Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Luận văn Hoàn thiện công tác thẩm định tài chính trong cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Quân Đội – Chi nhánh Minh Khai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.6 KB, 74 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Tín dụng là hoạt động kinh doanh chiếm tỷ trọng cao nhất, cũng là hoạt
động mang lại nguồn thu lớn nhất của ngân hàng. Song cũng mang lại nhiều rủi
ro nhất cho các ngân hàng thương mại. Rủi ro này có rất nhiều nguyên nhân, đều
có thể gây ra tổn thất làm giảm thu nhập, gây thiệt hại về tài chính cũng như uy
tín của cả ngân hàng cũng như doanh nghiệp. Chính vì vậy, vấn đề chất lượng
thẩm định tín dụng và nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng luôn là vấn đề
quan tâm hàng đầu của các ngân hàng.
Trong quá trình đổi mới vừa qua, các DNV&N đã được tạo điều kiện
thuận lợi và có sự phát triển đáng kể cả về số lượng và chất, có đóng góp tích
cực trên nhiều mặt cho sự phát triển của nền kinh tế. Hiện nay việc mở rộng cho
vay đối tượng DNV&N cho phép phân tán rủi ro cho các ngân hàng thương mại.
Để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả và tăng quy mô đầu tư, hạn chế rủi ro
tín dụng DNV&N, các ngân hàng thương mại phải không ngày nâng cao chất
lượng thẩm định tài chính đối với loại hình doanh nghiệp này xuất phát từ thực
tiễn quan sát, tìm hiểu nghiên cứu hoạt động tín dụng nói chung và công tác
thẩm định tín dụng DNV&N nói riêng, em đã lựa chọn đề tài “Hoàn thiện công
tác thẩm định tài chính trong cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân
hàng Quân Đội – Chi nhánh Minh Khai”.
Kết cấu của bài viết gồm ba phần
Phần 1: Thẩm định tài chính trong cho vay DNV&N của các NHTM
Phần 2: Thực trạng công tác thẩm định tài chính trong cho vay DNV&N
tại Ngân hàng Quân Đội – Chi nhánh Minh Khai.
Phần 3: Ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác thẩm định tài chính
trong cho vay DNV&N tại Ngân hàng Quân Đội – Chi nhánh Minh Khai.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, chỉ bảo của cô giáo hướng dẫn,
cùng sự giúp đỡ của các anh chị phòng tín dụng doanh nghệp – Chi nhánh Minh
Khai để em có thể xây dựng và hoàn thiện đề tài này.
1
CHƯƠNG I
PHƯƠNG PHÁP THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH TRONG HOẠT ĐỘNG


CHO VAY DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1. Tín dụng ngân hàng
1.1. Khái niện tín dụng ngân hàng
 Khái niệm tín dụng
Tín dụng là một phạm trù của nền kinh tế hàng hóa, nó phán ánh quan hệ
giữa người sở hữu với người sử dụng các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền
kinh tế theo nguyên tắc hoàn trả vốn và lợi tức khi đến hạn thanh toán.
 Khái niệm tín dụng ngân hàng
Là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác với các
nhà doanh nghiệp và cá nhân.
Trong nền kinh tế, ngân hàng đóng vai trò là một định chế tài chính trung
gian, vì vậy trong quan hệ tín dụng với các nhà doanh nghiệp và cá nhân, ngân
hàng vừa là người đi vay đồng thời là người cho vay.
Với tư cách là người đi vay ngân hàng nhận tiền gửi của các nhà doanh
nghiệp và cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để hoạt động
vốn trong xã hội. Trái lại với tư cách là người cho vay, ngân hàng cung cấp tín
dụng cho các doanh nghiệp và cá nhân.
Tuy nhiên, khi nói đến tín dụng ngân hàng thì chỉ bao hàm nghĩa là ngân
hàng cho vay. Việc xác định như thế này là rất cần thiết để định lượng tín dụng
trong các hoạt động kinh tế.
1.2. Phân loại tín dụng ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng rất đa dạng và phong phú
với nhiều hình thức khác nhau. Để sử dụng và quản lý tín dụng có hiệu quả thì
phải tiến hành phân loại tín dụng. Có nhiều cách phân loại tín dụng khác nhau
tùy theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lý của ngân hàng. Sau đây là
một số cách phân loại:
2
 Căn cứ vào thời hạn tín dụng: phân loại theo thời gian có ý nghĩa quan
trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh

lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian, tín
dụng được phân thành:
 Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới 1 năm và thường
được sử dụng để cho vay bổ sung thiếu hụt vốn lưu động tạm thời của các doanh
nghiệp và cho vay phục vụ sinh hoạt của cá nhân.
 Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 1 năm đến 5 năm.
Loại tín dụng này nhằm tài trợ cho hoạt động mua sắm tài sản cố định, cải tiến
và đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ có thời gian thu
hồi vốn nhanh.
 Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, tín dụng dài hạn
được sử dụng để cung cấp cho các doanh nghiệp vào các vấn đề như: xây dựng
cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng,
cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.
 Căn cứ vào tài sản đảm bảo
Trong nhiều trường hợp, ngân hàng yêu cầu khách hàng phải có tài sản
đảm bảo bởi vì đó là tài sản đảm bảo các khoản tín dụng cho phép ngân hàng có
được nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguốn thu nợ thứ
nhất (từ quá trình sản xuất kinh doanh) không có hoặc không đủ. Theo cách
phân loại này tín dụng được chia thành tín dụng đảm bảo bằng tài sản hữu hình
và tín dụng đảm bảo bằng tài sản vô hình
 Tín dụng đảm bảo bằng tài sản hữu hình: là hình thức tín dụng trong đó
khách hàng nếu muốn được ngân hàng cho vay thì phải có tài sản hữu hình để
cầm cố, thế chấp hoặc sự bảo lãnh bằng tài sản hữu hình của bên thứ ba được
ngân hàng đồng ý.
 Tín dụng đảm bảo bằng tài sản vô hình: là hình thức tín dụng trong đó
ngân hàng cho khách hàng vay dựa trên uy tín của khách hàng mà không cần
cầm cố, thế chấp tài sản hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Tín dụng
đảm bảo bằng tài sản vô hình thường được cấp cho những khách hàng lớn có uy
3
tín cao, làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình

trạng nợ nần dây dưa.
 Căn cứ vào rủi ro: cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh
giá lại tính an toàn của các khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời.
Theo cách phân loại này, tín dụng gồm:
 Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi đầy đủ cả
nợ gốc và lãi đúng hạn.
 Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh
như khách hàng gặp khó khăn trong tiêu thụ, khách hàng gặp thiên tai, khách
hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính…
 Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn
ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo hữu hình có giá
trị lớn…
 Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn đã lâu, khả năng trả nợ thấp, khách hàng
dây dưa, chầy ỳ không trả nợ…
 Căn cứ vào đối tượng tín dụng:
 Tín dụng vốn lưu động: Là loại tín dụng được dùng hình thành vốn lưu
động của tổ chức kinh tế như cho dự trữ hàng hóa đối với các doanh nghiệp
thương nghiệp, cho vay để mua phân bón, giống, thuốc trừ sâu đối với các hộ
sản xuất nông nghiệp.
Tín dụng vốn lưu động thường được sử dụng để cho vay bù đắp mức vốn
lưu động thiếu tạm thời, loại tín dụng này thường được chia ra làm các loại sau:
cho vay dự trữ hàng hóa, cho vay để thanh toán các khoản nợ dưới hình thức
chiết khấu thương phiếu.
 Tín dụng vốn cố định: Là loại tín dụng được dụng hình thành tài sản cố
định. Loại tín dụng này thường được đầu tư để mua tài sản cố định, cải tiến và
đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và công trình mới,
thời hạn cho vay đối với các loại tín dụng này là trung hạn và dài hạn.
 Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn:
4
 Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa: Là loại tín dụng dành riêng cho

các doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh khác để tiến hành sản xuất hàng hóa
và lưu thông hàng hóa.
 Tín dụng tiêu dùng: Là hình thức tín dụng dành riêng cho cá nhân để đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng: mua sắm nhà cửa, xe cộ,…
 Ngoài các cách phân loại trên còn nhiều cách phân loại khác như theo
ngành kinh tế ( công, nông nghiêp…). Tùy thuộc vào mục đích của nhà quản lý
ngân hàng.
Như vậy, rõ ràng việc phân loại tín dụng là rất cần thiết, nó giúp cho các
nhà quản lý ngân hàng cân đối giữa huy động vốn và sử dụng vốn, đảm bảo an
toàn và tăng khả năng sinh lời cho ngân hàng.
1.3. Vai trò tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế
- Tín dụng là công cụ tài trợ vốn hiệu quả cho nền kinh tế: Do ngân hàng
có thể huy động được một lượng vốn lớn từ các tổ chức cá nhân khác nhau rồi
thực hiện phân phối nguồn vốn hiệu quả và đáp ứng được các nhu cầu đa dạng
về vốn trong nền kinh tế.
- Có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế - ngân hàng là trung gian tài
chính kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ. Vì vậy ngân hàng luôn có đội ngũ
chuyên gia kinh tế để xem xét các khoản tài trợ tín dụng nhằm đảm bảo rằng
nguồn vốn của họ sẽ được chuyển đến nơi mà chúng được sử dụng hiệu quả với
tỷ lệ rủi ro thấp, đem lại tỷ suất sinh lời cao từ nguồn vốn đó. Đồng thời, với sự
tư vấn của các chuyên gia ngân hàng, với những người đi vay sẽ có phương án
sử dụng vốn rõ ràng, hiệu quả, chính vì thế đã giảm thiểu rủi ro của việc mất
vốn. Do đó, nền kinh tế sẽ phát triển nhanh hơn và lành mạnh hơn.
- Tín dụng ngân hàng là hoạt động đem lại lợi nhuận lớn cho ngân hàng.
Tỷ lệ lợi nhuận từ tín dụng thường chiếm trên 60% trong tổng lợi nhuận của
ngân hàng.
- Tín dụng ngân hàng còn là công cụ quan trọng của nhà nước để điều tiết
lượng tiền trong lưu thông. Nhà nước thông qua công cụ tín dụng ngân hàng sẽ
5
điều chỉnh thu hẹp hay mở rộng tổng cung tiền trong lưu thông, kiềm chế lạm

phát, thúc đẩy kinh tế, đảm bảo phát triển của nền kinh tế.
1.4. Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu
do khách hàng không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi.
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt dộng quan trọng nhất, có quy mô lớn nhất của
NHTM – hoạt động tín dụng. Khi thực hiện một hoạt động tài trợ cụ thể, ngân
hàng cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn là cao nhất.
Và nhìn chung, ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy rằng rủi ro tín dụng
sẽ không xảy ra. Tuy nhiên, không một nhà kinh doanh tài ba nào có thể dự
đoán chính xác các vấn đề sẽ xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng
có thể bị thay đổi do nhiều nguyên nhân. Hơn nữa, nhiều cán bộ ngân hàng
không có khả năng thực hiện phân tích tín dụng thích đáng. Do vậy, trên quan
điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là
khách quan. Nhiều quan điểm nhất trí rằng, rủi ro tín dụng là bạn đường kinh
doanh, có thể đề phòng, hạn chế, chứ không thể loại trừ.
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng, cụ thể:
Nguyên nhân bất khả kháng tác động tới người vay, làm họ mất khả năng
thanh toán cho ngân hàng như: thiên tai, chiến tranh, những thay đổi tầm vĩ mô
vượt quá tầm kiểm soát của người vay lẫn người cho vay.
Nguyên nhân thuộc về chủ quan của người vay: do trình độ yếu kém của
người vay trong dự đoán các vấn đề kinh doanh, yếu kém trong quản lý, chủ
định lừa đảo cán bộ ngân hàng, chầy ì… là nguyên nhân gây rủi ro tín dụng. Rất
nhiều người vay sẵn sàng mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao. Để đạt
được mục đich của mình, họ sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn ứng phó với ngân hàng
như cung cấp thông tin sai, mua chuộc… Nhiều người vay đã không tính toán kỹ
lưỡng hoặc không đủ khả năng tính toán kỹ lưỡng những bất trắc có thể xảy ra,
không có khả năng thích ứng và khắc phục khó khăn trong kinh doanh. Trong
trường hợp còn lại, người vay kinh doanh có lãi song vẫn không trả nợ cho ngân
6
hàng đúng hạn. Họ chầy ì với hy vọng có thể quỵt nợ, hoặc sử dụng vốn vay

càng lâu càng tốt.
Nguyên nhân thuộc về ngân hàng: do chất lượng cán bộ kém, không đủ
trình độ đánh giá khách hàng hoặc đánh giá không tốt, cố tình làm sai… là một
trong những nguyên nhân của rủi ro tín dụng. Nhân viên ngân hàng phải tiếp cận
với nhiều ngành nghề, nhiều vùng, thậm chí nhiều quốc gia. Để cho vay tốt, họ
phải am hiểu khách hàng, lĩnh vực mà khách hàng kinh doanh, môi trường mà
khách hàng sống. Họ phải có khả năng dự báo các vấn đề liên quan đến người
vay… Như vậy họ cần phải được đào tạo và tự đào tạo kỹ lưỡng, liên tục và toàn
diện. Khi nhân viên tín dụng cho vay đối với khách hàng mà họ chưa đủ trình độ
để hiểu kỹ lưỡng, rủi ro tín dụng luôn rình rập họ. Sống trong môi trường “tiền
bạc”, nhiều nhân viên ngân hàng đã không tránh khỏi cám dỗ của đồng tiền. Họ
tiếp tay cho khách hàng rút ruột ngân hàng.
Để hạn chế rủi ro tín dụng thì một trong những nội dung quan trọng ngân
hàng cần phải làm là nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng trước khi cấp tín
dụng cho khách hàng.
2. Thẩm định tài chính trong hoạt động cho vay của NHTM
2.1. Khái niệm, mục đích và ý nghĩa của thẩm định tài chính trong hoạt
động cho vay của NHTM
 Khái niệm thẩm định tài chính trong hoạt động cho vay của NHTM
Thẩm định tài chính trong hoạt động cho vay của NHTM là rà soát, kiểm
tra lại, đánh giá một cách khách quan, khoa học và toàn diện mọi khía cạch tình
hình tài chính của khách hàng trên giác độ của ngân hàng nhằm đưa ra quyết
định cho vay đối với khách hàng đó hay không, để đảm bảo an toàn và sinh lợi
cho ngân hàng. Trong quá trình thẩm định tài chính, nhiều khi phải tính toán,
phân tích lại các chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính của khách hàng đó.
 Mục đích và ý nghĩa thẩm định tài chính trong hoạt động cho vay của
NHTM
Việc thẩm định tài chính trong hoạt động cho vay của NHTM là công việc
hết sức quan trọng và cần thiết, bởi hoạt động tín dụng là một hoạt động sinh lời
7

lớn nhất cho NHTM song cũng chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Vì vậy, việc thẩm
định giúp NHTM đưa ra quyết định đầu tư có hiệu quả, phù hợp với điều kiện
nguồn vốn và chính sách tín dụng cũng như chiến lược hoạt động của ngân
hàng. Kết quả thẩm định phải giúp ngân hàng đưa ra quyết định xem có cho vay
hay không, khối lượng, hình thức cho vay như thế nào, lãi suất cho vay là bao
nhiêu, đảm bảo tiền vay như thế nào… Công tác thẩm định cũng giúp ngân hàng
từ chối đúng các khoản vay không có hiệu quả sau thời gian ngắn nhất, dự báo
được những nguyên nhân có thể xảy ra rủi ro đối với các khoản vay và biện
pháp phòng ngừa rủi ro để hạn chế tới mức thấp nhất các thiệt hại khi rủi ro xảy
ra.
Thông qua thẩm định tài chính của khách hàng xin vay vốn, ngân hàng sẽ
đánh giá được khả năng trả nợ và ý chí trả nợ của khách hàng một cách sát thực
hơn, xác định xem khách hàng có thật sự có nhu cầu vốn không và mức ngân
hàng có thể cấp cho doanh nghiệp là bao nhiêu, đồng thời xác định thời hạn
khoản tín dụng cho phù hợp. Vì vậy nếu thẩm định không chính xác sẽ dẫn đến
sự lựa chọn đối nghịch và xảy ra rủi ro cho ngân hàng, làm giảm thu nhập của
ngân hàng, thậm chí có thể đẩy ngân hàng đến bờ vực phá sản.
2.2. Nội dung thẩm định tài chính trong hoạt động cho vay của NHTM
Thẩm định tài chính của khách hàng bao gồm khách hàng là doanh nghiệp
và cá nhân. Nhưng ở đây chúng ta sẽ chỉ đề cập tới việc thẩm định tài chính của
doanh nghiệp. Bao gồm:
2.2.1. Thẩm định mức độ tin cậy của các báo cáo tài chính
Trước khi tiến hành thẩm định tài chính doanh nghiệp, CBTD phải tiến
hành thẩm định mức độ tin cậy của các báo cáo tài chính do doanh nghiệp cung
cấp. Đây là yếu tố quyết định tới chất lượng thẩm định. Một báo cáo tài chính sẽ
trở nên vô nghĩa đối với ngân hàng khi nớ được “ đánh bóng” và phán ánh
không chính xác tình hình tài chính thực tế của doanh nghiệp. Vì vậy, trong
trường hợp này, các công việc tiếp theo hầu như không có giá trị.
Để tiến hành thẩm định mức độ tin cậy của báo cáo tài chính, CBTD sẽ
tiến hành kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của báo cáo tài chính: báo cáo tài chính

8
đó có giá trị pháp lý không, các số liệu trong các báo cáo tài chính có đảm bảo
phù hợp không, chế độ kế toán và phương pháp kế toán áp dụng có tuân thủ
đúng quy định của pháp luật không… Đó là quá trình kiểm tra, đánh giá sơ bộ.
Sau khi kiểm tra sơ bộ, CBTD sẽ tiến hành kiểm tra một cách cụ thể hơn
các báo cáo tài chính. Bằng kinh nghiệm, sự hiểu biết thực tế, độ nhạy của mình,
CBTD tìm xem trong báo cáo tài chính đó có chỗ nào mẫu thuẫn, bất hợp lý và
những chi tiết khả nghi. Vì các báo cáo tài chính có mối quan hệ mật thiết với
nhau, bổ sung và hỗ trợ cho nhau nên CBTD sẽ tiến hành đối chiếu so sánh để
xem liệu chúng có phù hợp không. Sự phù hợp của một báo cáo tài chính không
những trong mối quan hệ với các báo cáo tài chính khác mà còn phải phù hợp
trong nội dung mỗi báo cáo đó. Trong trường hợp này, CBTD thường kiểm tra
tính chính xác của số liệu trong báo cáo đó.
Trong quá trình này, để đánh giá mức độ tin cậy của báo cáo tài chính,
CBTD không chỉ dừng lại ở việc kiểm tra về mặt sổ sách của các báo cáo đó mà
cần phải liên hệ thực tế hoạt động của doanh nghiệp đang diễn ra. CBTD tiến
hành thu thập thêm các thông tin về doanh nghiệp thông qua tiếp xúc với lãnh
đạo doanh nghiệp, xuống cơ sở sản xuất của doanh nghiệp để quan sát, tiếp xúc
với công nhân trong doanh nghiệp và thu thập thêm các thông tin từ bạn hàng,
đối thủ cạnh tranh ,cơ quan thuế… để có thể đối chiếu và xác minh tính chính
xác các thông tin mà doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng. Ngoài ra, CBTD
cần phải kiểm tra xem số liệu đã được kiểm toán độc lập chưa và có phải do một
công ty kiểm toán có uy tín thực hiện không, mặt khác cần tìm hiểu các số liệu
được cơ quan thuế chấp nhận…có như vậy mới có thể đánh giá được mức độ tin
tưởng của các báo cáo tài chính do doanh nghiệp cung cấp.
Như vậy, qua việc kiểm tra các báo cáo tài chính và kết hợp các thông tin
mà ngân hàng thu thập được, CBTD có thể đánh giá được mức độ tin cậy của
các báo cáo tài chính. Tuy nhiên, CBTD không phải là chuyên gia trong việc
đánh giá mức độ tin cậy cảu các báo cáo tài chính nên ngân hàng thường yêu
cầu doanh nghiệp cam kết các báo cáo tài chính mà cung cấp là đúng sự thật và

doanh nghiệp sẽ chịu trách nhiệm về tính chính xác của các báo cáo này. Sau khi
9
xác minh, đánh giá mức độ tin cậy của các báo cáo tài chính, CBTD sẽ tiến hành
thẩm định nội dung trong các báo cáo tài chính đó.
2.2.2. Thẩm định các báo cáo tài chính
a. Thẩm định các khoản mục trong bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính tổng hợp mô tả tình trạng
tài chính của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Thông
thường, bảng cân đối kế toán được trình bày dưới dạng bảng cân đối số dư các
tài khoản kế toán: một bên phản ánh tài sản và một bên phản ánh nguồn vốn của
doanh nghiệp. Nhìn vào bảng cân đối kế toán, nhà phân tích có thể nhận biết
được loại hình doanh nghiệp, quy mô, mức độ tự chủ tài chính của doanh
nghiệp. Bảng cân đối kế toán là một tư liệu quan trọng bậc nhất giúp cho các
nhà phân tích đánh giá được khả năng cân bằng tài chính, khả năng thanh toán
và khả năng cân đối vốn của doanh nghiệp.
Khi thẩm định bảng cân đối kế toán việc đầu tiên CBTD sẽ phải làm là
đánh giá khái quát các chỉ tiêu về cơ cấu tài sản, cơ cấu vốn và sự biến động của
chúng, đồng thời xem mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn. Vì vậy, CBTD
cần phải xem xét sự biến động của từng loại tài sản trên tổng tài sản cũng như
từng loại tài sản giữa cuối kỳ so với đầu kỳ để đánh giá xem việc phân bổ như
vậy có hợp lý hay không và xu hướng biến động tài sản. Còn khi phân tích
khoản nợ phải trả và vốn chủ sở hữu, CBTD quan tâm đến việc doanh nghiệp
dùng nguồn nào để tài trợ cho các loại tài sản, việc phân bổ nguồn vốn có hợp lý
không và mức độ tự chủ về mặt tài chính của doanh nghiệp như thế nào.
Sau khi đã đánh giá tổng quát về tình hình tài sản và nguồn vốn của doanh
nghiệp, CBTD sẽ thẩm định chi tiết từng khoản mục trong bảng cân đối kế toán.
 Thẩm định chi tiết các khoản mục tài sản.
 Ngân quỹ: Bao gồm tiền mặt (tiền mặt trong két, tiền gửi tại ngân hàng),
các khoản phải thu. Tiền mặt có thể dùng để chi trả ngay và thường được sử
dụng để chi trả lương, mua nguyên vật liệu, trả nợ… Tiền mặt là tài sản không

sinh lãi hoặc có thể sinh lời song rất thấp nhưng giúp doanh nghiệp chủ động
trong kinh doanh và đảm bảo khả năng thanh toán trong các trường hợp cần thết.
10
Việc nắm giữ tiền mặt có hai mặt của nó, khi CBTD đánh đánh giá khoản mục
này cần đánh giá lượng nắm tiềm mặt hợp lý của doanh nghiệp. Vì nếu doanh
nghiệp nắm giữ quá nhiều tiền mặt sẽ giảm khả năng sinh lời, còn nắm giữ quá ít
có thể dẫn đến rủi ro thanh toán, việc nắm giữ tiền mặt bao nhiêu phụ thuộc vào
nhu cầu chi tiêu của mỗi thời kỳ. Các khoản phải (chủ yếu là tiền bán hàng hóa
và dịch vụ chưa thu được tiền) luôn có khả năng chuyển thành tiền mặt. Ngân
hàng cần xem xét kỹ các khoản này vì đây là nguồn chủ yếu để doanh nghiệp
chi trả các khoản vay đến hạn. Khi xem xét CBTD cân tìm hiểu về phương thức
tiêu thụ, chính sách thanh toán tiền hàng, khả năng quản lý và thu hồi nợ của
doanh nghiệp, đồng thời cần xác định vòng quay các khoản phải thu.
 Các chứng khoán có giá: Là các tài sản tài chính của doanh nghiệp. Các
tài sản này tăng nguồn thu và có thể mang bán khi cần tiền để chi trả.
 Dự trữ: Rất nhiều món vay ngắn hạn với mục tiêu tăng dự trữ hàng hóa,
có nghĩa là một phần hàng hóa trong kho được hình thành từ vốn vay của ngân
hàng. Do đó, CBTD quan tâm tới số lượng, chất lượng, giá cả, mẫu mã, bảo
hiểm, rủi ro đối với hàng hóa trong kho. Ngoài xem xét trên sổ sách, ngân hàng
còn yêu cầu người vay mở kho hàng kiểm tra để loại trừ hàng hóa kém, mất
phẩm chất, chậm tiêu thụ, phát hiện hàng giả, hàng người khác gửi…
 Tài sản cố định: Gồm nhà cửa, sân bãi, trang thiết bị, phương tiện vận
chuyển… thường là đối tượng trung và dài hạn. Thông thường, đối với các
khoản cho vay ngắn hạn, ngân hàng thường không quan tâm đến việc bán các tài
sản cố định như một nguồn dùng để trả nợ. Tuy nhiên, với các khoản tài trợ dài
hạn thì tài sản cố định lại có vai trò quan trọng. Trước hết, tài sản cố định có thể
dùng để thế chấp tại ngân hàng. Lý do thứ hai mà CBTD quan tâm đến tài sản
cố định là nó được trích khấu hao hàng năm và quỹ khâu hao này dùng để tái
đầu tư hoặc dùng để trả các khoản mà doanh nghiệp vay để tài trợ cho các tài
sản cố định đó.

Việc thẩm định các khoản mục tài sản không thể tách rời thẩm định các
khoản mục nguồn vốn bởi lẽ nguồn vốn là nguồn hình thành nên tài sản của
doanh nghiệp.
11
 Thẩm định chi tiết các khoản mục nguồn vốn
 Nợ phải trả: là nguồn vốn mà doanh nghiệp chiếm dụng của đối tác. Xét
về mặt lợi ích thì chi phí sử dụng nó là rất thấp nhưng nếu các khoản phải trả
quá lớn thì có thể dẫn đến mất khả năng thanh toán. Đặc biệt, doanh nghiệp có
các khoản nợ dây dưa kéo dài thì cần xem xét lại uy tín của doanh nghiệp.
Nợ phải trả bao gồm nợ ngắn hạn và nợ dài hạn. Các khoản nợ ngắn hạn
dùng để tài trợ cho các tài sản lưu động, nó nói lên nhu cầu tiền mặt doanh nghiệ
cần có để trả nợ. Nợ dài hạn dùng để tài trợ cho tài sản cố định. Mặc dù, nợ dài
hạn không ảnh hưởng mạnh đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp hiện tại
nhưng chúng nói lên các khoản mà doanh nghiệp phải trả trong dài hạn, điều này
đòi hỏi doanh nghiệp phải có kế hoạch để trả nợ.
Ngoài ra, CBTD cũng quan tâm tới tất cả các chủ nợ của khách hàng: Có
thể là các khoản nợ cũ, các khoản nợ của ngân hàng khác, nợ người cung cấp,
nợ người lao động. Vị trí của ngân hàng trong danh sách chủ nợ luôn được
nghiên cứu kỹ lưỡng. Nếu ngân hàng giành vị trí quan trọng nhất, nó dễ dàng
thu được nợ hơn là vị trí khác.
 Vốn chủ sở hữu: bao gồm vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia và phần
vốn từ phát hành cổ phiếu mới. Vốn chủ sở hữu nó cho thấy mức độ độc lập về
mặt tài chính của doanh nghiệp và là nhân tố giúp doanh nghiệp chống đỡ rủi ro.
Vốn chủ sở hữu nói lên vị thế của doanh nghiệp, đồng thời đây cũng là yếu tố
đảm bảo doanh nghiệp không quá mạo hiểm trong kinh doanh khi sử dụng tiền
vay. Nên nó là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới quyết định cho vay của
ngân hàng.
b. Thẩm định các khoản mục trong báo cáo kết quả kinh doanh
Để kiểm soát các hoạt động kinh doanh và hiệu quả hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp, cần xem xét tình hình biến dộng cảu các khoản mục trong báo

cáo kết quả kinh doanh (BCKQKD). BCKQKD cho biết sự dịch chuyển của tiền
trong quá trình sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp và cho phép dự tính khả
năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Qua BCKQKD, CBTD có thể
đánh giá được là doanh nghiệp đang làm ăn có lãi hay thua lỗ, nếu là thua lỗ sẽ
12
không thể trả nợ được ngân hàng và nếu có trả được ngân hàng thì có lẽ chỉ lấy
từ vốn chủ sở hữu hoặc vay của đối tượng khác để trả nợ ngân hàng. Đây sẽ là
rủi ro rất lớn cho ngân hàng. Khi thẩm định để đánh giá chính xác tình hình hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, CBTD yêu cầu khách hàng cung
cấp các BCKQKD ít nhất của 2 năm gần nhất.
 Thẩm định doanh thu
CBTD cần phân tích tổng doanh thu về mức tăng và tốc độ tăng doanh thu
của doanh nghiệp qua các năm. Qua phân tích doanh thu kết hợp với những
phân tích trong phần thẩm định về tình hình sản xuât kinh doanh của doanh
nghiệp để rút ra kết luận về kết quả, hạn chế của doanh nghiệp trong việc tiếp
cận thị trường và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặt khác, cần phân
tích tổng doanh thu của từng quý, từng tháng để xác định được những thời điểm
hoạt động mạnh của công ty và so sánh với hoạt động của cùng kỳ năm trước,
điều này rất quan trọng đặc biệt là đối với những doanh ngh⁩ệp hoạt động sản
xuất theo mùa vụ. với những thay đổi bất thường trong tổng doanh thu của
doanh nghiệp đòi hỏi CBTD phải xem xét một cách kỹ lưỡng và giải thích
nguyên nhân của sự thay đổi bất thường đó.
 Thẩm định chi phí
Khi đánh giá chỉ tiêu chi phí, CBTD cần đánh giá những chi phí hợp lý
của doanh nghiệp, những chi phí đóng góp vào việc tạo ra doanh thu. Ngoài ra,
CBTD cần xem xét các chi phí không được tính vào chi phí hợp lý và các khoản
chi phí “chìm” mà doanh nghiệp không thể hiện trên BCKQKD để có được
những đánh giá chính xác nhất.
Trong BCKQKD thì chỉ tiêu lợi nhuận là quan trọng nhất của doanh
nghiệp đó. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp có tồn tại và phát triển

được hay không phụ thuộc rất lớn vào việc doanh nghiệp có tạo ra được lợi
nhuận hay không. Lợi nhuận là một chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính của
doanh nghiệp, là nguồn quan trọng để doanh nghiệp tái đầu tư và mở rộng hoạt
động sản xuất – kinh doanh của mình. Đồng thời, nó là nguồn để trả nợ của
doanh nghiệp. Vì vậy, CBTD cần thẩm định xem liệu doanh nghiệp thực sự kinh
13
doanh có lợi nhuận không hay là lợi nhuận đó là do nhân viên doanh nghiệp vẽ
ra. Trên thực tế, rất nhiều doanh nghiệp có lãi song vẫn rơi vào tình trạng mất
khả năng thanh toán. Đó là do sự lệch pha giữa doanh thu và thu, giữa chi phí và
chi. Doanh thu được hạch toán khi mà người bán chấp nhận thanh toán, tức là
người bán đã mua hàng, song chưa biết là đã trả tiền hay chưa, trong khi đó thu
là khoản tiền thực tế doanh nghiệp đã nhận được. chi phí và chi cũng tương tự,
một khoản chi phí chưa chắc doanh nghiệp đã xuất tiền ngay. Qua trường hợp
này ta thấy, BCĐKT và BCKQKD chưa phản ánh đầy đủ tình hình tài chính
doanh nghiệp, CBTD còn phải tiến hành thẩm định báo cáo lưu chuyển tiền tệ
và phân tích dòng tiền để thấy đầy đủ hơn tình hình tài chính của doanh nghiệp.
c. Thẩm định báo cáo lưu chuyển tiền tệ (Báo cáo Ngân quỹ)
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính phản ánh các dòng tiền của
doanh nghiệp, được xác định trọng một thời kỳ ngắn (thường là từng tháng). Nó
giải thích sự thay đổi dòng tiền của doanh nghiệp, nó cho biết khả năng chi trả
của doanh nghiệp. Để lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ, cần phải xác định hoặc dự
báo dòng tiền thực nhập quỹ và xuất quỹ. Dòng tiền thực xuất quỹ bao gồm:
dòng tiền xuất quỹ thực hiện sản xuất kinh doanh; dòng tiền xuất quỹ thực hiện
hoạt động đầu tư, tài chính; dòng tiền xuất quỹ thực hiện hoạt động bất thường.
dòng tiền thực nhập quỹ bao gồm: dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động kinh doanh
(từ bán hàng hoặc cung cấp dịch vụ); dòng tiền nhập từ hoạt động đầu tư, tài
chính; dòng tiền nhập từ hoạt động bất thường. Trên cơ sở dòng tiền nhập quỹ
và xuất quỹ, các nhà phân tích thực hiện cân đối ngân quỹ với số dư ngân quỹ
đầu kỳ để xác định số dư ngân quỹ cuối kỳ. Từ đó, có thể thiết lập mức ngân
quỹ dự phòng tối thiểu cho doanh nghiệp nhằm mục tiêu đảm bảo chi trả. Bởi

suy cho cùng không phải lượng tiền doanh nghiệp hiện tại hay lợi nhuận của
doanh nghiệp sẽ đảm bảo khả năng chi trả của doanh nghiệp, mà nhân tố quyết
định khả năng chi trả của doanh nghiệp chính là dòng tiền của doanh nghiệp
trong tương lai.
d. Thẩm định thuyết minh báo cáo tài chính
14
Thuyết minh báo cáo tài chính được lập nhằm cung cấp các thông tin về
tình hình sản xuất kinh doanh chưa có trong báo cáo tài chính. Đồng thời, giải
thích thêm một số chỉ tiêu mà trong báo cáo tài chính chưa được trình bày. Đây
là một báo cáo quan trọng giúp CBTD đánh giá chính xác hơn tình hình tài
chính của doanh nghiệp. Để có cái nhìn toàn diện về tình hình tài chính của
doanh nghiệp thì ngoài việc đánh giá các khoản mục trong các báo cáo tài chính,
CBTD còn phải đánh giá các tỷ số tài chính.
e. Thẩm định các tỷ số tài chính
Khi thẩm định các tỷ số tài chính, CBTD sẽ tính toán các tỷ số này theo
thời gian rồi so sánh với nhau để thấy xu hướng biến động, và so sánh với trung
bình của ngành để thấy vị thế của doanh nghiệp. Có 4 nhóm tỷ số mà CBTD
quan tâm:
 Nhóm tỷ số thanh toán: Đây là nhóm tỷ số cho biết khả năng trả nợ của
doanh nghiệp đối với các khoản nợ ngắn hạn. Đây là nhóm chỉ tiêu được rất
nhiều người quan tâm như các nhà đầu tư, người cho vay, người cung cấp
nguyên vật liệu…Họ luôn đặt câu hỏi: hiện doanh nghiệp có đủ khả năng trả các
món nợ tới hạn không?
- Khả năng thanh toán hiện hành
Khả năng thanh toán hiện hành =
Tài sản lưu động
Nợ ngắn hạn
Nó cho biết mức độ đảm bảo các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được
trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương
đương với thời gian của các khoản nợ đó. Tỷ số của chỉ tiêu này càng lớn, khả

năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
thông thường, tỷ số này lớn hơn 1 thì doanh nghiệp được coi là có khả năng đáp
ứng nghĩa vụ các khoản nợ hiện hành. Tuy nhiên không phải hệ số này càng lớn
càng tốt, vì khi đó có một lượng tài sản lưu động tồn trữ lớn, phản ánh việc sử
dụng tài sản khôn ghiệu quả vì bộ phận này không vận động, không sinh lời.
15
Tính hợp lý của hệ số phản ánh khả năng thanh toán hiện hành phụ thuộc vào
ngành nghề kinh doanh.
- Tỷ số thanh toán nhanh
Khả năng thanh toán nhanh =
Tài sản lưu động – Dự trữ
Nợ ngắn hạn
Các tài sản lưu động trước khi mang đi thanh tón cho chủ nợ đều phải
chuyển đổi thành tiền. Trong tài sản lưu động hiện có thì vật tư hàng hóa tồn
kho (các loại vật tư, công cụ, dụng cụ, thành phẩm tồn kho) chưa thể chuyển
đổi ngay thành tiền, do đó nó có khả năng thanh toán kém nhất. Vì vậy, hệ số
khả năng thanh toán nhanh là thước đo khả năng trả nợ ngay các khoản nợ ngắn
hạn của doanh nghiệp trong kỳ không dựa vào việc phải bán các loại vật tư hàng
hóa.
Nếu tỷ số này lớn thì khả năng thanh toán tương đối khả quan. Nếu tỷ số
này nhỏ cho thấy doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong việc thanh toán các
khoản nợ ngắn hạn. Tuy nhiên nếu quá lớn, lại phản ánh tình hình không tốt vì
vòng quay vốn chậm làm giảm hiệu quả sử dụng vốn.
Hoặc:
Khả năng thanh toán tức thời =
Tiền và các khoản tương đương tiền
Nợ ngắn hạn
Thông thường, hệ số này bằng 1 là lý tưởng nhất.
 Nhóm tỷ số về khả năng cân đối vốn: Các doanh nghiệp luôn thay đổi tỷ
trọng các loại vốn theo xu hướng hợp lý (kết cấu tối ưu). Nhưng kết cấu này

luôn bị phá vỡ do tình hình đầu tư. Vì vậy nghiên cứu cơ cấu nguồn vốn, cơ cấu
tài sản, tỷ suất tự tài trợ sẽ cung cấp cho ngân hàng một cái nhìn tổng quát về sự
phát triển lâu dài của doanh nghiệp.
- Hệ số nợ
Hệ số nợ =
Nợ phải trả
= 1 – Hệ số vốn chủ sở hữu
Tổng tài sản
16
Hệ vốn chủ sở hữu =
Nợ phải trả
= 1 – Hệ số nợ
Tổng tài sản
Hệ số nợ cho biết trong 1 đồng vốn kinh doanh có mấy đồng hình thành
từ vay nợ bên ngoài, còn hệ số vốn chủ sở hữu lại đo lường sự đóng góp vốn của
chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn hiện nay của doanh nghiệp.
Hệ số nợ cao: Nếu doanh nghiệp đang trong môi trường kinh doanh thuận
lợi, sản phẩm tiêu thụ tốt, ít cạnh tranh thì cơ cấu tài chính sữ mang lại tỷ suất
lợi nhuận cao cho doanh nghiệp. Ngược lại, khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng
kinh doanh khó khăn, thua lỗ thì cơ cấu tài chính sẽ đưa doanh nghiệp đến chỗ
thua lỗ nhanh hơn.
Thông thường, các chủ nợ thích hệ số nợ vừa phải vì tỷ số vày càng thấp
thì khoản nợ càng được đảm bảo trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản.
Trong khi đó, các chủ sở hữu doanh nghiệp ưa thích tỷ số này cao vì họ muốn
lợi nhuận gia tăng nhanh và muốn toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp. Song,
nếu tỷ số nợ quá cao doanh nghiệp dễ bị rơi vào tình trạng mất khả năng thanh
toán.
- Khả năng trả lãi
Khả năng trả lãi =
Lợi nhuận kinh doanh

Chi phí lãi vay
Chỉ tiêu này cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo khả năng trả lãi hàng năm
như thế nào. Việc không trả được các khoản nợ này thể hiện khả năng doanh
nghiệp có nguy cơ phá sản. Chỉ tiêu này lớn hơn 1 là tốt.
- Khả năng trả nợ gốc
Khả năng trả nợ gốc =
Lợi nhuận sau thuế + Khấu hao
Nợ gốc
17
Tỷ số này đo lường khả năng trả gốc dài hạn của doanh nghiệp. Khi ngân
hàng cho vay các khoản vay trung, dài hạn thì họ quan tâm đặc biệt tới các tỷ số
này, bởi đây là nguồn trả nợ của doanh nghiệp.
 Nhóm chỉ số về hoạt động: Các chỉ số này dùng để đo lường hiệu quả sử
dụng vốn, tài sản của một doanh nghiệp bằng cách so sánh doanh thu với việc bỏ
vốn vào kinh doanh dưới các tài sản khác nhau.
- Vòng quay hàng tồn kho: là số lần mà hàng hóa tồn kho bình quân luân
chuyển trong kỳ. Được xác định theo công thức:
Vòng quay hàng tồn kho =
Giá vốn hàng bán
Hàng tồn kho bình quân
Vòng quay hàng tồn kho càng cao thì việc kinh doanh được đánh giá càng
tốt, bởi lẽ doanh nghiệp chỉ đầu tư cho hàng tồn kho thấp nhưng vẫn đạt được
doanh số cao.
- Hệ số vòng quay tổng tài sản
Hệ số vòng quay tổng tài sản =
Doanh thu thuần
Tài sản bình quân
Hệ số vòng quay tổng tài sản cho biết tổng tài sản được chuyển đổi bao
nhiêu lần doanh thu. Nếu tỷ số này thấp, vốn đang được sử dụng không hiệu
quả, doanh nghiệp thừa hàng tồn kho hoặc tài sản nhàn rỗi hoặc vay quá nhiều

tiền so với nhu cầu thực tế. Nếu tỷ số này cao, hiệu quả sử dụng tài sản cao.
- Kỳ thu tiền bình quân
Kỳ thu tiền bình quân =
Các khoản phải thu bình quân
Doanh thu thuần
Kỳ thu tiền bình quân phản ánh số ngày cần thiết để thu được các khoản
phải thu. Vòng quay các khoản phải thu càng lớn thì kỳ thu tiền bình quân càng
nhỏ, chứng tỏ doanh nghiệp không bị đọng vốn trong khâu thanh toán, và ngược
lại, nếu tỷ số này quá cao chứng tỏ doanh nghiệp bị đọng vốn, có thể gặp phải
18
các khoản nợ khó đòi và chính sách bán hàng chưa phù hợp. Tuy nhiên kỳ thu
tiền bình quân cao hay thấp trong nhiều trường hợp chưa thể có kết luận chắc
chắn, mà còn phải xem xét lại các mục tiêu và chính sách của doanh nghiệp như:
mục tiêu mở rộng thị trường, chính sách tín dụng của doanh nghiệp.
 Nhóm tỷ số về khả năng sinh lãi: Các chỉ tiêu sinh lời luôn được các
CBTD quan tâm. Chúng là cơ sở quan trọng để đánh giá kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh trong một kỳ nhất định, là đáp số sau cùng của hiệu quả kinh
doanh và còn là một luận cứ quan trọng để CBTD đưa ra các quyết định cung
cấp tín dụng.
- Tỷ suất sinh lời trên doanh thu
Tỷ suất sinh lời trên doanh thu =
Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu (thuần)
Nó phản ánh một đồng doanh thu có thể tạo ra được bao nhiêu lợi nhuận
sau thuế trong một kỳ kinh doanh. Tỷ số này càng cao càng tốt.
- Tỷ suất sinh lời của tài sản (ROA)
Tỷ suất sinh lời của tài sản =
Lợi nhuận sau thuế
Tài sản
Tỷ số này dùng để đo lường kết quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp để

tạo ra lợi nhuận, không phân biệt tài sản này được hình thành bởi vốn chủ sở
hữu hay vốn vay. Tỷ số này càng cao thể hiện việc sử dụng và quản lý tài sản
càng hợp lý, hiệu quả. Khi thẩm định CBTD nên sử dụng mô hình Dupont để có
thể biết được các yếu tố cơ bản tác động lên ROA.
ROA = LNST/DTT * DTT/TS = PM * AU
ROA đầu tiên phụ thuộc vào PM (doanh lợi tiêu thụ sản phẩm), thể hiện
khả năng quản lý chi phí của doanh nghiệp vì trong 1 đồng doanh thu thuần của
doanh nghiệp thì có bao nhiêu đồng là lợi nhuận sau thuế. Khi PM tăng, điều đó
thể hiện doanh nghiệp quản lý doanh thu và quản lý chi phí có hiệu quả.
19
AU (hiệu suất sử dụng tổng tài sản) thể hiện 1 đồng tài sản của doanh
nghiệp có khả năng tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần, thể hiện khả năng
hoạt động của doanh nghiệp thông qua khả năng tạo ra sản lượng cao và tiêu thụ
sản phẩm
- Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (ROE)
Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu =
Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu
ROE phản ánh khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu trong doanh nghiệp.
ROE ngoài việc chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố PM và AU như ROA thì nó còn
bị ảnh hưởng bởi EM (số nhân vốn chủ sở hữu), nó phản ánh mức độ huy động
vốn từ bên ngoài của doanh nghiệp. Nếu EM tăng, điều đó chứng tỏ doanh
nghiệp tăng vốn từ bên ngoài.
Như vậy, các yếu tố cơ bản tác động tới ROE của một doanh nghiệp gồm
khả năng tăng doanh thu, công tác quản lý chi phí, quản lý tài sản và đòn bẩy tài
chính.
f. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn
Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn là việc xem xét sự
thay đổi của các nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của một doanh nghiệp
trong một thời kỳ theo số liệu giữa hai thời điểm lập BCĐKT. Một trong những

công cụ hữu hiệu được CBTD sử dụng đó là bảng kê nguồn vốn và sử dụng
nguồn vốn (Bảng tài trợ). Nó giúp cho CBTD xác định rõ các nguồn cung ứng
vốn của doanh nghiệp và doanh nghiệp phân bổ các nguồn vốn đó như thế nào.
Thông tin mà bảng kê diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn cho biết doanh
nghiệp dang tiến triển hay gặp khó khăn. Thông tin này còn rất hữu ích đối với
người cho vay, các nhà đầu tư họ muốn biết doanh nghiệp đã làm gì với số vốn
của họ.
Để lập được bảng kê diễn biến nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn, người ta
thường tổng hợp tự thay đổi của các khoản mục trong bảng CĐKT giữa hai thời
điểm là đầu kỳ và cuối kỳ. Mỗi một sự thay đổi của từng khoản mục trong bảng
20
cân đối kế toán đều được xếp vào một cột diễn biến nguồn vốn hoặc sử dụng
vốn theo cách thức sau:
- Nếu các khoản mục bên tài sản tăng hay các khoản mục bên nguồn vốn
giảm thì điều đó thể hiện việc sử dụng vốn.
- Nếu các khoản mục bên tài sản giảm hay các khoản mục bên nguồn vốn
tăng thì điều đó thể hiện việc tạo nguồn.
Như vậy, bằng việc xem xét Bảng kê nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn,
CBTD biết được doanh nghiệp đã tài trợ cho các tài sản của mình bằng nguồn
vốn nào, và việc phân bổ các nguồn vốn đó có hợp lý hay không. Thông qua đó
phần nào CBTD có thể dự đoán được tình hình tài chính của doanh nghiệp trong
tương lai để có những quyết định chính xác hơn.
2.3. Chỉ tiêu phán ánh chất lượng công tác thẩm định tài chính trong hoạt
động cho vay của NHTM
 Trước khi cho vay: Đây là giai đoạn thu tập và xử lý thông tin hết sức
quan trọng, là cơ sở để Ngân hàng ra quyết định cho vay hay không đối với
khách hàng. Trong giai đoạn này chất lượng thẩm định tài chính doanh nghiệp
phụ thuộc vào.
- Thời gian và chi phí thẩm định: Đây là chỉ tiêu quan trọng phản ánh chất
lượng của công tác thẩm định. Nếu ngân hàng hoàn thành công tác thẩm định

trong thời gian ngắn với chi phí thấp thì sẽ tạo điều kiện cho DNV&N tranh thủ
thời cơ, nhận được nguồn vốn tín dụng một cách nhanh chóng để tiến hành hoạt
động sản xuất kinh doanh, đảm bảo kế hoạch, mục tiêu đặt ra, đồng thời ngân
hàng cũng tiết kiệm được chi phí làm tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, nếu thực hiện
công tác thẩm định quá nhanh với chi phí quá thấp > sẽ không có đủ thông tin
cần thiết, bỏ qua một số bước, nội dung thẩm định từ đó đưa ra quyết định cho
vay thiếu chính xác, dễ mang lại rủi ro cho ngân hàng. Nếu ngân hàng không
đảm bảo thời gian thẩm định, kéo dài thời gian thẩm định và chi phí lớn thì cũng
không thể coi là chất lượng thẩm định tốt, vì nó có thể làm mất cơ hội đầu tư,
kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời gây tốn kém và làm giảm lợi nhuận của
ngân hàng.
21
- Kỹ thuật thẩm định: Đây là một chi tiết rất quan trọng vì nó sẽ quyết định
thời gian và chi phí thẩm định. Kết quả thẩm định chỉ đạt chất lượng cao khi nó
được sử dụng những kỹ thuật thẩm định hiện đại, phù hợp với từng ngành nghề
kinh doanh của doanh nghiệp. Mỗi ngân hàng xây dựng cho mình một quy trình
thẩm định riêng với một hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của
doanh nghiệp. Quy trình thẩm định được xây dựng chi tiết, khoa học thì chất
lượng thẩm định càng được nâng cao, vì nó giúp quá trình thẩm định của CBTD
diễn ra nhanh chóng, thuận tiện và chính xác. Hơn thế nữa còn tạo cho CBTD
tâm lý thoải mãi khi làm việc, đẩy nhanh tiến độ thẩm định với độ chính xác
cao.
 Trong khi cho vay: Đây thực chất là giai đoạn tái thẩm định – là giai đoạn
giải ngân và kiểm soát quy trình sử dụng vốn của khách hàng. Chất lượng thẩm
định trong giai đoạn này được thể hiện:
- Số vụ được phát hiện sử dụng vốn sai mục đích: Chỉ tiêu này thẩm định
tính chính xác của kết quả thẩm định tài chính doanh nghiệp trước khi cho vay.
Trong giai đoạn này CBTD cần thường xuyên xuống cơ sở để thực hiện kiểm
soát việc sử dụng vốn của doanh nghiệp phát hiện và điều chỉnh những sai phạm
của doanh nghiệp. Số vụ sử dụng vốn sai mục đích được phát hiện thể hiện độ

chính xác của kết quả phân tích của CBTD. Do đó đây là một chỉ tiêu giúp Ngân
hàng kiểm định chất lượng phân tích của mình.
- Thời gian và chi phí kiểm soát tín dụng: Cũng như trước khi cho vay, thời
gian và chi phí kiểm soát tín dụng là một phần không thể thiều tác động lên chất
lượng thẩm định tài chính doanh nghiệp.
 Sau khi cho vay
- Mức độ chính xác của kết quả thẩm định: kết quả thẩm định phải giúp
ngân hàng ra quyết định xem có cho vay hay không, khối lượng và hình thức
cho vay như thế nào với lãi suất là bao nhiêu… Đó là việc ngân hàng có đánh
giá chính xác, toàn diện tình hình tài chính của doanh nghiệp hay không. Công
tác thẩm định cũng giúp ngân hàng từ chối đúng các khoản vay không có hiệu
quả, và có thể dự báo được những nguyên nhân có thể xảy ra rủi ro đối với dự án
22
và biện pháp phòng ngừa rủi ro để hạn chế tới mức thấp nhất các thiệt hại khi
rủi ro xảy ra.
- Tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xin gia hạn và điều chỉnh kỳ hạn trả nợ: Thẩm định
tình hình tài chính doanh nghiệp đánh giá khả năng trả nợ của doanh nghiệp, nên
trường hợp ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn, giãn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ thấp
chứng tỏ chất lượng thẩm định của ngân hàng tương đối tốt do đó đã loại trừ
được những dự án rủi ro cao, không đủ khả năng trả nợ.
Như vậy, đứng trên giác độ ngân hàng, chất lượng thẩm định tình hình tài
chính doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng của ngân hàng được phản ánh qua
nhiều chỉ tiêu. Khi đánh giá chất lượng thẩm định đòi hỏi CBTD sử dụng các chỉ
tiêu đó. Thẩm định tài chính doanh nghiệp được coi là chất lượng tốt khi các
nhận xét, đánh giá của CBTD đưa ra là chính xác, khách quan, với thời gian và
chi phí hợp lý, kết quả thẩm định giúp ngân hàng sẽ đưa ra quyết định đúng đắn
nhất trong hoạt động tín dụng nhằm giúp đảm bảo tính an toàn và tăng thu nhập
cho mình.
3. Hoạt động cho vay DNV&N của NHTM
3.1. Khái niệm và đặc điểm của DNV&N

3.1.1. Khái niện DNV&N
Hiện nay, rất nhiều các nước, các cơ quan, các tổ chức, các nhà nghiên
cứu kinh tế đã đưa ra các tiêu chí khác nhau để xác định DNV&N nhằm mục
đích phục vụ cho công tác quản lý, nghiên cứu của mình. Do đó, định nghĩa về
DNV&N là tương đối khác nhau, có xu hướng thay đổi theo tính chất hoạt động,
mục đích của việc xác định và mức độ phát triển của các doanh nghiệp trong nền
kinh tế. Tuy nhiên, hiện nay hầu hết các nước trên thế giới đều xác định quy mô
doanh nghiệp dựa trên hai tiêu thức chủ yếu: tổng vốn kinh doanh và tổng số lao
động để phân biệt quy mô lớn với quy mô vừa và nhỏ.
Theo Nhật Bản, doanh nghiệp cso dưới 300 lao động hoặc vốn đầu tư nhở
hơn 1 triệu USD được coi là doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, trong đó,
doanh nghiệp có dưới 20 lao động là doanh nghiệp nhỏ.
23
Theo Anh, Pháp, Mỹ thì những doanh nghiệp có số lao động từ 500 trở
xuống thì được coi là có quy mô vừa và nhỏ, trong đó, doanh nghiệp cso số lao
đọng 200 trở xuống là doanh nghiệp nhỏ.
Theo ngân hàng thế giới, DNV&N có thể chia thành ba loại cũng căn cứ
vào quy mô đó là doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp
vừa. Doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 10
người, doanh nghiệp nhỏ có số lượng lao động từ 10 đến dưới 50 người, còn
doanh nghiệp vừa có từ 50 đến 300 lao động.
Ngân hàng TMCP Quân Đội quy định: là doanh nghiệp vốn chủ sở hữu ≤
10 tỷ, doanh thu ≤ 50 tỷ, tổng tài sản ≤ 50 tỷ.
Tại Việt Nam, theo điều 3 của Nghị định 90/2001/NĐ - CP định nghĩa về
DNNVV như sau: "DNNVV là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký
kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc
số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người".
Định nghĩa này cũng chỉ mang tính chất tương đối, bởi một doanh nghiệp
có thật sự nhỏ khi có số lao động nhỏ hơn 300 hay không thì còn tùy thuộc vào
lĩnh vực hoạt động. Do vậy, chúng ta có thể hiểu DNV&N là một doanh nghiệp

hoạt động độc lập trong một lĩnh vực kinh doanh nhưng không thống trị trong
lĩnh vực kinh doanh của mình. Tuy nhiên, đây là định nghĩa mới nhất đang được
áp dụng về DNV&N ở Việt Nam. Định nghĩa này được coi là cần thiết và phù
hợp với tình hình kinh tế - xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay nhằm
nhận thức đúng vị trí, vai trò của DNV&N trong nền kinh tế. Cùng với sự tăng
trưởng, phát triển không ngừng của nền kinh tế, cùng xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế, định nghĩa về DNV&N sẽ có thể tiếp tục thay đổi.
3.1.2. Đặc điểm của DNV&N
 Đặc điểm chung của DNV&N trong nền kinh tế:
Tuy định nghĩa về DNV&N ở các nước, các khu vực là không giống nhau
nhưng hầu hết các DNV&N ở các nước đều mang những đặc điểm chung sau
đây:
24
- Năng động, nhạy bén và dễ thích ứng với sự thay đổi của thị trường. Với
quy mô vừa và nhỏ, bộ máy quản lý gọn nhẹ, các DNV&N dễ dàng tìm kiếm và
đáp ứng các yêu cầu có hạn trong những thị trường chuyên môn hóa. Mặt khác,
các DNV&N thường có mối liên hệ trực tiếp với thị trường và người tiêu thụ
nên có phản ứng nhanh nhạy với sự biến động của thị trường. Với cơ sở vật chất
kỹ thuật không lớn, DNV&N đổi mới linh hoạt hơn, dễ dàng chuyển đổi sản
xuất hoặc thu hẹp quy mô mà không gây ra những hậu quả nặng nề cho xã hội.
- DNV&N tạo điều kiện duy trì tự do cạnh tranh. Khác với các doanh
nghiệp lớn cần thị trường lớn, đôi khi đòi hỏi có sự bảo hộ của Chính phủ và dẫn
tới độc quyền, DNV&N hoạt động với số lượng đông đảo, thường không có tình
trạng độc quyền, dễ dàng và sẵn sàng chập nhận tự do cạnh tranh. Các DNV&N
có tính tự chủ cao hơn, không ỷ lại vào sự giúp đỡ, hỗ trợ của Nhà nước và vì
mưu lợi các doanh nghiệp sẵn sàng khai thác các cơ hội để phát triển mà không
ngại rủi ro.
- DNV&N góp phần tạo lập sự phát triển cân bằng giữa các vùng trong một
quốc gia. Với sự tạo lập dễ dàng, DNV&N có thể phát triển rộng rãi ở mọi vùng
lãnh thổ và tạo ra những sản phẩm phong phú, đa dạng, hiện diện ở khắp mọi

miền đất nước, kể cả nông thôn và miền núi, vùng sâu vùng xa…
- Tuy nhiên, bên cạnh đó các DNV&N cũng có những khó khăn, hạn chế
nhất định như: Các DNV&N do có quy mô không lớn lắm nên thường hoạt động
thiếu vững chắc, không có hoặc ít có khả năng phản ứng trước những thay đổi
về quy định pháp lý, dễ rơi vào tình trạng phá sản. Mặt khác, trong quá trình
hoạt động, các DNV&N còn có thể nảy sinh một số tiêu cực ảnh hưởng không
tốt đến đời sống kinh tế - xã hội như hiện tượng trốn thuế, chạy theo lợi nhuận
mà không chú ý đến bảo vệ môi trường, kể cả các hành vi phạm pháp như làm
hàng giả, hàng không đảm bảo chất lượng…
 Đặc điểm DNV&N ở Việt Nam:
Ngoài những đặc điểm chung của DNV&N trong nền kinh tế thị trường,
các DNV&N ở Việt Nam còn mang những đặc thù về sản xuất kinh doanh riêng:
25

×