam go. Phần
lớn DNVVN huy động vốn theo 2 cách, vay ngân hàng và từ bạn bè hoặc từ
chính các đối tác thông qua việc ứng tiền trước, hay được chấp nhận trả
chậm tiền hàng. Tuy nhiên, hiện nguồn vốn huy động từ bạn bè, đối tác
không còn, bởi họ đều khan vốn và tìm cách thu về. Nguồn vốn ít đi khiến
cho việc tiếp cận là rất khó; lãi suất cao khiến cho việc sử dụng vốn sao cho
hiệu quả cũng rất khó khăn; chi phí đầu vào tăng mạnh, không chỉ chi phí
vốn mà tất cả các đầu vào khác như nguyên vật liệu, nhân công đều tăng
cao.
đến nay
chỉ khoảng 50% doanh nghiệp ngoài quốc doanh tiếp cận được
vốn ngân hàng, trên 90% doanh nghiệp nhỏ và vừa ngoài quốc doanh vẫn có
nhu cầu vay vốn. Tuy nhiên, chỉ hơn 10% được vay 100% theo nhu cầu.

6
Phần lớn các DNVVN ở nước ta hiện nay đang sử dụng công nghệ lạc
hậu 1-2 thế hệ cụ thể khoảng 15-20 năm đối vơi ngành điện tử, 20 năm đối
với ngành cơ khí Đây là khó khăn có tính nội tại nhưng là thách thức lớn
đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của bộ phận DNVVN. Có hơn 70%
máy móc, dây chuyền công nghệ nhập thuộc thế hệ 1960 – 1970, 75% số
thiết bị đã hết khấu hao, 50% là đồ tân trang Tỷ lệ đầu tư cho đổi mới công
nghệ của các DNVVN Việt Nam chỉ chiếm khoảng 0,2% - 0,3% doanh thu.
Đây là một tỷ lệ quá thấp so với các nước trong khu vực như Ấn Độ là 5%,

Hàn Quốc 10%. Điều này dẫn đến tình trạng sản phẩm làm ra không thể đáp
ứng được mẫu mã, chất lượng, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh,
đến việc nâng cao năng suất, hạ giá thành sản phẩm.theo số liệu thống kê
trong những năm gần đây thì công nghệ lạc hậu ở Việt nam làm tăng chi phí
tiêu hao 1,5 lần so với định mức tiêu chuẩn của thế giới, chi phí đầu vào tăng
cao hơn 30 - 50% so với các nước trong khu vựac ASEAN. Nguyên nhân
chủ yếu của vấn đề này là do các DNVVN Việt Nam còn thiếu vốn để đầu tư
đổi mới trang thiết bị, nâng cấp công nghệ sản xuất cùng với việc tiếp cận
nguồn vốn vay từ ngân hàng khó khăn, chi phí vay từ các tổ chức tín dụng
phi ngân hàng lại khá cao.
Một vấn đề đáng lưu ý nữa là hiện nay đa số các DNVVN hoạt động có
hiệu quả mong muốn mở rộng sản xuất kinh doanh đều nằm trong tình trạng
thiếu đất để làm mặt bằng. Mặc dù đã có sự nỗ lực từ phía chính quyền địa
phương nhưng vẫn còn sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế, việc xin cấp đất, hoặc thuê đất của DNVVN bị cản trở
bởi hồ sơ, thủ tục khá phức tạp. Đã có một số địa phương tạo điều kiện
tương đối thuận lợi, nhưng đó chỉ là số ít.
Đội ngũ quản lý, các chủ DNVVN chưa được đào tạo đầy đủ, khả năng
cập nhật thông tin còn yếu. Trình độ tổ chức, quản lý, giám sát hoạt động
7
sản xuất kinh doanh còn non kém. Gần 45% số chủ doanh nghiệp thuộc khu
vực ngoài quốc doanh không có bằng cấp chuyên môn và có trên 35% chủ
doanh nghiệp ngoài quốc doanh có bằng tốt nghiệp cao đẳng trở lên. Chủ
doanh nghiệp hoạt động chủ yếu dựa trên kinh nghiệm và các mối quan hệ
thân quen. Theo số liệu thống kê của năm trước số tiến sỹ chỉ chiếm 0.66%,
thạc sỹ 2.33%, tốt nghiệp đại học là 37,82%, tốt nghiệp cao đẳng là 3.56%,
tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp chiếm 12,33% và 43.3% có trình độ thấp
hơn. Hiện nay tình trạng này đã phần nào được cải thiện, các chủ doanh
nghiệp đã chú trọng đến việc nâng cao kiến thức nền tảng, phục vụ hiệu quả
hơn cho việc quản lý, điều hành cũng như nâng cao, mở rộng hoạt động sản

xuất kinh doanh.
Trình độ tay nghề của đội ngũ lao động trong các DNVVN còn nhiều
hạn chế. Đội ngũ lao động ít được đào tạo bài bản, thiếu kỹ năng (chỉ có
khoảng 6% có trình độ đại học nhưng có tới gần 75% chưa tốt nghiệp
PTTH).Điều này là do điều kiện kinh tế nước ta xuất phát từ một nước nông
nghiệp lạc hậu nên phần lớn lao động giản đơn chưa qua trường lớp đào tạo,
chỉ làm theo kinh nghiệm truyền tay của gia đình hay của các kỹ thuật viên
của doanh nghiệp. Hơn nữa công tác đào tạo nâng cao tay nghề cho lao động
lại chưa được các doanh nghiệp chú trọng, quan tâm đúng mức, hiện nay chỉ
có chưa đến 10% doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo về tay nghề, kỹ thuật,
công nghệ. Những hạn chế về trình độ của người lao dộng làm tăng chi phí
về sử dụng lao động cho doanh nghiệp cũng như làm giảm hiệu quả sản xuất
kinh doanh chung.
Hệ thống sổ sách của phần lớn các DNVVN chưa thực sự minh
bạch,các báo cáo tài chính còn mang tính chất đối phó, thiếu tin cậy.Trên
thực tế có không ít doanh nghiệp xây dựng nhiều báo cáo khác nhau để nộp
cho ngân hàng, cơ quan thuế và cho chủ doanh nghiệp.Bộ phận quản lý
8
giám sát theo dõi các hoạt động sản xuất kinh doanh còn thiếu hoặc sơ sài
làm giảm tính chính xác trong các báo cáo tài chính. Nhiều DNVVN thường
bán hàng không có hợp đồng kinh tế, không tuân thủ chế dộ phát hành hóa
đơn bán hàng, hóa đơn, chứng từ còn mang tính hình thức, ko phản ánh đúng
thực trạng hoạt động. Do vậy các báo cáo tài chính của DNVVN không phải
là cơ sở đáng tin cậy để đánh giá chính xác hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp.
Chính vì các hạn chế trên mà các DNVVN gặp rất nhiều vấn đề khi tiếp
cận các nguồn vốn. Số lượng DNVVN chiếm trên 95% tổng số doanh
nghiệp, song tổng số vốn cho sản xuất, kinh doanh mới chỉ đạt 28.92%so với
tổng vốn của các doanh nghiệp trong cả nước. Các DNNVV còn gặp khó
khăn không nhỏ, nhất là các khoản vay trung hạn, dài hạn từ các ngân hàng

và các tổ chức tín dụng khác. Đặc biệt, các khoản vay có bảo lãnh rất hiếm
khi dành cho các DNNVV.
1.2 Tín dụng Ngân hàng thương mại đối với DNVVN
1.2.1.Khái niệm và vai trò của Tín dụng Ngân hàngThương mại.
1.2.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính có vai trò rất quan trọng
với nền kinh tế.Xét trên phương diện số lượng các dịch vụ tài chính, ngân
hàng được xem như là tổ chức trung gian tài chính cung cấp danh mục tài
chính đa dạng nhất so với bất kỳ tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế,
đặc biệt về mặt tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán. Theo luật các tổ
chức tín dụng số 07/1997/QHX Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng
được thực hiện toàn bộ hoạt động và các hoạt động kinh doanh khác liên
quan. Ngân hàng bao gồm nhiều loại phụ thuộc vào sự phát triển của nền
kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương
9
mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng
các ngân hàng.theo nghị định số 49/2000/NĐ_CP, Ngân hàng thương mại là
ngân hàng được thực hiện toàn bộ các hoạt động ngân hàng và các hoạt động
kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các
mục tiêu kinh tế của Nhà nước.
Ngân hàng thương mại thực hiện hai hoạt động cơ bản đó là hoạt động
huy động vốn và sử dụng vốn. Hoạt động huy động vốn phản ánh quá trình
hình thành vốn kinh doanh cho ngân hàng thông qua một loạt các hình thức
khác nhau. Hoạt động huy động vốn của các NHTM bao gồm hoạt động
nhận tiền gửi; phát hành chứng chỉ tiền gửi,trái phiếu, các giấy tờ có giá
khác; đi vay và một số hoạt động khác như dịch vụ ủy thác, ngân hàng đại
lý,các hoạt động thanh toán không dung tiềm mặt…Trong đó nguồn tiển gửi
thanh toán và tiền gửi tiết kiệm là nguồn huy động quan trọng nhất, chiếm tỷ
trọng cao trong tổng nguồn tiền của ngân hàng đồng thời mang lại nguồn lợi
lớn cho hoạt động kinh doanh. Hoạt động sử dụng vốn là việc ngân hàng sử

dụng những nguồn vốn tự có và huy động được để đưa vào kinh doanh nhằm
trả khoản phí khi huy động vốn, đảm bảo an toàn trong kinh doanh và tạo
nên lợi nhuận cho ngân hàng. Đây chính là cơ sở để ngân hàng tồn tại và
phát triển. Hoạt động sử dụng vốn của NHTM bao gồm các hoạt động cơ
bản như Dự trữ bắt buộc, hoạt động cho vay, hoạt động đầu tư, hoạt động
kinh doanh ngoại tệ và các hoạt động sử dụng vốn khác. Việc sử dụng vốn
chính là quá trình tạo nên các loại tài sản khác nhau của ngân hàngtrong đó
cho vay và đầu tư là hai loại tài sản lớn và quan trọng nhất. Ngân hàng
thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ , do vậy phần lớn tài sản của ngân
hàng là các tài sản tài chính như các hợp đồng tín dụng, chứng khoán, các
khoản tiền gửi Ngân hàng trung ương và tổ chức tín dụng khác Ngoài ra có
10
một phần nhỏ trong tổng tài sản của ngân hàng là các tài sản cố định như nhà
cửa trang thiết bị, máy móc phục vụ cho quá trình hoạt động kinh doanh.
Trong thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa
khác nhau, ngay cả trong quan hệ tài chính, tùy theo từng bối cảnh cụ thể,
mà thuật ngữ tín dụng có một nội dung riêng. Trong quan hệ tài chính tín
dụng có thể theo các nghĩa sau:
+ xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm
sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển
dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay.
+ trong quan hệ tài chính cụ thể tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ
sở hoàn trả giưa hai chủ thể
+ tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay và các định chế tài chính
cung cấp cho khách hàng.
Nói tóm lại trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì
tín dụng được hiểu như sau:
Tín dụng là một giao dịch về tài sản ( tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay
(ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân doanh
nghiệp và các chủ thể khác) trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho

bên đi vay sử dụng trong một khoảng thời gian thỏa thuận, bên đi vay có
trách nhiệm hoàn trả về điều kiện vốn gốc và lãi cho bên vay khi đến hạn
thanh toán.
1.2.1.2. vai trò của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trong nền kinh tế thị trường sự tồn tại và phát triển của các DNVVNlà một
tất yếu khách quan và cũng như các loại hình doanh nghiệp khác trong quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp này cũng sử dụng
nguồn vốn tín dụng ngân hàng để đáp ứng nhu cầu thiếu hụt vốn cũng như
để tối ưu hóa hiệu quả sữ dụng vốn của mình. Vốn tín dụng các ngân hàng
đầu tư cho các DNVVN đóng vai trò rất quan trọng, nó chẳng những thúc
đầy sự phát triển khu vực kinh tế này mà thông qua đó tác động trở lại thúc
đẩy hệ thống ngân hàng, đổi mới chính sách tiền tệ hoàn thiện các cơ chế
chính sách về tín dụng, thanh toán ngoại hối… Để thấy được vai trò của tín
dụng ngân hàng trong việc phát triển DNVVN, ta xét một số vai trò sau:
 Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế hỗ trợ sự ra dời và phát triển của
các DNVVN, góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho các DNVVN
11
Trong cơ chế nền kinh tế thị trường hiện nay, bất cứ ai cũng muốn đồng
vốn của mình sinh lời. Những người có vốn tạm thời nhàn rỗi sẵn sàng cho
vay số tiền đó để kiếm lãi, còn những nhà doanh nghiệp cũng vì mục đích
sinh lợi của vốn mà cần vay thêm tiền để mở rộng sản xuất. Với tư cách là
trung gian dẫn vốn, ngân hàng đã giải quyết mâu thuẫn đó. Với hoạt động đi
vay để cho vay, ngân hàng đã tạo cơ hội cho các chủ doanh nghiệp muốn
thành lập công ty hoặc mở rộng sản xuất kinh doanh có thể vay vốn để thực
hiện.
Tín dụng ngân hàng tác động điều tiết sự di chuyển vốn đầu tư làm bình
quân hoá tỷ suất lợi nhuận thúc đẩy sự phát triển của các DNVVN, Tín dụng
ngân hàng luôn chuyển hướng đầu tư vào những doanh nghiệp có tỷ suất lợi
nhuận cao, hạn chế hoặc không đầu tư vào những doanh nghiệp có tỷ suất
lợi nhuận thấp. Qua đó tín dụng ngân hàng làm thay đổi quan hệ về cung-

cầu hàng hoá và thay đổi cơ cấu ngành nghề kinh tế.
Ngoài nguồn vốn chủ sỏ hữu các doanh nghiệp có thể sử dụng các
nguồn vốn khác như vốn vay từ ngân hàng, vốn tín dụng thương mại, phát
hành các giấy nợ, giấy tờ có giá Tuy nhiên đối với các DNVVN thực tế
việc huy động vốn từ thị trường tài chính là rất khó khăn, thêm vào đó việc
huy động vốn từ các tổ chức tài chính phi ngân hàng đòi hỏi chi phí rất cao
cho nên nguồn vốn vay ngân hàng là sự lựa chọn thích hợp nhất đối với các
DNVVN. Sử dụng nguồn vốn này các doanh nghiệp không những tiết kiệm
được chi phí, không làm ảnh hưởng đến quyền sở hữu của doanh nghiệp mà
còn có được khoản tiết kiệm từ thuế. Đồng thời tạo đòn bẩy cho quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả hơn.
 Tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh
nghiệp vừa và nhỏ
12
Khi sử dụng vốn tín dụng ngân hàng các doanh nghiệp phải tuân thủ hợp
đồng tín dụng, đảm bảo hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng hạn cũng như tôn trọng
các điều khoản của hợp đồng cho dù doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hay
không. Do đó đòi hỏi các doanh nghiệp muốn có vốn tín dụng của ngân hàng
phải có phương án sản xuất khả thi. Không chỉ thu hồi đủ vốn mà các doanh
nghiệp còn phải tìm cách sử dụng vốn có hiệu quả, tăng nhanh vòng quay
vốn, đảm bảo tỷ suất lợi nhuận phải lớn hơn lãi suất ngân hàng thì mới trả
được nợ và kinh doanh có lãi. Trong quá trình cho vay ngân hàng thực hiện
kiểm soát trước, trong và sau khi giải ngân buộc các doanh nghiệp phải sử
dụng vốn đúng mục đích và có hiệu quả.
 Tín dụng ngân hàng góp phần đảm bảo cho hoạt động của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ được liên tục
Trong nền kinh tế thị trường luôn đòi hỏi các doanh nghiệp luôn cần phải cải
tiến kĩ thuật, thay đồi mẫu mã mặt hàng, đổi mới công nghệ máy móc thiết
bị để tồn tại đứng vững và phát triển trong cạnh tranh. Trên thực tế không
một doanh nghiệp nào có thể đảm bảo đủ 100% vốn cho nhu cầu sản xuất

kinh doanh. Vốn tín dụng của ngân hàng đã tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm máy móc thiết bị, cải tiến phương
thức kinh doanh. Từ đó góp phần thúc đẩy tạo điều kiện cho quá trình phát
triển sản xuất kinh doanh được liên tục.
 Tín dụng ngân hàng góp phần tập trung vốn sản xuất, nâng cao khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Cạnh tranh là một quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường,muốn tồn tài và
đứng vững thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải chiến thắng trong cạnh tranh.
Đặc biệt đối với các DNVVN, do có một số hạn chế nhất định, việc chiếm
lĩnh ưu thế trong cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trong nước và nước
ngoài là một vấn đề khó khăn. Xu hướng hiện nay của các doanh nghiệp này
là tăng cường liên doanh liên kết, tập trung vốn đầu tư và mở rộng sản xuất,
trang bị kỹ thuật hiện đại để tăng sức cạnh tranh. Tuy nhiên để có một số
vốn đủ lớn đầu tư cho đầu tư cho sự phát triển trong khi vốn tự có hạn hẹp,
khả năng tích lũy thấp thì phải mất nhiều năm mới thực hiện được. Và khi
đó cơ hội đầu tư không còn nữa. Như vậy để đáp ứng kịp thời, các DNVVN
chỉ có thể tìm đến tín dụng ngân hàng. Chỉ có tín dụng ngân hàng mới có thể
giúp doanh nghiệp thực hiện được mục đích của mình là mở rộng phát triển
sản xuất kinh doanh.
13
 Tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện cho các DNVVN tiếp cận nguồn vốn
nước ngoài
Bên cạnh việc kích thích các tổ chức kinh tế và cá nhân trong nước thực
hiện tiết kiệm, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn tiền tệ, TD ngân
hàng còn thu hút nguồn vốn nước ngoài dưới nhiều hình thức như trực tiếp
vay bằng tiền, bảo lãnh cho các doanh nghiệp mua thiết bị trả chậm, sử dụng
hạn mức L/C… Như vậy quan hệ quốc tế của các doanh nghiệp đã được mở
rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà kinh doanh đặc biệt trong lĩnh vực
xuất nhập khẩu.
Thông qua nguồn vốn vay này, DNVVN xác lập một cơ cấu vốn tối ưu

đảm bảo kết hợp hiệu quả giữa nguồn đi vay cũng như nguồn tự có nhằm
sản phẩm sản xuất tại giá vốn bình quân rẻ nhất, nhưng vẫn đảm bảo được
chất lượng hàng hoá và được thị trường chấp nhận. Có như vậy thì doanh
nghiệp mới đạt mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận.
 Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trong nền kinh tế thị trường hiếm có doanh nghiệp nào dùng vốn tự có để
sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn vay chính là công cụ đòn bẩy để doanh
nghiệp tối ưu hóa hiệu quả sử dụng vốn. đối với các DNVVN do hạn chế về
vốn nên việc sử dụng vốn tự có để sản xuất là khó khăn vì vốn hạn hẹp và
nếu sử dụng thì giá vốn sẽ cao và sản phẩm khó được thị trường chấp nhận.
để hiệu quả thì doanh nghiệp phải có một cơ cấu vốn tối ưu, kết cấu hợp lí
nhất là nguồn vốn tự có và nguồn vốn vay nhằm tối đa hóa lợi nhuận tại mức
giá vốn bình quân rẻ nhất.
1.2.2. Phân loại tín dụng ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng rất đa dạng và phong
phú với nhiều hình thức khác nhau. Để sử dụng và quản lý tín dụng có hiệu
quả thì phải tiến hành phân loại tín dụng. Có nhiều cách phân loại tín dụng
khác nhau tùy theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lý của ngân
hàng. Sau đây là một số cách phân loại:
14
 Phân loại theo thời hạn tín dụng:
Phân loại tín dụng theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân
hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng
cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian, tín dụng được
phân thành:
 Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới 1 năm và thường
được sử dụng để cho vay bổ sung thiếu hụt vốn lưu động tạm thời của các
doanh nghiệp và cho vay phục vụ sinh hoạt của cá nhân.
 Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 1 năm đến 5 năm.

Loại tín dụng này nhằm tài trợ cho hoạt động mua sắm tài sản cố định, cải
tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ có thời
gian thu hồi vốn nhanh.
 Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, tín dụng dài
hạn được sử dụng để cung cấp cho các doanh nghiệp vào các vấn đề như:
xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc
cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.
 Phân loại theo mức độ tín nhiêm của khách hàng
Tín dụng không đảm bảo: Theo loại cho vay này, uy tín của người đi
vay được đặt lên hàng đầu, loại cho vay này không có tài sản thế chấp, cầm
cố hay có sự bảo lãnh của người thứ ba. Ngân hàng chỉ dựa vào uy tín của
họ để cho vay vì vậy đối tượng khách hàng phải là những chủ thể tốt, trung
thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả thì
mới có thể tạo lòng tin ở ngân hàng.
Đối với những khách hàng muốn vay theo loại này thì phải hội tụ đủ
một số điều kiện như: có tín nhiệm với ngân hàng cho vay trong việc sử
dụng vốn vay và trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc lẫn lãi; có phương án sản
xuất kinh doanh khả thi; có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ;
15
cam kết thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản nếu sử dụng vốn vay
không đúng cam kết; cam kết trả nợ trước hạn nếu không thực hiện được các
biện pháp bảo đảm bằng tài sản.
Tín dụng có đảm bảo: Ngược với cho vay không bảo đảm, để được ngân
hàng cấp TD thì người đi vay phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc có sự
bảo lãnh của người thứ ba.
Đây là loại hình TD mà khách hàng không có uy tín cao với ngân hàng,
nên khi vay vốn cần có sự đảm bảo. Đó là căn cứ pháp lý để ngân hàng có
thêm nguồn thứ hai bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
 Phân loại căn cứ vào rủi ro:
Cách phân loại căn cứ vào rủi ro giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá

lại tính an toàn của các khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời.
Theo cách phân loại này, tín dụng gồm:
 Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi đầy đủ
cả nợ gốc và lãi đúng hạn.
 Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh
như khách hàng gặp khó khăn trong tiêu thụ, khách hàng gặp thiên tai, khách
hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính…
 Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời
hạn ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo hữu
hình có giá trị lớn…
 Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn đã lâu, khả năng trả nợ thấp, khách
hàng dây dưa, chầy ỳ không trả nợ…
 Phân loại căn cứ vào xuất xứ TD :
 Cho vay trực tiếp: Theo loại hình này thì ngân hàng trực tiếp cấp vốn
cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay cũng trực tiếp hoàn trả nợ vay
16
cho ngân hàng. Như vậy trong quan hệ TD này chỉ có hai chủ thể tham gia là
ngân hàng và người đi vay.
 Cho vay gián tiếp: Là khoản vay được thực hiện thông qua việc mua
lại các khế ước, các chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh
toán. Để thực hiện việc vay vốn theo hình thức này thì người đi vay phải có
các giấy tờ có giá và còn thời hạn thanh toán, đem đến ngân hàng, nếu ngân
hàng chấp nhận thì họ sẽ cấp vốn cho khách hàng và đến thời hạn thanh toán
giấy tờ có giá thì ngân hàng sẽ đòi nợ chủ thể phát hành giấy tờ có giá đó.
Cho vay gián tiếp có thể theo các loại như: chiết khấu thương phiếu
(discount), mua các phiếu bán hàng (dealer paper) tiêu dùng và máy móc
nông nghiệp trả góp, nghiệp vụ bảo lãnh (TD bằng chữ ký).
 Phân loại căn cứ vào đối tượng tín dụng:
Tín dụng vốn lưu động: Là loại tín dụng được dùng hình thành vốn lưu
động của tổ chức kinh tế như cho dự trữ hàng hóa đối với các doanh nghiệp

thương nghiệp, cho vay để mua phân bón, giống, thuốc trừ sâu đối với các
hộ sản xuất nông nghiệp.
Tín dụng vốn lưu động thường được sử dụng để cho vay bù đắp mức
vốn lưu động thiếu tạm thời, loại tín dụng này thường được chia ra làm các
loại sau: cho vay dự trữ hàng hóa, cho vay để thanh toán các khoản nợ dưới
hình thức chiết khấu thương phiếu.
Để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động của các doanh nghiệp, TD ngắn hạn
được thực hiện thông qua bốn hình thức : TD ứng trước, Nghiệp vụ chiết
khấu, TD thấu chi, TD factoring
Tín dụng vốn cố định: Là loại tín dụng được dụng hình thành tài sản cố
định. Loại tín dụng này thường được đầu tư để mua tài sản cố định, cải tiến
và đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và công trình
mới, thời hạn cho vay đối với các loại tín dụng này là trung hạn và dài hạn.
17
Để đáp ứng các nhu cầu vốn cố định, ngân hàng đưa ra các hình thức
của TD trung và dài, bao gồm: TD theo dự án, TD tuần hoàn, TD đồng tài
trợ, nghiệp vụ bảo lãnh và TD thuê mua.
 Phân loại căn cứ vào mục đích sử dụng vốn:
 Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa: Là loại tín dụng dành riêng
cho các doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh khác để tiến hành sản xuất
hàng hóa và lưu thông hàng hóa.
 Tín dụng tiêu dùng: Là hình thức tín dụng dành riêng cho cá nhân để
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng: mua sắm nhà cửa, xe cộ,…
Ngoài các cách phân loại trên còn nhiều cách phân loại khác như theo
ngành kinh tế ( công, nông nghiêp…). Tùy thuộc vào mục đích của nhà quản
lý ngân hàng.
Như vậy, rõ ràng việc phân loại tín dụng là rất cần thiết, nó giúp cho
các nhà quản lý ngân hàng cân đối giữa huy động vốn và sử dụng vốn, đảm
bảo an toàn và tăng khả năng sinh lời cho ngân hàng.
Việc cho vay theo hình thức nào, loại hình TD nào là phụ thuộc vào sự

đánh giá, thẩm định của ngân hàng cũng như sự thoả thuận của hai bên.
Cùng với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, hoạt động của các doanh
nghiệp nói chung và của DNVVN nói riêng không ngừng được phát triển cả
về lượng cũng như về chất, nên nguồn vốn bổ sung cho sản xuất kinh doanh
cũng không thể bị ngưng trệ. Chính vì vậy, đối tượng khách hàng trong giao
dịch TD với ngân hàng hiện nay chủ yếu là doanh nghiệp, việc cấp vốn
thông qua một số hình thức như: TD ngắn hạn; TD trung, dài hạn; và một số
hình thức tài trợ TD chuyên biệt.
1.3. Phát triển tín dụng đối với DNVVN
1.3.1. Quan niệm về phát triển tín dụng đối với DNVVN
18
Phát triển là sự biến đổi hoặc làm cho biến đổi theo chiều hướng tăng từ
ít đến nhiều , từ nhỏ đến lớn, từ hẹp đến rộng, từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp. Phát triển là khái niệm rộng hơn so với tăng trưởng bao hàm
cả sự tăng trưởng, là quá trình tăng tiến về mọi mặt của một vấn để trong
một thời kỳ nhất định.
Phát triển hoạt động tín dụng đối với DNVVN bao gồm cả sự mở rộng
về quy mô , thay đổi cơ cấu theo hướng hợp lý và nâng cao chất lượng tín
dụng đối với các DNVVN .
Sự mở rộng quy mô tín dụng đối với DNVVN là sự gia tăng về số
lượng khách hàng, doanh số cho vay, dư nợ của ngân hàng troong một
khoảng thời gian nhất định.
Sự thay đổi cơ cấu theo hướng hợp lý là sự thay đổi của tỷ trọng tín
dụng ngắn hạn và tín dụng trung dài hạn hay tỷ trọng tín dụng của đồng nội
tệ và ngoại tệ trong tổng dư nợ tín dụng theo hướng ngày càng phù hợp với
mục tiêu phát triển cũng như điều kiện trong thời kỳ nhất định.
Nâng cao chất lượng tín dụng thể hiện qua các chỉ tiêu tuyệt đối và
tương đối thực tê như dư nợ quá hạn thấp, tỷ lệ nợ quá hạn thấp, tỷ trọng nợ
xấu trong tổng dư nợ nhỏ, các khoản tín dụng được sử dụng đúng với mục
tiêu cấp tín dụng, các dự án được cấp tín dụng có tính khả thi cao, các khoản

tín dụng có tính an toàn cao
1.3.2. Một số chỉ tiêu đánh giá sự phát triển tín dụng DNVVN
Trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện nền kinh
tế chuyển đổi hiện nay thì phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động tín
dụng giữa các ngân hàng với khu vực DNVVN là yêu cầu cấp thiết và quan
trọng. Phát triển tín dụng đối với DNVVN nhằm đáp ứng yêu cầu về vốn để
các doanh nghiệp này đổi mới máy móc, thiết bị, ứng dụng khoa học, kỹ
thuật, quy trình công nghệ hiện đại vào sản xuất - kinh doanh là cơ sở để
19
tăng sức cạnh tranh, phát huy vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế
của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế.Sự phát triển hoạt động tín dụng
đối với các DNVVN được phản ánh thông qua một số các chỉ tiêu sau :
+ Chỉ tiêu Dư nợ tín dụng đối với DNVVN
Chỉ tiêu tuyệt đối Dư nợ tín dụng đối với DNVVN là giá trị tín dụng tại
ngân hàng cấp cho khách hàng là DNVVN tại một thời điểm nhất định.
Việc xem xét chỉ tiêu này có thể dựa vào một số chỉ tiêu tương đối :
Tỷ lệ = x 100%
Tỷ lệ này phản ánh tỷ trọng của hoạt động tín dụng đối với DNVVN
trong toàn bộ hoạt động tín dụng của ngân hàng tại một thời điểm nhất định.
Tỷ lệ này càng lớn chứng tỏ hoạt động tín dụng đối với DNVVN có vai trò
càng quan trọng trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Tỷ lệ = x 100%

Tỷ lệ này phản ánh sự tăng trưởng tín dụng đối với DNVVN của ngân
hàng tại một thời điểm này so với một thời điểm khác trước đó.
Nếu tỷ lệ này > 1 chứng tỏ hoạt động Tín dụng đối với DNVVN của
ngân hàng có tăng trưởng.
Nếu tỷ lệ này < hoặc = 1 thì chứng tỏ hoạt động này của ngân hàng
không tăng trưởng.
+ Chỉ tiêu Doanh số tín dụng đối với DNVVN trong kỳ

Chỉ tiêu tuyệt đôi Doanh số tín dụng đối với DNVVN trong kỳ là giá
trịtín dụng ngân hàng cấp cho DNVVN trong một thời kỳ nhất định thường
là trong một năm, một quý
20
Việc xem xét chỉ tiêu này có thể dựa trên một số chỉ tiêu tương đối sau
Tỷ lệ = x 100%
Tỷ lệ này phản ánh tỷ trọng hoạt động tín dụng đối với DNVVN trong
toàn bộ Hoạt động tín dụng của ngân hàng trong một thời kỳ nhất định.
Tỷ lệ = x 100%

Tỷ lệ này phản ánh sự tăng trưởng tín dụng đối với DNVVN của ngân
hàng của một thời kỳ này so với một thời kỳ khác trước đó.
+ Chỉ tiêu Số lượng khách hàng tín dụng là DNVVN
Số lượng khách hàng tín dụng là DNVVN cũng là một chỉ tiêu xem xét
sự tăng trưởng của hoạt động tín dụng. Số lượng khách hàng tăng có thể
chứng tỏ hoạt động tín dụng có hiệu quả, thu hút và đáp ứng được yêu cầu
vay vốn của nhiều khách hàng.Chỉ tiêu này còn thể hiện tính đa dạng hóa
của hoạt động tín dụng đối với DNVVN. Tại các ngân hàng thường thì số
lượng khách hàng DNVVN lớn hơn nhiều so với các khách hàng doanh
nghiệp lớn, măt khác các khách hàng là DNVVN thường hoạt động sản xuất
kinh doanh trên nhiều lĩnh vực ngành nghề. Do đó bằng việc đa dạng hóa,
ngân hàng có thể hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng đối với DNVVN
+ Chỉ tiêu Thu nhập từ hoạt động tín dụng đối với DNVVN
Thu nhập từ hoạt động tín dụng của ngân hàng bao gồm thu hập từ lãi
và từ phí, trong đó chủ yếu là nguồn thu nhập từ lãi. Chỉ tiêu thu nhập từ
hoạt động tín dụng đối với DNVVN phản ánh tính sinh lời của hoạt động
này. Các tỷ lệ thường được dùng để đánh giá là
Tỷ lệ = x 100%
21


Tỷ lệ này phản ánh tỷ trọng thu lãi từ hoạt động tín dụng đối với
DNVVN trong toàn bộ thu lãi từ hoạt động tín dụng của ngân hàng trong
một thời kỳ nhất định. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ hoạt động tín dụng đối
với DNVVN mang lại thu nhập càng lớn cho ngân hàng, và càng có vai trò
quan trong trong hoạt động tín dụng nói riêng và hoạt động kinh doanh nói
chung của ngân hàng.
Tỷ lệ = x 100%
Tỷ lệ này phản ánh tốc độ tăng trưởng thu lãi từ hoạt động tín dụng đối
với DNVVN của ngân hàng của một thời kỳ này so với một thời kỳ khác
trước đó.
Nếu tỷ lệ này > 1 chứng tỏ thu lãi từ hoạt động Tín dụng đối với
DNVVN của ngân hàng có tăng trưởng.
Nếu tỷ lệ này < hoặc = 1 thì chứng tỏ thu lãi từ hoạt động này của ngân
hàng không tăng trưởng.
Tỷ lệ này trước hết phụ thuộc vào sự tăng trưởng của dư nợ tín dụng đối
với DNVVN, mặt khác còn phụ thuộc vào khả năng thu hồi lãi của ngân
hàng. Vì vậy chỉ tiêu này không những phản ánh mức độ sinh lời. mà phần
nào phản ánh được dự phát trển của hoạt động tín dụng đối với DNVVN của
ngân hàng.
+ Chỉ tiêu Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn
Nợ quá hạn là nợ mà một phần hay toàn bộ góc và/hoặc lãi đã quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn của DNVVN = x 100%
22
Tỷ lệ nợ quá hạn càng lớn phản ánh chất lượng tín dụng đối với
DNVVN của ngân hàng càng thấp. Tỷ lệ nợ quá hạn là chỉ số phản ánh rõ
nhất chất lượng tín dụng của ngân hàng, thể hiện tính rủi ro của hoạt động này.
+ Chỉ tiêu nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu
Nợ xấu là các khoản nợ nằm trong nhóm 3 đến nhóm 5 theo quy định
phân loại nợ của Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN về phân loại nợ, trích lập
và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của

tổ chức tín dụng và quyết định 18/2007/QĐ-NHNN về sửa đổi , bổ sung
Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN.
Nợ nhóm 3 là nợ dưới tiêu chuẩn bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức
tín dụng đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốcvà lãi khi đến hạn
( Nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá
hạn dưới 90 ngày). Các khoản nợ này được tổ chức tín dụng đánh giá là có
khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi.
Nợ nhóm 4 là nhóm nợ nghi nhờ bao gồm: Nợ quá hạn từ 181 ngày đến
360 ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày dến 180 ngày.
Các khoản nợ này được tổ chức tín dụng dánh giá là khả năng tổn thất cao.
Nợ nhóm 5 là nhóm nợ có khả năng mất vốn bao gồm : nợ quá hạn trên
360 ngày, nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trên 180 ngày và nợ khoanh chờ
Chính phủ xử lý.Các khoản nợ này được tôt chức tín dụng đánh giá là không
còn khả năng thu hồi vốn.
Tỷ lệ nợ xấu của DNVVN = x100%
Tỷ lệ này cũng như tỷ lệ nợ quá hạn đều phản ánh chất lượng hoạt động
tín dụng của ngân hàng thông qua mức độ rủi ro của hoạt động này.
Tỷ lệ này càng lớn thể hiện chất lượng tín dụng đối với DNVVN của
ngân hàng càng thấp.
23
+ Chỉ tiêu về cơ cấu dư nợ DNVVN
Ở từng thời điểm, thời kỳ khác nhau, mỗi ngân hàng xác định mục tiêu,
chính sách phát triển khác nhau từ đó điều chỉnh hoạt động tín dụng theo cơ
cấu hợp lý, đảm bảo sự phát trển của ngân hàng.
Cơ cấu dư nợ DNVVN phân theo kỳ hạn thì bao gồm dư nợ tín dụng
ngắn hạn, dư nợ tín dụng trung và dài hạn
Cơ cấu dư nợ phân theo chủ thể cho vay bao gồm dư nợ tín dụng Doanh
nghiệp nhà nước, dư nợ tín dụng Doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Cơ cấu dự nợ phân theo tiền tệ bao gồm dư nợ tín dụng DNVVN nội tệ
và dư nợ tín dụng DNVVN ngoại tệ.

Ngoài ra tùy thuộc vào mỗi ngân hàng cũng như tính chất của các
khoản tín dụng có thể dựa vào một số chỉ tiêu khác để đánh giá sự phát triển
của hoat động tín dụng đối với DNVVN.
1.3.3. Nhân tố ảnh hưởng đến Sự phát triển hoạt động tín dụng đối
với DNVVN của Ngân hàng thương mại
Để bắt kịp với nhịp độ phát triển kinh tế thế giới và áp lực cạnh tranh
trong nền kinh tế thị trường, các DNVVN phải không ngừng mở rộng sản
xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm và bổ sung nguồn vốn sản
xuất của mình vì vậy nhu cầu về vốn của các DNVVN không ngừng tăng do
đó việc mở rộng tín dụng để cung cấp vốn cho DNVVN là rất cần thiết,
nhằm tối ưu hoá các nguồn lực xã hội. Để phát triển hoạt động tín dụng đối
với các DNVVN thì cán bộ ngân hàng cần hiểu rõ những nhân tố có thể tác
động đến việc mở rộng tín dụng bao gồm các yếu tố bên trong và yếu tố bên
ngoài có liên quan đến hoạt động ngân hàng.
1.3.3.1. Nhân tố vĩ mô
24
Các nhân tố vĩ mô về cơ bản có thể chia thành 3 nhóm nhân tố chính là:
Sự phát trển của nền kinh tế, môi trường văn hóa xã hội, môi trường pháp lý
và môi trường công nghệ.
Sự phát trển của nền kinh tế:
Nhìn chung sự phát triển của nền kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt
động của các chủ thể kinh tế nói chung và của hệ thống ngân hàng nói riêng.
Một nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của ngân
hàng trong đó có hoạt động tín dụng. Không những vậy, nền kinh tế ổn định
còn giúp hoạt động của các doanh nghiệp diễn ra bình thường, không bị ảnh
hưởng bởi các yếu tố kinh tế như khủng hoảng, lạm phát nên có khả năng trả
nợ đúng hạn, đúng kế hoạch do đó tiến hành mở rộng tín dụng cũng đơn
giản hơn.
Nếu hoạt động tín dụng được mở rộng thì hiệu quả hoạt động kinh
doanh của cả ngân hàng và cả doanh nghiệp sẽ được nâng cao. Do đó mỗi

biểu hiện tốt hay xấu trong hoạt động của doanh nghiệp sẽ có những ảnh
hưởng tương ứng với hoạt động tín dụng bởi cơ chế tác động của mối quan
hệ TD. Với những khách hàng sản xuất kinh doanh có lãi, có xu thế phát
triển, có khả năng chiếm lĩnh thị trường và có quan hệ tín dụng tốt, cầu nối
giữa vay và cho vay thông suốt, tạo điều kiện tăng vòng quay tín dụng mở
rộng quy mô vốn đầu tư mang lại thu nhập cho ngân hàng cũng như đảm bảo
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Không những thế, phát triển hoạt động tín dụng ngân hàng tới các
DNVVN còn bị ảnh hưởng bởi từng giai đoạn kinh tế. Nếu trong giai đoạn
suy thoái kinh tế, sản xuất kinh doanh đình trệ, hoạt động tín dụng gặp khó
khăn trên tất cả các mặt, chất lượng cho vay không bảo đảm, vốn sử dụng
không hiệu quả hoặc việc trả nợ bị chây ỳ thì việc mở rộng tín dụng là
không cần thiết. Hơn nữa, sản xuất dừng lại thì nhu cầu về vốn giảm, dẫn
25

×