Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Hình Tượng Con người trong điêu khắc pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.51 KB, 12 trang )



Hình Tượng Con người
trong điêu khắc



Cuối thế kỷ XVII là giai đoạn phát triển đỉnh cao của nghệ
thuật điêu khắc kiến trúc đình làng Việt và nhiều ngôi đình
nổi tiếng xuất hiện trong giai đoạn này như: đình So, đình
Chu Quyến (Hà Tây), đình Kiền Bái (Hải Phòng), đình Diềm
(Bắc Ninh).

Hiện chưa có một thống kê đầy đủ về số lượng những ngôi
đình thế kỷ XVII, nhưng có thể khẳng định chúng chiếm một
tỷ lệ khá lớn trong loại hình đình làng Việt, tập trung chủ yếu
ở đồng bằng Bắc Bộ và rất nhiều trong số đó còn bảo lưu
được các giá trị về mặt kiến trúc, nghệ thuật.

Đi liền với những công trình kiến trúc công cộng làng xã là
sự phát triển đến đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc dân gian,
góp phần tạo nên giá trị độc đáo của kiến trúc đình làng thế
kỷ XVII. Trong điêu khắc trang trí trên kiến trúc đình làng
giai đoạn này, hình tượng con người nổi lên như một hình
ảnh trung tâm, một điểm nhấn độc đáo(1).





Điêu khắc gỗ tại đình Hà Hiệp - Hà Tây



Nghệ thuật đã phát triển lên một trình độ mới, thể hiện ý thức
về cuộc sống tinh thần của người dân đương thời. Hình tượng
con người không những phong phú về chủ đề, ý tưởng mà
còn đa dạng về thủ pháp nghệ thuật diễn đạt và chiếm một vị
trí trang trọng trong đình. Có thể chia theo hai nội dung
chính:

- Hình tượng con người mang yếu tố thần thoại, ước lệ được
thể hiện ở những mảng trạm khắc theo các chủ đề: “Vũ nữ
thiên thần” “người cưỡi rồng, phượng, hạc”, “táng mả Hàm
Rồng” “Người cưỡi hổ”.

- Với hình tượng con người phản ánh cuộc sống xã hội đương
thời được thể hiện ở cảnh”Đấu vật”, “uống rượu”; “đánh cờ”;
“mẹ con”; “cưỡi ngựa”, “chọi gà, lễ hội”, “nam nữ tình tự”,
“thiếu nữ tắm hồ sen”, “chèo thuyền”, “đi săn”.

Với hình tượng con người mang yếu tố thần thoại nổi bật với
những hình tượng vũ nữ thiên thần có cánh và không có
cánh. Tượng vũ nữ ở vị trí ván gió cánh gà thường chạm
chính diện với khuôn mặt trái xoan , mũi thấp , môi mỏng ,
cổ cao thanh tú , đôi khi thể hiện rõ cả 3 ngấn (Đình Diềm –
Bắc Ninh). Có khi tượng vũ nữ lại có những đặc điểm chung
là ngực nở bụng thon, cánh tay dài với những ngón tay búp
măng mềm mại.

Bên cạnh đó còn rất nhiều hình tượng con người khác như
những đạo sĩ ngồi bó gối trầm tư (đình Hạ Hiệp), người bắt
lợn (đình Hạ Hiệp, đình Hương Canh ), chồng nụ, chồng

hoa, thôn nữ ngồi trên đầu rồng; đá cầu (đình Hạ Hiệp, đình
Hương Canh), cưỡi ngựa, cưỡi voi, quản tượng Với hàng
trăm con người đã vẽ lên bức tranh làng quê xưa: có điều
thiện và tội ác, có hạnh phúc và khổ đau, có nụ cười và nước
mắt, có khát vọng, lạc quan và bi luỵ, đau thương Tuỳ từng
đề tài mà cách diễn đạt, mô tả, nhấn mạnh từng đặc điểm
khác nhau. Đạo sĩ thường có khuôn mặt đăm chiêu (đình Hạ
Hiệp), cảnh đấu vật, đi săn thì nhấn mạnh các bắp thịt cuồn
cuộn của nhân vật chính (đình Hạ Hiệp, Đại Phùng, Hoàng
Xá), cảnh nam nữ tình tự, cảnh thiếu nữ lại chú ý diễn tả
khuôn mặt vui vẻ, viên mãn; các cô gái được diễn tả với
khuôn ngực căng tròn, đầy sức sống (đình Phù Lão); Người
nông dân thường có đặc điểm: đầu tròn, to, cạo trọc; đàn bà
thường có khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu, để tóc dài, xoã hoặc
búi thành búi lớn trên đỉnh. Nói chung hình ảnh con người đa
phần đều mang những nét cơ bản của người bản địa, thuộc
chủng tộc Nam á, với những đặc điểm: người thấp, đậm, mặt
tròn, mũi to, sống mũi thấp, môi dày, mắt to Cũng có một
vài mảng chạm người đàn ông có vóc dáng khá cao lớn, mũi
cao, và đặc biệt dựa vào trang phục (áo dài, chân đi ủng, đầu
đội mũ phớt rộng vành ), có thể đó là những người phương
Tây đến nước ta buôn bán trong giai đoạn này; Những bức
chạm mô tả người đàn ông trong các cảnh đấu vật, đi săn,
táng mả hàm rồng thường có thân hình vạm vỡ, ngực nở,
đôi khi các cơ bắp được phóng đại lên quá mức. Nhìn chung,
hình tượng con người trong điêu khắc kiến trúc đình làng thế
kỷ XVII thường có tỷ lệ giữa đầu và thân mang tính ước lệ,
chỉ bằng 1/3.

Một đóng góp quan trọng của điêu khắc đình làng là sự phản

ánh cuộc sống hiện thực của nông thôn Việt Nam thế kỷ
XVII. Hoàn cảnh kinh tế xã hội lúc đó không chỉ có sự thay
đổi về vật chất mà còn mang lại những trào lưu tư tưởng mới.
Chính vì thế, khi ngọn lửa của cuộc nội chiến vừa tắt, thôn
xóm mới trở lại yên bình, người dân đã bắt tay xây dựng
đình, chùa. Người nghệ sĩ dân gian đã thể hiện cách nhìn lãng
mạn của họ về một thế giới đang hồi sinh: cảnh náo nhiệt của
hội làng, phút giây đoàn tụ chồng vợ, cuộc hò hẹn của bạn
tình, sự nồng nàn của ái ân, nụ cười không tắt của cuộc rượu,
phút thư nhàn của buổi săn tất cả đều tươi mát tình nhân ái,
tính nhân văn. Song, cái chất lãng mạn của điêu khắc đình
làng không mang tính dung tục, thấp hèn. Có rất nhiều cảnh
tình tự không hề khơi dậy cảm giác xác thịt mà chỉ thể hiện
tình yêu và cái đẹp cùng ý thức phản kháng mãnh liệt của con
người đương thời.

Có thể thấy qua những bức chạm của đình làng Việt thế kỷ
XVII rất nhiều mặt của đời sống xã hội: trong lao động -
cảnh đi săn thú, trong sinh hoạt - vợ chồng gãi chân cho
nhau, đá cầu, đấu khiên, hát chèo, nam nữ tự tình, uống
rượu Ngoài ra còn khá nhiều bức chạm mô tả về tầng lớp
quan lại: cảnh người hầu quạt cho quan, cảnh quan cưỡi
ngựa, cảnh cướp con, đòi nợ và đặc biệt là cảnh phạt vạ gái
chửa hoang ở sân đình (đình làng Phù Lão) Tính hiện thực
thể hiện ngay trong từng chi tiết: Khẩu súng kíp, đao, kiếm,
cung của thế kỷ XVII; Y phục của con người thuộc các tầng
lớp khác nhau trong xã hội đương thời: (váy, mũ miện, hạt
cườm của phụ nữ; áo dài, ủng, mũ phớt của đàn ông );
Những nhạc cụ cổ xưa (kèn, sáo, trống, thanh la ) hay các
trò chơi dân gian (đấu vật, chọi gà, đá cầu ) vv Đó là

những tư liệu phong phú, sống động cho các ngành khoa học
như: Dân tộc học, Văn hoá dân gian, Lịch sử quân sự

Thông qua tính hiện thực của đề tài, điêu khắc trang trí đình
làng Việt thế kỷ XVII còn thể hiện tính đấu tranh sâu sắc.
Dưới chế độ phụ quyền Nho giáo, người phụ nữ bị khinh
miệt, coi rẻ “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, “phụ nhân
nan hoá”) Vì vậy, người phụ nữ không được tới đình làng.
Vậy nhưng điêu khắc đình làng lại dày đặc hình ảnh người
phụ nữ. Họ tự do thể hiện tình yêu với chồng, với con, với
bạn bè; tự do vui đùa, ca hát Có thể nói, không ở một công
trình kiến trúc dân gian nào khát vọng yêu đương lại được
bộc lộ mạnh mẽ như ở đình làng Việt.

Điêu khắc gỗ tại đình Phù Lưu - Bắc Ninh

Bên cạnh chủ đề ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ, một phần
nội dung nghệ thuật đã trở thành tiếng nói tố cáo chế độ
phong kiến đương thời. Đó là cảnh những tên quan bụng phệ
ngồi trên sập có thê thiếp hầu quạt. Cảnh phạt vạ của làng với
một cô gái đang bụng mang dạ chửa (đình Phù Lão). Đây
chính là những; lời tố cáo đanh thép.

Tóm lại, dù phản ánh hiện thực cuộc sống hay phản ánh ước
mơ, khát vọng của người nông dân đương thời thì những tác
phẩm điêu khắc trang trí đó vẫn mang đậm tính dân gian, dân
dã. Người thợ chạm khắc gỗ thế kỷ XVII đã tự vượt ra khỏi
khuôn khổ gò bó để tạo nên những tác phẩm sinh động, cởi
mở. Chỉ với vài nét đục, vài đường chạm sơ phác nhưng
những tác phẩm điêu khắc đó đã trở nên có hồn, vô cùng

sống động. Hơn thế nữa các đề tài thể hiện lại vô cùng phong
phú, cho thấy đời sống và sinh hoạt của người dân rõ ràng đã
có ảnh hưởng đến nghệ thuật trang trí kiến trúc và ngược lại,
kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc lại là tấm gương phản ánh
cuộc sống của người xưa.





Ghi chú:

(1)Thực tế sang thế kỷ 18 ta vẫn gặp một số đình làng mô tả
hình tượng con người trên điêu khắc kiến trúc (đình Hồi
Quan – Bắc Ninh, đình Hoành Sơn – Nghệ An )

×