Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN Giải toán có lời văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.88 KB, 20 trang )

GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN
I. LỜI NÓI ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Chúng ta đều biết mục tiêu đào tạo của nhà trường và đặc biệt là bậc
Tiểu học là hình thành những cơ sở ban đầu và trọng yếu của con người mới,
phát triển toàn diện phù hợp với yêu cầu, điều kiện và hoàn cảnh của đất nước
Việt Nam. Mục tiêu này xuất phát từ chính sách chung về giáo dục – đào tạo,
được thể hiện trong văn kiện Đại hội Đảng: “Mục tiêu Giáo dục và Đào tạo
nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lưc, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội
ngũ lao động có trí thức và có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng
động và sáng tạo, có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước, yêu Chủ Nghĩa
Xã Hội ” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII ĐCSVN trang 81).
“Nâng cao mặt bàng dân trí, bảo đảm những trí thức cần thiết để mọi người
gia nhập cuộc sống xã hội và kinh tế theo kịp tiến trình đổi mới và phát triển
đất nước. Đào tạo bồi dưỡng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp
ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ” (Văn kiện đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII, ĐCSVN trang 199).
Đồng thời thực hiện quy định hai không với 4 nội dung của Bộ Giáo
dục và đào tạo đề ra giúp học sinh học tập tốt không có học sinh ngồi nhầm
lớp.
Môn toán là môn học với những đặc điểm: Mang tính trừu tượng cao,
tính thực tiễn, phổ dụng, tính logic và tính thực nghiệm. Vì vậy môn toán
chiếm một vị trí quan trọng trong nhà trường Tiểu học.
Đặc biệt với xu thế phát triển chung của thế giới hiện nay, với sự phát
triển mạnh mẽ như vũ bão của khoa học công nghệ, đòi hỏi người học sinh -
những chủ nhân tương lai của đất nước – không chỉ học để đạt được những
1
kiến thức cơ bản mà cần năng động sáng tạo tiếp nhận các kiến thức của nhân
loại, phát huy tối đa năng lực cá nhân để vươn tới trí thức hiện đại với những
tầm cao mới góp phần xây dựng đất nước đi lên sánh vai cùng các cường
quốc trên thế giới.


Môn toán có tầm quan trọng to lớn. Nó là bộ môn khoa học nghiên cứu
có hệ thống, phù hợp với hoạt động nhận thức tự nhiên của con người. Môn
toán còn là môn học rất cần thiết để các em học các môn học khác. Nó có ý
nghĩa rất lớn trong việc giáo dục, rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương
pháp suy luận logic, thao tác tư duy cần thiết để nhận thức thế giới hiện thực
như: trừu tượng hoá, khái quát hoá, khả năng phân tích tổng hợp, so sánh, dự
đoán, chứng minh.
Môn toán còn góp phần giáo dục lí trí và những đức tính tốt như: trung
thực, cần cù, chịu khó, ý thức vượt khó, tìm tòi, sáng tạo và nhiều kĩ năng cần
thiết để con người phát triển toàn diện, hình thành nhân cách tốt đẹp cho
người lao động trong thời đại mới.
Cơ sở lí luận
Kết quả các nhà nghiên cứu tâm lí thì một học sinh bình thường về mặt
tâm lí, không có bệnh tật đều có khả năng tiếp thu môn toán theo yêu cầu của
chương trình toán học Tiểu học.
Những học sinh từ trung bình trở xuống: các em có thể học đạt yêu cầu
của chương trình nếu được hướng dẫn một cách thích hợp.
Về ngôn ngữ học ở giai đoạn này mức độ hiểu ngôn ngữ của các em
cũng đã cao hơn so với giai đoạn đầu của bậc học.
Toán 5 có vị trí đặc biệt quan trọng trong quá trình dạy học toán ở tiểu
học.Qúa trình dạy học toán 5 luôn gắn với việc củng cố, ôn tập các kiến thức
và kĩ năng cơ bản về môn toán ở tiểu học.Toán 5 đem lại mức chất lượng giáo
2
dục cơ bản về môn toán ở tầm cao hơn trước cho mọi đối tượng học sinh, góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục và thực hiện sự bình đẳng trong giáo dục
tiểu học.
Nội dung giải toán có lời văn là mảng kiến thức mang tính thực tiễn
cao, áp dụng kiến thức đã học vào giải quyết những vấn đề thực tiễn. Vì thế
nội dung dạng toán này đã có từ xưa. Nhưng trong quá trình dạy đối với mỗi
người nó luôn mới mẻ và luôn thúc đẩy người giáo viên suy nghĩ tìm tòi để

rút ra phương pháp dạy phù hợp hơn với từng đối tượng kiến thức, học sinh,
phù hợp với sự phát triển đòi hỏi của xã hội hiện tại và tương lai. Vấn đề
mang tính thực tiễn nên luôn mới mẻ, hấp dẫn đối với người giáo viên có tâm
huyết.
Cơ sở thực tiễn
Qua thực tiễn giảng dạy tôi nhận thấy: Giải toán có lời văn là một bộ
phận không nhỏ trong chương trình toán tiểu học và ngay từ những lớp đầu
tiên của bậc Tiểu học, học sinh đã được làm quen với dạng toán này. Nhưng
thực chất đây cũng là phần nội dung khó đối với học sinh và giáo viên trong
việc giảng - dạy. Vì nó không đơn thuần chỉ là những phép tính nó đòi hỏi sư
kết hợp với những môn học khác đặc biệt là tiếng Việt.
Các bài toán có lời văn mà học sinh Tiểu học được tiếp xúc có nội dung
là những vấn đề trong cuộc sống hết sức phong phú và có cấu trúc đa dạng từ
những dạng khác nhau của cùng 1 phép tính (cộng, trừ, nhân, chia ) đến
những dạng kết hợp của hai hay nhiều phép tính.
Vì vậy giải bài toán có lời văn là dịp để học sinh vận dụng một cách
tổng hợp và ngày càng cao các kĩ năng về toán Tiểu học với kiến thức cuộc
sống trong đó bao gồm cả kiến thức về tiếng Việt.
3
Với chương trình lớp 5 ( lớp cuối cấp tiểu học ) thì việc giải bài toán có
lời văn quả là khó khăn với học sinh nói chung không chỉ riêng với học sinh
yếu.
Xét về thời gian từ trước đến nay trong lớp học không phải tất cả các
em đều nắm được bài sau khi giáo viên giảng đồng thời biết áp dụng vào làm
bài tập và thực tiễn cuộc sống.
Từ những cơ sở đã nêu ở phần trên tôi cùng các đồng nhiệp chung
trường và trường bạn đã rất quan tâm vấn đề này. Vì thế chúng tôi đã thông
qua trong chương trình buổi hội thảo do phòng tổ chức. cùng nhau trao đổi và
rút kinh nghiệm, các đồng nghiệp cũng thống nhất cao với các vấn đề đặt ra
và cách giải quyết trong đề tài đã nêu.

II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ.
1. Thực trạng tình hình
Trường Tiểu học Minh Thuận 5 là 1 trong 6 trường Tiểu học của xã
Minh Thuận. Trường gồm 5 điểm ( có 4 điểm lẻ nằm cách xa nhau khoảng 2
hoặc 3 ki - lô - mét với:
11 phòng học.
01 phòng thiết bị - Thư viện
01 văn phòng.
01 Phòng hội đồng
01 phòng truyền thống đoàn đội
Tất cả được xây dựng dưới dạng kiên cố. Diện tích không rộng nhưng
cũng có sân đã được đổ bê tông để các em vui chơi sau những giờ học mệt
nhọc.
Số học sinh không nhiều với:
13 lớp Tiểu học
4
1 lớp mẫu giáo.
Khối 5 có 2 lớp với tổng số học sinh là 33 em.
Lớp của tôi là lớp 5A với số học sinh là 18 em trong đó nữ là 10; dân
tộc 1; nữ dân tộc 1.
Trường chúng tôi gồm 24 giáo viên trong đó BGH: 2 đồng chí, Tổng
phụ trách Đội: 1 đồng chí, nhân viên: 3 đồng chí ( Kế toán – Văn thư: 1 đồng
chí, Thiết bị - Thư viện: 1 đồng chí, Thủ quỷ - Y tế học đường: 1 đồng chí).
Giáo viên trực tiếp giảng dạy: 17 đồng chí. Trong đó chủ nhiệm lớp: 13 đồng
chí, dạy chuyên Mĩ thuật: 1 đồng chí, dạy chuyên Ngoại ngữ: 1 đồng chí, dạy
chuyên Thể dục: 1 đồng chí. Dạy âm nhạc: 1 đồng chí.
Đảng viên: 4 đồng chí (Trong đó Nữ 1). Đoàn viên TNCSHCM: 9
đồng chí (Trong đó Nữ 4). Đoàn viên Công đoàn: 21 Nữ 7.
Trình độ chuyên môn: Đại học Sư phạm 14 đồng chí, Cao đẳng Sư
phạm 2 đồng chí, Trung học Sư phạm 8 đồng chí ( trong đó 06 đồng chí đang

tham gia học đại học nâng cao trình độ chuyên môn).
2. Những khó khăn.
Những khó khăn do khách quan
Trường Tiểu học Minh Thuận 5 nằm trong địa bàn thuộc chương trình
135 của chính phủ. Với khoảng 25% tổng sô dân là người dân tộc Khơme.
Người dân sống chủ yếu bằng nghề nông. Thậm chí còn có rất nhiều gia đình
không có ruộng để làm mà sống bằng đồng tiền làm thuê.Vì vậy về thu nhập
của người dân chưa cao dẫn đến đời sống kinh tế còn thấp. Việc mua sắm đồ
dùng cho con em còn hạn chế chưa đáp ứng được nhu cầu học tập của học
sinh và nhu cầu giảng dạy của giáo viên. Cụ thể là khi đi học các em còn
thiếu sách vở, đồ dùng học tập. Từ đó cho thấy công tác chủ nhiệm cũng rất
vất vả, mặc dù đã cố gắng động viên rất nhiều nhưng vẫn có những em không
mua được sách giáo khoa để học và phải mượn của nhà trường. Đầu năm và
học kì II có 6 em mượn sách nhà trường để học do nhà nghèo không có tiền
mua.
5
Mặt bằng dân trí có phần thấp, kém hơn so với một số xã trong địa bàn
huyện. Nhận thức của phụ huynh còn hạn chế, còn nhiều phụ huynh chưa biết
chữ. Sự quan tâm giáo dục của gia đình đối với các em chưa đúng mức, nhiều
phụ huynh còn quan niệm việc giảng dạy và giáo dục học sinh là do nhà
trường đảm nhiệm. Việc này đồng nghĩa với việc khoán trắng trọng trách cho
giáo viên. Mặt khác cũng có gia đình quan tâm tới việc học của con em mình
nhưng lại không nắm được nội dung giảng dạy cũng như phương pháp dạy
dẫn tới hiệu quả không cao. Thậm chí có trường hợp dạy sai dẫn tới các em
nhận thức lệch hướng của vấn đề. Chính những khó khăn này ảnh hưởng trực
tiếp đến việc học của các em.
Bên cạnh đó ngoài giờ học các em còn phải tiếp giúp gia đình như: cắt
lúa, phơi lúa mướn cùng cha mẹ để tăng thêm thu nhập cho gia đình. Vì thế
khi tới mùa vụ tỉ lệ nghỉ học của các em tương đối cao. Điều này làm cho việc
học của các em bị hụt kiến thức dẫn đến mất căn bản.

Mặt khác tỷ lệ học sinh các em là người dân tộc khá đông chiếm gần ½
sĩ số lớp. Điều này nói lên vốn ngôn ngữ tiếng Việt của các em rất hạn chế. Vì
thế khi đối mặt với bài toán có lời văn các em bị lúng túng trong việc phân
tích đề bài dẫn tới định hướng sai.
Khó khăn từ phía giáo viên:
Khả năng vận dụng một cách linh hoạt các phương pháp giảng dạy cho
từng đơn vị kiến thức, từng đối tượng học sinh có phần còn hạn chế.
Thời gian dành cho việc nghiên cứu tài liệu chưa nhiều.
Chuẩn bị đồ dùng dạy học tuy không có tình trạng dạy chay nhưng do
khả năng có hạn nên hiệu quả chưa cao đặc biệt là đối với các đồ dùng tự làm.
Chưa có đủ sách, tài liệu học tập, tài liệu tham khảo.
Thiếu trang thiết bị dạy học.
6
Những khó khăn chủ quan
Bản thân tôi cho rằng đây là nguyên nhân, khó khăn cơ bản nhất mà
chúng ta cần nghiên cứu kĩ để có hướng khắc phục tốt hơn. Ở mỗi học sinh
yếu bộ môn toán nói chung và mảng toán có lời văn nói riêng, rất đa dạng. Có
thể chia ra một số loại chúng ta thường gặp và tôi cũng thấy tồn tại trong học
sinh của tôi:
Do quên kiến thức cơ bản, kĩ năng tính toán yếu.
Do chưa nắm được phương pháp học môn toán, năng lực tư duy bị hạn
chế (loại trừ những học sinh bị bệnh lí bẩm sinh). Nhiều học sinh vẫn phát
triển bình thường nhưng năng lực tư duy toán học kém phát triển.
Do lười học.
Do thiếu điều kiện học tập hoặc do điều kiện khách quan tác động như:
Gia đình xảy ra sự cố đột ngột, hoàn cảnh éo le…
Vốn kiến thức cơ bản ở các lớp dưới còn yếu hoặc thiếu. Do hậu quả
của việc thực hiện quy định 2 với không 4 nội dung của Bộ giáo dục và Đào
tạo chưa nghiêm. Dẫn tới tình trạng mà chúng ta quen gọi là bị hổng kiến
thức hoặc mất căn bản.

Một phần do thói quen học vẹt, ghi nhớ máy móc không chủ định của
học sinh, tiếp thu thụ động, chỉ tiếp nhận được cái đã có sẵn.
Khả năng kết hợp giữa tri thức đã học với kiến thức vốn có trong cuộc
sống chưa cao.
Sự kết hợp các loại kiến thức của các môn học để vận dụng vào học
toán chưa sâu.
Chưa biết phân tích để thấy được bản chất của vấn đề khi tiếp cận với
yêu cầu đặt ra.
7
Một khó khăn không nhỏ là các em chưa có phương pháp học tập và
làm việc khoa học. Khả năng sáng tạo ở mức độ tương đối thấp. Vì thế đầu
năm các em có nhiều hạn chế. Qua kết quả khảo sát đầu năm cho thấy:
Học sinh chưa hiểu đề bài: 30%
Học sinh chưa hiểu đề bài tức là hiểu các thành phần của nó gồm có 3
phần:
Những yếu tố đã cho.
Những yếu tố cần tìm.
Những mối liên hệ giữa những yếu tố đã cho và yếu tố cần tìm.
Học sinh chưa biết phân biệt, phân loại bài toán chiếm khoảng : 25%.
Học sinh giải bài toán sai : từ 30 % – 35 %
Trình bày bài giải không đúng quy định…
Ví dụ một số dạng bài điển hình như.
- Một số bài toán như tính chu vi, diện tích của hình.
- Tìm số trung bình cộng của hai số hay nhiều số
- Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó.
- Tìm hai số khi biết tổng và tỷ của hai số đó.
- Tìm hai số khi biết hiệu và tỷ số của hai số đó.
- Bài toán về đại lượng tỷ lệ thuận.
- Bài toán về đại lượng tỷ lệ nghịch.
Đối với chương trình toán 5, ngoài những dạng toán căn bản đã được

học ở các lớp dưới, bên cạnh những yếu tố hình học có mở rộng thêm, thì
những bài toán về số học được cung cấp mới là những bài toán về tỉ số phần
trăm và toán chuyển động đều. Trong đó những bài toán về tỉ số phần trăm
chỉ ở mức độ đơn giản nên các em không gặp khó khăn nhiều trong việc giải
8
các bài toán này. Riêng toán chuyển động đều được chia thành 3 dạng cơ
bản :
Dạng thứ nhất là những bài toán đơn giản đã biết đầy đủ hai yếu tố chỉ
yêu cầu áp dụng công thức và tìm yếu tố thứ 3. Tuy nhiên nếu yếu tố thời
gian không cho một cách cụ thể mà chỉ cho thời điểm xuất phát và thời điểm
đến. Học sinh sẽ rất lúng túng không biết cách lấy thời điểm đến trừ thời điểm
xuất phát để tìm ra thời gian chuyển động.
Dạng thứ 2 là toán chuyển động đều cùng chiều gặp nhau.
Dạng thứ 3 là những bài toán chuyển động đều gặp nhau.
Với dạng thứ 2 và 3 học sinh sẽ gặp khó khăn khi tìm tổng vận tốc hoặc
hiệu vận tốc do không định hướng được.
Hơn nữa việc hiểu các cặp đơn vị như km/giờ; m/phút hoặc m/giây đối
với các em cũng là rất khó khăn khi phân biệt.
Vì thế rất cần có những giải pháp cụ thể giúp các em thực hiện tốt yêu
cầu của bài học.
III. GIẢI PHÁP VÀ KẾT QUẢ
Dạy và học tốt về giải toán có lời văn có ý nghĩa quyết định sự thành
công trong việc dạy và học môn toán. Vì vậy vấn đề đặt ra là rèn kĩ năng giải
toán có lời văn cho học sinh để giảm bớt khó khăn nêu trên là vấn đề cần
thiết.
Giáo viên muốn giải quyết vấn đề này một cách tốt nhất thì phải xác
định được hướng đi đúng mà điều đầu tiên đó là phải xác định được mục tiêu
cụ thể như:
Học sinh nhận biết được cái đã cho và cái cần tìm trong mỗi bài toán
đồng thời phải đặt chúng vào mối liên hệ giữa các đại lượng có trong mỗi bài

9
toán. Chẳng hạn như khi dạy bài toán chuyển động đều thì mối quan hệ đó thể
hiện ở: quãng đường đi bằng tích của vận tốc với thời gian đi đường.
Học sinh giải được các bài toán hợp: Với một số quan hệ thường gặp
giữa các đại lượng thông dụng.
Học sinh giải được một số dạng toán điển hình như:
Tìm số trung bình cộng của 2 số hay nhiều số.
Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó.
Tìm hai số khi biết tổng và tỷ của hai số đó.
Tìm hai số khi biết hiệu và tỷ số của hai số đó.
Bài toán liên quan đến rút về đơn vị.
Bài toán về tỷ số phần trăm.
Bài toán cơ bản về chuyển động đều cùng chiều.
Bài toán cơ bản về chuyển động đều ngược chiều.
Một số bài toán khác có nội dung về hình học.
Biết trình bày bài giải đúng quy định.
Bên cạnh việc tìm ra mục tiêu như đã nói trên việc xác định rõ những
nguyên nhân dẫn đến học sinh học yếu môn toán là điều quan trọng. Việc tiếp
theo là giáo viên tìm ra những giải pháp xoá bỏ dần những nguyên nhân đó.
Nhen nhóm lại sự say mê niềm hứng thú của học sinh trong việc học toán sẽ
giải quyết được vấn đề chúng ta đã đặt ra.
1. Một số giải pháp
Về phía giáo viên:
Cần trau dồi thêm kiến thức. Dành nhiều thời gian cho việc nghiên cứu,
tìm hiểu, học hỏi ở đồng nghiệp, ở tài liệu để nâng cao nghiệp vụ. Đặc biệt là
nghiên cứu sâu việc giảng dạy theo phương pháp mới.
10
Song song với nhiệm vụ vừa nêu thì giáo viên cũng cần thực hiện tốt
như chương trình tăng cường tiếng Việt cho các em. Đồng thời giúp các em
phát triển phong phú thên ngôn ngữ tiếng Việt đặc biệt là đối với đối tượng

các em là người dân tộc thiểu số.
Phân chia nhỏ từng đơn vị kiến thức để có những phương pháp, hình
thức phù hợp.
Chuẩn bị đồ dùng dạy học một cách chu đáo. Cố gắng tận dụng những
trang thiết bị một cách tối đa vào việc dạy và học.
Cùng với những tích luỹ về kiến thức nêu trên tôi đã thực hiện cụ thể
những việc sau:
Hướng dẫn học sinh nhận biết các yếu tố của bài toán.
Học sinh nhận biết nguồn gốc thực tế của bài toán và tác dụng phục vụ
thực tiễn cuộc sống của bài toán chẳng hạn: Cần tính năng suất lúa trên một
diện tích đất trồng – tính bình quân thu nhập hàng tháng theo đầu người trong
gia đình em…
Cho học sinh nhận rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa các đại lượng trong bài
toán. Như khi giải bài toán chuyển động đều, học sinh dựa vào “cái đã cho ”,
“cái phải tìm ” mà xác định mối quan hệ giữa các đại lượng: Vân tốc – quãng
đường - thời gian để tìm đại lượng chưa biết.
Tập cho học sinh xem xét các đối tượng toán học dưới nhiều hình thức
khác nhau thậm chí ngược nhau và tập diễn đạt các kết luận dưới nhiều hình
thức khác nhau. Chẳng hạn: “Số bạn gái bằng 1/3 số bạn trai” cũng có nghĩa
là “số bạn trai gấp 3 lần số bạn gái” hay “đáy nhỏ bằng 2/3 đáy lớn ” cũng có
nghĩa là “đáy lớn gấp rưỡi đáy nhỏ” hay “đáy lớn gấp 1,5 lần đáy nhỏ”.
11
Ngoài ra hệ thống câu hỏi giáo viên đặt ra cho học sinh cũng cần hợp lý
và logic. Bên cạnh đó có những câu hỏi gợi mở giúp học sinh xác định hướng
giải quyết vấn đề.
Phân loại bài toán có lời văn.
Để giải được bài toán thì học sinh phải hiểu đề bài, hiểu các thành phần
của nó. những cái đã cho và những cái cần tìm thường là những số đo đại
lượng nào đấy được biểu thị bởi các phép tính và các quan hệ giữa các số đo.
Dựa vào đó mà có thể phân loại các bài toán:

Phân loại theo đại lượng:
Với mỗi loại đại lượng có một loạt bài toán có lời văn về đại lượng đó
như:
- Các bài toán về số lượng.
- Các bài toán về khối lượng của vật.
- Các bài toán về các đại lượng trong chuyển động đều.
- Các bài toán về các đại lượng trong hình học.
- Cách phân loại này đóng vai trò không nhỏ trong quá trình dạy học.
Phân loại theo số các phép tính:
Bài toán đơn: là bài toán mà khi giải chỉ cần 1 phép tính. Ở lớp 5 loại
toán này thừơng được dùng để nêu ý nghĩa thực tế của phép tính, nó phù hợp
với quá trình nhận thức: Thực tiễn – tư duy trừu tượng - thực tiễn.
Ví dụ : Để dạy trừ số đo thời gian có bài toán “Một ô tô đi từ Huế lúc 13
giờ 10 phút và đến Đà Nẵng lúc 15 giờ 55 phút. Hỏi ô tô đó đi từ Huế đến Đà
Nẵng hết bao nhiêu thời gian? ” (Ví dụ sách giáo khoa trang 132) . Từ bản
chất của bài toán học sinh hình thành phép trừ.
15 giờ 55 phút – 13 giờ 10 phút = 2 giờ 45 phút.
12
Bài toán hợp: là bài toán mà khi giải cần ít nhất 2 phép tính. Loại bài
toán này thường dùng để luyện tập, củng cố kiến thức đã học. Ở lớp 5, dạng
toán này có mặt ở hầu hết các tiết học toán.
Phân loại theo phương pháp giải:
Trong thực tế, nhiều bài toán có nội dung khác khau nhưng có thể sử
dụng cùng một phương pháp suy luận để giải.
Từ những việc đã được phân tích rất cụ thể trên thì chúng ta cũng cần
hình thành cho học sinh các bước chung khi giải toán.
Bước 1: Tìm hiểu bài toán.
Hướng dẫn học sinh đọc kĩ đầu bài. Cần làm rõ phần đã cho, phần cần
tìm của đề bài bằng nhiều cách diễn đạt khác nhau, với ngôn ngữ ngắn gọn,
sơ đồ đoạn thẳng, mô hình.

Bước 2: lập kế hoạch giải
Tìm hướng giải cho bài toán, xem xét bài toán thuộc dạng nào từ đó huy
động vốn kiến thức cần thiết để tìm lời giải thường xuất phát từ câu hỏi trong
đề toán suy luận ngược trong điều kiện đã cho của bài toán. Bước này giáo
viên chú ý phối hợp nhiều phương pháp giải phù hợp với từng bài để học sinh
lập kế hoạch giải đúng.
Bước 3: thực hiện kế hoạch giải.
Là tiến hảnh thực hiện các phép tính theo trình tự mà bước lập kế hoạch
giải đã xác định, sau đó viết lời giải. Giáo viên chú ý với học sinh 2 bước đầu
của giải toán. Tuy nhiên khi khâu trình bày cũng rất quan trọng: Trình bày rõ
ràng, cân đối, đầu câu trả lời phải viết hoa, đáp số ghi bên phải phép tính.
Bước 4: Nhìn lại bài toán
Bước này về nguyên tắc không phải là bước bắt buộc với quá trình giải
toán. Nhưng lại là bước không thể thiếu trong dạy học toán với các mục đích.
13
Kiểm tra, rà soát lại công việc.
Tìm cách giải khác và so sánh cách giải.
Suy nghĩ khai thác thêm đề bài.
Ở bước này hình thành cho học sinh thói quen: Cẩn thận, tỉ mỉ trong
giải toán, yêu thích tìm tòi giải toán.
Dạy cho học sinh biết quan sát mô hình, sơ đồ, xử lý các số liệu trong
bảng thống kê từ đó tìm ra cách giải. Nhằm hình thành và phát triển năng lực
quan sát, ghi nhớ, tưởng tượng, tư duy qua các bài toán.
Phát triển khả năng suy luận của học sinh qua các dạng bài chẳng hạn
như: Ở bài toán cơ bản về chuyển động đều cùng chiều thì khi hai động tử
đuổi kịp nhau tức là động tử có vận tốc lớn hơn đã đi hơn động tử có vận tốc
nhỏ hơn một khoảng cách đúng bằng khoảng cách ban đầu của hai động tử.
Tập cho học sinh làm quen với các thao tác tư duy phân tích, tổng hợp,
so sánh, trừu tượng hoá, khái quát hoá, cụ thể hoá.
Chẳng hạn : Học sinh tóm tắt bài toán bằng sơ đồ, hình vẽ là dịp để kết

hợp các thao tác nói trên.
Trong quá trình giải bài tập, học sinh phải vận dụng một cách tổng hợp
nhiều thao tác tư duy và đây chính là mặt mạnh của việc dạy toán qua giải các
bài toán có lời văn.
Từ việc dạy toán có lời văn cho các em chúng ta không chỉ giúp các em
biết cách giải toán một cách đơn thuần mà thông qua đó chúng ta hình thành
và phát triển những phẩm chất cần thiết để học sinh có phương pháp học tập,
làm việc có khoa học, tính sáng tao: Cụ thể như:
Hình thành nền nếp học tập. Lớp học có nền nếp thì các em mới nghiêm
túc, hăng hái học tập có chất lượng cao.
Rèn luyện tính cẩn thận, chu đáo trong học tập.
14
Rèn kuyện tính chu đáo trong diễn đạt.
Rèn ý thức vượt khó trong học tập.
Không chỉ đơn giản ở việc học sinh thực hiện được các bài toán mà
giáo viên cũng cần khéo léo đưa các bài toán về thực tiễn giúp học sinh hăng
say hơn. đồng thời còn giúp học sinh biết áp dụng những kiến thức đã học
một cách linh hoạt vào thực tiễn cuộc sống. Để toán học không đơn thuần chỉ
là những tính toán trên sách vở mà nó thực sự đi vào đời sống của mỗi chúng
ta dựa trên các tri thức đã học.
Bên cạnh việc dạy theo các quy tắc khô khan đó thì việc tổ chức một số
trò chơi đan xen cũng giúp cho giờ học toán trở nên nhẹ nhàng nhưng mang
lại hiệu quả khả quan.
Trò chơi “Tìm bạn”; Giáo viên phát cho mỗi em một thẻ ghi các dữ
liệu có liên quan đến nội dung cần ghi nhớ hoặc để giải quyết vấn đề (đáy,
chiều cao, vận tốc, thời gian). Tìm những người có giá trị tương ứng, phù
hợp… theo mục tiêu bài học dưới sự phát lệnh của giáo viên. Có ghi điểm cho
từng đôi, từng nhóm.
Ứng dụng dạy các bài:
Củng cố các quy tắc, tính chu vi, diện tích, thể tích, tìm vận tốc, thời

gian, quãng đường…
Giáo viên là trong tài ghi điểm số trên bảng. Và dĩ nhiên kết quả vừa
học vừa chơi như thế này thường mang lại không khí hào hứng, học sinh tích
cực hơn.
Trò chơi “Ai tài thế? ” : Trong một khoảng thời gian nhất định, bạn nào
tìm được, làm đúng được nhiều theo yêu cầu của giáo viên thì thắng.
Ứng dụng dạy các bài có công thức về hình học, toán chuyển động …
15
Trò chơi “Tiếp sức vượt khó” : Từng tổ nhóm sẽ cùng nhau giải quyết
một số bài nhiều nội dung hoặc nội dung khó.
Ứng dụng dạy các bài toán có lời văn ở dạng toán hợp.
2 .Kết quả đạt được.
Qua việc thực hiện các giải pháp trên tôi thấy việc rèn kĩ năng giải toán
có lời văn đã có được những kết quả khả quan.
Trong quá trình giảng dạy chúng tôi cùng giúp đỡ nhau thực hiện
chuyên đề này. Chúng tôi đã tiến hành khảo sát thường xuyên theo đơn vị
thời gian được tính là tháng và kết quả tăng lên dần dần theo mỗi đợt kiểm
tra. Và cuối năm đạt tương đối tốt so với mục tiêu đề ra. Cụ thể:
Đối với các dạng toán cơ bản như đã nêu ở phần trên học sinh hầu hết
đã nắm được, giải được. Tuy nhiên ở các cấp độ khác nhau. Khác nhau về độ
khó của bài toán, khác nhau về đối tượng học sinh nhưng với cái nhìn tổng
thể thì các em đã đạt được yêu cầu đề ra trong chương trình Tiểu học ở các
cấp độ khác nhau.
Học sinh đã dần hiểu nhanh đề bài đạt khoảng 80% tăng hơn nhiều lần
so với trước.
Học sinh phân loại được các dạng bài toán khoảng 90% tăng nhiếu so
với trước.
Học sinh tìm và giải được bài toán khoảng 80 % tăng nhiều so với
trước.
Một số em, khi đầu năm, việc giải toán có lời văn đối với các em còn là

những vấn đề cực kì khó đối với các em (Nguyễn Văn Lộc, Lâm Thị Dàng,
Nguyễn Thị Anh Thư,…). Nhưng nay nhờ sự cố gắng tìm tòi, học hỏi của bản
thân theo sự hướng dẫn của cô giáo mà các em dã có những bước tiến bộ vượt
trội. Nay các em không còn cảm thấy lo lắng, khó khăn nhiều khi đối tượng
16
của các em là những bài toán có lời văn nữa. Điều này đồng nghĩa với tỷ lệ
yếu môn toán đã giảm đáng kể.
Đồng thời với những em yếu có sự tiến bộ vượt trội thì những em đã có
sẵn vốn kiến thức (Võ Thị Thùy Trang, Trương Thị Nguyên, Du Tấn Đệ,
Nguyễn Thị Xuyến Em,…) thêm nhanh nhạy hơn trong việc xác định và giải
các bài toán có lời văn. Không chỉ dừng lại ở đó một số em còn có thể giải
được một số bài toán đòi hỏi phải có sự mềm dẻo của tư duy, có cách suy luận
logic mới tìm ra được cách giải. Có nghĩa là tỷ lệ học sinh khá giỏi được nâng
lên rõ dệt.
Bên cạnh đó học sinh còn đạt được hầu hết các phẩm chất mà phần mục
tiêu đã đề ra.
Giờ học được tập trung cao, huy động được tất cả các em học sinh tham
gia đóng góp, xây dựng tìm hiểu bài và hiểu bài ngay tại lớp, tạo không khí
học tập luôn vui tươi phấn khởi.
Các em đã mạnh dạn trao đổi với giáo viên những kiến thức trong và
ngoài giờ học đồng thời chăm chỉ và ngày càng say mê với các con số toán
học.
VI. Kết luận.
Là một giáo viên tham gia trực tiếp giảng dạy lớp 5, qua thực tế giảng
dạy và học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp cũng như các tài liệu tham khảo,
tôi đã rút ra các phương pháp giảng dạy như trên đã nêu. Nhằm giảm bớt khó
khăn lớn nhất của môn học là giải toán có lời văn cho học sinh, nhằm nâng
cao chất lượng học tập cho các em.
Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, ngăn ngừa sai sót và phát huy mặt
mạnh, mặt tốt của học sinh. Phân công kèm cặp, giúp đỡ bạn yếu trong quá

trình học tập.
17
Luôn tuyên dương, khen thưởng trước lớp những học sinh đạt thành
tích xuất sắc, những học sinh có tiến bộ trong học tập, tham gia tốt các phong
trào của trường của lớp đề ra.
Đối với học sinh yếu, kém thường xuyên kiểm tra các em nhiều hơn, từ
đó thấy được sự cố gắng, tiến bộ của từng em để khuyến khích các em phát
biểu ý kiến xây dựng bài. Luôn biểu dương những học sinh mạnh dạn hỏi lại
các bài chưa hiểu, giúp giáo viên có được những phản hồi trực tiếp để điều
chỉnh lại tốc độ cho phù hợp với từng đối tượng học sinh.
Tiếp cận, tìm hiểu rõ hoàn cảnh của từng em. Nắm bắt tâm lý từng đối
tượng để có những biệp pháp giúp các em tốt hơn.
Kết hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh để có kế hoạch phụ đạo học
sinh yếu một cách có hiệu quả.
Coi trọng và thực hiện tốt việc cải tiến phương pháp trong giảng dạy.
Nghiên cứu kĩ yêu cầu căn bản của từng bài, từng đơn vị kiến thức. Để chọn
lựa phương pháp giảng dạy cho phù hợp với nội dung kiến thức ấy để đạt hiệu
quả tốt nhất.
Thực hiện tốt sự phối hợp giữa thầy và trò, phát huy tối đa tính tích cực,
tự giác của học sinh trong giờ học.
Lời nói của giáo viên phải chuẩn, rõ ràng, cách nói phải cô đọng tránh
rườm rà. Đồng thời phải tạo được không khí vui tươi và hứng thú cho học
sinh trong giờ học.
Hướng dẫn giúp học sinh tự tìm ra phương pháp học phù hợp với bản
thân mình.
Trên đây là những vấn đề mà tôi đã không ngừng nỗ lực nghiên cứu,
tìm hiểu, vận dụng vào quá trình rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học
sinh. Trong cách trình bày ý tưởng của mình, chắc hẳn sẽ có những điều thiếu
18
sót hoặc chưa rõ ràng. Tôi rất mong nhận được sự góp ý chân thành của cấp

trên cũng như các anh chị đồng nghiệp, giúp cho đề tài của tôi thêm sâu sắc
và có tính phổ dụng hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Minh Thuận 5, ngày 25 tháng 4 năm 2010
Người viết

PHẠM THANH ĐIỀN
HỘI ĐỒNG THI ĐUA NHÀ TRƯỜNG
…………………………………………
…………………………………………
…………………………………………
…………………………………………
…………………………………………
…………………………………………
HIỆU TRƯỞNG
19
XÁC NHẬN PHÒNG GD & ĐT U MINH THƯỢNG
TRƯỞNG PHÒNG
…………………………………………………………….
……………………………………………………………
…………………………………………………………….
…………………………………………………………….
…………………………………………………………….
…………………………………………………………….

20

×