Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tài liệu lưu trữ và công tác bảo quản tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.48 KB, 16 trang )

Góp phần nâng cao nhận thức - giữ gìn tài liệu trong công tác bảo quản VTL
I/. Công tác bảo quản tài liệu
Tài liệu là những sản phẩm vật chất rất dễ bị xâm hại và hư hỏng cho dù chúng có được cấu
thành từ bất cứ chất liệu gì đi nữa thì các yếu tố khách quan như Ánh sáng, tia cực tím, nhiệt
độ và độ ẩm, sự xâm nhập của côn trùng, nấm mốc, thảm hoạ tự nhiên, các tác nhân hoá học
đều có thể gây ra gây hư hại đến tài liệu. Bên cạnh đó, các yếu tố chủ quan như việc sử
dụng tài liệu chưa đúng cách, di chuyển kho tàng, bảo quản tài liệu không hợp lí thì cũng
đều ảnh hưởng và làm hư hại tài liệu.
Một ví dụ gần đây nhất: Theo khảo sát của nhiều chuyên gia Pháp, đã có một số lượng lớn
các ấn phẩm cổ bị hư hại trong các kho sách, thư viện của ba nước Đông Dương. Họ đã nhận
định: “Điều kiện khí hậu và tình trạng bảo quản bấp bênh có thể khiến chúng tan thành bụi
trong thời gian ngắn. Nếu điều đó xảy ra, nó sẽ xóa sạch cả một mảng ký ức về Việt Nam,
Lào và Campuchia cũng như một nhân chứng không thể thay thế được của lịch sử nước
Pháp trong một giai đoạn lịch sử cùng chia sẻ với ba nước Đông Dương ”
[1]

Đó cũng là một sự cảnh báo trực tiếp đối với các cơ quan lưu trữ và cho công tác bảo
tồn tài liệu. Tuy nhiên, không phải cho đến hôm nay công tác bảo quản tài liệu mới được
nhìn nhận với một vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng. Bảo quản tài liệu đã được nhận
định là vấn đề sống còn của mỗi thư viện.
Một vài nét khái quát công tác bảo quản tài liệu đã và đang được tiến hành tại
nước ta
Hiện nay chúng ta đã có những văn bản pháp qui trong công tác bảo quản tài liệu như
Công văn số 111 ngày 04/04/1995 Cục lưu trữ nhà nước. Các văn bản pháp qui trong công
tác bảo quản được phát triển và đưa ra chủ yếu áp dụng cho các cơ quan lưu trữ nhà nước.
Tuy nhiên, công tác bảo quản tài liệu được cũng vẫn được quan tâm và triển khai rộng khắp,
đặc biệt là ở các tỉnh và thành phố lớn trong cả nước. Nội dung của công tác bảo quản tài
liệu hiện nay tập trung vào các công tác trọng tâm bao gồm xây dựng kho lưu trữ, trang thiết
bị bảo quản, tổ chức tài liệu và các biện pháp kĩ thuật bảo quản. Vì vậy tại các thư viện, các
đơn vị đã đưa ra những phương pháp bảo quản tài liệu riêng biệt tùy theo ngân sách và đặc
điểm riêng về tài liệu của đơn vị: Tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện đã chọn giải pháp là


tiến hành sao chụp, nhân bản các bản sách hán nôm thành ba bản để phục vụ độc giả, bản
gốc thì đưa vào kho lưu giữ theo chế độ bảo tàng, bồi vá, tu bổ, phục chế các bản sách
nguyên gốc bị rách bị hư hỏng, làm hộp,
Nguyên nhân gây hư hại, mục tiêu và hành động bảo quản tài liệu thực tế
1. Nhận biết sự hư hại tài liệu một cách trực quan
Việc nhận biết những mối nguy hiểm đối với tài liệu đôi khi rất dễ dàng, bằng trực quan,
giác quan mà từ đó đã có thể bảo vệ tài liệu nguyên vẹn tới 100%.
Có rất nhiều dấu hiệu để nhận biết tài liệu bị hư hại như là với tài liệu giấy thì bị nhạt
màu, đổi màu, gấp nếp, rách, thủng lỗ và mất mát, giòn, mốc; tài liệu băng đĩa thì bị gãy, nát,
xước
Sự xuống cấp và hư hại tài liệu có thể được chia ra làm hai nhóm nguyên nhân chính –
sự phân chia này dựa theo những đặc trưng căn bản của quá trình sử dụng và bảo quản tài
liệu bao gồm:
- Bảo quản và xử lý bảo quản thực tế tài liệu chưa tốt
- Phương pháp lưu trữ và trưng bày, sử dụng chưa thích hợp
Trong hai nhóm nguyên nhân này, nhóm nguyên nhân thứ nhất mang tính chất khách
quan hơn, việc phòng trách cũng khó khăn và bị động hơn. Đó là những nguyên nhân hoàn
toàn khách quan từ điều kiện khí hậu, môi trường bảo quản tài liệu gây ra những hư hại cho
tài liệu như chúng ta đã đề cập: điều kiện tự nhiên, ánh sáng môi trường, côn trùng, nấm
mốc, chất hóa học Để giảm thiếu những tác nhân gây hư hại này phải có những yêu cầu
đặc biệt về trang thiết bị, cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên về cơ sở vật chất cũng như những trang
thiết bị để phục chế tài liệu hiện nay tại các cơ quan thư viện vẫn còn rất thiếu thốn, lạc hậu
không thể khắc phục một cách triệt để nhanh chóng được. Chúng ta cũng đã hạn chế được
phần nào các tác nhân này trong điều kiện tốt nhất có thể và cũng phần nào thực hiện công
tác phục chế tài liệu ở những kĩ thuật phổ thông nhất như đóng lại sách hay sao chụp tài liệu
tăng bản tài liệu. Với những kĩ thuật bảo quản và phục chế tài liệu hiện đại hơn thì chưa phải
địa phương nào cũng thực hiện được.
Nhóm nguyên nhân thứ hai ngược lại mang nhiều yếu tố chủ chủ quan hơn và liên quan
trực tiếp đến quá trình sử dụng tài liệu. Nhóm nguyên nhân gây hư hại tài liệu này hoàn toàn
có thể được kiểm soát và có thể hạn chế được tối đa mức độ hư hại với tài liệu, đặc biệt, đây

là nhóm nguyên nhân hết sức trực quan tại các thư viện, nơi mà sự tiếp xúc với tài liệu là
linh hồn của hoạt động thư viện. Đây cũng là nhóm nguyên nhân không thực sự được chú
trọng đến trong các văn bản pháp quy về bảo tồn tài liệu và thường xuyên bị quên lãng trong
các hoạt động tuyên truyền, phổ biến về việc bảo quản tài liệu. Cần phải xác định nhóm
nguyên nhân này chính là bước xuất phát điểm cho của công tác bảo quản tài liệu, đồng thời
nhìn nhận công tác bảo quản dự phòng tài liệu là một bộ phận tích cực góp phần nâng cao
nhận thức về việc trân trọng, bảo vệ tài liệu, xây đựng những nét ứng xử đẹp với tài liệu
trong văn hóa đọc.
2. Hành động thực tế trong công tác bảo quản tài liệu
Như vậy trong công tác bảo quản tài liệu ngoài việc đặt đối tượng chính của công tác
này là tài liệu thì cần phải có sự quan tâm đánh giá thích đáng cho hai nhóm đối tượng: đó là
người quản lý tài liệu và người sử dụng tài liệu. Trong đó, việc đưa người sử dụng trở thành
một cộng đồng bảo quản tài liệu sẽ duy trì tuổi thọ của tài liệu lâu hơn rất nhiều lần; là yếu
tố quan trọng góp phần thực hiện phần lớn các mục tiêu chiến lược của công tác bảo quản tài
liệu bao gồm:
- Đảm bảo chắc chắn tuổi thọ cao nhất có thể cho tài liệu
- Sử dụng hiệu quả tài liệu trong trưng bày giới thiệu, triển lãm tài liệu
- Thiết lập các chính sách ưu tiên cho các tài liệu quan trọng
- Kiểm tra và bảo quản dự phòng tài liệu
Người sử dụng tài liệu hoàn toàn có thể tham gia những khâu đầu trong công tác bảo
quản tài liệu như sử dụng tài liệu đúng cách, hạn chế các yếu tố có thể gây hư hại đến tài liệu
trong quá trình sử dụng, hay dự báo sự hư hỏng của tài liệu.
Với rất nhiều nội dung trực quan vô tình hay cố ý người sử dụng cũng có thể gây nguy
hại đến tài liệu. Như để sử dụng tài liệu đúng cách, các thư viện đã hướng dẫn độc giả -
Ngay khi có thể hãy tránh xa những mối nguy hiểm cho tài liệu:
-Tay phải sạch trước khi tiếp xúc với tài liệu, ví như tay dính dầu ăn, dầu ăn dính lên tài
liệu thì sẽ làm biến chất tài liệu
-Tài liệu phải được cất giữ trên giá, không đặt dưới đất, không đặt trên nóc giá;
-Sử dụng tấm ken tài liệu đầy đủ để tài liệu không bị đổ, chồng lên nhau;
-Không để tài liệu ngoài kho vì có thể không đảm bảo được các tác nhân có thể xâm hại

tài liệu;
-Không để tài liệu dựa vào tường hay giá bị ẩm ướt;
-Đảm bảo không gian thích hợp để có thể di chuyển được tài liệu, không quá chật hẹp dễ
bị xô đẩy, vướng mắc;
-Không gấp trang để đánh dấu tài liệu, không viết đánh dấu vào tài liệu, nếu cần chỉ
được dùng bút chì mềm;
-Tránh để thức ăn, đồ uống trong kho;
-Chống nắng tối đa cho tài liệu trong kho;
-Đối với tài liệu điện tử cũng phải được bảo vệ; có hộp để giữ đĩa, không cầm tay trực
tiếp vào đĩa, không dán nhãn và dán băng dính trên mặt đĩa;
Trên thực tế, nhiều nội dung như trên được các thư viện đưa trực tiếp thành nội qui của
thư viện, cấm vi phạm, vô tình những nội dung đó khiến độc giả có cảm giác không thoải
mái, không xây dựng được ý thức, tình cảm về việc trân trọng sử dụng sách đúng cách và
đúng mục đích.
Những kiến nghị
1. Các đơn vị Thư viện cần thiết phải chú trọng công tác bảo quản dự phòng tài liệu.
Trong đó, cần xây dựng và phổ biến những nội dung của công tác này đến các cán bộ làm
việc cũng như người sử dụng tài liệu; mở rộng việc bồi dưỡng như mở các lớp bồi dưỡng
cho cán bộ, phát tờ rơi về sử dụng tài liệu đúng cách cho độc giả; xây dựng các phanô, áp
phích, tranh vẽ trực quan để người sử dụng tài liệu luôn ý thức được các hành động của mình
đối với tài liệu.
2. Trang bị các phương tiện sử dụng tài liệu thích hợp như là gối sách, để thuận lợi hơn
cho việc đọc các tài liệu khổ lớn, các tài liệu đã bị hư hỏng.
3. Đưa bạn đọc trở thành một đối tượng cùng tham gia quá trình bảo quản tài liệu trong
đó các đơn vị thiết kế các phiếu báo cáo về tình trạng tài liệu (tham khảo mẫu kèm theo) để
người sử dụng tài liệu có thể báo cáo tình trạng liệu khi có bất kì dấu hiệu bất thường nào
của tài liệu (rách, nát, mất trang, )
4. Nên đưa nội dung về bảo quản dự phòng tài liệu và ý thức về bảo quản tài liệu thành
một phần trong nội dung môn học Bảo quản tài liệu dành cho sinh viên chuyên ngành Thông
tin - Thư viện

Kết luận
Đã có rất nhiều các tủ sách cá nhân được lưu giữ và trao tặng lại cho thế hệ bạn đọc
ngày hôm nay, ở đó chúng ta không chỉ thấy là những bộ sưu tập qúi giá, ở đó chúng ta còn
thấy là tình cảm trân trọng vô cùng với những tài liệu, hiện vật. Mong rằng những bộ sưu tập
tài liệu của các Thư viện, cơ quan Thông tin, Lưu trữ cũng luôn được trân trọng và bảo vệ
như vậy bằng tình cảm của tất cả những ai đã từng quản lý, sử dụng và quan tâm tới những
sản phẩm tri thức quí giá này.
Tài liệu tham khảo
1. Quan tâm và tiếp xúc với vốn tài liệu Thư viện: Tài liệu học tập / Frances Cumming .
– Thư viện Quốc gia Việt Nam. Chương trình tình nguyện viên Vida 2007
2. Tổ chức và bảo quản tài liệu / Nguyễn Tiến Hiển, Kiều Văn Hốt Trường Đại học
Văn hóa Hà Nội 2005
3. IFLA principle for the care and handling of library material / Edward P. Adcock
International preservation issue 1998
Internet website
II/. Quản lý lưu trữ lần đầu được ứng dụng CNTT một cách tổng thể tại cục văn thư
và lưu trữ nhà nước
Mới đây, Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước (CVT& LTNN) đã nghiệm thu thành công dự án
“Ứng dụng Công nghệ thông tin (CNTT) phục vụ công tác quản lý và khai thác sử dụng tài liệu
phòng lưu trữ quốc gia Việt Nam”.
Đây là cơ quan lưu trữ lớn nhất đồng thời là đơn vị đầu tiên trên toàn quốc ứng dụng CNTT trong
hoạt động quản lý lưu trữ một cách tổng thể. Đối tác triển khai của CVT&LTNN là Công ty Cổ
phần Công nghệ Tinh Vân.
CVT&LTNN được thành lập năm 1945 với tên gọi ban đầu “Nha lưu trữ công văn và thư
viện toàn quốc” là cơ quan của Bộ Nội vụ, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về lĩnh
vực văn thư, lưu trữ và quản lý tài liệu lưu trữ quốc gia thuộc Phông lưu trữ Nhà nước Việt
Nam. Loại hình tài liệu ở các Trung tâm Lưu trữ Quốc gia bao gồm tài liệu hành chính,
tài liệu khoa học kỹ thuật, tài liệu phim, ảnh, ghi âm, tài liệu xuất xứ cá nhân thuộc mọi
thời kỳ lịch sử của Việt Nam.
CVT&LTNN gồm có 3 Trung tâm: Trung tâm lưu trữ I đặt tại Hà Nội có nhiệm vụ lưu các

hồ sơ của các cơ quan quản lý Nhà nước, Trung tâm lưu trữ II tại TP.Hồ Chí Minh có
nhiệm vụ lưu trữ các tài liệu thời Sài Gòn cũ, Trung tâm lưu trữ III tại Hà Nội lưu trữ các
tài liệu thời Pháp thuộc, phong kiến. Hiện nay, CVT&LTNN đã thu thập được khoảng
30km giá tài liệu và sẽ còn tiếp tục tăng bởi mỗi năm các cơ quan lưu trữ đều chuyển
những tài liệu, hồ sơ đã lưu từ 2 – 3 năm sang lưu ở đây. Với khối lượng hồ sơ lớn như
vậy, muốn xem, khai thác hồ sơ nhanh nhất thì cần có một giải pháp tối ưu, trong khi từ
trước đến nay, công cụ phục vụ công tác quản lý và khai thác sử dụng tài liệu lưu trữ chủ
yếu là thủ công trên các hệ thống sổ sách, không đáp ứng được yêu cầu quản lý, bảo quản
một cách khoa học. Nhiều thông tin có trong các kho lưu trữ nhưng chúng ta không thể
hoặc rất khó khăn trong việc tìm kiếm, tổng hợp và xử lý
Nhận thấy ứng dụng CNTT trong hoạt động quản lý lưu trữ có thể khắc phục được những
hạn chế nói trên, ngay từ năm 2004, CVT&LTNN đã chọn Công ty Tinh Vân làm đối tác
xây dựng Bộ phần mềm quản lý hồ sơ lưu trữ cho CVT&LTNN và các đơn vị sự nghiệp,
bao gồm 10 phần mềm. Trong đó có những phần mềm quan trọng như Phần mềm phục vụ
công tác quản lý và khai thác sử dụng tài liệu lưu trữ, quản lý văn bản hồ sơ lưu trữ hiện
hành…, quản lý khoa học, quản lý công tác hợp tác quốc tế, giải pháp Cổng thông tin điện
tử và quản trị nội dung v.v. Trong số đó, phần mềm Quản lý và khai thác tài liệu lưu trữ
đóng vai trò quan trọng nhất. Phần mềm này đáp ứng yêu cầu của tất cả mọi khâu: từ việc
các cơ quan lưu trữ chuyển hồ sơ sang nộp lưu ở Cục đến việc lật lại hồ sơ cũ, chỉnh lý hồ
sơ, bảo quản hồ sơ và cuối cùng là đưa vào kho bảo quản. Phần mềm này đáp ứng được
yêu cầu chọn lọc và bảo mật những hồ sơ được phép khai thác: đối với tài liệu thông
thường có thể được đưa ra khai thác ngay, nhưng với tài liệu mật phải sau một số năm nhất
định mới được phép đưa ra khai thác.
Các giai đoạn của dự án được thực hiện trong 2 năm 2005 & 2006. Và cuối tháng 12/2006,
CVT&LTNN đã chính thức ký biên bản nghiệm thu dự án này. CVT&LTNN là cơ quan
lưu trữ đầu tiên ứng dụng CNTT một cách tổng thể trong hoạt động quản lý lưu trữ trên
toàn quốc. Đây là dấu hiệu khả quan trong việc tin học hóa ngành lưu trữ tại Việt Nam.
Công ty Tinh Vân – đối tác sản xuất bộ giải pháp này là một trong những công ty tin học
có uy tín hàng đầu tại Việt Nam, đã nghiên cứu, xây dựng và triển khai thành công nhiều
giải pháp tin học mang tính tổng thể trong nhiều lĩnh vực khác nhau như giáo dục, sản

xuất, phân phối…
III/. Các cơ quan lưu trữ nhà nước trong mạng lưới các cơ quan thông tin - thư viện và
tư liệu của Việt Nam
1. Vai trò của tài liệu lưu trữ đối với sự phát triển kinh tế, xã hội, vị trí của các cơ quan lưu
trữ trong hệ thống các cơ quan thông tin-tư liệu
1.1. Vài nét về sự hình thành của ngành lưu trữ Việt Nam
Ngay từ những ngày đầu của của cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn quan
tâm đến công tác lưu trữ và tài liệu lưu trữ. Chỉ 6 ngày sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời, ngày 08/9/1945, Nha Lưu trữ công văn và thư viện được thành lập. Tiếp theo đó
ngày 03-1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Thông đạt số 16-VP về việc quản lý công văn,
hồ sơ tài liệu. Trong đó, Người khẳng định "Tài liệu lưu trữ có giá trị đặc biệt về phương
diện kiến thiết quốc gia".
Sau khi hòa bình lập lại, miền Bắc bước vào thời kỳ khôi phục và phát triển kinh tế, công tác
lưu trữ có điều kiện củng cố và phát triển. Ngày 8-9-1959 Ban Bí thư đã ra Thông tri số
259/TT/TW nêu rõ" Tài liệu lưu trữ là một tài sản quý báu, có tác dụng rất lớn trong việc
nghiên cứu tình hình, tổng kết kinh nghiệm, định chương trình kế hoạch công tác và đường
lối văn hoá, cũng như khoa học kỹ thuật. Do đó, việc lưu trữ công văn tài liệu là một công
tác hết sức quan trọng". Để quản lý công tác lưu trữ trong giai đoạn mới, Hội đồng chính
phủ ban hành Nghị định số 102-CP ngày 4-9-1962 thành lập Cục Lưu trữ thuộc Phủ Thủ
tướng. Ngày 11-12-1982 Hội đồng Nhà nước khẳng định cơ quan quản lý lưu trữ nhà nước
thuộc Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 34-HĐBT quy định chức năng nhiệm vụ,
quyền hạn của Cục Lưu trữ Nhà nước và hệ thống tổ chức ngành lưu trữ trong phạm vi cả
nước.
Hiện nay hệ thống các cơ quan lưu trữ nước ta bao gồm:
a. Các cơ quan quản lý lưu trữ:
- Cục Lưu trữ Nhà nước
- Phòng Lưu trữ Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
- Trung tâm Lưu trữ tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
b. Các cơ quan chuyên môn:
- Các trung tâm lưu trữ quốc gia

- Các lưu trữ chuyên ngành
- Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Lưu trữ
- Tạp chí Lưu trữ Việt Nam
c. Các cơ quan đào tạo:
- Khoa Lưu trữ và Quản trị Văn phòng thuộc Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Quốc gia
- 2 Trường Trung học Lưu trữ và Nghiệp vụ Văn phòng.
Về tài liệu lưu trữ, hiện nay Cục Lưu trữ Việt Nam đang trực tiếp quản lý một khối lượng tài
liệu lưu trữ có ý nghĩa toàn quốc, bao gồm các loại tài liệu sau:
- Tài liệu của cơ quan quyền lực nhà nước, các bộ và các cơ quan trung ương từ năm 1945
đến nay, trong đó có tài liệu quản lý hành chính, tài liệu khoa học kỹ thuật, tài liệu phim ảnh,
ghi âm.
- Tài liệu của Phủ tổng thống, các Bộ của chính quyền Mỹ ngụy ở Sài Gòn.
- Tài liệu của chính quyền thực dân Pháp ở Việt Nam.
- Tài liệu của các triều đại phong kiến Việt Nam
- Tài liệu của các nhân vật hoạt động nổi tiếng như các nhà hoạt động chính trị, các nhà văn,
nhà thơ, nhà khoa học, v.v
Ngoài những khối tài liệu do Cục Lưu trữ Nhà nước trực tiếp quản lý còn có các khối tài liệu
do các lưu trữ chuyên ngành quản lý như nội vụ, quốc phòng, ngoại giao. Các tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương, các huyện, thị đều bảo quản một khối lượng tài liệu lưu trữ của
địa phương.
Riêng đối với những tài liệu lưu trữ có ý nghĩa toàn quốc do Cục Lưu trữ Nhà nước trực tiếp
quản lý được phân bổ như sau:
- Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I tại Hà Nội bảo quản khối tài liệu của các triều đại phong
kiến, tài liệu của chính quyền thực dân Pháp ở Việt Nam, tài liệu của các cá nhân gia đình,
dòng họ, chủ yếu là tài liệu bằng chữ Hán và chữ Pháp. Tổng số tài liệu khoảng gần 10 km
giá.
- Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, tại thành phố Hồ Chí Minh bảo quản khối tài liệu của chính
phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam, tài liệu mới chính quyền Mỹ ngụy,
tài liệu mộc bản triều Nguyễn. Tổng số tài liệu khoảng 20 km giá.

- Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, tại Hà Nội, bảo quản khối tài liệu thời kỳ dân chủ nhân
dân và thời kỳ xã hội chủ nghĩa từ năm 1945 đến nay, bao gồm tài liệu của Quốc hội, Chính
phủ, các bộ và cơ quan trung ương. Tổng số tài liệu có khoảng gần 10 km giá. Khối tài liệu
này hiện đang tăng lên do các cơ quan nộp vào theo thời hạn nộp lưu do nhà nước quy định.
Trong những năm gần đây nhà nước đã đầu tư hàng trăm tỷ đồng để xây dựng
các khu lưu trữ mới, nhiều Bộ ngành và địa phương cũng đầu tư những khoản kinh phí khá
lớn để xây dựng và cải tạo kho lưu trữ, như kho lưu trữ Bộ Quốc phòng đầu tư trên 100 tỷ
đồng, kho lưu trữ thành phố Hà Nội đầu tư khoảng 70 tỷ đồng.
1.2. Tài liệu lưu trữ với sự phát triển kinh tế-xã hội:
Pháp lệnh bảo vệ tài liệu lưu trữ quốc gia do Hội đồng Nhà nước ban hành ngày 11-12-1982
khẳng định: "Tài liệu lưu trữ quốc gia là di sản của dân tộc, có giá trị đặc biệt đối với việc
xây dựng và bảo vệ đất nước". Điều 4 của Pháp lệnh quy định rõ: "Các cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội và mọi công dân Việt Nam có nghĩa vụ bảo vệ các tài liệu lưu trữ quốc gia và
chấp hành nghiêm chỉnh mọi chế độ, quy định của nhà nước và các tài liệu đó".
Hơn 30 năm qua, từ khi thành lập đến nay, các trung tâm lưu trữ quốc gia, kho lưu trữ
chuyên ngành, địa phương đã phục vụ hàng triệu lượt người đến khai thác sử dụng tài liệu.
Chỉ tính riêng ở một trung tâm Lưu trữ quốc gia, trong 10 năm gần đây đã có hơn 11.000
lượt người, trong đó có nhiều người nước ngoài đến nghiên cứu sử dụng tài liệu. Lưu trữ Nội
vụ, trong 10 năm gần đây đã đưa ra phục vụ độc giả nghiên cứu 2 triệu lượt hồ sơ và tài liệu
lưu trữ.
Tài liệu lưu trữ đã được đưa ra phục vụ kịp thời sự lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý của Đảng và
Nhà nước, phục vụ các nhu cầu nghiên cứu của các cơ quan, tổ chức, biên soạn lịch sử, tổng
kết công tác, giải quyết chế độ, chính sách đối với cán bộ, đảng viên và nhân dân, phục vụ
cho công tác tuyên truyền, giáo dục truyền thống cách mạng, góp phần tích cực trong việc
thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế-xã hội của Đảng và Nhà nước trong những năm
qua. Cụ thể là phục vụ công tác quân sự; khôi phục các tuyến đường Bắc Nam; xây dựng các
công trình thủy điện Hòa Bình, Trị An, thăm dò khai thác dầu khí Vũng Tàu; xây dựng và
cải tạo các công trình thủy lợi Đập Đáy, Đập Bái Thương, Thanh Nham và nhiều công trình
khác: nhờ tài liệu lưu trữ, nhiều hệ thống nông giang, nhà ga, cầu cống, bệnh viện, nhà máy,
hải cảng, đường sắt bị địch đánh phá đã được sửa chữa, khôi phục nhanh chóng, giảm thời

gian khảo sát, thăm dò, thiết kiế, tiết kiệm nhân công, vật tư mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Tài liệu lưu trữ còn góp phần bảo vệ pháp luật, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền lợi
chính đáng của công dân, tổng kết kinh nghiệm chiến tranh, xây dựng nghệ thuật quân sự
Việt Nam; biên soạn lịch sử Việt Nam, lịch sử quân đội, lịch sử các cơ quan, lịch sử các tỉnh,
thành phố, lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Có thể kể một số công trình tiêu biểu như:
tổng kết 30 năm Điện Biên Phủ, 45 năm xây dựng quân đội, chiến tranh biên giới Tây Nam,
10 năm giúp bạn Campuchia, lịch sử Việt Nam tập II. Sơ thảo lịch sử nhà nước và pháp
quyền, Việt Nam chống nạn thất học, v.v
Tài liệu lưu trữ đã cung cấp thông tin cho việc tìm kiếm người Mỹ mất tích trong cuộc chiến
tranh xâm lược Việt Nam, chống các loại tội phạm, bảo vệ nội bộ, phục vụ việc xây dựng
Đảng, xây dựng chính quyền, phục vụ công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong các
thời kỳ cách mạng, phục vụ cho việc đấu tranh, bảo vệ chủ quyền biên giới, hải đảo, chứng
minh các vấn đề giúp Nhà nước yêu cầu hủy bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam. Đặc biệt
gần đây nhất là tài liệu lưu trữ phục vụ tích cực cho quá trình chuẩn bị và tiến hành Đại hội
Đảng VIII.
Việc khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ vào các mục đích nói trên đã góp phần nhanh chóng
hoàn thành các nhiệm vụ đặt ra, tiết kiệm cho nhà nước nhiều tỷ đồng hàng vạn công thăm
dò, khảo sát, đưa các công trình vào khai thác sử dụng đúng và trước thời hạn.
1.3. Vị trí của các cơ quan lưu trữ trong hệ thống các cơ quan thông tin tư liệu
Từ việc nghiên cứu quá trình hình thành và vai trò của tài liệu lưu trữ đối với sự phát triển
kinh tế-xã hội, có thể đi đến một khái niệm khái quát về tài liệu lưu trữ như sau: tài liệu lưu
trữ là những ký lục sinh động của toàn xã hội, trải qua các thời kì lịch sử mỗi dân tộc, không
kể chế độ xã hội, thời gian sản sinh, phương pháp chế tác, nơi bảo quản, có ý nghĩa chính trị,
quân sự, kinh tế, văn hoá, giáo dục, xã hội, khoa học kỹ thuật, phục vụ nghiên cứu khoa học,
lịch sử và công tác thực tiễn. Xuất phát từ khái niệm này, tài liệu lưu trữ được xác định là
"nguồn tin cấp I".
Như vậy các cơ quan lưu trữ nói chung và các trung tâm (kho) lưu trữ nói riêng giữ vị trí
quan trọng, không thể thiếu được trong hệ thống các cơ quan thông tin tư liệu, đứng trên
phương diện một quốc gia, một ngành hoặc trong phạm vi một địa phương.
2. Trọng tâm của công tác lưu trữ phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Mục đích cuối cùng của công tác lưu trữ là phục vụ sử dụng tài liệu lưu trữ vào các mục đích
chung của toàn xã hội. Vì vậy, tất cả các khâu nghiệp vụ từ thu thập, bổ sung tài liệu, chỉnh
lý khoa học kỹ thuật, xác định giá trị, đến thống kê, bảo quản an toàn tài liệu đều nhằm một
mục đích chung là sử dụng một cách có hiệu quả tài liệu lưu trữ để phục vụ các nhu cầu về
chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, giáo dục, khoa học, xã hội của Đảng và nhà nước và của
mọi tầng lớp nhân dân. Xuất phát từ mục đích nói trên, công tác lưu trữ nói chung và tài liệu
lưu trữ nói riêng chỉ có ý nghĩa khi được đưa ra sử dụng. Việc sử dụng tài liệu lưu trữ càng
có hiệu quả bao nhiêu thì ý nghĩa của tài liệu lưu trữ càng tăng lên bấy nhiêu; nếu tài liệu lưu
trữ không được đưa ra phục vụ sử dụng thì công tác lưu trữ không có ý nghĩa. Vì vậy, mọi
hoạt động của công tác lưu trữ đều phải hướng vào một mục tiêu chung là phục vụ sử dụng
tốt nhất tài liệu lưu trữ.
Trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, công tác lưu trữ đặt ra cho mình
một nhiệm vụ là đưa toàn bộ kho tàng trí tuệ chứa đựng trong tài liệu lưu trữ, tích luỹ được
từ xưa đến nay, để phục vụ khai thác sử dụng một cách có hiệu quả vào các mục đích chung
của toàn xã hội. Trong đó có nhấn mạnh một số trọng tâm:
- Phục vụ việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng VIII và các Nghị quyết của TW về các
vấn đề cán bộ, công tác kiểm tra của Đảng, công tác xây dựng Đảng
- Phục vụ việc tổng rà soát văn bản quy phạm pháp luật và việc xây dựng pháp luật của Nhà
nước.
- Phục vụ công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước;
- Phục vụ các công trình nghiên cứu khoa học lịch sử: lịch sử Việt Nam, lịch sử Đảng cộng
sản Việt Nam, lịch sử quân sự, lịch sử các bộ ngành, lịch sử các tỉnh, thành phố
- Phục vụ các chương trình trọng điểm của Nhà nước, các công trình tu sửa, cải tạo, mở rộng
thủy điện, thủy lợi và các công trình khác.
- Phục vụ việc đấu tranh bảo vệ biên giới lãnh thổ, hải đảo, vùng biển, vùng trời của Việt
Nam.
- Phục vụ việc thực hiện chương trình quốc gia về công nghệ thông tin.
- Phục vụ các nhu cầu về giải quyết chế độ chính sách.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây việc nghiên cứu sử dụng tài liệu lưu trữ nói chung còn
rất hạn chế, nhiều tài liệu có ý nghĩa đối với việc nghiên cứu khoa học, phục vụ công tác

thực tiễn của các cơ quan, tổ chức và cá nhân chưa được nghiên cứu sử dụng. Đặc biệt đối
với tài liệu lưu trữ về khoa học kỹ thuật, phim ảnh ghi âm còn ít được sử dụng. Việc sử dụng
tài liệu lưu trữ chưa nhiều do các nguyên nhân khác nhau, trong đó có một nguyên nhân chủ
quan là các công cụ phục vụ khai thác, sử dụng tài liệu còn ở dạng thủ công, thô sơ, công
nghệ thông tin chưa được áp dụng rộng rãi. Các trung tâm lưu trữ quốc gia cũng như lưu trữ
ở các ngành các cấp chưa chủ động giới thiệu tài liệu phục vụ kịp thời nhu cầu nghiên cứu
của độc giả. Mặt khác, các nhà nghiên cứu của ta trừ một số ít người, còn nói chung chưa có
thói quen đọc tài liệu lưu trữ.
Để có thể phục vụ sử dụng tài liệu lưu trữ được nhiều hơn nữa, trong những năm tới, ngành
lưu trữ tập trung vào một số khâu nghiệp vụ chủ yếu, đẩy nhanh việc áp dụng công nghệ
thông tin, hoàn thiện hệ thống công cụ tra cứu, đưa tài liệu phục vụ độc giả, đồng thời chủ
động giới thiệu tài liệu để mọi người hiểu giá trị của tài liệu, từ đó nâng cao hiệu quả sử
dụng tài liệu lưu trữ vào các mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3. Một số đề xuất với Nhà nước và các cơ quan hữu quan
3.1. Những đề xuất với Nhà nước
a. Tổ chức quản lý thông tin
Hiện nay có nhiều cơ quan bảo quản và tổ chức sử dụng các nguồn tin, trong đó chủ yếu là
thư viện, cơ quan lưu trữ và một số cơ quan khác. Để việc sử dụng thông tin một cách hiệu
quả nhất trong đáp ứng các nhu cầu của toàn xã hội, trên cơ sở đường lối chính sách của
Đảng và nhà nước, cần thiết phải có một cơ quan của chính phủ quản lý việc sử dụng thông
tin trong phạm vi cả nước. Cơ quan đó hiện nay là Trung tâm Thông tin Tư liệu Khoa học và
Công nghệ Quốc gia. Cơ quan này cần phải được tăng cường về mọi mặt để có thể thực hiện
được các nhiệm vụ cơ bản dưới đây:
- Giúp nhà nước xây dựng các văn bản quản lý việc sử dụng thông tin trong phạm vi cả nước
và hướng dẫn các ngành các cấp thực hiện các văn bản đó.
- Nghiên cứu và chỉ đạo các ngành các cấp thực hiện chương trình công nghệ thông tin một
cách có hiệu quả, phù hợp với thực tiễn của nước ta cũng như của từng ngành, từng địa
phương.
- Đào tạo cán bộ tin học cho các ngành, các cấp theo một chương trình thống nhất của nhà
nước và các yêu cầu riêng của mỗi ngành.

b. Tăng cường mối quan hệ giữa thông tin, thư viện và lưu trữ
Về thực chất các cơ quan thông tin, thư viện và lưu trữ là cơ quan bảo quản và sử dụng các
nguồn tin, nói cách khác là nguồn tin cấp I; giúp nhà nước quản lý việc sử dụng chúng một
cách cơ hiệu quả. Giữa ba loại cơ quan này có mối quan hệ mật thiết với nhau trong nội
dung hoạt động. Trong thực tế, nếu ba loại cơ quan này có sự hợp tác chặt chẽ thì sẽ tạo ra
những thuận lợi rất cơ bản trong việc tổ chức sử dụng có hiệu quả các nguồn tin. Trong thời
gian tới, việc tăng cường hợp tác giữa các cơ quan nói trên là vấn đề cần được đặt ra va quy
định cụ thể trong các văn bản của nhà nước.
3.2. Những đề xuất với các bộ ngành và các địa phương
Trong quá trình ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý, sử dụng tài liệu lưu trữ nói riêng
và tư liệu thông tin nói chung, về mặt quản lý nhà nước, xin đề xuất một số điểm:
a. Vấn đề giữ gìn bí mật
Vấn đề bí mật phải được đặt ra và xem trọng trong quá trình ứng dụng công nghệ thông tin
vào công tác lưu trữ cũng như công tác thông tin tư liệu. Trong tài liệu lưu trữ có chứa đựng
nhiều vấn đề bí mật của cá nhân, của cơ quan và bí mật của nhà nước, những bí mật này cần
phải được giữ gìn một cách nghiêm ngặt. Vì vậy các cơ quan khi ứng dụng công nghệ thông
tin vào công tác lưu trữ và thông tin nhất thiết phải có biện pháp bảo vệ bí mật phù hợp với
thực tiễn của cơ quan, phải có quy chế bảo vệ bí mật và phải thường xuyên kiểm tra việc
thực hiện quy chế và biện pháp bảo vệ bí mật đó.
b. Vấn đề đầu tư kinh phí
Việc ứng dụng tin học trong lưu trữ nói riêng và đầu tư cho công tác lưu trữ nói chung cần
phải được chú trọng và tăng cường hơn nữa. Nguồn vốn hoạt động thường xuyên theo định
mức nhà nước cấp cho mỗi biên chế chỉ đảm bảo được cho một số hoạt động thông thường.
Trong quá trình ứng dụng công nghệ thông tin đòi hỏi phải có sự hỗ trợ kinh phí của nhà
nước; mặt khác sự quan tâm của các cấp lãnh đạo đối với việc đầu tư để ứng dụng công nghệ
thông tin vào lưu trữ là hết sức quan trọng và có tính chất quyết định.
IV/. Số hóa kiến thức nhân loại
Từ xưa, con người đã muốn thu thập thông tin để xây dựng một thư viện chung trong đó
chứa đựng mọi tri thức loài người. Người ta từng xây dựng một thư viện khổng lồ ở
Alexandria vào năm 300 TCN (với khoảng nửa triệu đầu sách, chiếm từ 30% đến 70% tổng

số sách bấy giờ). Thế nhưng, cùng với sự bùng nổ thông tin, việc lưu trữ tất cả đầu sách vào
một nơi là điều không thể. Việc xây dựng một thư viện như thế chỉ là một giấc mơ hoang
đường, cho đến thế kỷ 21

Tất cả trong một đường link
Tháng 12-2004, sự kiện Google công bố chương trình số hóa (scan)
tất cả sách của 5 thư viện nghiên cứu lớn nhất thế giới cho mục đích
tìm kiếm đã làm sống lại giấc mơ có một thư viện chung cho tất cả.
Sự bùng nổ các trang web đã mang lại hy vọng về điều không thể cho
tất cả chúng ta.
Thư viện này không giống những thư viện trước đây, không có những quyển sách thường
thấy, không hạn chế người sử dụng và cho phép tìm kiếm mọi thứ với kết quả cực nhanh. Kỹ
thuật scan (quét) đã được sử dụng nhiều năm qua nhưng nó chỉ thật sự cần thiết khi những
công cụ tìm kiếm như Google, Yahoo!, Ask và MSN xuất hiện.
Khi đó, hàng triệu đầu sách, hàng tỷ trang web và hầu hết bài báo, tạp chí, tranh ảnh, bản
nhạc và phim từ trước đến nay đều được scan để lưu trữ vào một thư viện số. Kể từ khi
người Sumerian khắc chữ lên đất sét cho đến nay, con người đã cho ra đời ít nhất 32 triệu
quyển sách, 750 triệu bài báo, 25 triệu bản nhạc, 500 triệu bức ảnh, 500.000 bộ phim, 3 triệu
cuốn băng, vô số chương trình tivi, đoạn phim ngắn và ít nhất 100 tỷ trang web.
Nhiều thư viện đại
học Mỹ đều thực hiện
công tác số hóa sách
in để bảo quản và dễ
truy xuất
Hiện nay, mọi thứ đều được số hóa. Trong chừng mực nào đó, ta có thể nói thư viện chung là
một thư viện không có sách. Gần 100% bài hát đã được số hóa bởi những người hâm mộ và
khoảng 1/10 trong số 500.000 bộ phim đã được chuyển thành DVD. Các tập đoàn kinh
doanh và thư viện trên thế giới đã và đang scan hàng triệu đầu sách mỗi ngày.
Amazon đã số hóa hàng trăm ngàn đầu sách; tại thung lũng Silicon cũng như Đại học
Stanford (một trong 5 thư viện cộng tác với Google) đang scan quyển sách thứ 8 triệu, sử

dụng công nghệ của công ty 4DigitalBooks (Thụy Sĩ). Với công nghệ này, họ có thể scan
1.000 trang mỗi giờ. Khi sách bắt đầu được số hóa, một câu hỏi được đặt ra: “Liệu chúng ta
nên chấm dứt việc xuất bản sách in và thay vào đó là số hóa sách để đọc trên máy?”.
Các nhà nghiên cứu cho rằng vào thời điểm hiện nay, nên duy trì cả hai cách trên. Thật vậy,
dù có rất nhiều người hài lòng với việc đọc sách ở dạng PDF trên trang web, mỗi năm, số
lượng sách in được xuất bản vẫn ngày một tăng. Tuy nhiên, tiện ích của sách điện tử là điều
không thể phủ nhận. Ngoài việc có thể đọc và lưu trữ tài liệu trên máy, số hóa sách mang lại
nhiều lợi ích rất lớn.
Trong thư viện truyền thống, trong khi mỗi quyển sách là một
bản hoàn chỉnh và độc lập; giờ đây, tất cả tài liệu sẽ được liên
kết với nhau trong thư viện số.
Bên cạnh việc dùng “link” (đường dẫn liên kết) để liên kết câu,
từ hoặc các quyển sách với nhau, người đọc có thể sử dụng
“tag” (gắn thẻ) để chú thích chung cho tất cả mọi người về một
dữ liệu, tranh ảnh hay bài hát nào đó nhằm thuận tiện cho việc
tìm kiếm khi cần.
Ví dụ, chúng ta chỉ cần nhấp chuột vào “link” về các chủ đề liên
quan hoặc chú thích ở cuối trang để tìm kiếm những điều cần
biết thêm. Chính việc số hóa sách đã cho phép thực hiện điều
này mà sách truyền thống không bao giờ đạt được.
Hiện nay, chúng ta có khoảng 100 tỷ trang Web, mỗi trang chứa
ít nhất 10 “link”, như vậy, có tất cả 1.000 tỷ “link” liên kết với
nhau. Nói cách khác, một thư viện số cho phép ta liên kết tất cả
tài liệu với nhau, giúp dễ dàng tìm kiếm mọi thứ, điều mà ta
không thể làm được ở một thư viện bình thường.
Sách được số hóa đồng nghĩa với việc nó có thể được chia nhỏ thành từng trang, từng đoạn
nhỏ, sau đó được sắp xếp lại tạo thành một quyển sách mới hoặc chứa trong một “giá sách
ảo” – nơi tập hợp những đoạn văn ngắn hoặc cả nội dung của một quyển sách hoàn chỉnh.
Hai tổ chức Project
Gutenberg và World

eBook Library” đang
chuẩn bị tổ chức “Hội chợ
sách điện tử thế giới” đầu
tiên trên thế giới. Sẽ có đến
300.000 đầu sách điện tử
được giới thiệu và tất cả
mọi người đều có thể truy
cập xem hoặc tải về miễn
phí trong một tháng. Hội
chợ sách điện tử tổ chức từ
ngày 4-7 và kết thúc ngày
4-8-2006. Sau hội chợ, độc
giả chỉ cần trả 8,95
USD/năm để có thể truy
cập vào kho sách điện tử
với khoảng 250.000 đầu
sách được cập nhật liên
tục.
Việc này thật sự có ích đối với các loại sách hướng dẫn, ví dụ như bạn có thể viết một quyển
sách dạy nấu ăn cho riêng mình bằng cách tập hợp từ nhiều nguồn sách khác nhau! Khi đó,
người đọc có thể sử dụng công cụ “Google Book Search” để dễ dàng tìm sách với chủ đề xác
định nào đó – tất cả sách về Thụy Điển hoặc toàn bộ về đồng hồ chẳng hạn.
Thời của sách điện tử
Một trong những vấn đề liên quan xu hướng số hóa sách đối
với hầu hết nhà xuất bản là họ không biết đích xác thật sự
mình đang sở hữu cái gì. Thật khó để xác định rõ tác quyền
của một quyển sách không còn được xuất bản.
Tác phẩm càng cũ và càng không rõ ràng về nguồn gốc, nhà
xuất bản càng khó xác định tác quyền được trao cho tác giả
chưa, tác giả còn sống không, tác quyền có được bán cho công

ty nào khác không, hoặc thậm chí có nhà xuất bản nào sở hữu
tác quyền đó và họ có ý định phục hồi hoặc scan nó không?
Triển vọng tìm được tác quyền của 25 triệu đầu sách không rõ
nguồn gốc thật sự là điều nan giải.
Điều này dẫn đến viễn cảnh nếu như các tác phẩm trên không
được số hóa và phổ biến thì mãi mãi chúng sẽ bị lãng quên.
Không ai có thể giải quyết được vấn đề hóc búa trên cho đến
năm 2004, khi Google đưa ra hướng giải quyết. Cùng với việc số hóa 15% đầu sách hết hiệu
lực bản quyền và 10% đầu sách đang được xuất bản, Google công bố họ sẽ số hóa 75% sách
còn lại trong khoảng 25 triệu đầu sách. Google dự tính số hóa toàn bộ 10 triệu đầu sách ở 5
thư viện chính (Thư viện Đại học Stanford, Harvard, Oxford, Michigan và Thư viện công
cộng New York).
Khi đó, đối với sách hết hiệu lực bản quyền, Google sẽ đưa toàn bộ nội dung. Đối với sách
còn được xuất bản, Google sẽ đưa một phần tùy thuộc yêu cầu và thỏa thuận với nhà xuất
bản. Còn đối với sách không rõ nguồn gốc, Google đưa ra một đoạn trích giới hạn (phòng
khi tác giả nào đó công bố tác quyền). Như vậy, Google đem lại cơ hội để nhiều người có thể
đọc hoặc thậm chí mua những quyển sách không rõ nguồn gốc từng khổ công tìm kiếm trong
thời gian dài.
Đến nay, các thư viện (cũng như nhiều cá nhân) không có ý định từ bỏ việc xuất bản sách in
bởi nhiều lý do khác nhau. Thật vậy, không cần thiết bị nào để sử dụng, sách in bền hơn và
đáng tin cậy hơn so với thiết bị lưu trữ tài liệu như ổ cứng hoặc CD. Vấn đề của nó là mọt
chứ không phải virus máy tính (có thể xóa sạch dữ liệu trong tích tắc). Tuy nhiên, rõ ràng,
thời của sách điện tử đã thật sự đến rất gần và chắc chắn ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa đọc
Thiết bị sách điện tử liên tục
được cải tiến theo đà bùng nổ
xu hướng sách số hóa
của loài người trong thời gian ngắn nữa…
4 ưu điểm của thư viện số
Điều gì sẽ xảy ra nếu tất cả sách trên thế giới đều trở
thành bộ phận của hệ thống các từ và ý tưởng liên kết

với nhau? Có bốn điều sẽ xảy ra: Thứ nhất, nó giúp
các tài liệu ít phổ biến có nhiều độc giả hơn trước đây,
vì khi tất cả sách được liên kết với nhau, độc giả có thể
đọc được hầu như tất cả chủ đề liên quan mà có thể họ
chưa từng biết tới. Thứ hai, thư viện số giúp tìm hiểu
sâu hơn về lịch sử cũng như nguồn gốc của mọi vấn
đề. Thứ ba, thư viện số mang lại nhiều kiến thức hơn.
Thật vậy, nếu được cung cấp những kiến thức có sự
kết hợp chặt chẽ giữa quá khứ, hiện tại và tương lai về
bất kỳ lĩnh vực nào, ta sẽ cảm nhận rất rõ về lĩnh vực
đó, ví dụ như một nền văn minh, một loài động vật mà
ta đã biết hoặc chưa từng biết. Cuối cùng, một thư viện
số đầy đủ sẽ cung cấp mọi kiến thức từng được viết
trong sách vở ở tất cả thứ tiếng khác nhau

×