Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Giải pháp phát triển hệ thống lưới điện tới các xã đặc biệt khó khăn vùng Trung du và miền núi phía Bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.9 MB, 65 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI CAM ĐOAN
Kính gửi: - Ban giám hiệu Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân.
- Ban Chủ nhiệm Khoa Kế hoạch và Phát triển.
Tên sinh viên: NGUYỄN THÙY DƯƠNG
Sinh viên lớp:Kinh tế phát triển A
Chuyên ngành: Kinh tế phát triển
Khoa: Kế hoạch và phát triển
Khóa: 48
Sau một thời gian thực tập tại phòng Kế hoạch của Tổng công ty Điện Lực I
cùng với sự hướng dẫn của thầy giáo PGS.TS Nguyễn Ngọc Sơn và sự giúp đỡ của
các cán bộ phòng Kế hoạch, em đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp với đề tài “Giải
pháp phát triển hệ thống lưới điện tới các xã đặc biệt khó khăn vùng Trung du
và miền núi phía Bắc”.
Em cam đoan :
Đây là đề tài do em lựa chọn sau một thời gian thực tập, được thực hiện dựa
trên sự nghiên cứu, tìm tòi của bản thân, sự hướng dẫn của giáo viên hướng dẫn và
các cán bộ tại cơ sở thực tập.
Luận văn dựa trên sự nghiên cứu của bản thân và các số liệu được cung cấp
bởi cơ quan thực tập. Các số liệu sử dụng trong luận văn là hoàn toàn đúng sự thật và
không có sự sao chép từ bất cứ tài liệu và luận văn nào.
Em xin chịu trách nhiệm trước nhà trường và Ban Chủ nhiệm khoa về lời cam
đoan này.
Sinh Viên
Nguyễn Thùy Dương
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực tập, thực hiện nghiên cứu chuyên đề và hoàn thiện luận
văn, em đã được thầy giáo hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Ngọc Sơn và các cán bộ
phòng Kế hoạch của Tổng công ty Điện Lực I hướng dẫn cách tìm hiểu, thu thập


thông tin, phân tích số liệu … để hoàn thành được luận văn tốt nghiệp với đề tài
“Giải pháp phát triển hệ thống lưới điện tới các xã đặc biệt khó khăn vùng
Trung du và miền núi phía Bắc”.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy giáo hướng dẫn, các cán bộ phòng
Kế hoạch của Tổng công ty Điện Lực I đã giúp đỡ em hoành thành tốt khóa luận tốt
nghiệp.
Do đây là lần đầu tiên thực hiện nghiên cứu một vấn đề chuyên sâu, cộng
thêm kinh nghiệm của bản thân chưa có nhiều, nên luận văn tốt nghiệp của em sẽ
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong nhận được sự ủng hộ và góp ý
của các thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
MỤC LỤC
Hình 1.1. Tr m bi n áp truy n t i.ạ ế ề ả ....................................................................7
Hình 1.2: ng dây truy n t i i n.Đườ ề ả đ ệ ..............................................................7
B ng 2.1: T l nghèo chung chia theo vùng tính theo chi tiêuả ỷ ệ ......................21
B ng 2.2: Danh m c a b n có i u ki n KT-XH c bi t khó kh nả ụ đị à đ ề ệ đặ ệ ă ........22
K T LU NẾ Ậ ..........................................................................................................61
TÀI LI U THAM KH OỆ Ả ....................................................................................62
DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH VẼ
Hình 1.1. Tr m bi n áp truy n t i.ạ ế ề ả ....................................................................7
Hình 1.1. Tr m bi n áp truy n t i.ạ ế ề ả ....................................................................7
Hình 1.2: ng dây truy n t i i n.Đườ ề ả đ ệ ..............................................................7
Hình 1.2: ng dây truy n t i i n.Đườ ề ả đ ệ ..............................................................7
B ng 2.1: T l nghèo chung chia theo vùng tính theo chi tiêuả ỷ ệ ......................21
B ng 2.1: T l nghèo chung chia theo vùng tính theo chi tiêuả ỷ ệ ......................21
B ng 2.2: Danh m c a b n có i u ki n KT-XH c bi t khó kh nả ụ đị à đ ề ệ đặ ệ ă ........22
B ng 2.2: Danh m c a b n có i u ki n KT-XH c bi t khó kh nả ụ đị à đ ề ệ đặ ệ ă ........22
K T LU NẾ Ậ ..........................................................................................................61

TÀI LI U THAM KH OỆ Ả ....................................................................................62
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Điện có tầm ảnh hưởng lớn đến sự phát triển văn hóa kinh tế,xã hội của mỗi
quốc gia và vùng.
Đối với tất cả các quốc gia trên toàn thế giới, điện năng được xem là nguồn
động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế, xã hội.
Tại mỗi quốc gia việc xây dựng, quy hoạch phát triển hệ thống điện là một
trong những nhiệm vụ được ưu tiên hàng đầu và được đầu tư rất lớn. Ngay từ đầu thế
kỷ trước, nhận thấy sự cần thiết của điện ông Lê nin đã đã đề ra chủ trương để đưa
nước Liên Xô cũ ra khỏi đói nghèo là phải: Điện, điện khí hóa toàn quốc.
Ngày nay tại các nước phát triển hệ thống điện đã được xây dựng và phát triển
với quy mô lớn, công nghệ hiện đại và hầu như lưới điện đã bao phủ tất cả các vùng
lãnh thổ. Ở các nước nghèo, nước đang phát triển trên thế giới hệ thống điện tuy đã
được đầu tư phát triển mạnh mẽ nhưng nhiều vùng rộng lớn thuộc vùng sâu vùng xa
vẫn chưa có điện lưới quốc gia; do đó tại những khu vực này tình trạng chung là kinh
tế xã hội chậm phát triển, đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của nhân dân còn
nghèo nàn, lạc hậu, mức sống thấp, tiến bộ xã hội cách biệt hẳn so với những vùng đã
có điện.
Chỉ tiêu tiếp cận các dịch vụ như điện, nước, y tế, giáo dục là những thông số
cơ bản để đánh giá trình độ phát triển của một nước. Theo đánh giá của các tổ chức
thế giới các chỉ số này của Việt nam là rất thấp. 35 năm sau chiến tranh nhiều khu
vực miền núi của Việt Nam vẫn chưa có điện.
Nhận thấy lợi ích của điện, để thu hẹp dần khoảng cách giữa thành thị và nông
thôn, miền núi và đồng bằng, chính phủ Việt Nam đã đặt ra mục tiêu đến hết năm
2015, phải đảm bảo cho 100% các xã, huyện, hải đảo trên toàn đất nước có điện.
Về cơ bản, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp với trên 78 % dân số sống
ở nông thôn và miên núi , nhiều người trong số họ là dân tộc thiểu số. Người nghèo ở

Việt Nam tập trung phần lớn ở nông thôn và miền núi. Chính phủ Việt Nam đang
phải đối mặt với thực trạng: một là các dịch vụ cơ bản trên cần tới được người nghèo
với chất lượng phù hợp và hai là những người nghèo cần có đủ khả năng để chi trả
cho các dịch vụ này. Trong mấy năm gần đây nhà nước ta đã đầu tư một lượng vốn
khá lớn để đưa điện lưới quốc gia đến cho các xã vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt
khó khăn. Tuy nhiên, có rất nhiều khu vực địa hình hiểm trở, dân cư thưa thớt, sống
không tập trung chỉ có khoảng 20-30 người, dân trí thấp, tiêu thụ điện không đáng kể
nên để đưa được điện từ lưới điện quốc gia đến cho họ, nhà nước phải tốn đến hàng
chục tỷ đồng nhưng tổn hao điện trên hệ thống lại lớn hơn lượng điện dân sử dụng.
Nguyễn Thùy Dương – Lớp Kinh tế Phát triển A – Khoá 48 Trang 1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nhưng nếu không đầu tư, và để cho người dân chịu khổ, không có điện, thì nhà nước
ta sẽ bị mất dân. Các tổ chức phản động ở ngoài biên giới cũng thường lợi dụng khai
thác sự thiếu hiểu biết của bà con các dân tộc miền núi để kích động họ chống lại
chính phủ Việt nam.
Nghiên cứu các giải pháp công nghệ thích hợp nhằm nhanh chóng điện khí
hoá vùng ngoài lưới điện là một nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa kinh tế- chính trị-xã
hội rất lớn.
2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của bài khóa luận này, tôi xin phép đưa ra những nghiên cứu
của bản thân về thực trạng hệ thống lưới điện của các xã đặc biệt khó khăn ở vùng
Trung du và miền núi phía Bắc. Khu vực trên là vùng nghèo nhất trong cả nước, tập
trung nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Thêm vào đó, một số tỉnh ở đây có
xã còn chưa được biết đến ánh sáng của đèn điện, cuộc sống của người dân vô cùng
cực khổ.
Tuy nhiên, để đánh giá được thực trạng lưới điện của từng xã là điều không
thể thực hiện được trong phạm vi nhỏ của bài khóa luận này. Do đó, tôi chỉ đánh giá
chung thực trạng lưới điện của các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc, và đánh giá
riêng hai huyện, huyện Nà Hang- Tuyên Quang và huyện đảo Cô Tô - Quảng Ninh để
có thể thấy rõ thực trạng hệ thống lưới điện và tiêu thụ điện năng ở các xã đặc biệt

khó khăn vùng Trung du và miền núi phía Bắc.
3. Mục đích nghiên cứu
Bài khóa này được nghiên cứu nhằm mục đích đánh giá thực trạng hệ thống
lưới điện cũng như tình hình tiêu thụ điện năng tại các xã đặc biệt khó khăn vùng
Trung du và Miền núi phía Bắc. Và từ đó, tôi xin đưa ra các giải pháp thực tiễn để
đưa điện về cho các hộ gia đình nghèo, vùng sâu vùng xa, dân tộc thiểu số. Trong
phạm vi nhỏ của bài, tôi muốn đóng góp một số ý kiến giúp cho đồng bào dân tộc
thiểu số có thể có điện để thắp sáng. Từ đó, tiếp cận được với các tiến bộ khoa học
khác, giúp họ phát triển đời sống, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo.
Nguyễn Thùy Dương – Lớp Kinh tế Phát triển A – Khoá 48 Trang 2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
4. Phương pháp nghiên cứu
Đây là một đề tài mang tính ứng dụng cao, nên các phương pháp nghiên cứu
được sử dụng là: Phương pháp phân tích, tổng hợp diễn giải, thống kê mô tả, hệ
thống hóa…
5. Tính hiệu quả và đóng góp của đề tài
Đề tài sau khi nghiên cứu đã chỉ ra được thực trạng lưới điện và tiêu thụ điện
năng ở các xã vùng sâu vùng xa. Đồng thời đưa ra được một số giải pháp thiết thực
như sử dụng nguồn năng lượng tại chỗ để cấp điện cho các xã vùng sâu vùng xa.
Ngoài ra còn có một số nguồn năng lượng khác có thể được sử dụng như các nguồn
năng lượng gió, mặt trời. Hơn thế nữa, các nguồn năng lượng này không chỉ áp dụng
cho các xã vùng sâu vùng xa, mà còn có thể vận dụng để sản xuất điện năng cho cả
nước, giảm áp lực tiêu thụ điện cho các nhà máy điện hiện nay.
6. Bố cục
Luận văn được chia thành ba chương:
Chương I: Sự cần thiết phải phát triển hệ thống lưới điện cho các xã đặc biệt
khó khăn vùng Trung du và miền núi phía Bắc.
Chương II: Thực trạng hệ thống lưới điện ở các xã đặc biệt khó khăn vùng
Trung Du và miền núi phía Bắc.
Chương III: Định hướng và giải pháp phát triển hệ thống lưới điện đến các xã

đặc biệt khó khăn vùng Trung du và miền núi phía Bắc
Nguyễn Thùy Dương – Lớp Kinh tế Phát triển A – Khoá 48 Trang 3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I: SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT TRIỂN HỆ
THỐNG LƯỚI ĐIỆN CHO CÁC XÃ ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN
1.1. Đặc điểm, vai trò năng lượng điện
1.1.1. Đặc điểm của điện thương phẩm
Quá trình sản xuất điện năng: Năng lượng điện là một nguồn năng lượng sạch
và có tính hữu hạn. Điện năng không phải là một nguồn tài nguyên có sẵn trong tự
nhiên mà là sự biến đổi các dạng năng lượng khác sang như từ năng lượng nước
(thuỷ điện), năng lượng nhiệt (nhiệt điện): năng lượng chuyển hoá từ các dạng nhiên
liệu rắn (than đá), lỏng (dầu mỏ) và khí (khí đốt thiên nhiên) và các dạng năng lượng
khác: năng lượng hạt nhân, năng lượng tái tạo (năng lượng mặt trời, năng lượng từ
gió, năng lượng từ thuỷ triều)... Hiện nay, nguồn sản xuất điện năng lớn nhất ở nước
ta là thủy điện và nhiệt điện. Điện năng được sản xuất từ các dạng năng lượng khác
đòi hỏi kỹ thuật phức tạp nên chưa được ứng dụng rộng rãi trong đời sống.
Ngành công nghiệp sản xuất điện có một đặc điểm khác đặc trưng so với các
ngành công nghiệp khác là thành phẩm được sản xuất ra phải được tiêu thụ luôn.
Ngành công nghiệp điện không thể lưu kho, tích trữ, và không có phế phẩm. Các nhà
máy điện sau khi sản xuất điện, sẽ đưa điện hòa vào mạng lưới điện quốc gia, và từ
đó, điện đi theo hệ thống các đường dây tải điện và các trạm biến áp phân phối, đến
các hộ tiêu thụ. Hiện tại, thuỷ điện chiếm một tỷ trọng lớn trong sản lượng sản xuất
điện của nước ta. Tuy nhiên, sản lượng điện từ thuỷ điện lại phụ thuộc vào rất nhiều
yếu tố như thời tiết và thiên nhiên. Vào mùa khô, sông ngòi cạn nước dẫn đến việc
giảm sản lượng điện. Việc quy hoạch lưới điện chưa hợp lý, bố trí các nhà máy sản
xuất điện xa trung tâm tiêu thụ gây tổn thất điện năng lớn và ý thức của các hộ sử
dụng điện gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng điện năng. Do đó, rất dễ xảy ra tình
trạng lãng phí hoặc thiếu hụt điện năng.
Hệ thống kênh phân phối chính là hệ thống lưới điện đưa điện đến từng hộ
phụ tải, thông qua các đường dây truyền tải, các trạm biến áp cao thế, trung thế, hạ

thế. Khác với các ngành công nghiệp khác, ngành điện phải cung cấp sản phẩm đến
từng hộ phụ tải, các cá nhân tiêu dùng điện, chứ các khách hàng không thể đến tận
nơi, mua điện và mang về sử dụng được.
Ngành công nghiệp điện là một trong những ngành hiện nay vẫn được coi là
độc quyền của nhà nước do đặc thù ngành đòi hỏi một lượng vốn đầu tư rất lớn, thời
gian đầu tư kéo dài gây ngưng đọng vốn lớn. Quá trình thu hồi vốn diễn ra trong thời
gian dài. Để đảm bảo sản xuất điện tốt, cần có quy mô hoạt động lớn. Các doanh
nghiệp tư nhân khó có đủ tiềm lực tài chính cũng như nhân lực, ... để có thể tham gia
Nguyễn Thùy Dương – Lớp Kinh tế Phát triển A – Khoá 48 Trang 4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
vào ngành công nghiệp này. Lợi nhuận tài chính thấp, tuy nhiên việc cung cấp điện
mang lại lợi ích xã hội lớn. Do đó, cho đến hiện nay, nhà nước vẫn là nhà cung cấp
điện.
1.1.2. Vai trò của điện
Từ cách đây rất lâu, con người đã phát hiện ra trong thiên nhiên có một nguồn
năng lượng vô hình có sức mạnh rất lớn, đó chính là năng lượng điện. Từ đó, người
ta tìm cách để sản xuất, chế ngự và sử dụng nguồn năng lượng đó phục vụ sản xuất,
đời sống . Điện đã giúp chúng ta bước một bước tiến dài trong quá trình phát triển
của văn minh nhân loại. Ngày nay, điện đã chiếm một vai trò vô cùng quan trọng, là
nguồn động lực và nguồn năng lượng cho đời sống và sản xuất. Tính riêng trong một
hộ gia đình đã có từ 60- 70% vật dụng hoạt động phải dựa vào nguồn điện năng.
Có thể thấy, công nghiệp là ngành sản xuất ra một khối lượng của cải vật chất
rất lớn cho xã hội. Tuy nhiên, không có điện thì không thể có công nghiệp. Ngành
công nghiệp điện còn giúp thúc đẩy các ngành khác như nông nghiệp, thương mại,
dịch vụ, an ninh quốc phòng…. Điện giúp chạy các thiết bị máy móc… Không một
ngành nào lại không dùng đến điện. Điện được coi là một yếu tố đầu vào không thể
thay thế được.
Giả sử chúng ta không có điện, chúng ta phải quay về thắp sáng bằng dầu,
không có internet, không có các sản phẩm sản xuất từ các ngành công nghiệp khác…
Một trong những điều kiện đánh giá mức độ phát triển của một nước là tỷ lệ phần

trăm người dân nước đó được sử dụng điện. Điện góp phần phát triển nền kinh tế và
nâng cao trình độ văn minh của toàn xã hội.
Cải tạo kỹ thuật công nghiệp tức là đưa nền sản xuất nông nghiệp tiến dần tới
cơ khí hóa, điện khí hóa và hóa học hóa. Do đó điện khí hóa, cơ khí hóa càng được
đẩy mạnh thì trình độ văn hóa , tri thức khoa học của nông dân cũng theo đó mà tăng
không ngừng, khiến cho lao động có tính chất nông nghiệp chuyển dần sang công
nghiệp, tiêu diệt sự phân biệt công nhân – nông dân, thành thị - nông thôn. Từ đó
thay đổi bộ mặt nông thôn, cổ vũ lòng tin cho nông dân vào Đảng , chính quyền xây
dựng nông thôn mới hiện đại, văn minh và phát triển.
Qua những phân tích ở trên đã thấy rõ được vai trò của điện trong phát triển
kinh tế, như vậy rõ ràng là nhu cầu điện là cần thiết và phải được đáp ứng ở tất cả
mọi nơi. Tuy nhiên ở nước ta còn rất nhiều xã vẫn chưa có điện, lưới điện quốc gia
vẫn chưa thể đến được tất cả các xã để thúc đẩy nhanh quá trình này ta cần tìm hiểu
về hệ thống lưới điện và tìm ra hướng đi thích hợp cho vấn đề này.
Nguyễn Thùy Dương – Lớp Kinh tế Phát triển A – Khoá 48 Trang 5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.2. Phân loại các loại hệ thống lưới điện
Việc phân loại hiệu điện thế phụ thuộc vào ứng dụng cụ thể và quy ước của
từng quốc gia.
- Trong truyền tải điện công nghiệp ở Việt Nam, EVN quy ước:
o Nguồn điện lưới nhỏ hơn 1 kV là hạ thế.
o Từ 1kV đến 35 kV là trung thế.
o Lớn hơn hoặc bằng 110 kV là cao thế.
- Trong mục tiêu đồng bộ lưới điện đến năm 2010, tại Việt Nam sẽ có:
o Cao thế có 2 mức: 110 kV, 220 kV và 500 kV.
o Trung thế có 4 mức: 6kV, 10 kV, 15 kV, 22kV và 35 kV.
o Hạ thế có 1 mức: 0,4kV.
Mạng lưới điện cao thế hay còn gọi là hệ thống lưới điện truyền tải. Mạng
lưới điện trung thế và hạ thế là hệ thống lưới điện phân phối.
Nguồn điện- Trạm phát điện: Nguồn điện là thiết bị phát ra điện năng. Về

nguyên lý, nguồn điện là thiết bị biến đổi các dạng năng lượng như cơ năng, hóa
năng, nhiệt năng thành điện năng.
Phụ tải: Phụ tải là các thiết bị tiêu thụ điện năng và biến đổi điện năng thành
các dạng năng lượng khác như cơ năng, nhiệt năng, quang năng.
Dây dẫn: Dây dẫn làm bằng kim loại (đồng, nhôm, lưỡng kim) dùng để truyền
tải điện năng từ nguồn đến các hộ phụ tải, cũng chính là dẫn điện từ trạm phát điện
đến các nơi tiêu thụ.
1.2.1. Hệ thống lưới điện truyền tải
Thực tế, khoảng cách từ các trạm phát điện - nguồn điện đến nơi tiêu thụ điện
- tải thường cách nhau rất xa. Nếu sử dụng đường dây với điện áp thấp, thì sẽ dẫn đến
tình trạng tổn thất điện năng. Nếu điện áp được tăng cao thì dòng điện chạy trên
đường dây sẽ giảm, tiết diện dây dẫn chọn sẽ nhỏ, chi phí dây dẫn sẽ giảm, giảm tổn
thất công suất và tổn thất điện áp.
Do đó, để truyền tải điện năng đi xa mà ít tổn hao và tiết kiệm kim loại màu,
trên đường dây người ta phải dùng điện áp cao (110 kV, 220 kV, 500 kV và hơn
nữa). Đường dây truyền tải được xây dựng nhằm mục đích đưa điện từ các trạm phát
điện, các nhà máy điện đến các hộ tiêu thụ, từ nơi này đến nơi khác.
Tuy nhiên, các trạm phát điện chỉ có thể sản xuất ra điện năng có điện áp từ
3kV đến 6,3 kV, cần phải đưa điện áp lên. Đồng thời, tại các nơi tiêu thụ, phụ tải
thường yêu cầu điện áp thấp, từ 0,4 đến 6 kV, và do đó cũng lại cần phải hạ điện áp
xuống. Muốn tăng giảm điện áp như vậy, cần sử dụng đến các trạm biến áp. Để
Nguyễn Thùy Dương – Lớp Kinh tế Phát triển A – Khoá 48 Trang 6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
truyền tải được điện từ các nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ, để giảm các thất thoát,
thường thì cần qua từ ba đến bốn lần tăng và giảm áp. Máy biến áp dùng trong hệ
thống điện lực để truyển tải và phân phối điện năng gọi là máy biến áp điện lực.
Ngoài hệ thống đường dây và các trạm biến áp, hệ thống lưới điện truyền tải
còn có nhiều thiết bị khác như thiết bị đo lường, bảo vệ, thiết bị đóng cắt, điều khiển
và các phụ kiện khác.
Hình 1.1. Trạm biến áp truyền tải.

Hình 1.2: Đường dây truyền tải điện.
Nguyễn Thùy Dương – Lớp Kinh tế Phát triển A – Khoá 48 Trang 7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.2.2. Hệ thống lưới điện phân phối
Mục đích cuối cùng của việc sản xuất điện là đưa điện đến cho người tiêu
dùng. Hệ thống lưới điện phân phối điện của hệ thống điện giúp đưa điện năng trực
tiếp đến người tiêu dùng. Khác với hệ thống lưới điện truyền tải, lưới điện phân phối
có các đặc điểm về thiết kế phân bố trên diện rộng, thường vận hành không đối xứng
và có tổn thất lớn hơn.
Mạng lưới điện trung thế và hạ thế là hệ thống lưới điện phân phối có nhiều
cấp điện áp từ 6 kV, 10 kV, 15 kV, 22kV và 35 kV với điện trung thế và 0,4kV với
điện hạ thế. Hệ thống điện phân phối cũng có các trạm biến áp giúp hạ điện áp từ các
đường dây cao thế xuống và đưa vào các hộ tiêu dùng.
Điện sau khi sản xuất sẽ thông qua các trạm biến áp để nâng điện áp lên, đi
qua lưới điện truyền tải, qua dây dẫn rồi qua các trạm hạ thế xuống 0,4 kV rồi tiếp
tục theo các dây dẫn, dẫn điện từ các trạm hạ thế đến hộ tiêu dùng điện như nhà máy,
trường học, bệnh viện, cơ quan và nhà dân… Điện được sử dụng trong các ngành
công nghiệp khác như trong các nhà máy còn có những trạm biến áp riêng để thay đổi
điện áp phù hợp với mục đích sử dụng. Mạng điện phân phối thường là mạng điện
ba pha, bốn dây.
Thực tế hiện nay hệ thống lưới điện phân phối ở nước ta được xây dựng chắp
vá, tổn thất điện năng lớn, không đáp ứng được nhu cầu sử dụng điện ngày càng tăng
của người dân.
Hình 1.3: Trạm biến áp phân phối
Nguyễn Thùy Dương – Lớp Kinh tế Phát triển A – Khoá 48 Trang 8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hình 1. 4: Đường dây tải điện trung thế
1.2.3. Nội dung phát triển hệ thống lưới điện
* Về phát triển nguồn điện:
Đảm bảo thực hiện tiến độ xây dựng các nhà máy thủy điện có các lợi ích tổng

hợp như: phân lũ, chống lũ, tích nước, cấp nước, sản xuất điện; phát triển hợp lý có
hiệu quả các nguồn nhiệt điện khí; đẩy mạnh xây dựng nhiệt điện than; phát triển
thủy điện nhỏ, năng lượng mới và tái tạo cho các vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên
giới, hải đảo; chủ động trao đổi điện năng có hiệu quả với các nước trong khu vực;
đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và phát triển bền vững. Hoàn thành giai đoạn
chuẩn bị đầu tư Dự án nhà máy điện hạt nhân, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Phát triển đồng bộ nguồn và lưới điện theo hướng hiện đại. Phát triển thuỷ
điện, nhiệt điện than, nhiệt điện khí, điện nguyên tử..., kết hợp trao đổi, liên kết lưới
điện với các nước trong khu vực. Tổng công ty Điện lực Việt Nam chỉ đầu tư những
công trình phát điện có công suất từ 100 MW trở lên, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp khác đầu tư các công trình có công suất nhỏ hơn. Phát triển nhanh, đồng bộ,
hiện đại hệ thống truyền tải, phân phối nhằm nâng cao độ tin cậy, an toàn cung cấp
điện và giảm tổn thất điện năng.
* Về phát triển lưới điện:
Nguyễn Thùy Dương – Lớp Kinh tế Phát triển A – Khoá 48 Trang 9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phát triển lưới điện truyền tải và phân phối một cách đồng bộ với chương
trình phát triển nguồn điện. Thực hiện việc hiện đại hóa và từng bước ngầm hóa lưới
điện các thành phố, thị xã hạn chế tác động xấu đến cảnh quan, môi trường. Áp dụng
các biện pháp giảm tổn thất điện năng theo quy định.
Phát triển phù hợp các trung tâm điện lực ở các khu vực trong cả nước nhằm
đảm bảo tin cậy cung cấp điện tại chỗ và giảm tổn thất kỹ thuật trên hệ thống điện
quốc gia cũng như đảm bảo tính kinh tế của các dự án, góp phần phát triển kinh tế -
xã hội cho từng vùng và cả nước.
Phát triển nhanh hệ thống truyền tải 220, 500 kV nhằm nâng cao độ tin cậy
cung cấp điện và giảm tổn thất điện năng trên lưới truyền tải, bảo đảm khai thác kinh
tế các nguồn điện; phát triển lưới 110 kV thành lưới điện phân phối cung cấp trực
tiếp cho phụ tải.
Nghiên cứu giảm bớt cấp điện áp trung thế của lưới điện phân phối. Nhanh
chóng mở rộng lưới điện phân phối đến vùng sâu, vùng xa. Tập trung đầu tư cải tạo

lưới điện phân phối để giảm tổn thất điện năng, giảm sự cố và nâng cao độ tin cậy
cung cấp điện.
Đáp ứng đầy đủ nhu cầu điện cho phát triển kinh tế - xã hội. Phấn đấu đến
năm 2005 đạt sản lượng khoảng 53 tỷ kWh; năm 2010 đạt sản lượng từ khoảng 88
đến 93 tỷ kWh và năm 2020 đạt sản lượng từ 201 đến 250 tỷ kWh.
* Về vốn:
Nhà nước có các cơ chế tài chính thích hợp để Tổng công ty Điện lực Việt
Nam đảm bảo được vai trò chủ đạo trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển của
ngành điện Việt Nam.
Bên cạnh đó, tiếp tục triển khai một số công trình đầu tư theo hình thức xây
dựng - kinh doanh - chuyển giao, liên doanh để thu hút thêm nguồn vốn đầu tư, đồng
thời tăng khả năng trả nợ cho Tổng công ty Điện lực Việt Nam.
Xây dựng các biện pháp huy động vốn trong dân để đầu tư phát triển điện.
* Năng lượng mới và tái tạo:
Khai thác năng lượng mới và năng lượng tái tạo theo định hướng chiến lược
phát triển ngành điện và chiến lược phát triển năng lượng mới và tái tạo quốc gia,
nhằm đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu điện cho phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo
ổn định chính trị và an ninh vùng biên giới phía Bắc, đồng thời cải thiện đời sống
nhân dân, cán bộ và chiến sỹ biên phòng.
Tập trung khai thác tiền năng thủy điện nhỏ có thể nối lưới quốc gia. Lựa chọn
khai thác một các hợp lý năng lượng mới và tái tạo để cấp hỗ trợ hoặc cấp điện độc
lập tại các địa bàn xa lưới hoặc địa hình phức tạp.
Nguyễn Thùy Dương – Lớp Kinh tế Phát triển A – Khoá 48 Trang 10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nhà nước cấp kinh phí các dự án cấp điện từ năng lượng mới và tái tọa cho
các khu vực dân cư tại các xã, thôn, bản… đặc biệt khó khăn, dự án định canh định
cư mà lưới điện không thể kéo đến được. Nhà nước hỗ trợ thông qua các chính sách
khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanh, chuyển giao
công nghệ trong lĩnh vực năng lượng mới và tái tạo để nhanh chóng nâng cao tỷ lệ sử
dụng năng lượng mới và tái tạo trên địa bàn.

* Mục tiêu phát triển hệ thống lưới điện:
- Đẩy nhanh chương trình đưa điện về nông thôn, miền núi, phấn đấu đến
năm 2010 đạt 90% số hộ dân nông thôn có điện, đến năm 2020 đạt 100% số hộ dân
nông thôn có điện.
- Đảm bảo cân bằng tài chính bền vững.
- Đa dạng hoá phương thức đầu tư phát triển ngành và chuẩn bị các phương án
nhập khẩu điện của các nước Lào, Campuchia và Trung Quốc.
- Đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ trình độ chuyên môn và tinh thần trách nhiệm
cao để đáp ứng yêu cầu phát triển ngày càng cao của ngành Điện.
- Thực hiện cơ chế hoạt động đa dạng hoá sản phẩm, bao gồm nhiều Công ty
có tư cách pháp nhân theo mô hình Liên kết tài chính - Công nghiệp - Thương mại -
Dịch vụ - Tư vấn.
- Kiểm soát và giảm nhẹ ô nhiễm môi trường trong các hoạt động điện lực.
Mục tiêu chính và quan trọng nhất của các dự án phát triển hệ thống lưới điện
là để đưa điện đến cho các xã vùng sâu vùng xa, các xã đặc biệt khó khăn. Các dự án
như dự án ADB, dự án năng lượng nông thôn (RE I và RE II) đều nhằm mục tiêu cải
tạo và xây dựng lưới điện trung thế và lưới điện hạ thế 0,4 kV đến những nơi chưa
có điện, ở những nơi có nhu cầu sử dụng điện tăng nhanh nhằm tăng cường năng lực
của lưới phân phối, đáp ứng nhu cầu phát triển phụ tải và đảm bảo chất lượng cung
cấp điện.
Đến năm 2015, phấn đấu khai thác năng lượng từ các dạng năng lượng mới và
tái tạo tương đương 7,1 triệu MWh.năm. Trong đó cấp điện ngoài lưới đạt 96 ngàn
MWh.năm, cấp năng lượng dưới dạng khác tương đương 20 ngàn MWh.năm. Đến
năm 2025, nâng khả năng khai thác năng lượng từ dạng năng lượng mới và tái tạo
tương đương 10 triệu MWh.năm. Điện năng lượng mới và tái tạo được khai thác có
thể đáp ứng khoảng 35% tổng nhu cầu điện dự báo cho vùng, 20% số hộ nông thôn
sử dụng điện năng lượng tái tạo.
90% hộ dân nông thôn được hưởng điện lưới quốc gia là mục tiêu đến năm
2011 của Dự án Năng lượng nông thôn II (RE II). Đây là dự án kế tục của Dự án
Năng lượng nông thôn I.

Nguyễn Thùy Dương – Lớp Kinh tế Phát triển A – Khoá 48 Trang 11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
* Khối lượng lưới điện phân phối:
Khối lượng lưới điện phân phối dự kiến xây dựng đến năm 2020 sẽ bao gồm
hơn 120.000 km đường dây trung áp, trạm phân phối dung lượng gần 85.000 MVA
và gần 93.000 km đường dây hạ áp. Khối lượng dự kiến cải tạo và xây dựng sẽ
tương đương với khối lượng lưới phân phối hiện hữu.
Nhà nước chủ trương tiếp tục thực hiện các chương trình đầu tư phát triển
điện nông thôn đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, phấn đấu đến năm 2010 có
95% và năm 2015 có 100% các xã có điện.
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc phát triển hệ thống lưới điện đến xã
đặc biệt khó khăn.
1.3.1. Các xã đặc biệt khó khăn và những đặc điểm.
1.3.1.1. Tiêu chí xác định các thôn, xã đặc biệt khó khăn.
(Thôn được xác định theo Quyết định số 13/2002/QĐ-BNN ngày 06/12/2002
của Bộ Nội Vụ ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của thôn, tổ dân phố).
Thôn đặc biệt khó khăn là thôn còn tồn tại cả 3 tiêu chí sau:
Tiêu chí 1: Về đời sống và xã hội:
Thôn đó có tỷ lệ hộ nghèo từ 70% trở lên. Và bên cạnh đó, còn tồn tại ít nhất 3
trong 4 chỉ tiêu. Cụ thể là trên 25% số hộ có nhà ở còn tạm bợ, tranh, tre, nứa lá.; trên
10% số hộ còn du canh du cư hoặc định cư du canh; trên 50% số hộ thiếu nước sinh
hoạt; hoặc trên 50% số hộ chưa có điện sinh hoạt.
Tiêu chí 2: Về điều kiện sản xuất:
Thôn được xét còn tồn tại ít nhất 2 trong 3 chỉ tiêu. Cụ thể là trên 20% số hộ
thiếu đất sản xuất theo mức bình quân quy định của địa phương. Trên 50% diện tích
canh tác cây hàng năm của các hộ gia đình trong thôn chưa có hệ thống thuỷ lợi. Tập
quán sản xuất còn lạc hậu, chưa có cộng tác viên khuyến nông, khuyến lâm, khuyến
ngư, chưa phát triển sản xuất hàng hoá.
Tiêu chí 3: Về điều kiện kết cấu hạ tầng:
Trong thôn, chưa có đường giao thông nông thôn loại B từ thôn đến trung tâm

xã.
Và đồng thời, thôn còn tồn tại ít nhất 2/3 chỉ tiêu: Chưa đủ phòng học cho các
lớp tiểu học hoặc có nhưng còn tạm bợ. Chưa có hệ thống truyền thanh từ xã đến
thôn. Chưa có nhà văn hoá thôn phục vụ sinh hoạt cộng đồng.
1.3.1.2. Tiêu chí phân định khu vực
Các thôn, xã, bản được chia thành 3 khu vực. Khu vực loại III là nghèo nhất,
sau đó đến khu vực loại II, và cuối cùng là loại I.
* Các xã khu vực III:
Nguyễn Thùy Dương – Lớp Kinh tế Phát triển A – Khoá 48 Trang 12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Các xã khu vực III có từ 1/3 số thôn đặc biệt khó khăn trở lên, hoặc có tỷ lệ hộ
nghèo từ 55% trở lên. Các xã đó có công trình kết cấu hạ tầng thiết yếu, thiếu hoặc có
nhưng còn tạm bợ từ 6/10 loại công trình kết cấu hạ tầng thiết yếu trở lên. Xét về các
yếu tố xã hội, các xã đó có ít nhất 3 trong 4 yếu tố sau:
+ Chưa đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
+ Chưa đủ điều kiện khám chữa bệnh thông thường. Trên 50% số thôn
chưa có y tế thôn.
+ Trên 50% số hộ chưa được hưởng thụ và tiếp cận với hệ thống thông
tin đại chúng.
+ Trên 50% cán bộ trong hệ thống chính trị cơ sở chưa có trình độ từ
sơ cấp trở lên.
Bên cạnh đó, điều kiện sản xuất của xã rất khó khăn, tập quán sản xuất lạc
hậu, còn mang nặng tính tự cấp, tự túc, chưa phát triển sản xuất hàng hoá. Địa bàn cư
trú thuộc địa bàn Vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, điều kiện địa hình chia
cắt hoặc ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo nhưng không thuộc địa bàn các thành
phố, thị xã, thị trấn, trung tâm huyện lỵ, các khu công nghiệp, các cửa khẩu phát
triển.
* Xã thuộc khu vực II:
Các xã thuộc khu vực II không có hoặc có dưới 1/3 số thôn đặc biệt khó khăn.
Các xã có tỷ lệ hộ nghèo từ 30% đến dưới 55%.

Kết cấu hạ tầng thiết yếu của xã thiếu hoặc có nhưng còn tạm bợ từ 3/10 loại
công trình KCHT thiết yếu trở lên.
Xét về các yếu tố xã hội thì xã có ít nhất 3 trong 4 yếu tố sau:
+ Chưa đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
+ Từ 10 đến 50% số thôn chưa có y tế thôn nhưng đã cơ bản đảm bảo
các điều kiện khám chữa bệnh thông thường.
+ Trên 80% số hộ thường xuyên được hưởng thụ và tiếp cận với hệ
thống thông tin đại chúng.
+ Từ 30% cán bộ trong hệ thống chính trị cơ sở chưa có trình độ từ sơ
cấp trở lên.
Ngoài ra. Điều kiện sản xuất của xã đã bắt đầu hình thành các vùng sản xuất
hàng hoá, hầu hết đồng bào đã áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Đã có hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư đến thôn.
Đây là các xã liền kề hoặc thuộc các thành phố, thị xã, thị trấn, các khu công
nghiệp, các trung tâm huyện lỵ, cửa khẩu phát triển, các xã có điều kiện tự nhiên và
kinh tế - xã hội thuận lợi cho phát triển sản xuất và đời sống.
Nguyễn Thùy Dương – Lớp Kinh tế Phát triển A – Khoá 48 Trang 13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
* Xã thuộc khu vực I là xã:
Đây là các xã không có thôn đặc biệt khó khăn. Tỷ lệ hộ nghèo dưới 30%.
Kết cấu hạ tầng đã hình thành và đáp ứng cơ bản các yêu cầu cấp thiết, phục vụ tốt
điều kiện sản xuất vào đời sống của đồng bào.
Đánh giá các yếu tố xã hội: Có ít nhất 3 trong 4 yếu tố sau:
+ Đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
+ 100% số thôn đã có y tế thôn và đảm bảo các điều kiện khám chữa
bệnh thông thường.
+ 100% số hộ thường xuyên được hưởng thụ và tiếp cận với hệ thống
thông tin đại chúng;
+ Trên 70% cán bộ trong hệ thống chính trị cơ sở có trình độ từ sơ cấp
trở lên.

Bên cạnh đó, đã hình thành các vùng sản xuất hàng hoá, tiếp cận được với nền
kinh tế thị trường. Đây là các xã liền kề hoặc thuộc địa bàn của thành phố, thị xã, thị
trấn, các khu công nghiệp, các trung tâm huyện lỵ, các cửa khẩu phát triển hoặc thuộc
địa bàn có điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội thuận lợi cho phát triển sản xuất và
đời sống.
1.3.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc phát triển hệ thống lưới điện
1.3.2.1. Những nhân tố khách quan:
a) Điều kiện tự nhiên:
Nguyên nhân cốt yếu và khó khăn nhất là do các xã, thôn bản vùng sâu vùng
xa có địa hình phức tạp, hiểm trở, bị chia cắt bởi các dãy núi, rừng rậm, đèo dốc…
Địa hình đã vô cùng phức tạp như vậy, thêm vào đó, dân cư trong vùng lại phân bố
rộng, nhiều vùng vẫn còn giữ tập tục du canh du cư, không sống tập trung tại một khu
vực nào cả. Thêm vào đó là giao thông đi lại rất khó khăn. Để đến được nhà một
người dân, có thể phải đi bộ từ hai đến ba ngày đường. Sản lượng điện tiêu thụ thấp.
Điều đó dẫn đến muốn đưa điện được đến cho bà con, các công ty điện gặp khó khăn
rất lớn trong việc xây dựng các nhà máy điện, các trạm biến áp và hệ thống lưới điện
phân phối. Giá chi phí xây dựng công trình rất cao, rất khó khăn để vận chuyển
nguyên vật liệu, thời gian thi công lại kéo dài, địa hình đồi núi, sông suối, rừng rú
hiểm trở nên gặp rất nhiều khó khăn trong sinh hoạt và điều kiện thi công các công
trình cấp điện, các đơn vị thi công phải san lấp, tạo đường đi để đưa các nguyên vật
liệu, vật tư, thiết bị đến địa điểm thi công. Một số tính toán cho thấy nhiều thôn, bản
xa xôi, định mức đầu tư công trình điện lên tới hơn 20 triệu đồng/hộ. Thêm vào đó là
rất khó để duy tu bảo dưỡng khi có hỏng hóc hoặc sự cố. Các hộ dân nếu muốn có
Nguyễn Thùy Dương – Lớp Kinh tế Phát triển A – Khoá 48 Trang 14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
điện thường tự kéo điện từ các trạm biến áp về để sử dụng, nhưng chất lượng điện
kém, tổn thất điện năng lớn, chi phí chi trả cao.
b) Kỹ thuật công nghệ:
Trình độ kỹ thuật công nghệ ở nước ta còn rất yếu kém so với thế giới. Để
xây dựng được một kilomet đường dây từ dưới xuôi lên các khu vực vùng núi cao, do

trình độ kỹ thuật yếu kém, nên mất nhiều công sức và tiền của hơn rất nhiều.
Khoa học công nghệ luôn luôn chiếm hàng đầu trong việc thúc đẩy quá trình
triển khai hệ thống lưới điện, do vậy mà khi công nghệ càng cao thì chất lượng điện
được truyền tải càng tốt, đi kèm với nó là dịch vụ điện cũng được tăng cường và sẽ
giảm được thời gian điện bị ngắt đột ngột… Ngoài ra quá trình lắp đặt lưới điện mới
cũng nhận được sự hỗ trợ tốt nhất, giúp cho các dự án được triển khai nhanh đúng
tiến độ, đảm bảo điện cho quá trình phát triển nhanh chóng của đất nước.
Chất lượng điện sản xuất trong nước chưa cao, không ổn định. Tình trạng thất
thoát, tổn thất điện trên đường dây rất lớn.
1.3.2.2. Những nhân tố chủ quan
a) Trình độ quản lý
Mặc dù đồng bào dân tộc thiểu số đang rất khát điện, song đề án điện nông
thôn còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu về tiến độ. Rất nhiều xã được đầu tư chưa hoàn
thành phần kiểm định công tơ và đầu tư công trình bằng nguồn vốn nhân dân đóng
góp.
Các dự án được nhà nước cấp kinh phí thực hiện nên sinh ra tâm lý ỷ lại, làm
quấy quá, chất lượng tư vấn lập dự án và thiết kế kỹ thuật còn thấp, công trình chậm
tiến độ. Nhiều nơi còn xảy ra tình trạng bòn rút tiền, vật tư làm giàu túi riêng. Các
đơn vị tư vấn, Ban quản lý dự án chưa phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương
từ khâu khảo sát lập dự án, thiết kế kỹ thuật và giám sát thi công. Trình độ dân trí
của người dân và cán bộ địa phương còn thấp nên việc đền bù, giải phóng mặt bằng
gặp khó khăn, tăng chi phí đầu tư, kéo dài thời gian thi công. Các dự án đều chưa tận
dụng triệt để vật tư thiết bị trên lưới điện hiện có, dẫn đến vốn đầu tư cho dự án còn
cao.
Công tác quản lý bán điện đến hộ dân thực chất nhiều nơi vẫn là hình thức cai
thầu. Điện nông thôn trước khi có Thông tư 05 của Bộ Công Thương phần nhiều do
các cai thầu (HTX dịch vụ hoặc tư nhân) đứng ra thầu điện rồi bán lại cho người dân.
Để có thể được ký hợp đồng mua bán điện với Ngành điện, nhiều hợp tác xã đã được
thành lập. Tuy nhiên họ chỉ có đủ tư cách pháp nhân để cung cấp điện, họ chỉ khai
thác lưới điện hiện có còn việc đầu tư để cải tạo, nâng cấp lưới điện thì hoàn toàn

không có.
Nguyễn Thùy Dương – Lớp Kinh tế Phát triển A – Khoá 48 Trang 15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ngành điện lực Việt Nam hoạt động dưới sự quản lý của tổng tập đoàn điện
lưc EVN, dưới sự kiểm soát của bộ công thương và định hướng của chính phủ.Trong
quá trình phát triển hệ thống lưới điện ngành dựa trên định hướng của chính phủ
thông qua Quy hoạch tổng thể ngành điện, từ đó đầu tư nâng cấp sửa chữa cũng như
xây mới các hệ thống đường dây điện đưa điện tới các xã, các khu công nghiệp , khu
dân cư trong cả nước.
Việc hạch toán giá điện vẫn chưa có công tư, văn bản nào hướng dẫn, dẫn đến
tình trạng cả người nộp tiền điện và người thu tiền điện đều lúng túng. Nhiều cai
thầu đã lợi dụng tình trạng đó thực hiện bán giá điện theo giá bậc thang cho người
dân. Nhiều HTX chỉ bán điện trực tiếp đến các hộ dân bám trên các đường trục chính
của lưới điện, khu vực dân ở xa đường trục điện chính.
b) Trình độ dân trí
Các xã vùng sâu vùng xa đa phần là người dân tộc thiểu số sinh sống.
Tỷ lệ mù chữ của bà con dân tộc thiểu số rất cao. Có nhiều nơi, người dân còn
không biết tiếng kinh. Tỷ lệ biết chữ tính theo vùng thì Tây Bắc là vùng có tỷ lệ mù
chữ cao nhất. Theo báo cáo của World Bank, thì có một sự chênh lệch nhất định đối
với việc đi học của trẻ em của các nhóm dân tộc so với người kinh. Đối với các nhóm
dân tộc thiểu số, việc chương trình giáo dục không được dạy bằng tiếng mẹ đẻ, cộng
thêm giao thông đi lại khó khăn, là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trẻ em dù
đã được đi học, nhưng tỷ lệ bỏ học rất lớn.
Người dân vẫn còn giữ nhiều tập quán cổ hủ. Nhiều nơi họ không cho con cái
được đến trường. Tục tảo hôn vẫn còn duy trì. Nặng nề nhất là tư tưởng trọng nam
kinh nữ. Bên cạnh đó, mặc dù nghề nông là nghề chủ đạo, song cây trồng lại là ngô
và lúa địa phương cho năng suất rất thấp.
c) Năng lực tài chính
Đi kèm với trình độ dân trí thấp là cái nghèo dai dẳng đeo bám đồng bào dân
tộc thiểu số từ xưa đến nay. Mức thu nhập bình quân đầu người thấp nhất cả nước.

Ở nhiều xã hiện nay, hoạt động kinh tế chủ yếu vẫn là làm nương phát rẫy.
Nông cụ chủ yếu là rìu, dao quắm, gậy chỉa… Có một số nơi đã sử bắt đầu sử dụng
trâu bò lấy sức kéo.
Lúa nương là nguồn lương thực chủ lực. Bên cạnh đó, người dân còn trồng
xen các loại hoa màu khác như ngô, khoai, sắn… Cây ăn quả chủ yếu là các loại cây
phù hợp với địa hình núi cao, thời tiết lạnh như chuối, mít,...
Nguyễn Thùy Dương – Lớp Kinh tế Phát triển A – Khoá 48 Trang 16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Rừng là nguồn cung cấp thực phẩm và mang lại nguồn thu nhập quan trọng
như khai thác gỗ, trồng rừng, khai thác các nguồn lâm sản như măng, thịt thú rừng…)
Chăn nuôi chủ yếu là lợn, bò, dê…
Sự phát triển kinh tế có sự chênh lệch rất lớn giữa các vùng, giữa các nhóm
dân tộc, và ngay trong cùng một nhóm dân tộc. Cộng đồng dân cư nào sống gần các
đường giao thông hơn ở những vùng thấp thì sẽ có sự phát triển kinh tế cũng như
thay đổi phương thức sản xuất, giúp cải thiện điều kiện sống tốt hơn.
1.4. Sự cần thiết phải phát triển hệ thống lưới điện và đưa điện về cho các xã
đặc biệt khó khăn vùng Trung Du và Miền núi phía Bắc
1.4.1. Phát triển lưới điện để thúc đẩy phát triên kinh tế- xã hội, xóa đói
giảm nghèo
Tình trạng đói nghèo kéo dài dai dẳng đối với cộng đồng miền núi và vùng
biệt lập có mối liên hệ chặt chẽ với sự thiếu phát triển về cơ sở hạ tầng gồm cả tình
trạng thiếu điện. Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2006 - 2010 của Chính phủ
đặc biệt nhấn mạnh tới điều khoản cơ sở hạ tầng ở nông thôn. Tỷ lệ hộ gia đình sử
dụng điện đã tăng 15% trong năm 1996 lên 91% năm 2007, trong đó tỷ lệ sử dụng
điện ở các tỉnh Lai Châu, Điện Biên lần lượt là 36%, 56%. Mức tiêu thụ đầu người
và mật độ dân số thấp trong những vùng xa xôi hẻo lánh làm việc mở rộng lưới điện
để cung cấp điện cho các cộng đồng dân cư vô cùng khó khăn, tạo sự không cân đối
cuối cùng đối với việc sử dụng điện.
Các dân tộc thiểu số chiếm phần lớn tại các tỉnh Lai Châu: 88% và Điện Biên: 80%
(so với dân số trong tỉnh) .Tuy nhiên con số này cao hơn một cách đáng kể đối với những xã

vùng sâu, vùng xa trong tỉnh. Sự phát triển nhanh về kinh tế - xã hội nhằm mục đích chung
dẫn đến xoá đói giảm nghèo và cải thiện mức sống trong nước đã diễn ra ở nhiều khu vực.
Đa số các hộ gia đình sống trong tình trạng đói nghèo triền miên với mức sống rất thấp và
thiếu các giải pháp để tạo thu nhập ổn định phát triển bền vững. Trong đó ‘ánh sáng’ điện là
một trong những điều kiện tiên quyết, quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội tại các
xã dân tộc thiểu số ở miền núi xa xôi hẻo lánh. Rất nhiều dự án đã tập trung đặc biệt vào
việc xoá đói giảm nghèo và chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt tại hai
tỉnh Lai Châu, Điện Biên và cũng như 6 tỉnh còn lại là Lạng Sơn, Phú Thọ, Sơn La, Lào Cai,
Yên Bái, Tuyên Quang.
Nguyễn Thùy Dương – Lớp Kinh tế Phát triển A – Khoá 48 Trang 17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.4.2. Phát triển lưới điện đảm bảo công bằng xã hội
Công bằng xã hội là mục tiêu cốt lõi của chính sách xã hội, nhằm hướng tới ổn
định xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng mọi mặt của đời sống nhân dân và sự
phát triển bền vững của đất nước.
Điều kiện xã hội cụ thể của nước ta hiện nay đang mở ra những khả năng cho
các cá nhân, các tầng lớp xã hội phát huy năng lực và nguồn lực để vừa mưu cầu lợi
ích của mình, vừa tạo nên sức mạnh chung của cộng đồng dân giàu, nước mạnh, đưa
đất nước từng bước tiến tới trình độ hiện đại văn minh.
Tỷ lệ người dân sử dụng điện trong một nước là một trong những chỉ tiêu để
đánh giá mức độ phát triển của nước đó. Vậy mà ở nước ta hiện nay, vẫn còn rất
nhiều người dân, đặc biệt là bà con dân tộc thiểu số, vẫn chưa có điện.
Đối với bà con người dân tộc thiểu số sống ở những vùng sâu vùng xa, mong
ước có điện đã có từ bao năm nay. Do địa hình hiểm trở, cách núi ngăn sông mà cho
đến tận bây giờ, khi điện đã vô cùng phổ biến trong đời sống của người kinh, thì bà
con dân tộc thiểu số vẫn phải dùng đèn dầu để thắp sáng. Họ chưa từng được nhìn
thấy cái ti vi, cái đèn điện. Đây chính là một bất công bằng trong xã hội, và được xếp
vào loại bất công tự nhiên. Tính từ "tự nhiên" ở đây bao hàm cả những khả năng,
những năng lực khác nhau về mặt tự nhiên (có những nguồn gốc sinh học chẳng hạn)
cũng như những khác biệt về trình độ phát triển do lịch sử lâu đời để lại và ở đây

chính là sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa miền núi và miền xuôi. Đối
với loại bất công này, hướng lâu dài là dựa trên sự phát triển ngày càng cao của xã
hội để thu hẹp dần khoảng cách, và trước mắt, cố gắng đến mức tối đa để bù đắp
những thiệt thòi do những bất công này gây ra, không để trở thành những căng thẳng
xã hội và xung đột có hại cho sự phát triển chung
Thiếu điện là rào cản lớn trong việc đưa khoa học công nghệ đến với người
dân. Có điện, đời sống văn hoá tinh thần, vật chất của người dân mới được nâng lên,
sẽ giúp cho bà con các dân tộc xóa đói, giảm nghèo và làm giàu trên chính mảnh đất
của mình.
Để đạt mục tiêu giảm nghèo, điện khí hóa nông thôn là một phần quan trọng
trong chương trình của Chính phủ nhằm xóa đói giảm nghèo, giải quyết vấn đề phát
triển không đồng đều và tăng phúc lợi xã hội thông qua nguồn chiếu sáng tin cậy, cải
thiện điều kiện sống, sức khỏe và các dịch vụ khác tốt hơn cho vùng nông thôn, đồng
thời là điều kiện tối cần thiết để thực hiện chiến lược CNH - HĐH nông nghiệp nông
thôn. Đưa điện về cho các xã vùng sâu vùng xa, đặc biệt khó khăn sẽ góp phần giúp
người dân tiếp cận được với các khoa học công nghệ tiên tiến hơn. Đời sống của
người dân do đó sẽ tốt hơn, giúp giảm khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng. Có thể
nói, điện góp phần thực hiện công bằng xã hội.
Nguyễn Thùy Dương – Lớp Kinh tế Phát triển A – Khoá 48 Trang 18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.4.3. Phát triển lưới điện giúp đảm bảo trật tự an ninh quốc gia, xã hội
Nội dung của an ninh quốc gia bao gồm hai bộ phận. Phần thứ nhất là về độc
lập thống nhất chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ. Bộ phận thứ hai là an ninh thể chế, là
đảm bảo một thể chế chính trị ổn định, một xã hội bình yên. Sự phát triển của khoa
học công nghệ tác động đến toàn cầu hóa và toàn cầu hóa tác động trở lại phát triển
khoa học công nghệ. Đây là hai nhân tố quan trọng bậc nhất làm cho biên giới trở nên
mềm hơn.
Xét về phạm trù vĩ mô, đưa điện về cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng sâu
vùng xa, giúp người dân nâng cao mức sống còn giúp ổn định nền chính trị trong
nước, thể hiện đường lối chính sách đúng đắn của Đảng và nhà nước ta.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HỆ THỐNG LƯỚI ĐIỆN Ở
CÁC XÃ ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN VÙNG TRUNG DU VÀ
MIỀN NÚI PHÍA BẮC
2.1. Tổng quan về các xã đặc biệt khó khăn vùng Trung Du và miền núi phía
Bắc
2.1.1. Tổng quan về các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc
2.1.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Vùng trung du miền núi phía Bắc có diện tích rộng lớn (102,9 nghìn km
2
)
chiếm trên 30% diện tích cả nước. Đây là vùng có địa bàn vô cùng quan trọng cả về
kinh tế- xã hội cũng như môi trường và an ninh quốc phòng. Vùng miền núi phía Bắc
Việt Nam bao gồm 15 tỉnh (Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Bắc Kạn, Lạng Sơn,
Tuyên Quang, Yên Bái, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Quảng Ninh, Lai Châu,
Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình). Vùng này có vị trí địa lý đặc biệt, giáp với Thượng
Lào và Trung Quốc, có thể giao lưu thuận lợi bằng đường sắt và đường ô tô với các
tỉnh phía Nam Trung Quốc qua cửa khẩu Lạng Sơn, Lào Cai, và Móng Cái, Cao
Bằng, Hà Giang, Lai Châu.
Đây là vùng miền núi và trung du bao gồm nhiều dãy núi, khối núi, cao
nguyên và đồi. Những đợt gió mùa đông bắc dễ dàng vượt qua các vành đồi núi thấp,
nhưng bị chặn lại ở phía Đông Bắc của dãy Hoàng Liên Sơn, do đó ở đây có nền
nhiệt độ thấp nhất cả nước.
Xét về khoáng sản, thì đây lại là khu vực có nhiều khoáng sản nhất cả nước.
Đây là khu vực có nhiều khoảng rừng nguyên sinh với đa dạng sinh vật học, có nhiều
loại gỗ quý và nhiều loài sinh vật quý hiếm nằm trong sách đỏ cần bảo vệ. Vùng cũng
có tiềm năng tương đối lớn về thủy điện.
Nguyễn Thùy Dương – Lớp Kinh tế Phát triển A – Khoá 48 Trang 19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Vùng năm trong đới gió mùa. Mỗi năm có bốn mùa, nhưng rõ rệt nhất là mùa
hè và mùa đông. Đây là vùng có sông ngòi chằng chịt. Có nhiều con sông lớn như

sông Hồng, sông Chảy, sông Lô, sông Kỳ Cùng… Địa hình phức tạp, có độ dốc lớn,
núi cao, rất ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp và bảo vệ nguồn nước đầu nguồn.
Có thể nói, điều kiện tự nhiên của vùng trung du và miền núi phía Bắc khá
khắc nghiệt, tuy nhiên cũng có nhiều ưu đãi. Khí hậu và địa hình đa dạng giúp nguồn
tài nguyên thiên nhiên đa dạng, phong phú. Vùng có tiềm năng về đất đai để phát
triển các cây công nghiệp, nông sản phục vụ cho ngành công nghiệp chế biến… Có
tài nguyên khoáng sản, nhiều loại đã và đang trở thành thế mạnh của địa phương.
2.1.1.2. Đặc điểm dân tộc
Trong vùng có 43 dân tộc anh em cùng chung sống, dân số trên 11 triệu người,
chiếm 28,8% diện tích với dân số chiếm 14,3% tổng dân số cả nước, trong đó dân tộc
thiểu số chiếm hơn 50%.
Dân số giữa các dân tộc không đều nhau, có dân tộc có số dân trên một triệu
người như Tày, Thái… Nhưng cũng có dân tộc chỉ có vài trăm người như Pu Péo,
Rơ- măm, Brâu… Các dân tộc thiểu số đông dân nhất là Tày, Thái, Mường, Hoa,
Nùng, Hmông, Dao, Sán Dìu… Đa số các dân tộc này sống ở miền núi và vùng sâu
vùng xa ở miền Bắc. Người Mường sống chủ yếu ở vùng đồi núi phía Tây đồng bằng
sông Hồng, tập trung ở Hòa Bình và Thanh Hóa. Người Thái định cư ở bờ phải sông
Hồng (Sơn La, Lai Châu). Người Tày sống ở bờ trái sông Hồng (Cao Bằng, Bắc Kạn,
Tuyên Quang, Lạng Sơn, Thái Nguyên). Các nhóm dân tộc thiểu số khác không có
các lãnh thổ riêng biệt, nhiều nhóm sống hòa trộn với nhau.
Mỗi dân tộc đều có phong tục tập quán, ngôn ngữ, văn hóa tinh thần… riêng,
tạo ra một nền văn hóa đa dạng, giàu bản sắc dân tộc. Theo ngôn ngữ văn hóa, các
dân tộc Việt Nam được xếp vào 8 nhóm ngôn ngữ tộc người khác nhau. Các dân tộc
thiểu số vùng núi phía Bắc có tập quán làm ruộng bậc thang.
Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam còn có đời sống kinh tế chậm phát triển hơn
so với nhóm người Kinh và giữa các nhóm dân tộc thiểu số cũng có sự khác biệt
trong trình độ phát triển kinh tế. Tỷ lệ nghèo đói cao nhất là vùng Tây Bắc của Việt
Nam, tốc độ giảm nghèo của vùng cũng là chậm nhất. Theo số liệu phân bố nghèo
đói, bắc Trung Bộ là nơi có nhiều người nghèo nhất. Báo cáo cũng cho rằng vị trí địa
lý ảnh hưởng đến sự thay đổi về tình trạng nghèo của các hộ gia đình.

2.1.1.3. Đặc điểm kinh tế xã hội
Mặc dù tốc độ phát triển kinh tế xã hội của toàn vùng là toàn diện, nhanh và
đáng kể, tuy nhiên so với cả nước thì vùng miền núi và trung du phía Bắc, nhất là
Nguyễn Thùy Dương – Lớp Kinh tế Phát triển A – Khoá 48 Trang 20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
vùng Tây Bắc (gồm các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa
Bình, Yên Bái và phía Tây tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An) còn nghèo so với cả nước.
Khoảng cách nghèo của các dân tộc thiểu số so với nhóm người Kinh và
người Hoa cũng đang có xu hướng ngày càng giãn rộng. Nhóm đồng bào các dân tộc
thiểu số khác có tốc độ giảm nghèo chậm hơn so với nhóm người Kinh và người Hoa,
ngay cả khi họ sống cùng một địa bàn nhỏ như trong một xã.
Bảng 2.1: Tỷ lệ nghèo chung chia theo vùng tính theo chi tiêu
Vùng 2002 2004 2006 2008
Đồng bằng sông Hồng 22,4% 12,1% 8,8% 6,4%
Đông Bắc 38,4% 29,4% 25,0% 23,3%
Tây Bắc 68,0% 58,6% 49,0% 45,2%
Bắc Trung Bộ 43,9% 31,9% 29,1% 24,6%
Duyên hải Nam Trung Bộ 25,2% 19,0% 12,6% 10,3%
Tây Nguyên 51,8% 33,1% 28,6% 23,1%
Đông Nam Bộ 10,6% 5,4% 5,8% 4,9%
Đồng bằng sông Cửu Long 23,4% 19,5% 10,3% 9,2%
(Nguồn: Khảo sát mức sống hộ gia đình 2008)
Để giảm bớt khoảng cách giàu nghèo giữa các dân tộc và các vùng, chính phủ
Việt Nam đã có hàng loạt chương trình, dự án phát triển chú trọng thúc đẩy sự phát
triển của các dân tộc thiểu số cũng như của các xã vùng sâu vùng xa, đặc biệt khó
khăn.
2.1.1.4. Cơ sở vật chất và cơ sở hạ tầng
Vùng trung du và miền núi phía Bắc có địa hình chia cắt mạnh, hạ tầng cơ sở
yếu kém, giao thông đi lại khó khăn, hệ thống thủy nông còn thấp kém, hạn chế tiếp
cận được với các dịch vụ xã hội, đặc biệt là các dịch vụ chuyển giao kỹ thuật tiến bộ

và khuyến nông.
Cơ sở vật chất kỹ thuật đã có nhiều tiến bộ, tuy nhiên ở vùng núi, cơ sở kỹ
thuật vẫn còn nghèo nàn, dễ bị xuống cấp. Hầu hết các khu vực vùng sâu vùng xa đã
có đường giao thông liên tỉnh - huyện - xã. Đến nay đã có 97% số xã đặc biệt khó
khăn có đường ô tô đến trung tâm xã, tạo nên sự giao lưu kinh tế, hàng hóa thuận lợi
hơn.
Bên cạnh đó, mặc dù có địa hình khó khăn, hiểm trở, nhưng hiện nay lưới điện
quốc gia đã cung cấp điện đếu hầu khắp các xã. Có khoảng 64% số hộ vùng sâu vùng
xa đã có điện sử dụng, nhờ đó năng suất lao động được tăng lên và nhiều ngành nghề
thủ công nghiệp ở miền núi phát triển.
Nguyễn Thùy Dương – Lớp Kinh tế Phát triển A – Khoá 48 Trang 21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Mạng lưới cơ sở vật chất cho giáo dục và y tế có nhiều bước tiến so với các
năm trước, tuy nhiên tỷ lệ các cơ sở đó vẫn còn thấp so với mức chung của cả nước.
Trên 5000 trường học đã được xây dựng và đưa vào sử dụng.
2.1.2. Các xã đặc biệt khó khăn vùng Trung du và miền núi phía Bắc
Bảng 2.2: Danh mục địa bàn có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn
(Ban hành kèm theo Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/ 9/ 2006 của CP)
STT Tỉnh Địa bàn có các xã đặc biệt khó khăn
1 Bắc Kạn Toàn bộ các huyện và thị xã
2 Cao Bằng Toàn bộ các huyện và thị xã
3 Hà Giang Toàn bộ các huyện và thị xã
4 Lai Châu Toàn bộ các huyện và thị xã
5 Sơn La Toàn bộ các huyện và thị xã
6 Điện Biên Toàn bộ các huyện và thành phố Điện Biên
7 Lào Cai Toàn bộ các huyện
8 Tuyên Quang Các huyện Na Hang, Chiêm Hóa
9 Bắc Giang Huyện Sơn Động
10 Hoà Bình Các huyện Đà Bắc, Mai Châu
11 Lạng Sơn

Huyện Bình Gia, Đình Lập, Cao Lộc, Lộc Bình, Tràng
Định, Văn Lãng, Văn Quan
12 Phú Thọ Các huyện Thanh Sơn, Yên Lập
13 Thái Nguyên Các huyện Võ Nhai, Định Hóa
14 Yên Bái Các huyện Lục Yên, Mù Căng Chải, Trạm Tấu
(Nguồn: Trang web của Ủy Ban dân tộc)
2.1.2.1. Đặc điểm tự nhiên:
Các xã đặc biệt khó khăn đều nằm rải rác tại các khu vực phía Tây Bắc với núi
non hiểm trở và vùng Đông Bắc với các núi thấp và đồi, các dãy núi hình cánh cung.
Đây là những vùng giàu tài nguyên để phát triển nông nghiệp (trồng cây công nghiệp,
cây đặc sản, chăn nuôi gia súc lớn), công nghiệp (tài nguyên năng lượng, kim loại và
không kim loại), du lịch, kinh tế biển và phần nào là lâm nghiệp (vì tài nguyên rừng
đã bị suy thoái nhiều).
Nơi đây có khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa, có mùa đông lạnh, lại chịu ảnh
hưởng sâu sắc của điều kiện địa hình vùng núi. Vùng núi và trung du Đông Bắc địa
hình tuy không cao, nhưng lại là nơi chịu ảnh hưởng mạnh nhất của gió mùa đông
bắc, là khu vực có mùa đông lạnh nhất nước ta. Vùng núi Tây Bắc tuy chịu ảnh
hưởng yếu hơn của gió lạnh mùa đông, nhưng do nền địa hình cao nên mùa đông
cũng vẫn lạnh.
Nguyễn Thùy Dương – Lớp Kinh tế Phát triển A – Khoá 48 Trang 22

×