Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2007-2009. Kiểm soát lạm phát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.5 KB, 25 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn
2007-2009. Kiểm soát lạm phát
A.Định nghĩa lạm phát:
Trong kinh tế học( phạm vi quốc gia)
Lạm phátlà tình trạng mức giá chung của nền kinh tế tăng lên trong một khoảng thời gian nhất
định
Trong một nền kinh tế( trong phạm vi thị trường tòan cầu)
Lạm phát là sự mất giá trị thị truong hay sự giảm sức mua của đồng tiền

Nguyên nhân lạm phát
 Cầu kéo
 Chi phí đẩy
 Và một số nguyên nhân khác: Sức ỳ nền kinh tế, Tiền tệ
Đối với nước VN, có thể nói hiện nay nguyên nhân lạm phát là do tác động tổ hợp của ba dạng
thức lạm phát : lạm phát tiền tệ( chủ yếu ), lạm phát chi phí đẩy , lạm phát cầu kéo.
Lạm phát cầu kéo: do đầu tư công và đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân tăng, dẫn đến nhu
cầu nguyên nhiên vật liệu tăng, thiết bị công nghệ tăng, thu nhập người dân cũng như người thân
từ nước ngoài gửi về tăng làm cho thu nhập tăng dẫn đến nhu cầu của người dân tăng, ngoài ra là
do nhu cầu nhập khẩu lương thực thế giới tăng. Nhu cầu tăng đột biến đẩy giá cả các mặt hang
tăng nhanh.
Lạm phát chi phí đẩy: giá nguyên nhiên liệu: xăng dầu các sản phẩm hóa dầu, thép, phơi
thép…( giá đầu vào) trên thế giới tăng mạnh, trong điều kiện kinh tế nước ta phần lớn phụ thuộc
vào nhập khẩu ( chiếm 90% GDP) đồng thời thiên tai, mất mùa cũng khiến dẫn đến giá cả thị
trường trong nước tăng
Lạm phát tiền tệ: Trong năm 2007cung tiền ở Việt Nam tăng mạnh do vốn nước ngồi chảy
vào tăng đột bíên buộc ngân hàng nhà nứoc tung khối lượng lớn tiền để mua ngoại tệ  tăng
lượng tiền trong lưu thông với mức 30%, hạn mức tín dụng cũng tăng cao , thêm vào đó là hệ quả
của sự tăng tín dụng trong những năm trước đó.
Nhưng trong khi đó so với các nuớc trong khu vực, như Thái Lan , Trung Quốc, cũng chịu sức


ép tương tự mà lạm phát chỉ ở mức 1 con số, còn ta dến hai chữ số => khác biệt đó là domức
chênh lệch mức tăng cung tiền và GDP quá lớn(2005-2007 cung tiền tăng 135%, GDP tăng 27% )
Mức chênh lệch đó là do cơ cấu kinh tế chậm cải thiện, công nghiêp khai thác tài nguyên gia công
chiếm tỉ trọng lớ, giá trị gia tăng sản xuất công nghiệp thấp, đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước
còn dàn trải, không đảm bảo tiến độ, không hiệu quả, nhiều thất thốt…kéo dài , chậm khắc
phục.Cơng tác dự báo dự kiến biện pháp, kế họach ứng phó những tác động tiêu cực của kinh tế
thế giới chưa được quan tâm đúng mức, tham mưu Đảng và Nhà Nước do chưa có kinh nghệim
nên cịn lúng túng, thiếu linh hoạt trong ứng phó. Nói chung ngồi những yếu tố khách quan còn
do yếu tố chủ quan là từ cơ quan Nhà nước điều hành ổn định kinh tế vĩ mô thiếu hiệu quả.
Tuy nhiên nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam là vấn đề còn đang được tranh luận.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

B.Thực trạng lạm phát giai đoạn 2007-2009 và kiểm sốt
I.Năm 2007
Trần Văn Thích
Sau 11 năm (1996-2006) giữ được tốc độ lạm phát ở mức một con số, nền
kinh tế Việt Nam lại “sôi” lên với làn sóng tăng giá khá mạnh mẽ vào năm
2007, đã khiến cho nhiều ngành, nhiều cấp và nhiều giới phải “vào
cuộc” để tìm hiểu đâu là căn nguyên của vấn đề, thực tế tác động của nó đến
đời sống kinh tế - xã hội ở mức nào, và phải kiềm chế lạm phát ra sao. Xung
quanh vấn đề này đã có rất nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược
nhau (nhiều người tỏ ra lo ngại trước con số lạm phát 12,63% của năm 2007;
nhưng cũng có người lại bình thản cho rằng “lạm phát vẫn đang trong
tầm kiểm soát”, hay “nền kinh tế vẫn đang đà phát triển lành mạnh”
I .Diễn biến lạm phát
Lạm phát những năm gần đây
Thực trạng lạm phát tại Việt Nam 12 năm qua (1996-2007) có thể tóm lược

lại trong mấy điểm nổi bật sau đây:
Việt Nam đã “kéo” được chỉ số lạm phát (CPI) từ mức ba con số
(774,7%/1986;
223,1%/1987; 393,8%/1988) xuống một con số (5,2%/1993) và duy trì nó
trong hơn mười năm qua. Nổi bật hơn hết là việc kiềm chế được lạm phát ở
mức thấp mà chúng ta không phải “đánh đổi”, hay “lựa chọn” giữa mục
tiêu tăng trưởng và lạm phát như nó thường diễn ra tại nhiều nước. Đó thật
sự là một thành tựu lớn.
Thực trạng lạm phát năm 2007
Sau 11 năm lạm phát giữ ở mức một con số, năm 2007 chỉ số này đã tăng
lên mức hai con số. Điểm khác biệt của lạm phát trong năm này là sự tăng
giá diễn ra đồng loạt ở cả nhóm hàng lương thực và phi lương thực. Đứng
đầu về tốc độ tăng giá trong nhóm các hàng hóa tính CPI là thực phẩm
(tăng 21,16%, riêng tháng 12 tăng 4,69%). Nhóm hàng nhà ở và vật liệu
xây dựng tăng cao thứ hai (tăng 17,12%, riêng tháng 12 tăng 3,28%). Đứng
thứ ba là nhóm hàng lương thực (tăng 15,4%, riêng tháng 12 tăng 2,98%).
Phương tiện đi lại và bưu điện đứng thứ tư (tăng hơn 7%, riêng tháng 12
tăng 0,7%). Tiếp đến là nhóm hàng may mặc và giày dép (tăng 7%,
riêng tháng 12 tăng 1,16%); dược phẩm và y tế (tăng 7%)(2), v.v...
Hiện tượng giá tăng diễn ra ở hầu hết các nhóm hàng hố và dịch vụ như vậy
cho thấy, ngun nhân của lạm phát khơng chỉ hồn toàn do tác động của
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

giá cả thế giới hay từ cung hàng hoá, dịch vụ; mà rõ ràng là có ngun
nhân từ tiền tệ
Khác với tình trạng lạm phát của những năm trước, chỉ số giá tiêu dùng
các tháng trong năm 2007 tăng liên tục ngoài dự đoán, vượt qua chỉ tiêu

Quốc hội đề ra hết lần này đến lần khác (nói khác đi là khơng kiểm sốt
được!). Ví dụ, tại thời điểm cuối năm 2006, lạm phát năm 2007 được dự
báo ở mức 6 - 7%, và tỷ lệ tăng trưởng kinh tế là 9 -10%. Nhưng, mới đến
tháng 7/2007 chỉ số lạm phát đã đạt mức 6,19%, trong đó riêng tháng 7
là 0,94%. Trước tình hình đó, thay vì chỉ tiêu lúc đầu là 6% - 7%, Chính
phủ đã phải điều chỉnh chỉ tiêu lạm phát cả năm ở mức dưới 8%, với niềm
tin là chỉ số giá tiêu dùng của các tháng còn lại giữ ở mức tăng khoảng
0,4%/tháng . Nhưng rồi, ngay trong tháng 8 giá đã tăng thêm 0,55% (cao
hơn dự đoán), rồi tháng 9 vẫn tiếp tục tăng 0,51%, tháng 10 tăng 0,74%,
tháng 11 tăng 1,23%, và tháng 12 tăng kỷ lục: 2,91% (cao nhất so với các
tháng trong năm, kể cả tháng2/2007 là tháng có Tết Nguyên Đán; và cũng cao
nhất so với các tháng 12 của 11 năm trước đó). Kết thúc năm 2007, tốc độ
tăng giá tiêu dùng chung đã lên đến 12,63% so với năm trước, gần gấp rưỡi
tốc độ tăng trưởng kinh tế (8,44%). Điều đó đã khiến cho nhiều người phải lo
lắng, nhất là những người nghèo. Họ lo lắng khơng phải vì mức lạm phát cao
(bởi nền kinh tế Việt Nam cũng đã từng đối mặt với lạm phát cao trong
nhiều năm, như 1990:67,4%; 1991:67,6%; 1992: 17,6%; 1994: 14,4%; và
1995: 12,7%, thậm chí cịn rất cao, như các năm trước 1990), mà lo vì tốc
độ tăng giá diễn ra quá nhanh, trong khi các nhà hoạch định chính sách
lại lúng túng trong cách xử lý. Chính Bộ trưởng Bộ Tài chính Vũ Văn Ninh
đã thừa nhận điều đó khi trả lời phỏng vấn Ơng nói: “Đúng là trong dự báo
có vấn đề. Kể cả dự báo thị trường thế giới và tác động của chính sách vào
chỉ số giá tiêu dùng. Chúng ta vẫn nghĩ rằng có thể khống chế được, nhưng
trên thực tế giá cả đã tăng rất cao.
Với mức 12,63%, chỉ số lạm phát năm 2007 đã cao hơn nhiều so với lãi
suất huy động tiết kiệm (lãi suất của các ngân hàng thương mại nhà
nước khoảng trên 8%, và của các ngân hàng thương mại cổ phần khoảng
9,5%). Điều đó đã khiến cho người có tiền gửi tiết kiệm bị thiệt thòi lớn do
lãi suất thực âm, và kết quả là dòng tiền ồ ạt được rút khỏi ngân hàng để đầu
tư vào “kênh” khác có hiệu quả hơn (người giàu thì mua nhà ở và bất động

sản, đầu tư chứng khốn; cịn người nghèo thì có được đồng nào đều đổi
hết thành vàng). Kết quả là lượng tiền trong lưu thông càng lớn thêm, làm
cho giá cả càng tăng cao hơn, đồng thời lại tiềm ẩn nguy cơ khủng
hoảng thanh khoản cho hệ thống ngân hàng. Lạm phát cao trên thực tế đã làm
cho đồng tiền Việt Nam có xu hướng tăng giá so với đồng đô la Mỹ, dù cho
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

trên danh nghĩa đồng Việt Nam vẫn mất giá tương đối so với đô la Mỹ một
cách đều đều qua các năm (tỷ giá giữa USD/VND năm 2001 là 14.725 VND;
năm 2002: 15.280 VND; năm 2003: 15.510 VND; năm 2004: 15.740 VND; năm
2005: 15.859 VND; năm 2006: 15.994 VND; và năm 2007: 16.241 VND).
Nhưng do giá cả tại Việt Nam tăng cao hơn giá cả tại Mỹ (12,63% so với 4,1%
năm 2007), nên dù tỷ giá danh nghĩa có phần hạ thấp giá trị đồng Việt Nam
thì trên thực tế đồng đơ la vẫn đang bị hạ thấp giá trị so với VND (USD đã bị
mất giá 8,1% so với năm 2006, do lạm phát 4,1%, tại Mỹ 1 đơ la năm
2007 có sức mua tương đương với 0,959 đô la năm 2006, và bằng 16.241
đồng Việt Nam năm 2007. Cũng do lạm phát 12,63%, tại Việt Nam 16.241
đồng năm 2007 chỉ có sức mua tương đương với 14.189 đồng của năm
2006; còn 1 đơ la tại Việt Nam năm 2006 chỉ cịn bằng 14.795 đồng vào tháng
12/2007. Như vậy, nếu so với sức mua là 15.994 đồng của năm 2006, thì
đồng đơ la tại Việt Nam vào cuối năm 2007 đã bị mất 8,1% giá trị. Điều đó
vơ hình chung đã góp phần hạn chế xuất khẩu và khuyến khích nhập khẩu.
Thực tế là năm 2007 Việt Nam nhập siêu kỷ lục, với 12,45 tỷ USD, bằng
25,6% tổng kim ngạch xuất khẩu.
II . Nguyên nhân gây ra lạm phát
Thứ nhất do giá lương thực – thực phẩm và giá dầu thế giới đã tăng cao
trong năm 2007. Do hai nhóm hàng hóa này đều là những sản phẩm ngoại

thương chủ đạo của Việt Nam và đồng thời chiếm tỷ trọng lớn trong cơ
cấu CPI, đây chắc chắn là một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát
cao ở Việt Nam trong suốt năm nay. Nhưng nếu giá lương thực – thực
phẩm và giá dầu lửa thế giới là nguyên nhân chính, thì các nước trong khu
vực như Thái Lan và Trung Quốc cũng phải chịu sức ép tăng giá tương tự.
Tuy nhiên, trong khi tỷ lệ lạm phát của Việt Nam năm 2007 lên tới 2 chữ
số, thì Trung Quốc chỉ chịu lạm phát ở mức 6,5% và Thái Lan 2,9%
Ta chỉ có thể giải thích lạm phát năm 2007 có ngun nhân chính từ nguồn cung
tiền tệ quá lớn.
Nhận định trên xuất phát từ một hội thảo có tên “Phân tích diễn biến giá cả, lạm
phát năm 2007, dự báo giá cả, lạm phát năm 2008″ do Viện Nghiên cứu khoa
học thị trường giá cả tổ chức (25/12/2007). Theo các chuyên gia về thị trường
giá cả Việt Nam, năm 2007, tốc độ phát triển kinh tế chưa đạt đến mức 8,5%
như kỳ vọng, trong khi đó, chỉ số giá đã vượt quá xa mục tiêu kiềm chế. Mặc dù
tốc độ tăng giá chưa đến mức là một “thảm họa” đối với một nền kinh tế đang
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

phát triển nhanh như Việt Nam; song lại là một tín hiệu khơng tốt cho đời sống
người dân và nền kinh tế. Diễn biến giá cả và lạm phát năm 2007 cần được mổ
xẻ để tìm biện pháp điều hành giá cả trong bối cảnh nền kinh tế đang hội nhập
sâu hơn vào nền kinh tế thế giới.
Riêng kiều hối lên đến 5 tỷ USD thậm chí có thể lên đến 7,5 tỷ USD. Trong khi
Nhà nước lại chủ động tăng dự trữ ngoại hối lên từ 13 – 20 tuần nhập khẩu.
Hàng trăm ngàn tỷ đồng tung ra trong thời gian ngắn để hút USD đã gây tác
động lớn đến tăng giá hàng hoá, dịch vụ. “Trước đây, chỉ vài chục ngàn tỷ đồng
tung ra đã đủ làm khuynh đảo thị trường, năm nay tung ra đến hàng trăm ngàn tỷ
đồng là rất lớn đối với thị trường trong nước và tác động đến tăng lạm phát”, TS

Nguyễn Khánh Long – viện trưởng viện nghiên cứu khoa học thị trường giá cả
-nói.
Giáo sư Kenichi Ohno, chuyên gia Diễn đàn Phát triển Việt Nam (VDF) ước
tính, có ít nhất 15 tỷ USD đã đổ vào Việt Nam trong năm 2007 từ các nguồn:
dịch vụ (du lịch) 4,6 tỷ USD; vốn FDI giải ngân 2,2 tỷ USD; vốn vay ODA 1,8
tỷ USD, cổ phiếu và trái phiếu 2,5 tỷ USD…. và đây là nguyên nhân chính gây
nên tình trạng lạm phát ở Việt Nam và là mức lạm phát cao nhất trong các nước
mới nổi ở Đông Á.
Giáo sư Kenichi Ohno cũng cho rằng, có nhiều nước tiếp nhận rất lớn ngoại tệ
nhưng vẫn cơ bản giữ được tỷ lệ lạm phát ở mức tương đối thấp. Vấn đề của
Việt Nam là do chính sách quản lý tài chính, tiền tệ chưa hợp lý. Dường như
Việt Nam đã có tất cả các dấu hiệu của một nước tiếp nhận nhiều tiền mà không
hấp thụ tốt: sự bùng nổ về xây dựng, tài sản, dự trữ ngoại tệ tăng, định giá cao tỷ
giá hối đoái, lạm phát gia tăng…, và điều này làm trầm trọng thêm tình trạng
lạm phát
Ngồi ra cịn 1 số ngun nhân gây lạm phát như ảnh hưởng của thiên tai và
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

dịch bệnh
III . Tác động của lạm phát
Giá cả tăng mạnh sẽ làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến khả
năng cạnh tranh của các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Lạm phát cao làm
giảm giá trị đồng tiền trong nước. Khi các mức giá cả trong tương lai khó dự
đốn hơn thì các kế hoạch chi tiêu và tiết kiệm hợp lý sẽ trở nên khó thực hiện
hơn. Người dân ngày càng lo ngại về việc sức mua trong tương lai của họ bị
giảm xuống và mức sống của họ cũng vì vậy mà kém đi. Lạm phát cao khuyến
khích các hoạt động đầu tư mang tính đầu cơ trục lợi hơn là đầu tư vào các hoạt

động sản xuất (ví dụ: khi có lạm phát, nếu ngân hàng khơng tăng lãi suất tiền
gửãi thì dân chúng sẽ khơng gửi tiền ở ngân hàng mà tìm cách đầu cơ vào đất
đai khiến giá cả đất đai tăng cao...). Lạm phát cao đặc biệt ảnh hưởng xấu đến
những người có thu nhập khơng tăng kịp mức tăng của giá cả, đặc biệt là những
người sống bằng thu nhập cố định như là những người hưởng lương hưu hay
công chức. Phúc lợi và mức sống của họ sẽ bị giảm đi.
IV . Biện pháp nhằm kiềm chế lạm phát
Một là, cần thực hiện chính sách tài chính - tiền tệ năng động và hiệu quả.
Ngoài những giải pháp Ngân hàng Nhà nước đã áp dụng trong thời gian qua có
thể áp dụng những giải pháp dưới đây nhằm điều chỉnh lượng cung tiền phù
hợp, điều chỉnh chính sách tài khố, tích cực quản lý và tăng hiệu quả của chi
ngân
sách:
Việc cần làm trước mắt hiện nay là giảm nhanh lượng tiền mặt trong lưu thông.
Một số giải pháp như điều chỉnh lãi suất vay nóng giữa các Ngân hàng, nới lỏng
tỷ giá hối đoái... là rất cần thiết, tuy nhiên, như vậy vẫn chưa đủ. Cần phải quản
lý lượng cung tiền trong lưu thông chặt hơn nữa, chủ động tăng vòng quay của
đồng tiền. Trước mắt nên hạn mức tín dụng đối với các ngân hàng thương mại
nhằm hạn chế và kiểm soát lượng tiền tiếp tục được tung vào lưu thơng. Ngân
hàng Nhà nước cần có cơ chế kiểm tra giám sát các ngân hàng thương mại, nhất
là những ngân hàng thương mại lớn trong việc xây dựng và thực hiện các biện
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

pháp tăng vòng quay đồng tiền, quản lý lượng cung tiền cho lưu thơng. Nếu
khơng quản lý và tăng vịng quay tiền tệ sẽ hoàn toàn bị động trong quản lý
lượng tiền mặt trong lưu thông, lượng tiền sẽ tăng lên nhiều gây ra những hậu
quả xấu và dẫn tới lạm phát thường trực. Mặt khác phải xác định được lượng

tiền thực có trong lưu thơng (T), xây dựng chỉ tiêu vịng quay tiền, lấy đó làm
mục tiêu phấn đấu của tồn ngành. Trên cơ sở đó, Ngân hàng Nhà nước chủ
động giảm lượng tiền trong lưu thông nhằm thúc đẩy các ngân hàng thực hiện
các giải pháp tăng vòng quay đồng tiền của mình. Như vậy lượng tiền sẽ được
cung ứng trong giới hạn an tồn đối với nền kinh tế.
Tiếp đó, cần quản lý chặt chẽ chi tiêu ngân sách. Cần xem xét lại các chương
trình, dự án đầu tư, hoạt động chi tiêu của Chính phủ, của các ban ngành. Tập
trung ngân sách vào những cơng trình cấp thiết, những chương trình khơng cấp
thiết nên chuyển vào những năm sau. Tăng hiệu quả chi tiêu ngân sách bằng
việc hoàn thành các chương trình, các dự án đúng thời hạn để sớm phát huy tác
dụng. Giảm chi phí trong các cơ quan khối cơng quyền, tích cực chống tiêu cực
và lãng phí.
Các cơ quan chức năng cũng cần nghiên cứu điều chỉnh lãi suất ngân hàng năng
động hơn. Có thể đảm bảo mức lãi suất bình quân cả năm 12%, song mức hiện
tại có thể điều chỉnh cao hơn nhằm rút bớt lượng tiền mặt ra khỏi lưu thông.
Tăng lãi suất tiết kiệm trong giai đoạn hiện tại tuy có ảnh hưởng tới thị trường
chứng khoán, tới tăng trưởng song trong hiện thời là hợp lý và tác động tích cực
tới kiềm chế lạm phát.
Ngoài ra, cũng cần phải quản lý chặt chẽ hoạt động chi tiêu thu đổi ngoại tệ trên
thị trường. Tích cực thu hút ngoại tệ trong dân bằng việc khuyến khích gửi tiết
kiệm ngoại tệ với lãi suất hấp dẫn; thực hiện tỷ giá hối đoái linh hoạt giữa tiền
Việt với một số ngoại tệ, nhất là ngoại tệ mạnh chi phối hoạt động xuất nhập
khẩu của Việt Nam như USD, EURO, Yên, Nhân dân tệ... đảm bảo tác động
khách quan vào xuất nhập khẩu, không gây thiệt hại chung cho nền kinh tế.
Khuyến khích chi tiêu khơng dùng tiền mặt, đặc biệt là khách nước ngồi, cần
tạo cơ chế để nhóm khách này có thể giam gia, nhất là đối với thị trường chứng
khốn.
Bên cạnh đó, Chính phủ nên thực hiện bán trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho
bạc cho dân, thu hồi tiền mặt. Hoạt động này có tác dụng rất tích cực làm giảm
nhanh lượng tiền mặt trong lưu thông và tác động trực tiếp tới giảm lạm phát.

Trong trường hợp cấp bách hiện nay, khơng nên đấu thầu trái phiếu và tín phiếu
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

qua trung gian. Ngân hàng Nhà nước, Kho bạc Nhà nước nên triển khai bán
trực tiếp cho dân. Bán trực tiếp sẽ tránh được các khâu trung gian nên mức lãi
suất đối với người mua sẽ cao hơn, thu hút được nhiều người tham gia. Có thể
tổ chức thành những chiến dịch phân phối tín phiếu, trái phiếu trong thời gian
cụ thể với cơ chế thuận lợi kết hợp với sự tuyên truyền cổ động mạnh mẽ để
động viên mọi tầng lớp nhân dân, mọi tổ chức xã hội tham gia.
Hai là, điều chỉnh tăng trưởng kinh tế
Trước thực trạng nền kinh tế phát triển quá nóng, cần phải giảm tốc độ tăng
trưởng, duy trì tốc độc tăng trưởng xoay quanh 8% là hợp lý. Cần kiểm soát
chặt chẽ hoạt động đầu tư cả trung ương và địa phương, đầu tư của các thành
phần kinh tế, chủ động điều chỉnh kế hoạch triển khai các dự án đầu tư, có thể
chuyển những dự án chưa cấp thiết xuống tiếp những năm sau nhằm giảm tốc
độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Kiểm tra tiến độ thực hiện các dự án, các cơng trình đầu tư. Khẩn trương hồn
thành các dự án, các cơng trình, đặc biệt là những cơng trình trọng điểm, hồn
thành dứt điểm các cơng trình dây dưa kéo dài để chúng sớm phát huy tác dụng.
Đẩy mạnh sản xuất hàng hoá vật chất, tăng năng suất lao động hơn nữa, nhất là sản
xuất vật tư, nguyên vật liệu, hàng hoá tiêu dùng nhằm tăng năng lực của nền kinh
tế, hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng để thúc đẩy tiêu dùng nội địa.
Kiểm tra, xem xét các doanh nghiệp lớn đã cổ phần hoá, đánh giá hiệu quả vốn đầu
tư huy động từ thị trường chứng khoán. Hạn chế các doanh nghiệp loại này chuyển
hướng kinh doanh từ sản xuất hàng hoá hiện hữu sang dịch vụ, đặc biệt là kinh
doanh tiền tệ.
Ba là, hạn chế tăng chi phí

Giảm mức tăng chi phí phải thực hiện tiết kiệm trong sản xuất. Để làm được điều
này, bản thân các doanh nghiệp cần tăng cường quản lý sản xuất theo định mức,
kiểm tra chặt chẽ các yếu tố đầu vào theo đúng quy cách, phẩm chất, chủ động
nghiên cứu tìm vật tư thay thế với chi phí thấp, nhất là đối với vật tư nguyên liệu
nhập khẩu. Một giải pháp giảm mức tăng chi phí khác có thể áp dụng là hồn thiện
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

công nghệ, đổi mới công nghệ, cải tiến tố chức quản lý nhằm tăng năng suất lao
động.
Lạm phát là hiện tượng của kinh tế thị trường mang tính khách quan, dù muốn hay
khơng chúng ta cũng vẫn phải đón nhận. Chính vì vậy, cần phải bình tĩnh nhìn
nhận tìm hiểu bản chất sự việc để có những phản ứng điều chỉnh. Tuy nhiên, để
thực hiện kiềm chế lạm phát trong giai đoạn này, Việt Nam sẽ phải chấp nhận từ
bỏ một số mục tiêu khác. Do đó, Nhà nước cần có sự tham khảo ý kiến của các nhà
khoa học, các chuyên gia kinh tế cũng như học hỏi kinh nghiệm từ các nước khác
trên thế giới để có những quyết sách đúng đắn, kịp thời.

II.Năm 2008( Trịnh Quốc Cường , Lê Tri Thức)
I.

diễn biến lạm phát năm 2008

Lạm phát thực sự bùng nổ và thực sự gây nên những bất ổn vĩ mô vào năm 2008.
Lạm phát đỉnh điểm vào tháng 7 năm 2008 khi lên tới trên 30% (YoY). Kết thúc
năm 2008, lạm phát lùi về còn 19.89%, đây là mức cao nhất trong vịng 17 năm
qua. Trong đó CPI của lương thực tăng cao nhất và đạt 49.16%.


Chỉ số gia tiêu dùng
Giá tiêu dùng năm 2008 nhìn chung tăng khá cao và diễn biến phức tạp, khác
thường so với xu hướng giá tiêu dùng các năm trước. Giá tăng cao ngay từ quý I và
liên tục tăng lên trong quý II, quý III, nhưng các tháng quý IV liên tục giảm (so với
tháng trước, tháng 10 giảm 0,19%; tháng 11 giảm 0,76%, tháng 12 giảm 0,68%)
nên giá tiêu dùng tháng 12 năm 2008 so với tháng 12 năm 2007 tăng 19,89% và
chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm tăng 22,97%.
Mặc dù giá tiêu dùng năm 2008 tăng khá cao, nhưng xu hướng diễn biến theo
chiều hướng tích cực vào các tháng cuối năm là do:
(i) Kết quả thực hiện đồng bộ 8 nhóm giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững, trong đó ưu
tiên mục tiêu kiềm chế lạm phát với giải pháp thắt chặt tiền tệ là nguyên nhân cơ
bản giữ cho lạm phát thấp hơn 20%. Điều này cũng khẳng định những giải pháp
mà Chính phủ đề ra là hồn tồn đúng hướng, kịp thời và đạt kết quả tích cực, giá
tiêu dùng đã giảm dần từ tháng 10 năm 2008;
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

(ii) Giá dầu thơ và giá nhiều loại ngun liệu hàng hố khác trên thị trường thế
giới nước ta nhập khẩu với khối lượng lớn cũng đã giảm mạnh vào những tháng
cuối năm, tạo thuận lợi cho giảm giá đầu vào của sản xuất trong nước;
(iii) Tình hình sản xuất trong nước những tháng cuối năm cũng đã bớt khó khăn
hơn, do tiếp cận các nguồn vốn và mức độ giải ngân khá hơn.

Giá vàng tháng 12/2008 so với tháng trước tăng 0,78%; so với tháng 12 năm
2007 tăng 6,83%. Giá vàng bình quân năm 2008 so với năm 2007 tăng 31,93%.
Giá đô la Mỹ tháng 12/2008 so với tháng trước tăng 1,14%; so với cùng kỳ năm
trước tăng 6,31%. Giá đô la Mỹ bình quân năm 2008 so với năm 2007 tăng 2,35%.


Giá trị xuất nhập khẩu
Theo công bố của Tổng cục Thống kê ngày 25/12, bất chấp tình hình kinh tế thế
giới khó khăn nhưng giá trị xuất khẩu năm 2008 của Việt Nam tăng gần 30%.
Nhập siêu giảm dần và cả năm giữ ở mức 17 tỷ USD.

Xuất khẩu
Số liệu do Tổng cục Thống kê vừa công bố cho thấy, hàng xuất khẩu của Việt Nam
năm nay thu về 62,9 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm trước. Tốc độ tăng trưởng này
vượt khá xa chỉ tiêu do Quốc hội thông qua hồi đầu năm là 20-22%.
Trong năm 2009, xuất khẩu của Việt Nam dự kiến chỉ tăng 13%, do giá cả và cầu
tại các thị trường lớn đều giảm mạnh. Hiện giá dầu thô trên thị trường thế giới chỉ
còn bằng 1/4 giá đỉnh điểm hồi tháng 7 vừa qua.
Những mặt hàng xuất khẩu mang về nhiều ngoại tệ trong năm nay vẫn là dầu thô,
với 10,45 tỷ USD, tiếp sau là dệt may 9,1 tỷ USD, giày dép 4,69 tỷ USD, thủy sản,
gạo và cà phê. Trong 3 tháng cuối năm, xuất khẩu của Việt Nam vẫn tăng, nhưng
đã có xu hướng chậm dần.

Nhập khẩu
Kim ngạch nhập khẩu cả năm đạt gần 63 tỷ USD có được một phần lớn nhờ giá
các mặt hàng của Việt Nam tăng mạnh trong những tháng đầu năm.
Website: Email 10
: Tel (: 0918.775.368


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Về tình hình nhập siêu, trong 2008, Việt Nam chi tổng cộng 79,91 tỷ USD để nhập
khẩu hàng hóa, tăng 27,5%, và đưa nhập siêu cả năm lên mức 17,01 tỷ USD.
Mức nhập siêu này chủ yếu do nhập khẩu tăng rất mạnh trong những tháng đầu

năm. Trong năm 2007, thâm hụt thương mại của Việt Nam là 14,12 tỷ USD
Đại đa số mặt hàng nhập khẩu là các loại máy móc và nguyên vật liệu cho sản
xuất. Trong đó, máy móc - thiết bị chiếm 13,6 tỷ USD và dầu thô 10,81 tỷ USD.
Sắt thép, vải, nguyên liệu cho ngành da giày cũng chiếm tỷ trọng lớn.

Thị trường chứng khoán
Như một quy luật, năm 2008 là năm điều chỉnh giảm cho giai đoạn bùng nổ 20062007, nhưng với tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới bắt nguồn từ Mỹ
đã khiến VN-Index tụt giảm sâu hơn dự đoán của nhiều chuyên gia, quay trở lại
vạch xuất phát của đầu năm 2006 là 300 điểm.
a. Thị trường vốn (cổ phiếu & chứng chỉ quỹ)
Thị trường đi xuống là xu hướng chủ đạo trong năm 2008, xu hướng này bắt
đầu từ đỉnh VNIndex 1,104 điểm vào ngày 10/10/2007.
-Giai đoạn đầu năm  cuối tháng 4: Thị trường tiếp tục trong xu hướng
điều chỉnh giảm bắt đầu từ tháng 10/2007
Khởi đầu năm 2008 VN-Index đã đón nhiều thơng tin bất lợi từ
chính sách tiền tệ của nhà nước nhằm khống chế lạm phát đang ở
mức cao hai con số.
Ngày 25/03 VN-Index đóng cửa tại 496.64 điểm, chính thức phá
đáy 500.
-Giai đoạn tháng 5 -> giữa tháng 6: Áp lực từ nguồn cung giải
chấp các hợp đồng Repo
Ngoài các tin xấu đến dồn dập, thị trường cổ phiếu cịn đón nhận
một lượng hàng bán ra bất chấp mọi giá trong thời điểm này, đó là
lượng hàng giải chấp từ các hợp đồng Repo của các cơng ty chứng
khốn và ngân hàng thương mại.
Website: Email 11
: Tel (: 0918.775.368


Website: Email : Tel (: 0918.775.368


- Giai đoạn từ cuối tháng 6 cuối tháng 8: niềm tin nhà đầu tư được khôi
phục từ dấu hiệu nền kinh tế vĩ mô
Những biện pháp mạnh tay của Chính phủ từ đầu năm đã bắt đầu có tác dụng từ
giữa tháng 6, thâm hụt mậu dịch giảm đáng kể tăng trưởng tín dụng đã chậm lại
và có chọn lọc. Thị trường đã rớt về đáy 367 điểm và tiêu hóa hết các thông tin
xấu, nên giới đấu cơ quay lại thị trường thu gom cổ phiếu với tâm lý cổ phiếu giá
rẻ.
-Giai đoạn đầu tháng 9 -> cuối tháng 12: VN-Index bị tác động
mạnh từ cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu
b. Tình hình IPO năm 2008
Tâm lý nhà đầu tư đã khơng cịn ưa chuộng hàng hóa IPO nữa. Cả năm 2008
có 50 cơng ty tiến hành IPO, đấu giá trên 2 sàn HOSE và HASTC. 3 cơng ty có
số lượng cổ phiếu lớn nhất mang ra đấu giá là Sabeco, Habeco và Vietinbank.
Tổng cộng có tất cả 385,418,192 CP phát hành ra cơng chúng nhưng chỉ có
230,985,944 CP được nhà đầu tư mua tương ứng với tỷ lệ 60%. Tổng số tiền
IPO thu được năm 2008 đạt 9,870 tỷ đồng
c. Thị trường OTC
Năm 2008 cũng là năm ngủ đông của thị trường OTC. Hầu hết mọi cổ phiếu đều
đóng băng không giao dịch, nhà đầu tư nào lỡ đầu tư vào thị trường OTC vào
cuối năm 2007 đều bị kẹt vốn. Tuy nhiên vẫn còn những cổ phiếu được nhà đầu tư
giao dịch như cổ phiếu khối ngân hàng : Eximbank, Đông Á, Quân Đội –MB,
Vietcombak và vài cổ phiếu của ngành bất động sản có kế hoạch niêm yết rõ ràng
như Hoàng Anh Gia Lai, BCCI.
d. Thị trường trái phiếu năm 2008
Giao dịch trên thị trường trái phiếu Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất trong
khu vực Đông Á. Cụ thể năm 2007 tăng 98.11% so với mức trung bình 21.1% của
khu vực. Tuy nhiên, theo đánh giá của các tổ chức tài chính chuyên nghiệp, thị
trường trái phiếu Việt Nam vẫn được coi là thị trường chưa phát triển


Lãi suất
Trước vận động bất lợi của TTCK và lạm phát tăng cao ngay từ đầu năm 2008,
Ngân hàng nhà nước (NHNN) thực thi chính sách thắt chặt tiền tệ, sử dụng đồng
thời các công cụ lãi suất và hoạt động thị trường mở. Từ giữa tháng 1-2008, dự trữ
bắt buộc đã tăng thêm 1% với tiền gửi nội tệ và ngoại tệ từ không kỳ hạn tới dưới
Website: Email 12
: Tel (: 0918.775.368


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

12 tháng. Tới giữa năm 2008, NHNN tiếp tục điều chỉnh lãi suất cơ bản lên
14%/năm.
Tính chung cả năm, Ngân hàng Nhà nước đã 3 lần tăng và 5 lần giảm lãi suất cơ
bản. Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cũng có tần suất điều chỉnh tương
ứng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc có 1 lần tăng trong tháng 2, 4 lần giảm trong 3 tháng
cuối năm (2 lần giảm đối với dự trữ bằng ngoại tệ). Lãi suất tiền gửi dự trữ bắt
buộc có 5 lần điều chỉnh (3 lần tăng, 2 lần giảm).
Ngân hàng Nhà nước chính thức áp cơ chế lãi suất trần trong hoạt động cho vay
của các tổ chức tín dụng (khơng q 150% lãi suất cơ bản theo quy định của Bộ
luật Dân sự).
Chính sách thắt chặt tiền tệ đầu năm của Ngân hàng Nhà nước gắn liền với sự căng
thẳng về thanh khoản của các ngân hàng thương mại. Lãi suất huy động VND có
kỳ biến động mạnh nhất từ trước tới nay. Cuộc chạy đua bùng phát trong tháng 5
và tạo những đỉnh điểm nóng sốt trong tháng 6. Trên thị trường liên ngân hàng, lãi
suất ghi nhận kỷ lục “treo” tới 43%/năm; nhiều thành viên đồng loạt đẩy mức huy
động trong dân cư lên tới trên 19%/năm, cá biệt có trường hợp áp tới 20%/năm.

Tỉ giá hối đoái ( VND/USD)
Năm 2008 là năm đặc biệt của cơ chế điều hành tỷ giá cũng như những biến động

trên thực tế. So với cuối năm 2007, tỷ giá USD/VND mua vào – bán ra của các
ngân hàng thương mại đã tăng khoảng 9%, một mức tăng đột biến so với thay đổi
quen
thuộc
quanh
1%
những
năm
trước.
Năm 2008 cũng là năm biên độ tỷ giá liên tiếp 3 lần nới rộng, 2 lần được tăng
mạnh trực tiếp ở tỷ giá bình quân liên ngân hàng, những điều chỉnh chưa từng có
trong lịch sử.
Tính chất đặc biệt của tỷ giá năm 2008 cũng thể hiện ở những biến động trái chiều.
Trong những tháng đầu năm, thị trường có hiện tượng ứ đọng ngoại tệ, tỷ giá có
lúc xuống “đáy” 15.300 VND; nhiều doanh nghiệp, ngành hàng xuất khẩu phải
thông qua các hiệp hội yêu cầu ngân hàng đẩy mạnh mua vào USD, tháo gỡ khó
khăn. Nhưng từ tháng 5, “cơn sốt” khan hiếm ngoại tệ lại diễn ra căng thẳng trên
cả thị trường chính thức lẫn thị trường tự do. Nhiều doanh nghiệp phải mua với giá
trên 18.000 VND, chi phí tài chính bị đẩy cao, ảnh hưởng đến lợi nhuận.
Website: Email 13
: Tel (: 0918.775.368


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

II. nguyên nhân gây ra lạm phát.
1. Lạm phát do chi phí đẩy ở Việt Nam

Đây là nguyên nhân dễ nhận thấy đối với lạm phát của Việt Nam trong thời gian
qua. Với một nền kinh tế khá mở, kim ngạch nhập khẩu lên đến 90% GDP (2008),

sự biến động của giá cả trên thế giới tác động ngay đến giá cả trong nước. Năm
2007 và nửa đầu năm 2008, giá cả của hầu hết các mặt hàng trên thế giới biến động
mạnh, đặc biệt là giá dầu thô, lương thực, thực phẩm và các nguyên liệu trong sản
xuất công nghiệp. Sự tăng giá của hầu hết các hàng hóa trong nước góp phần làm
cho lạm phát ở Việt Nam bùng phát
2. Lạm phát do cung tiền ở Việt Nam
Mặc dù, Việt Nam luôn bị thâm hụt thương mại cao nhưng khoản thâm hụt này ít
hơn các dịng tiền chuyển vào Việt Nam dẫn đến cán cân tài khoản vãng lai vẫn
thặng dư. Dự trữ ngoại tệ của ngân hàng thương mại liên tục tăng cao (năm 2006
tăng 4.6 tỷ USD, năm 2007 tăng 10.6 tỷ USD, năm 2008 2.4 tỷ USD)
Dự trữ ngoại tệ của NHNN tăng đồng nghĩa với một lượng tiền tương ứng VND
được bơm vào nền kinh tế, mặt khác NHNN khơng thực hiện biện pháp Vơ hiệu
hóa lượng tiền bơm vào nền kinh tế do vậy tiền trong nền kinh tế tăng lên.
3.những yếu tố khác.
Về mặt lý thuyết có rất nhiều yếu tố gây nên lạm phát, tùy từng giai đoạn mà một
nguyên nhân nào đó có thể đóng vai trị chính. Nhiều khi các ngun nhân có thể
đan xen lẫn nhau rất khó tách các yếu một cách rạch rịi. Theo quan điểm của
chúng tơi một số nguyên nhân sâu xa gây nên lạm phát ở Việt Nam đó là sự thiếu
hiệu quả trong đầu tư, và tình trạng thâm hụt ngân sách cao thường xuyên.
III, kiềm chế lạm phát năm 2008
1. Cải thiện môi trường đầu tư để huy động đủ vốn đáp ứng cho yêu cầu tăng
trưởng; đồng thời, phải đặc biệt quan tâm nâng cao hiệu quả việc sử dụng
vốn đầu tư

Website: Email 14
: Tel (: 0918.775.368


Website: Email : Tel (: 0918.775.368


2. Các Bộ, ngành và địa phương phối hợp chặt chẽ trong việc thực hiện các
chính sách, nhất là giữa chính sách tài chính, tiền tệ, chính sách thúc đẩy
phát triển sản xuất, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô.
3. Ngân hàng Nhà nước công bố và thực hiện việc hỗ trợ vốn cho các ngân
hàng thương mại để bảo đảm khả năng thanh toán
4. Tiếp tục thực hiện mua ngoại tệ cho các nhà đầu tư, tính tốn xem xét thứ tự
ưu tiên việc mua ngoại tệ cho các đối tượng
5. Điều hành hoạt động tín dụng ngân hàng ở mức tăng trưởng tín dụng tối đa
30% nhưng phải đáp ứng được yêu cầu vốn cho tăng trưởng kinh tế và
khuyến khích phát triển nơng nghiệp, nơng thơn. Tăng cường kiểm sốt,
nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng theo chuẩn mực quốc tế.
6. Các giải pháp chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng phải tiếp tục tạo điều
kiện phát triển lành mạnh thị trường bất động sản.
7. Tập trung khai thác và mở rộng thị trường xuất khẩu, phấn đấu đạt được
mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu cả năm trên 25%.

Nhìn về cuối năm 2008
Với những điểm rút ra ở trên, trong thời gian tới Việt Nam vẫn có thể là điểm
đầu tư thu hút sự quan tâm của cộng đồng tài chính quốc tế, với một số căn cứ
quan trọng sau đây: Dòng vốn FDI tiếp tục tăng, khơng có hiện tượng dịng
chảy FPI xáo trộn lớn; Chính sách thắt chặt tiền tệ tiếp tục được đồng thuận,
duy trì và bắt đầu có hiệu quả; Các phương pháp điều khiển tín hiệu rõ hơn với
nền kinh tế, điều mà Việt Nam không làm được trong suốt thời kỳ biến động
của nửa đầu năm 2008; Việc tăng cường kiểm soát hệ thống siêu quyền lực
ngân hàng là bước đi hợp lý; Quá trình điều hành cơ chế tỷ giá hỗn hợp đang
hình thành và hiệu chỉnh dần độ lệch trong ngắn hạn, phần lớn gây ra bởi tâm lý
đầu cơ và bất an. Sự nới lỏng kiểm soát sẽ giúp hệ thống dự trữ quốc gia bền
vững hơn.
Với khả năng duy trì các chính sách nhất qn, và điều chỉnh ngắn hạn sát theo
tín hiệu thị trường, mục tiêu lạm phát của cả năm 2008 ở dưới mức 30% với sốc

tắt dần trong chu kỳ 18 tháng tiếp theo, kèm theo sự duy trì tốc độ tăng trưởng
GDP từ 7%, theo chúng tơi là khả thi.

III.Năm 2009
Hồng Văn Quang
Website: Email 15
: Tel (: 0918.775.368


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Sau khi công bố CPI của tháng 12 tăng ở mức 1,38% so với tháng trước, Tổng cục
Thống kê đã công bố CPI cả nước nước năm 2009 tăng 6,88%. Đây là con số khả
quan khi Chính phủ đặt mục tiêu kiềm chế lạm phát năm 2009 dưới 7%. Tuy nhiên
vẫn còn nhiều lo ngại bởi xu hướng tăng giá nhanh của một số mặt hàng.
Theo quy luật, giá cả một số mặt hàng thiết yếu thường tăng giá trước Tết nguyên
đán. Mức tăng này đã đẩy chỉ số giá mặt hàng lương thực tháng 12 tăng 6,88 % so
với tháng trước và tăng 4,57% so với năm 2008.
Mặt hàng thực phẩm so với tháng trước không tăng mạnh nhưng so với năm 2008
lại có mức tăng cao 8,39%.
Sức tăng của 2 mặt hàng này đã đưa chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống
trong tháng 12 tăng mạnh ở mức 2,06%. So với năm ngoái mức tăng này chênh cao
8,71%.
Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng bao gồm: tiền thuê nhà ở, điện, nước, chất đốt và
vật liệu xây dựng tháng 12 cũng tăng ở mức 1,4%. So với năm 2008, mức tăng này
thấp hơn so với một số nhóm hàng khác.
Nhóm đồ uống, thuốc lá tăng 0,97%, nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng
0,81%. Một số nhóm khác có mức tăng khơng cao, đạt ở mức từ 0,07 đến 0,25%
như nhóm văn hố, giải trí, thiết bị và đồ dùng gia đình.
Trong 11 nhóm hàng hố, dịch vụ tiêu dùng thiết yếu, trong tháng 12 và cả năm

2009 nhóm Bưu chính viễn thơng lại giảm 0,11%.
Riêng chỉ số giá vàng trong tháng qua đã tăng cao 10,49%, đưa cả năm 2009 tăng
19,16% so với năm 2008. Chỉ số đô la Mỹ tháng 12 tăng 3,19% đưa con số cả năm
2009 lên 9,17% so với năm 2008
Kiềm chế lạm phát thành công
Nếu cuối năm 2008, mục tiêu giữ lạm phát dưới 15% đã là lý tưởng cho năm 2009
sau một năm lạm phát (CPI) xấp xỉ tới 20% thì đến giữa năm chúng ta lại hồn
tồn n tâm là CPI sẽ dưới 7% và thực tế con số đó là 6,52% so với tháng
12/2008 và bình qn cả năm chỉ tăng 6,88% so với năm trước.
Website: Email 16
: Tel (: 0918.775.368


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Có thể nói lạm phát năm 2009 nằm trong dự tính và kiểm sốt được lạm phát là
một thành cơng của Việt Nam trong năm này. Thành cơng đó càng đặc biệt hơn khi
đi đôi với tốc độ tăng trưởng kinh tế 5,2% và thất nghiệp khơng tới mức nguy hiểm
như dự đốn những tháng đầu năm trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu
tác động tiêu cực tới nền kinh tế nước ta, đặc biệt hoạt động xuất khẩu và thu hút
vốn đầu tư nước ngoài.

Website: Email 17
: Tel (: 0918.775.368


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

C.Dự báo lạm phát trong thới gian tới
Lưu Ngân Hằng


Dự báo tình trạng lạm phát ở việt Nam năm 2010
1.Các yếu tố có thể tác động đến lạm phát trong năm 2010
a. Nguyên nhân chi phí đẩy :
- Tăng giá xăng dầu, điện nước
- Điều chỉnh tỷ giá...
Sau dịp Tết Nguyên đán, giá nhiều mặt hàng cơ bản đã được điều chỉnh
tăng. Giá điện tăng 6.8% từ 01/3/2010, giá xăng dầu điều chỉnh tăng 6.5%
(tổng cộng 2 lần), than bán cho ngành điện tăng từ 28 – 47%. Phần lớn ý
kiến đều quan ngại việc tăng giá điện và các hàng hóa cơ bản này sẽ ảnh
hưởng mạnh đến giá cả hàng hóa trong toàn bộ nền kinh tế và mức tăng
trưởng GDP.
Thực tế, ước lượng mức độ tác động thực sự của việc tăng giá hàng hóa cơ bản này
đến CPI là việc làm khó khăn. Việc tăng giá điện, xăng dầu ngồi ảnh hưởng đến
chi phí sản xuất, cịn tác động lên kỳ vọng của người tiêu dùng. Nếu kỳ vọng về
mức lạm phát cao trong tương lai thì mức lạm phát thực tế càng trở nên trầm trọng.
Điều này thường xảy ra đối với những nền kinh tế mà cơ chế thị trường kém hiệu
quả.
Ảnh hưởng của việc điều chỉnh tỷ giá
Ngày 10/02, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quyết định điều chỉnh tỷ giá liên ngân
hàng tăng thêm 3.3%, đưa mức trần tỷ giá chính thức lên 19,100 VND/USD. Nhiều
nhận định cũng quan ngại về việc điều chỉnh tỷ giá này sẽ ảnh hưởng tới đà tăng
giá của hàng hóa trong nước, vì tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hiện nay đã bằng
khoảng 1.5 lần GDP.
Nhiều mặt hàng tiêu dùng thiết yếu của Việt Nam bị ảnh hưởng khá mạnh bởi tỷ
giá. Vừa qua một số hàng hóa như sữa, sắt thép… cũng điều chỉnh giá bán sau khi
tỷ giá được điều chỉnh. Hiện nay, nhiều nhận định còn cho rằng tỷ giá tiền đồng
vẫn có khả năng tiếp tục được điều chỉnh trong thời gian tới. Do vậy, đây cũng là
một trong những nguyên nhân rất đáng được quan tâm.
Hiệu ứng từ việc tăng lương tối thiểu

Năm 2010, mức lương cơ bản được điều chỉnh tăng khoảng 10-15%, tùy từng khu
vực. Việc tăng lương tối thiểu sẽ ảnh hưởng đến chi phí sản xuất của doanh nghiệp
và ảnh hưởng tới giá cả hàng hóa. Ngồi ra, việc tăng lương tối thiểu cũng có thể
tạo ra một hiệu ứng tăng giá ăn theo trên thị trường.
Website: Email 18
: Tel (: 0918.775.368


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

b. Nguyên nhân cầu kéo :
- Kích cầu
- Thâm hụt ngân sách
Lạm phát do yếu tố cầu kéo
Lạm phát do cầu kéo xuất phát từ sự chênh lệch cung cầu làm cho giá hàng
hóa biến động mạnh. Khi nhu cầu tăng cao đột biến trong khi nguồn cung
chưa kịp thay đổi hoặc ngược lại khi nguồn cung giảm xuống cầu vẫn giữ
nguyên đều làm cho giá hàng hóa tăng. Trong dịp Tết Âm lịch vừa qua, giá
của nhiều hàng hóa tăng một cách đột biến là do nguyên nhân cầu kéo.
- Năm 2009, các gói kích thích kinh tế và việc tăng chi tiêu của chính phủ
khiến nhu cầu một số hàng hóa tăng mạnh. Hiệu ứng từ việc gia tăng nhu
cầu này tiếp tục kéo dài sang năm 2010, gây sức ép lên giá cả nhiều hàng
hóa. Ngồi ra, năm 2010 người dân có thể sẽ tăng cường chi tiêu khi triển
vọng kinh tế khả quan hơn, tạo ra một sức cầu lớn hơn đối với nhiều loại
hàng hóa.
c. Nguyên nhân tiền tệ
- Tăng cung tiền.
- Tăng tín dụng.
Lạm phát từ nguyên nhân tiền tệ
Năm 2009, chính sách tiền tệ được mở rộng, lãi suất và tỷ lệ dự trữ bắt buộc

được ấn định ở mức thấp. Tăng trưởng tín dụng năm 2009 lên đến 37.74%, và
là mức khá cao so với trung bình những năm vừa qua. Tăng trưởng cung tiền
M2 lên mức 28.7%, mức tăng này thấp hơn so với năm 2006 và 2007, nhưng
vẫn khá cao so với năm 2008 và những năm cịn lại trước đó.
Tăng trưởng tín dụng và cung tiền cao trong năm 2009 sẽ ảnh hưởng đến lạm
phát trong năm 2010. Chúng ta đều biết lạm phát có quan hệ chặt chẽ với cung
tiền, nhưng thường có độ trễ từ 5 – 7 tháng.

2. Đánh giá lạm phát từ các khía cạnh
Đánh giá lạm phát từ khía cạnh cung – cầu
Phía cung: Chúng ta gộp những yếu tố ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa do chi
phí đẩy thành nhóm tăng giá từ phía cung. Trong nhóm này gồm có giá hàng
Website: Email 19
: Tel (: 0918.775.368


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

hóa nhập khẩu tăng, tiền trong nước giảm giá, tăng giá điện, nước, than, xăng,
dầu…
Chúng tơi cho rằng, giá hàng hóa trên thế giới năm 2010 khó có thể tăng mạnh,
vì kinh tế thế giới vẫn đang phải vật lộn với nhiều khó khăn. Việc điều chỉnh tỷ
giá cũng không ảnh hưởng mạnh trên diện rộng đối với nhiều hàng hóa vì cơ
cấu hàng tiêu dùng trong nhập khẩu chiếm tỷ lệ không cao (khoảng 30%).
Việc tăng giá điện, nước, than, xăng,dầu tác động trực tiếp và lan tỏa đến
chi phí sản xuất thực tế khơng lớn (ước tính 0,27% - 0,49%). Như vậy, mức độ tác
động thực lên CPI của việc tăng giá điện sẽ không phải là một vấn đề đáng lo ngại
quá mức.
Theo dự báo CPI kết thúc năm 2010 sẽ ở mức 8,7%
Vừa qua, Chính phủ đã thực hiện nhiều biện pháp kiểm sốt bình ổn giá cả, giãn

tăng giá xăng dầu nên hiệu ứng tâm lý được dự báo cũng sẽ khơng cịn q mạnh.
Phía cầu:
Ở những nền kinh tế lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, dù giá nhiều hàng hóa tăng lên
khá mạnh vào cuối năm 2009, chính sách tiền tệ được mở rộng nhưng CPI năm
2009 vẫn ở mức khá thấp.
Trong báo cáo gần đây, World Bank và IMF dự báo, CPI thế giới năm 2010
cũng chỉ tăng 1 - 2%.
• Với tình hình trong nước, sức ép lạm phát từ phía cầu sẽ khơng q lớn.
Kinh tế trong nước dù đạt được sự phục hồi nhưng vẫn cịn khó khăn so với
trước khủng hoảng.
• Lãi suất hiện nay vẫn đang ở mức 16-17%
• Cầu hàng hóa từ Chính phủ cũng khơng q mạnh.
Đánh giá lạm phát từ ngun nhân tiền tệ
• Việc duy trì một mức tăng trưởng tín dụng vừa phải trong năm 2010 sẽ khó
gây ra mức lạm phát cao ngay trong năm, khi mà giá hàng hóa thế giới có
thể sẽ khơng tăng mạnh và sức cầu trong nước vẫn chưa mạnh trở lại.
• Có thể tin tưởng CPI trong tháng 4 và 5/2010 nhiều khả năng sẽ không cao
như nhiều ý kiến quan ngại. Lạm phát năm 2010 có thể được kiểm sốt nếu
NHNN duy trì mức tăng cung tiền một cách hợp lý.
Năm 2010, theo dự báo của Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ tiền tệ Quốc tế
(IMF), nhiều khả năng kinh tế thế giới sẽ có những chuyển biến tích cực hơn.

3.10 dự báo kinh tế tồn cầu 2010
Website: Email 20
: Tel (: 0918.775.368


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Hãng dự báo và phân tích kinh tế tài chính hàng đầu thế giới IHS Global

Insight nhận định tốc độ tăng trưởng GDP tồn cầu năm 2010 có thể đạt
2,8%, giá cả hàng hóa tiếp tục giảm và lạm phát khơng hẳn là vấn đề lớn.
Dưới đây là Top 10 dự báo kinh tế 2010 (Top 10 Economic Predictions for 2010)
do chuyên gia kinh tế trưởng IHS Global Insight, ông Nariman Behravesh cùng các
cộng sự đưa ra, dựa trên mơ hình kinh tế học độc quyền đã nghiên cứu, phát triển
hơn 45 năm qua.
1. Quá trình phục hồi kinh tế Mỹ sẽ khởi động chậm chạp
Tốc độ tăng trưởng kinh tế Mỹ sẽ giậm chân trong khoảng 2-2,5% phần lớn thời
gian của năm 2010. Thị trường nhà đất và việc đầu tư mua sắm máy móc thiết bị
có phần khả quan hơn, song chi tiêu của người tiêu dùng vẫn khá dè dặt dự báo chỉ
tăng 1,8% và GDP khó có cơ hội tăng trưởng với tốc độ lớn hơn. Một trong những
cản trở lớn nhất với việc chi tiêu của các hộ gia đình là tỷ lệ thất nghiệp, dự báo có
thể lên tới 10,5% ngay trong quý I.
2. Châu Âu và Nhật Bản sẽ phục hồi chậm hơn Mỹ
Suy thoái tại châu Âu và Nhật nặng nề hơn nhiều so với Mỹ và hiện có rất ít nhân
tố giúp các nền kinh tế này phục hồi. Dự báo khu vực đồng tiền chung châu Âu và
Anh sẽ tăng trưởng lần lượt 0,9 và 0,8% trong năm 2010. Một vài nước phía Tây
như Iceland, Ireland, hay Tây Ban Nha thậm chí cịn tăng trưởng âm do hệ quả tồi
tệ của bong bóng nhà đất và cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua.
Tình hình tại Nhật Bản có phần khả quan hơn một chút so với EU, tốc độ tăng
GDP có thể đạt 1,4%.
3. Các thị trường mới nổi tiến nhanh hơn
Tất cả các khu vực mới nổi (ngoại trừ ở châu Âu) sẽ phục hồi trong 2010 với tốc
độ lớn hơn Mỹ, châu Âu và Nhật Bản. Tốc độ tăng trưởng chung của châu Á
(ngoại trừ Nhật Bản) có thể đạt 7,1%. Châu Mỹ Latin, Trung Đơng và châu Phi có
thể tăng trưởng trong khoảng 3-4%. Trong khi đó, các nền kinh tế mới nổi ở châu
Âu may ra chỉ tăng trưởng 1,7%.
4. G-8 sẽ duy trì lãi suất ở mức rất thấp

Website: Email 21

: Tel (: 0918.775.368


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Ngân hàng trung ương của một số nước như Australia, Israel hay Na Uy đã tăng lãi
suất. Nhưng nhiều khả năng Cục Dự trữ liên bang Mỹ, Ngân hàng Trung ương
châu Âu, Ngân hàng Trung ương Anh, Nhật Bản sẽ không tăng lãi suất trước quý I.
Tuy nhiên, một số nước ở châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ có thể tăng lãi suất sớm
hơn, ngay quý I hoặc đầu quý II.
5. Giảm bớt liều lượng kích thích kinh tế
Các gói kích thích khổng lồ đặc biệt là của Mỹ và Trung Quốc đã giúp ngăn nguy
cơ sụp đổ hệ thống tài chính thế giới. Nhưng khi khủng hoảng qua đi, phần lớn các
quốc gia đều khơng đề cập tới các gói kích thích mới, thậm chí vài nơi cịn thắt
chặt hơn (chẳng hạn Anh còn tăng thuế giá trị gia tăng kể từ tháng một). Ngay như
ở Mỹ, người ta đang bàn bạc nhiều về gói kích thích kinh tế thứ hai, song thực tế
chưa có một đồng nào được đưa ra thêm cho dù tình trạng thất nghiệp vẫn gia tăng.
6. Giá hàng hóa vẫn trong xu hướng giảm
Đà phục hồi gần đây chưa đủ để cân bằng giá cả so với thời trước suy thoái. Thực
ra, một vài đợt tăng giá vừa qua có thể do tác động của giới đầu tư, hơn là xuất
phát từ thực tế cung cầu. Nhiều khả năng trong một vài tháng tới, giá dầu và một
số hàng hóa cơ bản khác sẽ giảm tiếp. Đặc biệt, giá dầu sẽ giảm từ mức 75-80
USD một thùng hiện nay xuống còn 65 USD trong quý I trước khi leo dần về
ngưỡng 70 USD một thùng vào cuối 2010, lúc kinh tế thế giới thực sự phục hồi.
7. Lạm phát hầu như không phải là vấn đề lớn
Ở hầu hết các khu vực, lạm phát sẽ được kiểm soát tốt. Tỷ lệ thất nghiệp leo thang,
khả năng tăng lương rất thấp, trong khi đó tình trạng sản xuất vượt nhu cầu vẫn
tiếp diễn, sẽ khiến doanh nghiệp cân nhắc kỹ trước khi quyết định tăng giá bán sản
phẩm. Áp lực lạm phát chỉ có thể xuất hiện ở ở những nước có tốc độ tăng trưởng
kinh tế mạnh mẽ, mà chủ yếu là ở châu Á và những nước định giá thấp đồng nội tệ

so với đôla Mỹ.
8. Tình trạng mất cân đối tồn cầu sẽ tệ hơn
Thâm hụt tài khoản vãng lai của Mỹ giảm mạnh trong 2009, từ mức 700 tỷ USD
năm 2008 xuống còn 450 tỷ USD. Tuy nhiên, tình hình sẽ tệ trở lại và thâm hụt
trong 2010 sẽ tăng thêm 90 tỷ USD so với năm ngối. Ngun nhân chính của tình
trạng này là Mỹ tăng trưởng nhanh hơn so với các nền kinh tế phát triển khác. Bên
cạnh đó, tình trạng lệ thuộc quá nhiều vào xuất khẩu tại nhiều nước như Đức,
Website: Email 22
: Tel (: 0918.775.368


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Trung Quốc hay châu Á cũng là nhân tố khiến tình trạng mất cân đối tồn cầu tệ
hơn năm ngối.
9. Đồng đơla chịu sức ép mất giá
Có thể tăng điểm trong ngắn hạn, song đồng bạc xanh sẽ sớm quay về xu hướng
mất giá trong năm 2010. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Mỹ có khả năng nhỉnh hơn so
với các nước phát triển khác như Nhật Bản hay tại EU. Tuy nhiên đồng đơla có thể
rơi vào trạng thái bán q mức (oversold) và sớm chịu sức ép điều chỉnh trong một
vài tháng tới. Trong trường hợp tình trạng mất cân đối vẫn tiếp diễn, đà giảm giá
đồng đôla sẽ mạnh hơn, đặc biệt khi so sánh với đồng tiền của các nước đang phát
triển vốn được dự báo sẽ tăng trưởng khả quan trong năm nay.
10. Tăng trưởng kinh tế có nguy cơ theo hình chữ W
Có một phần năm khả năng kinh tế thế giới sẽ đối mặt với nguy cơ suy thối kép
hay nói cách khác là diễn biến theo mơ hình chữ W, phục hồi rồi suy thối trở lại
trước khi lấy lại đà tăng trưởng. Có nhiều lý do dẫn tới nguy cơ này, trong đó bao
hàm cả việc các nước có thể thắt chặt chính sách tiền tệ, tài khóa sau thời gian nới
lỏng để hỗ trợ kinh tế. Trong khi đó, sức mua của người dân vẫn rất yếu do tình
trạng thất nghiệp chưa được cải thiện và nguy cơ sụp đổ một số tổ chức tài chính

lớn.

4. Dự báo
Gói kích cầu trong năm 2009 thể hiện độ trễ, cộng với xu thế tăng giá trên thế
giới, sẽ tác động đến giá tiêu dùng năm 2010.
Năm nay, giá cả được dự báo là sẽ có tăng nhưng không tạo yếu tố gây sốc lớn,
nếu không có gì q bất thường. Năm 2010, kinh tế thế giới phục hồi và nhập
khẩu đầu vào sẽ tăng giá nhưng kinh tế thế giới cũng không thể phục hồi nhanh
được.
Ngân hàng Nhà nước dự báo rằng, trong năm 2010, tăng trưởng và lạm phát
sẽ diễn ra theo một số kịch bản sau:
• Lạm phát được dự báo ở mức “thấp” (khoảng 8,5%).
Tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng năm 2009 khoảng 25 27%, năm 2010 khoảng 23 - 25%. Hiệu quả đầu tư tương ứng năm 2008, ICOR
đạt khoảng 7 - 7,5.
Giá dầu thế giới bình quân 60USD/thùng năm 2009, 70 - 75USD/thùng năm
2010 (theo dự báo của IMF ngày 8/7/2009). Giá gạo thế giới có xu hướng tăng
và đạt mức bình qn 565 USD/tấn năm 2009, 600 USD/tấn năm 2010.
Website: Email 23
: Tel (: 0918.775.368


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Kết quả dự báo theo mơ hình kinh tế lượng và phân tích nhân tố ảnh hưởng,
năm 2010, tăng trưởng kinh tế khoảng 6,2% - 7%, lạm phát khoảng 7,5 - 8,5%
Lạm phát giữ ở mức “thấp” sẽ là 8,5% nếu Chính phủ thận trọng trong
chính sách tiền tệ.
Để đạt mức lạm phát này, cần có sự thận trọng trong chính sách tiền tệ.
Nền kinh tế có thể đạt tăng trưởng ở mức 6,3%, với sự tăng trưởng của các
khu vực, trong đó có khu vực kinh tế Nhà nước, khu vực kinh tế có vốn

đầu tư nước ngồi, khu vực kinh tế ngồi Nhà nước...
• Lạm phát cao hơn (khoảng 10,5%)
• Tốc độ tăng của tín dụng và tổng phương tiện thanh toán năm 2009 khoảng
30%, năm 2010 khoảng 25 - 27%. Hiệu quả đầu tư giảm nhẹ so với năm
2008, ICOR đạt khoảng 7,7 năm 2009 - 2010 do đầu tư mở rộng theo chính
sách kích cầu.
• Giá dầu thế giới tăng trở lại và đạt mức bình quân 64 USD/thùng năm 2009
và 70 USD - 75 USD/thùng năm 2010. Giá gạo thế giới có xu hướng tăng và
đạt mức bình quân 570 USD/tấn năm 2009 và 750 USD/tấn vào năm 2010
(gạo 5% tấm của Thái Lan).
• Kết quả dự báo bằng mơ hình kinh tế lượng và phân tích nhân tố ảnh hưởng,
năm 2010, tăng trưởng kinh tế khoảng 6 - 6,5%, lạm phát khoảng từ 10%.
Kịch bản thứ hai đưa ra mức lạm phát 10,5% nếu Chính phủ khơng quyết liệt
trong việc chống lạm phát vì cho rằng, việc thắt chặt tiền tệ có thể khiến gây ra
nhiều chi phí cho nền kinh tế trong ngắn hạn. Nếu lạm phát giữ ở mức cao này,
tăng trưởng GDP có thể đạt 6,8-6,9%.
Tuy nhiên,mức tăng trưởng này có thể dẫn tới những bất ổn vĩ mô như: lạm
phát vượt 1 con số, thâm hụt thương mại tiếp tục tăng và thâm hụt ngân sách
tương đương như năm 2009. Năm 2010, Việt Nam nên ưu tiên bình ổn kinh tế
vĩ mơ hơn là nỗ lực tăng trưởng.

5.Tổng Qt
Nói tóm lại tình trạng lạm phát của Việt Nam năm 2010 có thể sẽ
phụ thuộc nhiều hơn vào chính sách điều hành của chính phủ
Tác động tiêu cực của vấn đề lạm phát lên kinh tế vĩ mơ và TTCK trong năm
2010 có thể là không quá lớn khi lạm phát nhiều khả năng được kiểm soát dưới
2 chữ số.
Website: Email 24
: Tel (: 0918.775.368



Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Nhiều phân tích đã cho rằng mối lo lớn nhất tác động đến lạm phát năm 2010 là
từ chính sách tiền tệ nới lỏng. Tổng phương tiện thanh tốn, tăng trưởng tín
dụng đều rất cao trong khi tăng trưởng GDP thực tế lại chỉ có 11,4%.
Chính phủ đang ý thức được tầm quan trọng của vấn đề lạm phát khi thời gian
gần đây các biện pháp bình ổn giá cả, yêu cầu giãn tăng giá xăng dầu…liên tục
được thực hiện
Nếu tính quy luật của diễn biến thị trường giá cả được duy trì trong năm 2010
kết hợp với những chính sách kinh tế vĩ mô và quản lý giá cả thị trường hợp lý,
ứng phó tốt với tình hình biến động của kinh tế thế giới, cân đối giữa ổn định và
tăng trưởng thì CPI cả năm có thể ở mức 1 con số, khoảng từ 7-10%.
Khả năng giữ ở mức 1 con số là cao, theo những căn cứ về tình hình trong và
ngồi nước. Cịn nếu một hoặc một số các điều kiện trên khơng đảm bảo thì CPI
có thể lên tới 12-15%

Hết

Website: Email 25
: Tel (: 0918.775.368


×