Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

TƯ TƯỞNG CON NGƯỜI TRONG ĐẠO HINĐU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (69.34 KB, 4 trang )

TƯ TƯỞNG CON NGƯỜI TRONG ĐẠO HINĐU
Thể hiện trong kinh Upanisat và hai bộ sử là Mahabharata, Ramayana.
Tư tưởng được tập trung trình bày chủ yếu ở các cặp phạm trù cơ bản là
Brahman – Atman, Kama – Sansana, Dharmar – Moksha
• Brahman – Atman
“Brahman là tinh thần vũ trụ, là cái do đó mà mọi vật sinh ra, cái nhờ đó mà
mọi vật sinh trưởng, cái trong đó mọi vật nhập vào khi chết, là thực tại duy nhất của
vũ trụ tuyệt đối, thường tồn. Brahman là đại ngã”
“Atman” là linh hồn cá thể, một mảnh, một biểu hiện của Brahman được sinh
ra từ Brahman, tồn tại trong mỗi sự vật hiện tượng cụ thể và đơn nhất. Atman là tiểu
ngã. Sauk hi được sinh ra từ Brahman, Atman mới tìm đến nhập vào một thể xác đó.
Khi một thể xác chết đi thì Atman rời bỏ để đến trú ngụ ở một thể xác khác. Như vậy,
mọi vật đều có linh hồn. Linh hồn đó là Atman. Bao giờ Atman trở về được với
Brahman mới đoạt được sự giải thoát hoàn toàn.
Con người chết đi thể xác bị hủy diện nhưng Atman thì không bao giờ bị hủy
diệt. Linh hồn cá thể ở con người và các sự vật khác nhau mà cùng là một mảnh của
Brahman => về bản chất Atman và Brahman đồng nhất. Atman ở mình và Atman ở
người khác cũng đồng nhất do cùng sinh ra từ Brahman, tuy 2 mà 1. Vì vậy làm tổn
hại đến sinh mệnh khác chính là làm tổn hại đến sinh mệnh của chính mình, kể cả
muông thú, côn trùng, cây coe cũng vậy => đây là cơ sở của tư tưởng bất ổn sinh.
Hiểu biết của con người vốn là vô minh nên thường bị ngụy ngã che lấp nghĩa
là ý thức lầm lạc tưởng rằng linh hồn mình là của riêng mình, là cái cho mình từ đó
mới nảy sinh những ham muốn ích kỷ => sinh ra lục dục, lục súc, mới sinh ra khổ
đau, sinh ra những hành động ác, tạo nghiệp ác => Atman cứ vướng mãi trong thể xác,
trong vòng luân hồi sinh tử, không trở về được với Brahman. Con người càng vướng
vào ích kỷ thì cái chân ngã càng bị cái ngụy ngã che lấp.
Theo quan niệm trên thì đời sống con người sống hay chết, hạnh phúc hay khổ
đau, thành công hay thất bại đều chỉ khác nhau hình thức bề ngoài thực chất đồng
nhất với nhau, đều là thay đổi linh động của Atman.
Nhận thức cũng vậy, hiểu hiết đạt đến trạng thái viên mãn là hiểu biết vượt lên
trên hiểu biết tri thức để đạt đến trạng thái lạc là trạng thái mà tâm và vật, chủ quan và


khách quan , người biết với vật bị biết kết hợp làm một, đồng nhất với nhau không
còn chút nào phân biệt.
• Kama – Samsana
Kama nguyên nghĩa là hành động. trong đạo Hinđu nó được hiểu là hành động
tạo ra nghiệp của mỗi người theo đó mỗi hành động của con người dù là tốt hay xấu
thì đều tạo ra những hậu quả nhất định mà chính anh ta phải chịu trách nhiệm cuối
cùng.
“Hành động” ở đây bao gồm cả suy nghĩ, tư tưởng, cả việc làm. Hành động
của con người trong quá khứ như thế nào sẽ quyết định cuộc sống con người trong
hiện tại.
Kama được hiểu alf nghiệp mà nguyên nhân trực tiếp của nghiệp là hành động.
Nguyên nhân sâu xa của nghiệp là ý thức lầm lạc. Cho rằng Atman là cái của riêng
mình, cho mình làm cho vị ngã che lấp cái chân ngã.
Hành động thì phong phú, phức tạp vì vậy con người ngày càng có những hành
động ác mà không biết. Mà nghiệp lại là cái tích tụ vô số những hành động hàng ngày
=> nghiệp là cái không nhận thức được, ảnh hưởng đến cuộc sống con người cả trong
hiện tại, cả trong tương lai.
Hành động như thế nào thì nghiệp như thế ấy => hưởng phúc phận tương xứng.
Cho nên, định mệnh không phải là sự sắp đặt của lực lượng siêu nhiên thần bí nào mà
nó do chính hành động của con người tạo ra.
Samsara: luân hồi
Đó là tư tưởng cho rằng cuộc sống của mỗi người chỉ là cuộc đời gần nhất
trong một chuỗi dài nhiều không kể siết những cuộc đời nối tiếp nhau từ tít tắp xa xôi
trong quá khứ. Khi 1 người chết đi chỉ có thân xác là rữa nát còn linh hồn không chết
mà tùy theo nghiệp để lại tái sinh vào một thân xác mới thuộc một chủng loại nào đó.
Nếu lại tái sinh vào kiếp người thì lại tùy theo nghiệp mà vòa một đẳng cấp nào đó.
Tùy theo nghiệp mà có phúc phận khác nhau.
Con người khôn thể thoát được nghiệp và luân hồi , con người chỉ có thể thoát
được nghiệp và luân hồi khi mà Atman trở về đồng nhất hoàn toàn với Brahman, trở
về tự do và siêu thoát.

Vì thế cho nên mới nảy sinh khao khát trở về với Brahman rũ bỏ mọi ham
muốn, thoát li trần thế, trở về với thế giới bên trong.
Karma – Samsara chứa đựng ý nghĩa nhân văn sâu sắc ở chỗ mỗi cá nhân tự
chịu trách nhiệm và tự quyết định lấy chính mình vì hành động của anh ta quyết đinh
luân hồi của anh ta cho nên định mệnh không phải là được sắp đặt bởi một đống siêu
nhiên nào mà do con người tạo ra cho chính mình. Chẳng hạn: chỗ đứng của mỗi cá
nhân, hạnh phúc hoặc đau khổ của của mỗi con người… không phải do ai tạo ra mà
do chính bản thân họ.
Ngược lại Karma – Samsara cho thấy sức trói buộc của vòng quay luân hồi ở
chỗ những ham muốn ích kỷ của con người khiến cho linh hồn bị giam hãm ở hết thể
xác này đến thể xác khác mà không thể thoát khỏi luân hồi, không thể nào trở về đồng
nhất với Atman, với Brahman.
Với ý nghĩa như vậy thì Karma – Samsara tiềm tang hai kiểu ứng xử khác
nhau:
- Nhẫn nhục, cam chịu, thụ động theo vòng quay của bánh xe luân hồi.
- Nỗ lực theo thiện tránh ác, tin rằng con người có thể nỗ lực quyết định
chính mình.
Quan niệm Karma – Samsara trên ảnh hưởng sâu sắc đến các tôn giáo khác
nhau ở Ấn Độ.
• Dharmar – Moksha
Dharmar nghĩa là duy trì, nâng đỡ, trong truyền thống Ấn Độ giáo nghĩa là
nền tảng cơ bản ; có thể dịch là đạo hay pháp, là từ dùng để chỉ nguyên lí, trật tự, quy
luật khách quan cơ bản nhất chi phối toàn thể vũ trụ, là quy luật tự nhiên bất biến,
đồng thời Dharama của mỗi người là nhiệm vụ xã hội , vai trò xã hội được định sẵn
cho anh ta mà anh ta phải hoàn thành để đảm bảo cho sự vận hà của trật tự của xã hội
như một cái toàn thể. Mỗi người có một Dharama riêng, nó là cái định xuất cho trước ,
định sẵn về vai trò, vị trí của mỗi người để mỗi người sinh ra là sứ giả của thế giới. Để
xứng đáng với Dharma thì mỗi người có quan hệ xã hội riêng, con người phải làm
nhiệm vụ để hoàn thành vai trò đó.
Hoạt động thể hiện Drarma chính là nghiệp. Đây chính là chỗ phân biệt con

người và con vật, con người khác con vật ở chỗ có khả năng thể hiện Drarma một
cách có ý thức nghĩa là có khả năng thể hiện các quy luật đạo đức nghĩa là có khả
năng theo Pháp.
Moksha nghĩa là giải thoát, thoát khỏi Kasma – Samsara (nghĩa là thoát khỏi
nghiệp báo luân hồi), thoát khỏi mọi giới hạn của thể xác, thoát khỏi mọi vô minh đau
khổ để đạt tới cực lạc.
Như vậy, Dharmar – Moksha là hai phạm trù đối lập ở chỗ Dharma nhấn
mạnh bổn phận, Moksha là tự do, Dharma chủ yếu thuộc bình diện xã hội, Moksha
vượt lên bình diện đó, nó thuộc về vĩnh cửu, Dharma là có giới hạn Moksha không có
giới hạn nhưng nó quy định nhau, để đạt tới Moksha thì phải thực hiện tốt Dharma.

×