Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.4 KB, 26 trang )

MỤC LỤC
Nội dung Trang
Mục lục 1
PHẦN I: MỞ ĐẦU 3
1. Lí do chọn đề tài 3
2. Mục đích nghiên cứu 4
3. Đối tượng và pham vi nghiên cứu 4
4. Phương pháp nghiên cứu 4
5. Phạm vi đề tài 5
PHẦN II: NỘI DUNG 5
I. Cơ sở lí luận 5
II. Cơ sở thực tiễn 6
III. Đặc điểm và tình hình bồi dưỡng học sinh giỏi của trường Tiểu
học Tam Hồng 1.
6
IV. Thực trạng bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt ở trường Tiểu học
Tam Hồng 1.
8
V. Các biện pháp, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng
học sinh giỏi Tiếng Việt
10
1. Bồi dưỡng năng lực giáo viên 10
2. Phát hiện, tuyển chọn học sinh giỏi 12
3. Xây dựng kế hoạch, nội dung, chương trình bồi dưỡng học sinh
giỏi môn Tiếng Việt
14
4. Bồi dưỡng hứng thú học tập cho học sinh 16
5. Vận dụng đổi mới phương pháp dạy học 17
6. Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn cho học sinh 18
7. Phối hợp với phụ huynh học sinh trong công tác bồi dưỡng học
sinh giỏi


20
8. Kiểm tra, đánh giá công tác bồi dưỡng học sinh giỏi 20
VI. Kết quả thực hiện 21
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 21
1. Kết luận. 21
2. Đề xuất và kiến nghị 22
1
Phiếu đăng kí viết sáng kiến kinh nghiệm 24
Tài liệu tham khảo 25
2
PHẦN I. MỞ ĐẦU.
1. Lí do chọn đề tài.
Trong giai đoạn hiện nay việc phát hiện và đào tạo bồi dưỡng học sinh giỏi
có tầm quan trọng đặc biệt nhằm tạo ra thế hệ trẻ - chủ nhân tương lai của đất
nước là những người có trình độ học vấn cao, có năng lực, có bản lĩnh, có nhân
cách tốt đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước. Chính vì vậy, việc phát hiện, bồi dưỡng và đào tạo
nhân tài cho đất nước là một chủ trương lớn của ngành giáo dục và đào tạo. Nó
chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Bởi vậy việc bồi
dưỡng học sinh giỏi đã trở thành một trong những mục tiêu quan trọng hàng đầu
của các nhà trường phổ thông nói chung và nhà trường tiểu học nói riêng trong
giai đoạn hiện nay.
Phát hiện, đào tạo và bồi dưỡng nhân tài là nhiệm vụ cao cả của toàn xã
hội, song trách nhiệm trực tiếp là của những người làm công tác giáo dục. Bởi
vậy, Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ rõ “…trường tiểu học và mỗi giáo viên tiểu học
đều có nhiệm vụ phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi”.
Nhận thức được vấn đề này, lịch sử Việt Nam đã ghi công nhiều người tài
năng và coi việc đào tạo nhân tài là quốc sách của nhà nước. Ngày nay vấn đề
bồi dưỡng nhân tài được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm. Tại văn kiện đại
hội Đảng VIII đã nêu “Cùng với khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo là quốc

sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”.
Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người -
yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Bậc tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân, bồi
dưỡng học sinh giỏi ở tiểu học là nền móng cho chiến lược đào tạo người tài của
đất nước. Phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi ở cấp Tiểu học là việc làm cần
thiết và có ý nghĩa. Để có được các thành quả về giáo dục học sinh nói chung
hay những thành tích cao của học sinh giỏi nói riêng, ngay từ cấp Tiểu học các
nhà trường phải có sự quan tâm, chú ý từ các buổi học hằng ngày của các khối
lớp và ở tất cả các môn học trong nhà trường. Việc giáo dục học sinh hằng ngày
trên lớp có chất lượng chính là tạo một nền móng vững chắc cho sự phát triển
đúng đắn và lâu dài. Mặt khác nội dung, phương pháp giáo dục đại trà và bồi
dưỡng học sinh giỏi cũng như hình thức tổ chức phải phong phú và phù hợp với
đặc điểm tâm sinh lí học sinh tiểu học, gây được hứng thú học tập cho học sinh
mới đem lại hiệu quả trong giáo dục.
Bản thân tôi nhiều năm qua được giao nhiệm vụ giảng dạy và bồi dưỡng
học sinh giỏi, năm học 2013 – 2014 được giao nhiệm vụ giảng dạy và bồi dưỡng
học sinh giỏi lớp 5. Tôi luôn trăn trở đi sau tìm hiểu nội dung chương trình
Tiếng Việt bậc Tiểu học cả đại trà và nâng cao, tìm nội dung, phương pháp, hình
3
thức phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình để việc giảng dạy và bồi dưỡng
đạt hiệu quả cao nhất. Và bản thân cũng nhận thấy rằng mục tiêu của việc bồi
dưỡng học sinh giỏi tiếng Việt không phải để tạo ra các nhà văn, nhà thơ, nhà
ngôn ngữ học mặc dù trên thực tế trong những học sinh này cũng có những em
sau này sẽ trở thành những tài năng văn học, ngôn ngữ học mà mục tiêu của việc
bồi dưỡng học sinh giỏi tiếng Việt là để hình thành và phát triển ở học sinh các
kĩ năng sử dụng tiếng Việt để học tập và giao tiếp; thông qua việc dạy và học
tiếng Việt, góp phần rèn luỵên các thao tác của tư duy, cung cấp cho học sinh
những kiến thức sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học

của Việt Nam và nước ngoài; bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và hình thành thói
quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân
cách của con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trường tiểu học Tam Hồng 1, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc là ngôi
trường có truyền thống và bề dày thành tích trong công tác bồi dưỡng học sinh
giỏi. Trong năm học 2013-2014, bản thân được nhà trường tin tưởng giao nhiệm
vụ giảng dạy và bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi lớp 5 với niềm tin sẽ là người
viết tiếp trang vàng trong sổ truyền thống của nhà trường. Từ truyền thống tốt
đẹp trong công tác bồi dưỡng học sinh của trường Tiểu học Tam Hồng 1, từ
niềm say mê của bản thân cũng như từ vai trò và ý nghĩa của tiếng Việt trong
việc hình thành và phát triển kĩ năng, nhân cách của học sinh nên tôi mạnh dạn
lựa chọn đề tài: “Phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt”.
2. Mục đích nghiên cứu.
- Đề tài nghiên cứu phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt
nhằm góp phần nâng cao chất lượng học sinh giỏi cũng như nâng cao chất lượng
dạy học ở các nhà trường, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới giáo dục Tiểu
học trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Là học sinh giỏi lớp 5B Trường tiểu học Tam Hồng 1.
- Đi sâu nghiên cứu đề tài, sử dụng các phương pháp bồi dưỡng để phát huy
tính sáng tạo, chủ động, tích cực trong học tập của học sinh nhằm đạt kết quả
cao trong các kì thi như chọn học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh, thi trạng nguyên
nhỏ tuổi, ….
- Kế hoạch thực hiện đề tài tiến hành trong năm học 2013- 2014.
4. Phương pháp nghiên cứu.
* Để nghiên cứu thực tế tôi đã sử dụng những phương pháp như sau:
- Phương pháp nghiên cứu: Đọc các tài liệu, giáo trình có liên quan đến vấn
đề nghiên cứu để làm cơ sở giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra: Nhằm phát hiện các vấn đề cần giải quyết, nguyên
nhân, chuẩn bị cho các bước nghiên cứu tiếp theo.

4
- Phương pháp đàm thoại: Trao đổi với học sinh để tìm hiểu tâm tư nguyện
vọng, những khó khăn vướng mắc của các em. Trao đổi với ban giám hiệu nhà
trường, với bạn bè đồng nghiệp để học hỏi kinh nghiệm trong giảng dạy.
- Phương pháp quan sát: Quan sát học sinh qua mỗi tiết học để phát hiện
những thuận lợi, khó khăn trong quá trình học tập của học sinh
- Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm: Để kiểm nghiệm tính thực thi,
khả năng và tác dụng của phương pháp, cách thức tổ chức dạy mà mình đã lựa
chọn vận dụng trong quá trình dạy học.
5. Phạm vi đề tài.
- Do điều kiện thời gian cũng như kinh phí và năng lực có hạn, trong khuôn
khổ của đề tài này, chúng tôi chỉ tiến hành nghiên cứu một số vấn đề về công tác
bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt của trường Tiểu học Tam Hồng 1 –
Yên Lạc – Vĩnh Phúc trong thời gian qua. Vì vậy, những biện pháp mà chúng
tôi đề xuất chưa mang tính khái quát cho tất cả các trường Tiểu học. Tuy nhiên
kết quả của đề tài có thể sử dụng cho những trường Tiểu học có điều kiện và
hoàn cảnh như trường Tiểu học Tam Hồng 1.
PHẦN II : NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận.
Như chúng ta đã biết, đứng trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, các nhà tâm lý học khoa học coi sự phát triển tâm lý gắn liền với sự xuất
hiện những đặc điểm tâm lý mới về chất, những cấu tạo tâm lý mới ở những giai
đoạn lứa tuổi khác nhau. Bất cứ ở mức độ nào của trình độ phát triển đi trước
cũng là sự chuẩn bị và chuyển hoá cho trình độ sau cao hơn. Sự phát triển tâm lý
diễn ra từ thấp tới cao theo từng giai đoạn như một quá trình, trong đó có những
bước nhảy, những “khủng hoảng” và những đột biến. Sự phát triển tâm lý trong
từng giai đoạn lứa tuổi phụ thuộc vào hoạt động chủ đạo ở lứa tuổi đó.
Những đặc điểm tâm lý cơ bản của học sinh tiểu học:
- Tri giác: mang tính cụ thể, ít đi vào chi tiết, mang tính không phủ định, ít
phân hoá. Tri giác của học sinh các lớp đầu bậc tiểu học gắn chặt với hành động,

với hoạt động thực tiễn của trẻ.
- Chú ý: Không chủ định, thiếu bền vững, dễ bị phân tán.
- Trí nhớ: Phát triển hơn lứa tuổi mẫu giáo, tuy nhiên trí tưởng tưởng ở lứa
tuổi học sinh tiểu học còn tản mạn, hình ảnh tưởng tượng còn đơn giản, hay thay
đổi, chưa bền vững. Càng về cuối bậc học, tưởng tượng của trẻ càng gần hiện
thực hơn, phản ánh đầy đủ và đúng đắn thực tế khách quan hơn.
- Tư duy: Chuyển dần từ tính cụ thể trực quan sang tính trừu tượng, khái
quát.
Dựa vào những đặc điểm về sự phát triển tâm sinh lí của lứa tuổi học sinh
tiểu học mà giáo viên phải xây dựng nội dung chương trình bồi dưỡng, phương
5
pháp, hình thức bồi dưỡng phải phù hợp với những đặc điểm tâm sinh lí của học
sinh tiểu học.
II. Cơ sở thực tiễn.
Ngày nay, văn hóa, kinh tế, xã hội đều phát triển mạnh đặc biệt là khoa học
kĩ thuật phát triển nhanh như vũ bão. Nên việc đào tạo nhân tài cho đất nước
được cả xã hội quan tâm, Kết quả giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi trong
các nhà trường hiện nay không phải chỉ là kết quả của thầy, của trò, của nhà
trường và phụ huynh học sinh nữa mà nó là kết quả được cả xã hội quan tâm và
chú ý tới. Chính vì vậy mà việc giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi vai trò và
vị trí vô cùng quan trọng trong giai đoạn hiện nay đặc biệt trong giáo dục phổ
thông thì việc giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi của bậc tiểu học được quan
tâm và chú trọng hơn cả bởi lẽ bậc tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống
giáo dục quốc dân, bậc học đặt nền móng cho giáo dục phổ thông. Chính vì vậy
gánh nặng này lại được đặt lên vai các nhà giáo. Mỗi thầy cô giáo phải thấy rõ
được vai trò trách nhiệm của mình trong giáo dục hiện nay.
Trường tiểu học là nơi đầu tiên tham gia vào viêc học với tư cách là hoạt
động chủ đạo. Nhờ có các nội dung giáo dục toàn diện mà các em có điều kiện
bộc lộ năng khiếu tài năng. Nếu cha mẹ, bạn bè và thầy cô cảm nhận, phát hiện,
nâng đỡ bồi dưỡng mầm mống năng khiếu kích thích niềm say mê học tâp thì

biểu hiện của năng khiếu sẽ ngày càng rõ hơn. Năng khiếu được bồi dưỡng sớm
sẽ định hướng phát triển và dần định hình trở thành học sinh năng khiếu, ngược
lại năng khiếu của các em không được phát hiện hay không được quan tâm bồi
dưỡng thì năng khiếu của các em mất dần, mầm mống năng khiếu tuy có nhưng
sẽ bị mai một, thui chột đi.
Tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi ở tiểu học là phát huy hết khả năng phát
triển tiềm tàng của trẻ, là tạo nguồn học sinh giỏi cho các cấp học tiếp theo, thực
hiện chiến lược “ bồi dưỡng nhân tài cho đất nước”. Mặt khác tổ chức bồi dưỡng
học sinh giỏi là một tiêu chí không thể thiếu để đánh giá sự phát triển của một
nhà trường. Mỗi học sinh giỏi không những là niềm tự hào của cha mẹ, thầy cô
mà còn là niềm tự hào của cả cộng đồng.
Ban Giám hiệu nhà trường chịu trách nhiệm tổ chức chỉ đạo việc bồi dưỡng
học sinh giỏi, vì vậy cần phải biết tác động tới các yếu tố của quá trình bồi
dưỡng học sinh giỏi như: giáo viên giỏi, học sinh giỏi, cha mẹ học sinh, chương
trình bồi dưỡng, tài liệu tham khảo… sao cho phát huy được các điều kiện thuận
lợi để việc bồi dưỡng học sinh giỏi của trường đạt kết quả cao nhất.
III. Đặc điểm và tình hình bồi dưỡng học sinh giỏi của Trường tiểu học
Tam Hồng 1.
Tam Hồng là một xã nằm ở vị trí trung tâm của huyện Yên Lạc với diện
tích rộng, dân số đông (hơn 1 vạn), điều kiện kinh tế phát triển khá mạnh, điều
kiện giao thông, đường sá đi lại rất thuận tiện. Đảng bộ, chính quyền và nhân
6
dân xã Tam Hồng đã được Nhà nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang
trong kháng chiến chống thực dân Pháp.
Trong công tác giáo dục, nhà trường Tiểu học Tam Hồng 1 đã và đang có
những thuận lợi cơ bản đó là: Đảng bộ và chính quyền xã Tam Hồng nhận thức
đúng đắn về vai trò của giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước; đã quan tâm, chăm lo xây dựng cơ sở vật chất và chỉ đạo nhà trường thực
hiện đúng quan điểm, đường lối giáo dục của Đảng. Trong những năm qua,
Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Tam Hồng đã đầu tư cho giáo dục ở các

cấp học nói chung và giáo dục bậc Tiểu học nói riêng để nhà trường Tiểu học
Tam Hồng 1 đạt chuẩn Quốc gia.
Tình hình chính trị - xã hội trong xã ổn định. Phong trào xây dựng làng - xã
văn hoá, gia đình văn hoá phát triển mạnh. Nhân dân địa phương cần cù chịu
khó, một lòng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, đã có nhận thức đúng về
quan điểm giáo dục của Đảng. Phong trào khuyến học, khuyến tài ở địa phương
và các dòng họ phát triển tốt.
Tình hình đội ngũ giáo viên trong trường đều có chuyên môn vững vàng,
ham học hỏi, không ngừng trau rồi chuyên môn nghiệp vụ. Tập thể cán bộ giáo
viên của trường luôn nỗ lực thi đua “dạy tốt - học tốt”, phấn đấu tạo môi
trường giáo dục tốt nhất, nhiều năm liền có học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh,
cấp Quốc gia. Có được những thành quả đó là nhờ vào sự miệt mài phấn đấu
không ngừng của đội ngũ cán bộ giáo viên trong nhà trường và của các cấp quản
lí.
Với quan điểm chỉ có phát triển học sinh giỏi trên cơ sở, nền tảng chất
lượng đại trà vững chắc và có đội ngũ giáo viên dạy giỏi, môi trường xã hội giáo
dục sâu rộng. Việc lập kế hoạch phát hiện, bồi dưỡng học sinh giỏi ngay từ đầu
mỗi năm học là việc làm cần thiết của nhà trường. Trường có kế hoach tổ chức
phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi từ lớp 1, chỉ đạo từng giáo viên đưa vào kế
hoạch giảng dạy và phụ trách lớp, công tác bồi dưỡng học sinh giỏi đã trở thành
công việc thường xuyên ở tất cả các lớp và cũng là trách nhiệm của mỗi giáo
viên đứng lớp. Hơn nữa để có đội tuyển học sinh giỏi và chất lượng cao, tuy
không có hình thức lớp chọn nhưng cứ vào đầu năm học nhà trường chủ động
làm công tác tư tưởng cho phụ huynh, cộng tác với phụ huynh để có được sự
đầu tư về vật chất cũng như tinh thần cho con em học tập.
Giáo viên tham gia bồi dưỡng đội tuyển là những người có trình độ kiến
thức vững vàng, nắm chắc chuyên môn nghiệp vụ, có tâm huyết trong việc giáo
dục giảng dạy, có điều kiện đầu tư cho nghề dạy học, có kinh nghiệm trong việc
rèn luyện, bồi dưỡng học sinh giỏi.
Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm và đi sâu, đi sát công tác bồi

dưỡng học sinh giỏi động viên khích lệ kịp thời đối với giáo viên và học sinh.
Học sinh trường tiểu học Tam Hồng 1 ngoan ngoãn, có truyền thống hiếu
học.
7
IV. Thực trạng bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt trường tiểu học
Tam Hồng 1.
Qua nhiều năm trực tiếp bồi dưỡng học sinh giỏi trường tiểu học Tam
Hồng 1, qua dự giờ thăm lớp, qua tham khảo ý kiến đồng nghiệp xem bài làm
của học sinh môn Tiếng Việt tôi nhận thấy cả giáo viên và học sinh có những
tồn tại và vướng mắc như sau:
- Thời gian dành cho việc bồi dưỡng môn Tiếng Việt còn ít và ít hơn rất
nhiều so với thời gian bồi dưỡng môn Toán mà khối lượng kiến thức trong môn
Tiếng Việt thì khá nhiều nên không thể đi sâu hết các chủ điểm, các dạng bài
trong môn Tiếng Việt nên kết quả đạt được trong nhiều năm qua của môn Tiếng
Việt vẫn chưa được như mong đợi của nhà trường cũng như của phụ huynh và
nhân dân xã Tam Hồng mong đợi. Kết quả mấy năm gần đây như sau:
Năm học
Tổng
số học
sinh
Điểm
Giỏi Khá Trung bình Yếu
SL % SL % SL % SL %
2010- 2011 20 0 0 7 35 9 45 4 20
2011-2012 26 0 0 7 27 14 53,8 5 19,2
2012-2013 25 0 0 8 32 11 44 6 24
Nhìn vào bảng thống kê trên cho thấy kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi môn
Tiếng Việt của Trường tiểu học Tam Hồng 1 trong những năm qua số em đạt
điểm trung bình trở lên cũng khá nhiều, nhưng số em đạt điểm khá giỏi còn hạn
chế.

- Giáo viên chưa thực sự đi sâu, nghiên cứu nắm vững cấu trúc chương
trình sách giáo khoa, và nội dung bồi dưỡng môn Tiếng Việt nên chưa tìm được
phương pháp dạy học phù hợp, chưa gây được hứng thú học tập cho học sinh và
chưa phát huy được tính chủ động sáng tạo của học sinh trong môn Tiếng Việt
nên chưa đạt được kết quả như mong đợi.
- Một số học sinh không nắm vững kiến thức cơ bản, tiếp thu bài còn máy
móc, chỉ biết làm theo mẫu mà chưa biết cách làm thực sự vì các em chưa được
khắc sâu kiến thức.
- Tháng 8 năm 2013 tôi đã cho học sinh làm thử một bài kiểm tra với thời
gian 60 phút. Đề bài gồm có 4 bài trong đó có một bài về từ, một bài về câu, một
bài về cảm thụ văn, một bài tập làm văn (viết đoạn văn ngắn). Đề được đồng
nghiệp và học sinh đánh giá là cơ bản.
* Kết quả thu được như sau:
(Tổng số học sinh dự thi là 23 em).
Giỏi Khá Trung bình Yếu
SL % SL % SL % SL %
8
0 0 6 26 12 52,3 5 21,7
Nhìn vào số liệu khảo sát thu được, tôi thực sự lo lắng. Vì tôi thấy một số
em còn chưa nắm chắc phần từ và câu (Chưa phân biệt được từ chia theo cấu tạo
và từ chia theo từ loại, Chưa xác định được chính xác các bộ phận chính và phụ
của câu), Các em chưa thực sự biết cách làm bài cảm thụ văn, chưa hiểu một số
khái niệm (Các biện pháp nghệ thuật, hình ảnh đẹp, từ đắt… ) Do đó các em
không hứng thú, suy nghĩ còn nông cạn dẫn đến bài viết còn tản mạn, lệch với ý
nghĩa của bài. Các em chỉ quen với việc trả lời câu hỏi có tính gợi mở mà chưa
quen với những câu hỏi có tính khái quát. Rất nhiều em chưa có kĩ năng viết
văn, bài văn còn sơ sài, các ý sắp xếp chưa được khoa học, chưa bộc lộ được
cảm xúc thật của mình khi viết văn.
* Nguyên nhân.
Qua tìm hiểu học sinh và trao đổi với đồng nghiệp tôi nhận ra nguyên nhân

dẫn đến tình trạng trên là:
- Học sinh:
+ Do đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi các em thích tư duy trực quan mà không
thích tư duy trừu tượng.
+ Xu thế của học sinh là còn ngại học Tiếng Việt đặc biệt là cảm thụ văn.
+ Trong lớp các em chưa chú ý nghe giảng, chưa chủ động tiếp thu kiến
thức từ bài giảng của thầy cô nên kết quả học Tiếng Việt chưa cao như mong
muốn của giáo viên, học sinh và phụ huynh.
+ Chưa biết cách trình bày bài tập về từ và câu, chưa biết viết một đoạn
cảm thụ văn hay một bài văn.
+ Chưa đam mê và hứng thú với môn Tiếng Việt.
- Giáo viên:
+ Giáo viên chưa thực sự đam mê đối với môn Tiếng Việt. Chính vì vậy
không thể truyền cho học sinh sự đam mê đối với Tiếng Việt dẫn đến học sinh
không thấy được cái trong sáng và giàu đẹp của Tiếng Việt. Không say mê với
môn Tiếng Việt mà còn ngại học Tiếng Việt.
+ Giáo viên còn chú trọng vào môn Toán nhiều hơn môn Tiếng Việt rất
nhiều.
+ Giáo viên chưa vận dụng triệt để đổi mới phương pháp vào giảng dạy và
bồi dưỡng học sinh giỏi.
+ Một số ít giáo viên trong giảng dạy môn Tiếng Việt chưa theo quan điểm
tích hợp mà chương trình sách giáo khoa biên soạn. Ví dụ như: Khi dạy các từ
đồng nghĩa (trắng xóa, trắng ngần, trắng muốt ) giáo viên dạy trong phân môn
Luyện từ và câu mà học sinh hiểu và nắm vững thì khi viết văn hay cảm thụ văn
các em sẽ sử dụng chính xác nghĩa của các từ đó. chẳng hạn trong bài văn tả
9
người các em viết: “Mỗi khi mẹ cười lại để lộ ra hàm răng không đều lắm nhưng
trắng muốt.” Trong giờ trả bài cho học sinh giáo viên phải nhận xét cách sử
dụng từ của học sinh chính xác và nêu các từ đó, nghĩa của nó. Như vậy sẽ tạo
cho học sinh thói quen vận dụng các kiến thức trong các phân môn đã học vào

bài làm văn. Các em thấy được mối quan hệ giữa các phân môn trong môn
Tiếng Việt theo quan điểm tích hợp mà sách giáo khoa Tiếng Việt đã xây dựng
và biên soạn.
+ Khi dạy phân môn Tập đọc chưa coi trọng phần cảm thụ văn mà giáo
viên chỉ chú ý nhiều đến kĩ năng đọc còn phần cảm thụ văn hạn chế, chưa đi sâu
dẫn đến năng lực cảm thụ văn của các em có nhiều hạn chế…
+ Trong các tiết Tập làm văn chưa hướng dẫn học sinh vận dụng các biện
pháp nghệ thuật, cách dùng từ đặt câu …. Đã học trong các phân môn Tiếng
Việt vào bài Tập làm văn.
- Gia đình:
+ Một số gia đình chưa quan tâm tạo điều kiện và đầu tư cho việc học của
con em mình như: chuẩn bị các tài liệu và sách tham khảo, …
+ Một số gia đình phó mặc việc học tập và giáo dục các em cho nhà trường.
V. Các biện pháp, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng học
sinh giỏi Tiếng Việt.
Trước những thực trạng và nguyên nhân như vậy tôi thấy mình cần phải
đầu tư thời gian nghiên cứu đưa ra được một số biện pháp khắc phục, vận dụng
vào thực tế quá trình giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh
giỏi môn Tiếng Việt như sau:
1. Bồi dưỡng năng lực của giáo viên.
Bằng kinh nghiệm và vốn sống thực tế, ông cha ta từ ngàn đời xưa đã đúc
kết lại câu tục ngữ rằng: “Không thầy đố mày làm nên”cho thấy vai trò của
người thầy là hết sức quan trọng. Bởi vì người thầy có vai trò dẫn dắt học sinh
chiếm lĩnh kiến thức một cách chủ động, sáng tạo. Người thầy là một trong
những nhân tố quan trọng quyết định chất lượng giáo dục. Muốn có trò giỏi
trước hết phải có thầy giỏi nên bồi dưỡng học sinh giỏi là công việc nhiều khó
khăn và thử thách không phải bất kì người giáo viên nào cũng làm được. Để có
được hiệu quả trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi thì người giáo viên phải là
người có năng lực chuyên môn vững vàng, có năng lực sư phạm, có kinh
nghiệm trong thực tế trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ….

a. Biện pháp bồi dưỡng năng lực chuyên môn:
* Năng lực chuyên môn:
- Có trình độ văn hoá sâu rộng, có vốn hiểu biết trên nhiều lĩnh vực.
- Có kiến thức về tâm lý học, giáo dục học, phương pháp giáo dục, phương
pháp dạy học.
* Biện pháp bồi dưỡng:
10
- Xây dựng kế hoạch tự bồi dưỡng của cá nhân ngay từ đầu năm.
- Tự bồi dưỡng trau rồi chuyên môn qua đọc tài liệu, sách, báo, các phương
tiện thông tin đại chúng, mạng Internet toàn cầu…để có vốn kiến thức, vốn hiểu
biết sâu rộng về nhiều lĩnh vực như tâm sinh lí học sinh tiểu học, các phương
pháp, các hình thức dạy học đạt hiệu quả cao.
- Có tủ sách riêng.
- bồi dưỡng qua các buổi sinh hoạt chuyên môn như chuyên đề tổ chuyên
môn, cụm chuyên môn…. Giúp ta hiểu sâu hơn về các phần kiến thức, các các
trình bày diễn đạt khác nhau nhưng giúp học sinh dễ hiểu, dễ nhớ nhất.
- Bồi dưỡng thông qua các cuộc thi do các cấp tổ chức, sau mỗi cuộc thi,
sau mỗi lần đi chấm thi là một đợt sinh hoạt chuyên môn vô cùng bổ ích giúp ta
hiểu ra rất nhiều về chuyên môn như là hiểu được cơ cấu của đề, các kiến thức
trọng tâm của từng phần, từng mảng trong chương trình. Sau mỗi đợt chấm thi
lại học hỏi được các cách trình bày, diễn đạt, hành văn ….rất đa dạng và phong
phú qua bài làm của học sinh.
- Bồi dưỡng qua thực tế giảng dạy của bản thân, vì khi dạy bản thân người
giáo viên phải tìm tòi, nghiên cứu, phân tích, lựa chọn, tổng hợp kiến thức để
dạy cho học sinh nên qua đó trình độ chuyên môn của giáo viên mới được nâng
lên một cách rõ rệt.
Ví dụ:
Khi dạy bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 5 tôi mới đi sâu nghiên cứu tìm hiểu
về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa giúp tôi thấy rõ được sự khác biệt của từ đồng
âm và từ nhiều nghĩa mà trước đây khi dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi ở các lớp

dưới tôi chưa có dịp tiếp cận nhiều.
- Học hỏi những giáo viên có kinh nghiệm lâu năm trong công tác bồi
dưỡng học sinh giỏi.
- Tích cực tham dự các lớp học tập nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, trình
độ kiến thức, các lớp tập huấn giáo viên dạy giỏi do Phòng , Sở giáo dục Vĩnh
Phúc tổ chức hàng năm.
- Phải có quyển sổ riêng để giải bài tập Tiếng Việt, ghi lại những câu văn
hay….
Nhờ có các biện pháp bồi dưỡng thiết thực đó đã giúp quá trình bồi dưỡng
của tôi thành quá trình tự bồi dưỡng và năng lực chuyên môn của tôi ngày một
vững vàng hơn.
b. Bồi dưỡng năng lực sư phạm:
* Năng lực sư phạm:
- Năng lực hiểu học sinh trong quá trình giảng dạy và giáo dục.
- Năng lực đánh giá học sinh.
- Năng lực đáp ứng nhu cầu hiểu biết của học sinh.
11
- Năng lực thiết lập mối quan hệ thuận lợi với học sinh.
- Năng lực thiết kế và triển khai hoạt động giảng dạy và giáo dục.
Dạy học là một nghề vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật.
Tính khoa học ở đây là năng lực chuyên môn, còn tính nghệ thuật chính là năng
lực sư phạm. Để đảm bảo việc dạy tốt đem lại hiệu quả chất lượng cao đòi hỏi
người giáo viên phải có cả hai. Song đặc thù của bậc tiểu học lại mang tính nghệ
thuật nhiều hơn. Để tiến hành bồi dưỡng năng lực sư phạm của bản thân tôi tiến
hành như sau:
- Tổ chức tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý học sinh, về khả năng thiết kế các
hoạt động dạy học để có điều kiện tích luỹ thêm vốn kinh nghiệm của mình.
- Tham gia các buổi thao giảng, hội giảng có dịp thể hiện các kỹ năng sư
phạm cao nhất.
- Dự giờ thăm lớp đồng nghiệp thường xuyên rút kinh nghiệm về kiến thức

và đặc biệt là phương pháp giảng dạy để tích luỹ thêm kinh nghiêm cho bản
thân.
- Thực hiện ứng xử sư phạm, cách đối xử với học sinh, xử lý các tình
huống xảy ra ở tháng học trước giúp giáo viên có thêm năng lực sư phạm của
mình.
- Thường xuyên tự bồi dưỡng để hoàn thiện mình hơn.
c. Tổ chức bồi dưỡng kinh nghiệm thực tế
- Tích cực học tập, trao đổi kinh nghiệm với giáo viên của những trường có
thành tích bồi dưỡng học sinh giỏi.Giáo viên phải có sổ tích luỹ ghi chép các
thông tin, giải các bài tập Tiếng Việt khó, các đề thi qua các năm ở bậc tiểu học.
Nhờ đó giúp giáo viên hiểu được cấu trúc của đề thi, nắm được các phần kiến
thức trọng tâm mà đề thi hay hỏi giúp giáo viên lựa chọn được kiến thức trọng
tâm của chương trình để dạy học sinh và sẽ có được kết quả cao sau mỗi lần thi.
- Tổ chức viết sáng kiến kinh nghiệm đặc biệt là sáng kiến kinh nghiệm
trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi.
d. Tổ chức bồi dưỡng các kiến thức hỗ trợ
Giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi cần có vốn hiểu biết rộng, do đó bản
thân đã thường xuyên bồi dưỡng kiến thức hỗ trợ như: Tin học, ngoại ngữ
bằng cách:
- Tạo điều kiện về mặt thời gian để học thêm về ngoại ngữ, tin học Tích
cực học hỏi, ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác giảng dạy.
- Học tập, sưu tầm các thông tin khoa học kỹ thuật.
2. Phát hiện, tuyển chọn học sinh giỏi.
a. Phát hiện học sinh có khả năng trở thành học sinh giỏi môn Tiếng
Việt.
12
Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy rằng những học sinh có khả năng về
môn Tiếng Việt thường có những biểu hiện như yêu thích đối với các tiết học
của các phân môn trong môn Tiếng Việt. Các em có lòng say mê văn học, có
hứng thú với nghệ thuật ngôn từ yêu thích thơ ca, ham đọc sách, thích nghe kể

chuyện, có những em ước mơ thành nhà văn hay trở thành cô giáo dạy văn-
Tiếng Việt, phần lớn các em không hờ hững trước vẻ đẹp của ngôn từ, văn
chương. Các em thích ghi nhớ và ghi chép những câu văn hay. Các em có những
phẩm chất tư duy có tính thống nhất: tư duy phân loại, phân tích, trừu tượng hoá,
khái quát hoá. Có năng lực quan sát, nhận xét ngôn từ của mọi người và của
chính mình. Có em biết quan sát hiện thực, biết liên tưởng giàu cảm xúc. Ví dụ
khi làm đề Tập làm văn: “Em hãy tả cảnh đêm trăng đẹp trên quê hương em”.
Có em viết phần mở bài như sau: “ Người ta yêu buổi sáng với những giọt
sương long lanh còn biếng lười nằm trên phiến lá, yêu buổi trưa với tiếng ve râm
ran trong tán phượng hồng, yêu buổi chiều với những cánh diều dạo chơi trên
bầu trời lộng gió. Với tôi, tôi yêu tất cả, yêu nhất là những đêm trăng đẹp trên
quê hương tôi”.Từ đó ta thấy các em có khả năng tư duy nghệ thuật, biết cách
nói văn chương. Những học sinh giỏi Tiếng Việt thường nắm chắc về từ, về câu
biết sử dụng nhiều tính từ, từ láy, từ tượng thanh, từ tượng hình, câu có nhiều
thành phần phụ trong viết văn. Các câu văn của các em rõ ràng, mạch lạc về
nghĩa, bộc lộ được tâm tư, suy nghĩ của mình về đối tượng được nói tới. Để phát
hiện được đúng những học sinh có năng lực Tiếng Việt, cần có sự điều tra, các
phép đo nhằm khảo sát, tìm hiểu hứng thú, tìm hiểu thông qua phụ huynh để
nắm tình hình học tập của trẻ để tránh phát hiện chưa đúng những em có khả
năng trở thành học sinh giỏi môn Tiếng Việt.
Phát hiện và tuyển chọn đúng mang ý nghĩa định hướng phát triển đúng
đắn cho một nhân cách. Vì thế phát hiện và tuyển chọn được học sinh năng
khiếu vô cùng quan trọng, là một trong những yếu tố then chốt góp phần thành
công trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt. Đồng thời nó mang ý
nghĩa giáo dục rất lớn. Định hướng sai khả năng phát triển của học sinh tiểu học
gây nên sự miễn cưỡng, gò bó, rất có hại cho một nhân cách đang hình thành và
phát triển của các em.
b. Tuyển chọn học sinh giỏi.
Để tuyển chọn chính xác đúng đối tượng, không chọn nhầm hay bỏ xót việc
phát hiện, tuyển chọn được thực hiện các bước sau:

- Bước 1: Giáo viên phụ trách lớp tiến hành khảo sát chất lượng học sinh
bằng cách kiểm tra những nội dung kiến thức cơ bản trong chương trình học,
kiến thức nâng cao bằng các hình thức kiểm tra viết, thảo luận trao đổi hằng
ngày. Sau đó lập danh sách học sinh giỏi của lớp mình phụ trách với số lượng
không hạn chế. Đây là một việc làm hết sức cần thiết bởi chỉ có giáo viên phụ
trách lớp trực tiếp giảng dạy mới đánh giá chính xác đối tượng học sinh giỏi.
- Bước 2: Tổ chức thi chọn.
13
+ Lập kế hoạch và tổ chức tuyển chọn: Tham mưu với Ban Giám hiệu nhà
trường trong việc ra đề kiểm tra, việc bố trí thời gian, cách thức tuyển chọn.
Phối hợp tất cả giáo viên trong khối mình để tiến hành tuyển chọn một các chính
xác, khách quan. Tiến hành như sau:
+ Ra đề kiểm tra: nội dung kiểm tra phải nằm trong hệ thống kiến thức cơ
bản của chương trình học, có nâng cao, có dạng bài tập mở và đề bài phải phù
hợp với khả năng đặc điểm tâm sinh lý của học sinh.
+ Tổ chức thi và chấm bài: Việc tổ chức thi và chấm bài là việc quyết định
chọn đúng đối tượng học sinh giỏi, chính vì vậy cần phải tiến hành một cách
nghiêm túc và thật sự khách quan.
+ Sau khi thành lập được đội tuyển của khối, tiến hành bồi dưỡng trong
thời gian ngắn để chuẩn bị cho các em dự thi các vòng do trường tổ chức.
- Bước 3: Tổ chức thi chọn để thành lập đội tuyển học sinh giỏi của trường.
+ Ra đề kiểm tra.
+ Tổ chức thi và tuyển chọn đội tuyển.
Hình thức ra đề, tổ chức thi và tuyển chọn tiến hành tương tự như bước 2
nhưng ở bước này cần tuyển chọn chính xác và khách quan. Giáo viên chủ
nhiêm chính là người chính thức bồi dưỡng các em trong đội tuyển sau khi đã
được tuyển chọn.
Việc phát hiện và thi tuyển chọn học sinh giỏi tiến hành hàng năm sẽ nhằm
củng cố, bổ sung số học sinh trong đội tuyển hoặc loại những học sinh có những
biểu hiện hạn chế về năng lực.

Một căn cứ nữa để phát hiện và tuyển chọn học sinh giỏi là dư luận cộng
đồng gia đình của học sinh, căn cứ này dựa vào sự “di truyền” gen thông minh
của cha mẹ, dân tộc, phần lớn những em học sinh giỏi được thừa hưởng gen từ
gia đình luôn thể hiện mình trước tập thể song cũng có em rụt rè nhút nhát
không bộc lộ khả năng của mình. Với những em này giáo viên cần giúp đỡ để
các em sớm hoà đồng trong tập thể, nhanh chóng bộc lộ năng lực cao của bản
thân.
3. Xây dựng kế hoạch, nội dung chương trình bồi dưỡng học sinh giỏi
môn Tiếng Việt.
a. Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng.
- Để chương trình bồi dưỡng học sinh giỏi có hiệu quả thì giáo viên phải có
kế hoạch bồi dưỡng cho học sinh giỏi liên tục và đều đặn, không dồn ép ở tháng
cuối trước khi thi vừa quá tải đối với học sinh vừa ảnh hưởng đến quá trình tiếp
thu kiến thức ở môn học khác của học sinh.
- Giáo viên phải xây dựng kế hoạch bồi dưỡng thật cụ thể từng tuần, từng
tháng, cho cả năm học.
Chẳng hạn như:
14
Số tiết/ tuần Kiến thức.
2 tiết Từ và câu.
1 tiết Cảm thụ văn.
2 tiết Tập làm văn.
b. Nội dung chương trình bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt.
Giáo viên cần biên soạn chương trình, nội dung bồi dưỡng rõ ràng, cụ thể,
chi tiết cho khối, lớp mình phụ trách tránh tình trạng thích đâu dạy đó. Dạy theo
chuyên đề hay từng mảng kiến thức là biện pháp mà cá nhân tôi thấy là hữu hiệu
nhất mà tôi đang sử dụng. Nắm chắc phương châm: “dạy chắc cơ bản rồi mới
nâng cao”.
* Kiến thức kĩ năng về từ ngữ.
- Bồi dưỡng lí thuyết vê từ: Có các bài về từ đơn, từ phức (từ ghép, từ láy),

từ ghép ( ghép tổng hợp, ghép phân loại), từ láy ( các dạng từ láy, các kiểu từ
láy), từ cùng nghĩa, từ trái nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm.
- Phân loại và nhận diện từ theo cấu tạo và theo từ loại.
- Học sinh phải hiểu được từ chia theo cấu tạo gồm có hai loại đó là từ đơn
và từ phức. Lưu ý một số từ lúc thì là từ ghép lúc thì lại tách ra làm hai từ đơn.
Tuỳ vào văn cảnh mà các em xác định cho đúng.
Ví dụ:
Chiếc áo dài quá, không đẹp chút nào.
Bộ áo dài này đẹp quá!
Trong câu 1: áo, dài là hai từ đơn.
Trong câu 2: áo dài là một từ ghép.
- Học sinh phải biết từ theo từ loại gồm có danh từ, động từ, tính từ, đại từ,
quan hệ từ, số từ, tình thái từ Các em không chỉ có kiến thức về từ loại mà
phải có kĩ năng xác định từ loại.
* Làm giàu vốn từ hay luyện kĩ năng nắm nghĩa từ ngữ và sử dụng từ
ngữ cho học sinh.
Dạng 1: Yêu cầu HS giải nghĩa từ ngữ hay thành ngữ. Ví dụ: Em hiểu
thành ngữ “Gió chiều nào che chiều ấy” là thế nào?
Dạng 2: Cho những từ có cùng yếu tố cấu tạo: Ví dụ: Phân biệt nghĩa của
mẹ đẻ, mẹ nuôi, mẹ kế, mẹ ghẻ
Dạng 3: Yêu cầu học sinh kể ra các từ theo chủ đề.
Dạng 4: Yêu cầu phân loại từ theo nhóm nghĩa và đặt tên cho nhóm.
Dạng 5: Dạng đề sửa lỗi dùng từ sai.
Dạng 6: Đặt câu, viết đoạn văn với từ cho sẵn.
Dạng 7: Tìm từ thích hợp để điền vào chỗ trống.
15
Ngoài ra còn nhiều dạng bài khác nữa, giáo viên phải cung cấp cho học
sinh, cho học sinh tiếp cận nhiều lần thì bài kiểm tra mới đạt hiệu quả cao.
* Các kiến thức, kĩ năng về câu.
- Học sinh phải nắm được những kiến thức cơ bản về câu, khái niệm về

câu, câu chia theo cấu tạo (câu đơn, câu ghép), câu chia theo mục đích nói ( câu
kể, câu cảm, câu khiến, câu hỏi). Nắm được cấu tạo ngữ pháp của câu, các thành
phần câu. Kiến thức về dấu câu, kĩ năng sử dụng dấu câu
*Cảm thụ văn học.
Các dạng bài về cảm thụ văn: tìm hình ảnh đẹp và nêu cách hiểu của mình
về hình ảnh đó; Tìm hiểu tác dụng của cách dùng từ, đặt câu sinh động; tìm nghệ
thuật và nêu cách hiểu của mình qua nghệ thuật đó; bài tập cảm thụ văn về bộc
lộ cảm thụ văn học qua đoạn văn ngắn
* Tập làm văn.
Giáo viên phải biết chọn lọc, bồi dưỡng cho học sinh các dạng bài về Tập
làm văn như tả cảnh, tả con vật, cây cối, đồ vật, tả người, các dạng bài tranh
luận thuyết trình, đơn từ, biên bản, báo cáo
4. Bồi dưỡng hứng thú học tập cho học sinh.
Hứng thú có vai trò quan trọng trong việc học tập và làm việc. Không có
việc gì mà người ta không làm được dưới sự ảnh hưởng của hứng thú. Một vĩ
nhân nào đó trên thế giới đã từng có câu nói: “ Thiên tài nảy nở từ tình yêu đối
với công việc”. Vì vậy bồi dưỡng hứng thú học tập rất quan trọng. Không có con
đường nào khác là giúp các em thấy được sự trong sáng và giàu đẹp của Tiếng
Việt – văn học từng giờ, từng phút trong giờ Tiếng Việt người giáo viên đều
phải hướng đến việc hình thành và duy trì hứng thú cho học sinh.
* Các cách ứng dụng để duy trì hứng thú học tập cho học sinh:
- Giáo viên phải chuẩn bị bài chu đáo, lôi cuốn được sự chú ý của học sinh
vào bài giảng của mình ngay từ khi giới thiệu bài cho tới khi kết thúc bài giảng.
Ví dụ:
Khi dạy bài: Mẹ của nhà thơ Trần Quốc Minh tôi đã vào bài như sau: Các
em ạ, chúng ta đã được học rất nhiều bài về mẹ, “Bao tháng bao năm mẹ bế con
trên đôi tay mềm mại ấy”, “Bình yêu nhất đôi bàn tay mẹ, những ngón tay gầy
gầy xương xương”, “Con xót lòng mẹ hái trái bưởi đào – Con nhạt miệng có
canh tôm nấu khế” Hôm nay, chúng ta lại được học một bài có tựa đề về “Mẹ”
của nhà thơ Trần Quốc Minh, Các em hãy cùng cô đọc xem bài “Mẹ” này có gì

khác so với những bài về mẹ mà các em đã học.
- Giáo viên phải sử dụng “phương pháp nêu vấn đề” để kích thích sự tò mò,
ham hiểu biết, thích tìm hiểu về thế giới xung quanh của trẻ.
- Giáo viên phải biết lựa chọn các phương pháp dạy học, hình thức dạy học
phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của trẻ thu hút được sự chú ý của học sinh vào
bài giảng của mình.
16
- Hứng thú tiếng Việt – văn chương còn được tạo ra bằng cách kể cho các
em nghe về đời riêng của các nhà thơ, nhà văn nổi tiếng, tổ chức nói chuyện thơ
văn, ngoại khóa tiếng Việt.
5. Vận dụng đổi mới phương pháp dạy học.
Trước hết giáo viên phải chọn lọc những phương pháp dạy dễ hiểu nhất để
hướng dẫn học sinh, không nên máy móc theo sách hướng dẫn. Cần vận dụng
đổi mới phương pháp giảng dạy phù hợp với mục tiêu từng bài, từng phân môn,
phát huy tính tích cực, độc lập, tự giác của học sinh; tôn trọng và khích lệ những
sáng tạo của các em.
Đổi mới phương pháp dạy học gắn liền với đổi mới hình thức tổ chức dạy
học và khai thác triệt để việc sử dụng thiết bị dạy học. Căn cứ vào cấu trúc nội
dung chương trình, mục tiêu bài dạy mà giáo viên lựa chọn phương pháp dạy
học, hình thức tổ chức lớp và thiết bị dạy học phục vụ bài học.
Các phương pháp dạy học thường dùng:
+ Phương pháp nêu vấn đề.
+ Phương pháp thảo luận nhóm.
+ Phương pháp trò chơi.
+ Phương pháp đàm thoại.
+ Phương pháp quan sát.
+ Phương pháp thuyết trình.
…………………
Các hình thức dạy học thường dùng:
+ Học cá nhân.

+ Học nhóm.
+ Học toàn lớp.
+ Học ở hiện trường.
………………………
Ví dụ: Khi dạy về từ đồng nghĩa để hướng dẫn học sinh phân biệt sắc thái
nghĩa của những từ đồng nghĩa (in đậm) trong các câu sau:
a. Bông hoa huệ trắng muốt.
b. Hạt gạo trắng ngần.
c. Hoa ban nở trắng xoá núi rừng.
Tôi đã hướng dẫn học sinh làm như sau:
+ Cho học sinh quan sát bông hoa huệ.
+ Từ quan sát vật thật học sinh nêu sắc thái nghĩa của từ trắng
muốt.
+ Giáo viên định hướng, gợi mở cho học sinh để các em nêu
đúng sắc thái nghĩa của từ.
17
+ Giáo viên hỏi: Từ trắng muốt ngoài chỉ sắc trắng của hoa huệ
nó còn được dùng để chỉ sắc trắng của sự vật nào khác nữa? (trắng muốt còn
dùng để chỉ màu của răng).
Đối với các từ còn lại tôi thay đổi hình thức dạy khác đi tránh sự
lặp lại nhàm chán.
Từ trắng ngần tôi hướng dẫn các em như sau:
+ Hạt gạo rất đỗi quen thuộc và gần gũi với các em, ngày nào
chúng ta cũng nhìn thấy hạt gạo vậy bạn nào cho cô biết em hiểu trắng ngần là
thế nào? (trắng và bóng vẻ tinh khiết, sạch sẽ).
+ Tìm một câu thơ có từ trắng ngần? (Con mơ cho mẹ hạt gạo
trắng ngần – Mai sau con lớn vung chày lún sân)
Từ trắng xoá tôi hướng dẫn các em như sau:
+ Cho học sinh quan sát tranh hoa ban nở trắng xoá núi rừng.
+ Qua quan sát tranh học sinh nêu được nghĩa của từ trắng xoá

(trắng đều trên diện rộng).
+ Đặt câu với từ trắng xoá.
+ Cho học sinh nhắc lại nghĩa của từng từ.
Ở tiết Luyện từ và câu tôi đã hướng dẫn các em như vậy nên các
em đã năm được nghĩa của các từ đồng nghĩa này rất chính xác nên khi tả người
hay tả cảnh các em đã dùng từ ngữ tả rất đúng. Nghĩa của các từ này lại được
một lần nữa được nhắc lại khi tôi chữa bài tập làm văn cho các em. Nên học sinh
của tôi nắm nghĩa của các từ này lại càng vững hơn.
Sau khi vận dụng đổi mới phương pháp vào giảng dạy tôi thấy học sinh của
mình chú ý vào bài giảng hơn, tiếp thu bài một cách chủ động nên kết quả bồi
dưỡng học sinh giỏi của tôi nâng lên rõ rệt sau các lần khảo sát như sau:
Lần khảo sát
Tổng số
học sinh
dự khảo
sát
Kết quả
Giỏi khá Trung bình Yếu
SL % SL % SL % SL %
Lần 1 23 0 0 5 21,7 15 65,2 3 13,1
Lần 2 23 1 4,3 10 43,5 11 47,9 1 4,3
Lần 3 23 1 4,3 15 65,2 7 30,5 0 0
6. Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn cho học sinh.
Học sinh rất ngại học cảm thụ văn bởi lẽ các em chưa thấy được mỗi bài
văn, bài thơ là một văn bản nghệ thuật dù dài hay ngắn thì nó cũng chứa đựng
lượng thông tin nhất định về ngôn từ, hình ảnh, sự kiện, tình cảm, các thông
tin đó tác động vào tâm hồn ngây thơ đó của các em còn hạn chế nên năng lực
cảm thụ văn của các em chưa tốt.
18
Từ thực trạng và nguyên nhân dẫn đến năng lực cảm thụ văn của học sinh

còn hạn chế tôi đã dành thời gian nghiên cứu và đưa ra một số biện pháp khắc
phục như sau:
- Biện pháp 1. Giúp học sinh cảm thụ văn qua việc khai thác biện pháp
nghệ thuật trong các bài văn, bài thơ. Học sinh nhận biết được các biện pháp
nghệ thuật và tác dụng của nó được tác giả sử dụng trong các tác phẩm văn học.
Học sinh cần thực hiện các yêu cầu sau đây:
+ Hiểu được thế nào là biện pháp nghệ thuật: So sánh, nhân hóa, điệp ngữ,
đảo ngữ, ( thông qua phân môn Luyện từ và câu)
+ Xác định đúng những biện pháp nghệ thuật trong bài văn, bài thơ (thông
qua môn Tập đọc)
+ Xác định đúng những từ, cụm từ, hình ảnh thể hiện biện pháp nghệ thuật
đó.
+ Cảm nhận giá trị nghệ thuật làm tăng giá trị nội dung, ý nghĩa của bài
thơ, bài văn.
Ví dụ: Khi dạy bài tập đọc “Rừng mơ” của nhà thơ Trần Lê Văn có đoạn
thơ:
“Rừng mơ ôm lấy núi
Mây trắng đọng thành hoa
Gió chiều đông gờn gợn
Hương bay gần bay xa”.
Yêu cầu học sinh xác định được:
+ Nghệ thuật trong đoạn thơ trên: Nghệ thuật nhân hóa.
+ Sự vật được nhân hóa: Rừng mơ.
+ Từ ngữ thể hiện sự nhân hóa: Ôm lấy núi.
+ Cảm nhận được:
Rừng mơ mọc bao quanh núi được nhân hóa (ôm lấy núi) cho ta thấy sự
gắn bó, gần gũi, thân mật và thắm đượm tình cảm của rừng mơ và núi. Hoa mơ
nở trắng xóa cả núi rừng tưởng như mây trên trời kết lại. Gió chiều đông nhè
nhẹ, gờn gợn đưa hương hoa mơ lan tỏa đi khắp nơi. Có thể nói, đoạn thơ trên
vẽ ra bức tranh mang vẻ đẹp của đất trời hòa quyện trong rừng mơ Hương Sơn

khiến người ta đọc một lần nhớ mãi không bao giờ quên.
- Biện pháp 2: Trau rồi hứng thú tiếp xúc với thơ văn.
+ Trau rồi hứng thú tiếp xúc với thơ văn tức là tự rèn luyện mình để có
nhận thức đúng, tình cảm đẹp từ đó đến với văn học một cách tự giác, say mê.
Đây là một yếu tố quan trọng trong học cảm thụ văn.
+ Giáo viên phải có chuyên môn vững vàng, vận dụng đổi mới phương
pháp dạy để học sinh bị lôi cuốn vào những áng thơ văn từ đó các em thích tiếp
xúc và gần gũi với thơ văn. Để học sinh biết lắng nghe và tìm hiểu cái đẹp của
19
thiên nhiên và cuộc sống quanh ta. Tập dùng từ ngữ cho đúng và hay, nói viết
thành câu cho rõ ý, sinh động, gợi tả Tất cả đều giúp các em phát triển về
năng lực cảm thụ văn.
- Biện pháp 3: Tích lũy vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống và văn học.
Trong các giờ Tiếng Việt, giáo viên luôn luôn chú ý đến liên hệ thực tế
cuộc sống với văn học để các em hình thành được kĩ năng vận dụng thực tế vào
văn học, đồng thời qua đó giúp các em tích lũy được vốn hiểu biết về thực tế
cuộc sống qua văn học.
+ Hướng dẫn học sinh biết quan sát thực tế cuộc sống bằng nhiều giác
quan. Quan sát kĩ chẳng những giúp các em viết được bài văn hay mà còn tạo
điều kiện cho các em cảm nhận được vẻ đẹp của thơ văn một cách tinh tế và sâu
sắc.
+ Bên cạnh vốn hiểu biết thực tế cuộc sống, các em còn cần cả tích lũy vốn
hiểu biết văn học bằng cách thường xuyên đọc sách. Giúp các em mở rộng tầm
nhìn cuộc sống, khơi sâu những suy nghĩ và cảm xúc, góp phần khơi dậy cảm
thụ văn.
- Biện pháp 4: Rèn kĩ năng viết đoạn văn về cảm thụ văn.
+ Bước 1: Đọc kĩ đề bài nắm chắc được yêu cầu của bài tập.
+ Bước 2: Đọc và tìm hiểu về câu thơ, câu văn hay đoạn trích nêu được
trong đề bài.
+ Bước 3: Viết đoạn văn về cảm thụ văn học.

+ Bước 4: Chấm và chữa bài cho các em.( Đây là bước quan trọng phải
chấm chữa bài cẩn thận để học sinh thấy được kết quả học tập của mình đã làm
được những gì và chưa làm được những gì.
Sau khi áp dụng các biện pháp đó tôi thây học sinh lớp mình đều thích học
môn Tiếng Việt đặc biệt là những tiết học cảm thụ văn.
7. Phối hợp với phụ huynh học sinh trong công tác bồi dưỡng học sinh
giỏi.
- Tổ chức họp phụ huynh học sinh ngay từ đầu năm và định kì để thông báo
với phụ huynh lực học của con em họ, kế hoạch bồi dưỡng của nhà trường, thảo
luận để thống nhất kế hoạch, biện pháp bồi dưỡng để đạt hiệu quả cao nhất.
- Tuyên truyền vận động phụ huynh đầu tư mua sách tham khảo cho học
sinh để phục vụ việc bồi dưỡng học sinh giỏi.
- Giáo viên và phụ huynh phải thường xuyên thông tin qua lại bằng sổ liên
lạc hay điện thoại để năm bắt được những thông tin từ hai phía để kịp thời giáo
dục và uốn nắn các em tránh được những việc đáng tiếc xảy ra mang lại hiệu
quả giáo dục và bồi dưỡng học sinh giỏi cao nhất.
8. Kiểm tra đánh giá công tác bồi dưỡng học sinh giỏi.
“Kiểm tra đánh giá là đặt lại con tàu trên đường ray của nó”. Chính vì vậy
đánh giá kiểm tra đánh giá là một khâu quan trọng không thể thiếu trong bồi
20
dưỡng học sinh giỏi. Vậy thì để kiểm tra công tác bồi dưỡng học sinh giỏi cần
tiến hành như sau:
Tổ chức các đợt kiểm tra để đánh giá kết quả học tập của học sinh giỏi. Sau
mỗi đợt kiểm tra giáo viên phải làm các việc sau:
+ Chấm chữa bài tay đôi với học sinh.
+ Họp đội tuyển để đánh giá mức độ của đề thi.
+ Đánh giá kết quả bài làm của học sinh.
+ Kết luận: Tìm ra được những điểm mạnh, những điểm còn hạn chế ở
cách bồi dưỡng của thầy và cách học của trò để tìm cách khắc phục, điều chỉnh
sao cho hiệu quả cao nhất trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi.

VI. Kết quả thực hiện.
- Từ việc nghiên cứu, vận dụng các giải pháp, biện pháp vào bồi dưỡng học
sinh giỏi Tiếng Việt lớp 5, trường Tiểu học Tam Hồng 1 năm học 2013-2014;
qua kì thi học sinh giỏi lớp 5, kết quả năm học 2013-2014 khá cao so với các
năm học trước khi chưa thực hiện sáng kiến. Cụ thể như sau:
Năm học
Tổng số
học sinh
Điểm
Giỏi Khá Trung bình Yếu
SL % SL % SL % SL %
2011-2012 26 0 0 7 27 14 53,8 5 19,2
2012-2013 25 0 0 8 32 11 44 6 24
2013-2014 23 1 4,3 15 65,2 7 30,5 0 0
Với kết quả trên chưa nói lên điều gì lớn lao song đó cũng là sự ghi nhận
thành công ban đầu trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Đó cũng là sự khích
lệ, thôi thúc thầy trò chúng tôi có được niềm tin vào việc xây dựng kế hoạch
giáo dục giảng dạy trong đó có kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi.
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
1. Kết luận.
- Qua thực tiễn nhiều năm bồi dưỡng học sinh giỏi, qua nghiên cứu đề tài
này, bản thân rút ra được những bài học kinh nghiệm sau.
Thứ nhất: Để bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt có hiệu quả thì giáo viên
phải vững vàng về kiến thức, kĩ năng thực hành Tiếng Việt, có vốn sống, vốn
cảm xúc phong phú.
Thứ hai: Giáo viên phải là người thực sự yêu nghề, đam mê, tâm huyết với
công việc bồi dưỡng.
Thứ ba: Thường xuyên học hỏi, trau dồi, tích lũy kiến thức.
21
Thứ tư: Vận dụng đổi mới phương pháp vào giảng dạy và bồi dưỡng học

sinh giỏi.
Thứ năm: Học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp đi trước.
Thứ sáu: Giáo viên phải tạo cho học sinh niềm say mê, hứng thú khi học
môn Tiếng Việt.
Thứ bảy: Luôn phối hợp với phụ huynh học sinh để tạo điều kiện tốt nhất
cho các em tham gia học tập.
Thứ tám: Ứng dụng công nghệ thông tin vào bồi dưỡng học sinh giỏi.
Trên đây là một vài biện pháp có thể coi là kinh nghiệm của bản thân tôi
trong thời gian qua, đó cũng là những gì tôi rút ra từ thực tế giảng dạy. Tôi cũng
mạnh dạn đưa ra, mong muốn nhận được sự góp ý, bổ sung của đồng nghiệp
giúp tôi có nhiều biện pháp tốt hơn để thực hiện tốt nhiệm vụ bồi dưỡng học
sinh giỏi, áp dụng trong thời gian tới, Đáp ứng mục tiêu mà Bộ GD&ĐT đề ra.
2. Đề xuất và kiến nghị:
- Với nhà trường: Tổ chức các buổi bồi dưỡng kiến thức về công nghệ
thông tin cho giáo viên.
- Với Phòng Giáo dục và Đào tạo Yên Lạc tiếp tục tổ chức các lớp tập huấn
cho giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi.
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tam Hồng, ngày 20 tháng 4 năm
2014
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến
kinh nghiệm của mình viết, không sao
chép nội dung của người khác.
Người viết sáng kiến kinh nghiệm.
Chu Thị Huy
22
23
PHÒNG GD&ĐT YÊN LẠC
TRƯỜNG TH TAM HỒNG I

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
PHIẾU ĐĂNG KÝ VIẾT SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
CẤP: NGÀNH: ; TỈNH: .
I. Thông tin về tác giả đăng ký SKKN
1. Họ và tên: Chu Thị Huy
2. Ngày sinh: 03/4/1981
3. Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Tam Hồng 1.
4. Chuyên môn: Đại học
5. Nhiệm vụ được phân công trong năm học: Chủ nhiệm và giảng dạy
lớp 5B. Bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi lớp 5.
II. Thông tin về sáng kiến kinh nghiệm
1. Tên sáng kiến kinh nghiệm: Bồi dưỡng học sinh giỏi
2. Cấp học: Tiểu học.
3. Mã lĩnh vực theo cấp học: 07
4. Thời gian nghiên cứu: từ tháng 8/2013 đến tháng 4/2014
5. Địa điểm nghiên cứu: Trường Tiểu học Tam Hồng 1.
6. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 5B, trường Tiểu học Tam Hồng 1
Ngày tháng 4 năm 2014 Ngày tháng 4 năm 2014 Ngày 20 tháng 4 năm 2014
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
(Ký, ghi rõ họ tên, đóng dấu)
TỔ TRƯỞNG/NHÓM
TRƯỞNG CHUYÊN MÔN
(Ký, ghi rõ họ tên)
NGƯỜI ĐĂNG KÝ
Chu Thị Huy
24
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Stt Tên tài liệu Tên tác giả
1 Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 5 Trần Mạnh Hưởng – Lê Hữu

Tỉnh
2 Tiếng Việt nâng cao 5 Lê Phương Nga – Trần Thị
Minh Phương – Lê Hữu Tỉnh
3 40 đề ôn luyện Tiếng Việt cuối bậc
Tiểu học
Lê Phương Nga – Lê Hữu
Tỉnh – Nguyễn Trí
4 25 đề kiểm tra học sinh giỏi Tiếng Việt
5
Trần Mạnh Hưởng
5 Tuyển tập đề thi học sinh giỏi bậc Tiểu
học môn Tiếng Việt
Trần Mạnh Hưởng – Lê Hữu
Tỉnh
6 Luyện tập cảm thụ văn học ở Tiểu học Trần Mạnh Hưởng
7 Rèn luyện kĩ năng cảm thụ thơ văn cho
học sinh lớp 5
Nguyễn Trí – Nguyễn Trọng
Hoàn - Giang Khắc Bình
8 100 bài làm văn mẫu lớp 5 Võ Hồng Anh – Thùy Dương
25

×