Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Hoàn thiện công tác kiểm tra đối với hệ thống giao thông công cộng bằng xe bus ở Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 76 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lời nói đầu
Đô thị và sự phát triển đô thị đóng vai trò quan trọng trong tăng trởng kinh tế
và sự tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, nói đến đô thị trớc hết phải nói đến giao thông đô
thị, bởi lẽ nó góp vào bộ mặt của một đô thị, nó quyết định cho sự thành công hay
thất bại của quá trình đô thị hoá. Và ngợc lại quá trình đô thị hoá không những gắn
liền với sự hình thành và phát triển các khu công nghiệp, thơng mại, các khu dân c
đông đúc mà còn gắn liền với việc hình thành và phát triển một hệ thống vận tải
hiện đại để đáp ứng nhu cầu ngày một tăng của đô thị.
Sự bùng nổ của xu thế đô thị hoá ở các nớc trên thế giới nói chung và ở Việt
Nam hiện tại cũng nh trong tơng lai làm nảy sinh hàng loạt vấn đề phức tạp, đặc
biệt là sự căng thẳng trong vấn đề giao thông đô thị. Thực chất đó là hậu quả của
sự mất cân đối trầm trọng giữa nhu cầu đi lại và khả năng đáp ứng của giao thông
bao gồm cả phơng tiện và cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Đây là một trong những vấn đề
phức tạp nhất, đồng thời đó cũng là một thách thức lớn ở tất cả các đô thị hiện nay.
Trong điều kiện mới của sự phát triển kinh tế khu vực Đông Nam á, thủ đô
Hà Nội không chỉ là bộ mặt của cả nớc mà còn là thị trờng hấp dẫn đối với các nớc
trong khu vực và trên thế giới. Mức độ hấp dẫn đó phụ thuộc vào sự phát triển
nhiều mặt của Hà Nội mà trong đó sự phát triển của hệ thống giao thông vận tải có
ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Hiện nay, Hà Nội đã có những bớc cải thiện đáng kể về giao thông vận tải,
đặc biệt là trong vấn đề đầu t, nâng cấp, cải tạo và mở rộng mạng lới đờng, điều
khiển giao thông trên đờng... Tuy vậy, nhìn một cách tổng thể thì giao thông vận
tải Hà Nội vẫn còn là khâu yếu kém, phát triển cha tơng xứng với yêu cầu đặt ra và
lạc hậu nhiều so với thủ đô các nớc trong khu vực. Nổi bật nhất là sự yếu kém của
hệ thống giao thông công cộng. Việc đi lại hàng ngày của ngời dân hiện nay chủ
yếu vẫn là sử dụng các loại phơng tiện cá nhân. Tình trạng trên đã và sẽ tiếp tục
gây ách tắc giao thông, cho dù thành phố có tăng cờng đầu t để mở rộng và nâng
cấp đờng phố và cơ sở hạ tầng đến đâu đi chăng nữa. Để khắc phục tình trạng đó,
thành phố đã và đang chủ trơng phát triển hệ thống giao thông công cộng bằng xe
Bus. Tuynhiên, để hệ thống giao thông công cộng hoạt động có hiệu quả và chất l-


ợng phục vụ ngời dân ngày càng cao thì không thể thiếu đợc chức năng kiểm tra
và điều chỉnh. Đặc biệt, trong thời gian tới khi mà quy mô lực lợng tham gia tăng
lên và thực hiện chế độ u đãi đối với các doanh nghiệp thì vấn đề kiểm tra, giám
sát càng khó khăn phức tạp hơn. Điều đó đòi hỏi một yêu cầu cao hơn, một sự
phối hợp chặt chẽ hơn giữa Sở Giao thông công chính, Trung tâm quản lý và điều
hành và các đơn vị tham gia vận tải hành khách công cộng.
Với tất cả những lý do trên, em xin tham gia viết đề tài: "Hoàn thiện công
tác kiểm tra đối với hệ thống giao thông cộng cộng bằng xe Bus ở Hà Nội".
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1. Mục đích và ý nghĩa của đề tài.
Đề tài đợc thực hiện với mục tiêu cơ bản là xây dựng luận cứ khoa học và cơ
sở thực tiễn về công tác kiểm tra và giám sát đối với hệ thống giao thông công
cộng bằng xe Bus ở Hà Nội. Từ thực tế đề tài tập trung nghiên cứu các yêu cầu đặt
ra, từ đó xây dựng những định hớng và giải pháp tối u cho công tác kiểm tra, giám
sát đối với hệ thống giao thông công cộng bằng xe Bus.
2. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu.
Giao thông công cộng bao gồm nhiều loại hình, nhng đề tài chỉ tập trung
nghiên cứu vào phần giao thông công cộng bằng xe Bus ở Hà Nội. Với phạm vi
đó, đề tài đi vào nghiên cứu lý luận về công tác kiểm tra, nội dung và vai trò của
giao thông công cộng, quá trình phát triển và thực trạng của các hình thức và công
cụ kiểm tra đối với hệ thống giao thông cộng cộng bằng xe Bus. Từ đó đa ra các
giải pháp về mặt quản lý nói chung và công tác kiểm tra và giám sát nói riêng đối
với hệ thống giao thông công cộng nói chung và mạng lới xe Bus nói riêng ở thủ
đô Hà Nội.
3. Phơng pháp nghiên cứu.
Đề tài vận dụng lý luận và phơng pháp luận của khoa học quản lý, phơng
pháp tiếp cận hệ thống, phơng pháp toán kinh tế, phơng pháp thống kê... cùng với
các quan điểm của Đảng, các kinh nghiệm đã có ở trong và ngoài nớc để nghiên
cứu và giải quyết vấn đề đặt ra.

Nội dung và kết cấu của đề tài bao gồm:
Chơng I: Lý luận chung về công tác kiểm tra đối với hệ thống giao
thông công cộng bằng xe Bus.
Chơng II: Thực trạng công tác kiểm tra và giám sát đối với hệ thống
giao thông công cộng bằng xe Bus ở Hà Nội.
Chơng III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kiểm tra và giám sát đối
với hệ thống giao thông cộng cộng bằng xe Bus ở Hà Nội.
Mặc dù đã có những cố gắng nhất định trong việc nghiên cứu tài liệu cũng
nh tìm hiểu các vấn đề cần thiết, nhng do khả năng và thời gian nghiên cứu còn
hạn chế nên đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em rất mong đợc
sự chỉ bảo của cô giáo hớng dẫn, các thầy cô giáo trong khoa, cùng các bạn sinh
viên... để em có những nhận thức hoàn thiện hơn về vấn đề này.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo T.S Nguyễn Thị Ngọc Huyền về sự chỉ
bảo mang tính khoa học của cô. Em cũng xin bầy tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với
các thầy giáo, cô giáo Khoa khoa học quản lý, Trung tâm quản lý và điều hành
giao thông đô thị đã tận tình động viên giúp đỡ em hoàn thành đề tài này trong quá
trình thực tập và nghiên cứu.
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Ch ơng I
Lý luận chung về công tác kiểm tra đối với hệ thống
giao thông công cộng bằng xe bus ở hà nội
I. Tổng quan về giao thông công cộng đô thị và mạng lới
xe Bus.
1. Một số khái niệm cơ bản.
Chúng ta đã biết, vật chất muốn tồn tại và phát triển phải luôn ở trạng thái
vận động. Điều này đúng cho thế giới vĩ mô, vi mô, trong cả lĩnh vực tự nhiên và
xã hội. Con ngời cũng không nằm ngoài quy luật đó. Để tồn tại và phát triển con
ngời đều cần phải hoạt động. Các hoạt động xã hội loài ngời hết sức phong phú và
đa dạng, song nhìn một cách tổng quát, có thể phân thành hai loại hoạt động cơ

bản: Một là hoạt động sản xuất - đó là quá trình sử dụng lao động sống và lao
động vật hoá để tạo ra của cải vật chất và các giá trị sử dụng mới; Hai là, hoạt
động tiêu dùng - đó là quá trình sử dụng của cải vật chất và giá trị sử dụng đã đợc
tạo ra nhằm đáp ứng yêu cầu tái sản xuất sức lao động, thoả mãn các nhu cầu vật
chất và văn hoá ngày càng tăng. Song cho dù với t cách là ngời sản xuất hay là ng-
ời tiêu dùng thì tất cả mọi ngời đều có những nhu cầu cơ bản giống nhau về ăn,
mặc, ở và đi lại. Sự đi lại cũng thực chất là một hình thức vận động của con ngời.
Nh vậy, có thể nói rằng nhu cầu đi lại là nhu cầu tối quan trọng đối với xã hội loài
ngời. Điều đó cũng đồng nghĩa với nói rằng giao thông là một yếu tố quan trọng
trong xã hội. Nó trớc hết nhằm đảm bảo sự sống, sâu xa hơn là phục vụ các mục
tiêu sản xuất và tái sản xuất sức lao động, hoàn chỉnh dây chuyền sản xuất ra của
cải vật chất cho toàn xã hội.
Theo nghĩa chung nhất, giao thông đô thị đợc hiểu là tập hợp các công trình,
đờng sá và các phơng tiện khác nhau nhằm đảm bảo sự liên hệ giữa các khu vực
trong đô thị.
Có thể nói một cách cụ thể hơn là: Giao thông đô thị là hạ tầng cơ sở của xã
hội, bao gồm các công trình kiến trúc, đờng sá, bến bãi, các phơng tiện vận tải
nhằm đảm bảo sự giao lu của hành khách giữa các khu vực trong thành phố với
nhau và trong nội bộ vùng nh: giữa các trung tâm thơng mại, các khu du lịch, các
khu vui chơi, giải trí.
Giao thông đô thị là một hệ thống gồm nhiều phân hệ khác nhau. Cụ thể là:
giao thông vận tải, hành khách công cộng, giao thông cá nhân và giao thông vận
tải hàng hoá. Tất cả các bộ phận ấy có mối quan hệ chặt chẽ và sự tác động lẫn
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhau. Trong đề tài này, chúng ta chỉ tập trung xem xét một bộ phận đó là hệ thống
giao thông vận tải hành khách công cộng gọi tắt là hệ thống giao thông công cộng.
Nh vậy, giao thông công cộng đô thị đó là một bộ phận của hệ thống giao
thông đô thị nói chung có chức năng phục vụ sự đi lại của ngời dân trong thành
phố dới hình thức công cộng.

Xét về mặt cơ cấu thì hệ thống giao thông công cộng đô thị bao gồm 3 bộ
phận là: phân hệ giao thông động, phân hệ giao thông tĩnh và hệ thống các phơng
tiện vận tải công cộng.
- Phân hệ giao thông động đó là hệ thống đờng sá và các công trình kiến trúc
trên đờng để đảm bảo sự đi lại của các phơng tiện vận tải công cộng.
- Phân hệ giao thông tĩnh là hệ thống các khu vực cho phơng tiện đỗ và dừng.
Hệ thống này bao gồm: hệ thống các điểm dừng đỗ, các bến đầu cuối, các điểm
trung chuyển.
- Yếu tố cơ bản thứ ba đó chính là hệ thống phơng tiện vận tải công cộng.
Hai yếu tố trên sẽ hoàn toàn vô nghĩa khi chúng ta không có đợc một hệ thống ph-
ơng tiện đầy đủ. Trong hệ thống giao thông đô thị nói chung và giao thông công
cộng nói riêng, phơng tiện luôn là khâu trung tâm để từ đó xác định những yếu tố
tiếp theo nh đờng sá, việc cung cấp nhiên liệu, năng lợng, việc bảo dỡng sửa chữa
và công tác tổ chức quản lý.
Tuy nhiên, các bộ phận này mới chỉ là phần xác của hệ thống giao thông
công cộng đô thị. Phần hồn của nó chính là các hoạt động vận tải hành khách công
cộng.
Trớc đây, vận tải hành khách công cộng đợc hiểu là loại hình vận tải do Nhà
nớc quản lý có chức năng đơn giản là cung ứng dịch vụ đi lại của hành khách
trong thành phố. Hiện nay có rất nhiều quan điểm về vận tải hành khách công
cộng. Điều này chứng tỏ sự phức tạp của vấn đề, có quan điểm cho rằng: vận tải
hành khách công cộng là tập hợp các phơng thức vận tải quốc doanh thực hiện
chức năng vận chuyển, phục vụ sự đi lại của ngời dân trong thành phố. Quan điểm
khác lại cho rằng vận tải hành khách công cộng là tập thợp các phơng thức vận tải
phục vụ đám đông có nhu cầu đi lại trong thành phố. Nhng cũng có quan điểm cho
rằng đó là một hoạt động mà trong đó sự vận chuyển đợc cung cấp cho hành
khách để thu tiền bằng những phơng tiện vận tải không phải của họ. Nh vậy tuỳ
theo từng quan điểm, từng mục tiêu nghiên cứu mà mỗi ngời sẽ nhìn nhận dới góc
độ khác nhau. Tuy nhiên, cho dù nó đợc quan niệm nh thế nào đi chăng nữa thì
vận tải hành khách công cộng đều có chức năng cơ bản là phục vụ sự đi lại của ng-

ời dân trong thành phố.
ở nớc ta, theo quy định của Cục đờng bộ (Bộ Giao thông vận tải) thì vận tải
hành khách công cộng là tập hợp các phơng thức, phơng tiệnvận tải để vận chuyển
hành khách đi lại trong thành phố ở cự ly nhỏ hơn 50 km và có sức chứa lớn hơn 8
hành khách.
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
2. Mạng lới xe Bus và vai trò của nó trong hệ thống giao thông công cộng.
ở các thành phố hiện đại trên thế giới, phơng tiện vận tải hành khách công
cộng rất đa dạng và phong phú. Nếu xét một cách tổng thể, có thể phân hệ thống
giao thông đô thị thành 6 nhóm:
- Hệ thống ô tô Bus công cộng (Bus system transit).
- Hệ thống xe điện bánh hơi (Trollye bus).
- Taxi công cộng (kể cả minibus).
- Hệ thống vận tải khối lợng lớn (MassTransit System - MTS), MTS gồm: xe
điện bánh sắt (Tran Way), hệ thống tiền mêtrô (Premetro), xe điện ngầm (Subway
- Underground) và tàu ngoại thành (Sububan - rail - transit).
- Hệ thống phơng tiện đặc biệt (Cabin tự chạy, mônôray, xe cao tốc trên đệm
từ tính, ...)
- Hệ thống xe cá nhân (ôtô con, xe máy, xe đạp, ...).
Tuy nhiên, đối với các thành phố có quy mô nhỏ và nhất là các thành phố của
các nớc đang phát triển thì có thể thấy loại hình xe Bus chiếm một vị trí quan
trọng.
Xe Bus là một trong những lực lợng chính để vận chuyển hành khách đi lại
trong thành phố. Nó có thể phục vụ hành khác ở nhiều điểm do tính linh hoạt và
cơ động cao hơn so với các phơng thức vận tải khác. Đặc biệt là đối với các thành
phố có mật độ dân c tập trung lớn, đang phát triển, khả năng đầu t cho giao thông
còn hạn chế, thì xe Bus thực sự trở thành đối tợng chính để lựa chọn. Bên cạnh đó
xe Bus rất phù hợp với các thành phố vừa mang tính chất cổ, vừa mang tích chất
mới. Ngoài ra, xe Bus là phơng thức tạo ra hiệu quả kinh tế cao nhất trong điều

kiện cờng độ luồng hành khách có công suất lớn theo thời gian và không gian. Bởi
vì trong giờ cao điểm luồng hành khách có công suất lớn nhng với năng suất vận
chuyển xe khá cao thì cũng đáp ứng đợc, ngợc lại trong giờ bình thờng với công
suất luồng hành khách trung bình và nhỏ thì xe Bus cũng có thể thích nghi một
cách tơng đối bằng cách rút ngắn tần suất chạy xe.
Trong hệ thống các phơng thức vận tải hành khách công cộng trong thành
phố thì ô tô Bus có vai trò trung gian trong việc chuyển đổi từ phơng thức vận
chuyển này sang phơng thức vận chuyển khác. Nh vậy, ô tô Bus là phơng tiện
dùng để phủ kín mạng lới vận tải hành khách công cộng trong thành phố. Đây
cũng chính là những u điểm của loại hình xe Bus. Những u điểm này là một yếu tố
quan trọng khiến cho xe Bus phát triển.
3. Đặc điểm của hoạt động vận tải hành khách công cộng bằng xe Bus.
Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về hệ thống giao thông công cộng nói
chung và mạng lới xe Bus nói riêng. Với tuỳ từng mục đích nghiên cứu khác nhau
mà ngời ta xem xét nó dới những góc độ khác nhau và do đó sẽ xem xét đặc điểm
của chúng theo những cách khác nhau. Tuy nhiên, có thể đa ra một số đặc điểm
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
chung của hoạt động vận tải hành khách công cộng bằng xe Bus mà nó ảnh hởng
tới công tác kiểm tra và giám sát.
Thứ nhất, xét về mặt kỹ thuật hoạt động vận tải hành khách công cộng có
công suất luồng hành khách lớn, mật độ di chuyển cao, luồng hành khách có sự
biến động lớn theo giờ trong ngày và theo chặng. Chính đặc điểm này dẫn tới vấn
đề về sự không phù hợp giữa cung và cầu. Mức cung ở đây khá cố định (mặc dù có
thể lớn) song cầu lại thay đổi thờng xuyên trong từng ngày (nhu cầu tăng lên vào
những giờ cao điểm). Mặt khác do phụ thuộc rất nhiều vào quỹ đất nên hoạt động
vận tải hành khách công cộng chỉ có thể trên cự ly ngắn với những tuyến đờng cố
định, các điểm đỗ trên tuyến các bến đậu, bến cuối là cố định.
Thứ hai, hoạt động vận tải hành khách công cộng mang tính xã hội hoá cao
và đầu t vào giao thông công cộng là cung ứng cho xã hội một sản phẩm dịch vụ

công cộng với lợng vốn đầu t lớn và thời gian thu hồi vốn lâu.
Dới góc độ nó là một sản phẩm công cộng cho nên giá vé luôn thấp hơn giá
thành, không mang lại lợi ích tài chính cho các nhà đầu t. Nói điều này bởi vì chi
phí đầu t cho hoạt động này là rất lơn, nếu tính giá vé sao cho nhà đầu t đạt hiệu
quả kinh tế của họ thì mọi ngời sẽ không sử dụng loại hình này bởi chi phí quá cao
và nh vậy thì lợi ích xã hội sẽ bị thiệt hại do những tổn thất về môi trờng, về trật tự
an toàn độ thị, ... Chính vì thế mà giao thông công cộng luôn đòi hỏi có sự khuyến
khích trong đầu t và thờng đợc do Nhà nớc quyết định. Tuy nhiên, nói nh thế
không có nghĩa rằng việc cung cấp này nhất thiết phải do các xí nghiệp quốc
doanh đảm nhận. Vấn đề cơ bản là ở chỗ Nhà nớc là ngời quyết định xem nên phát
triển loại hình gì, quy mô ra sao... vì những quyết định này sẽ ảnh hởng đến lợi ích
của tất cả các nhóm dân c khác nhau trong cộng đồng đô thị.
Dới góc độ là một dịch vụ thì điều cần nói tới đầu tiên đó là chất lợng dịch
vụ. Có ngời đã nói rằng "chất lợng là quan toà của sự việc". "Chất lợng" ở đây là
một khái niệm tơng đối, nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố nh yếu tố tự nhiên, kỹ
thuật, môi trờng và cả thói quen của từng ngời. Tuy nhiên, có thể đa ra nhận thức
tổng quát về chất lợng dịch vụ của vận tải hành khách công cộng là tổng thể những
đặc điểm, đặc trng của sản phẩm dịch vụ, đợc biểu hiện bằng hệ thống các chỉ tiêu
kinh tế, xã hội và thông qua mức độ thoả mãn của hành khách khi sử dụng phơng
tiện. Nó bao gồm hai phần: Phần lợng hoá đợc nh: đảm bảo đúng giờ, chi phí bằng
tiền cho chuyến đi. Phần không lợng hoá đợc nh: múc độ thoải mái của hành
khách, mức độ tiện lợi khi sử dụng phơng tiện...
Vấn đề chất lợng dịch vụ luôn là mối quan tâm đầu tiên đối với cả hành
khách và các nhà cung cấp dịch vụ.
- Quan điểm của hành khách cho rằng: Chất lợng dịch vụ của giao thông
công cộng là sự thoả mãn đồng thời các nhu cầu mong muốn khi sử dụng phơng
tiện trong điều kiện có hạn về khả năng thanh toán, chi phí thời gian và thói quen.
Nói chung hành khách khi sử dụng phơng tiện mong muốn đợc thoả mãn tối u nhu
cầu đi lại của mình trên cơ sở thói quen, khả năng chi phí tiền và thời gian giành
cho chuyến đi. Tuy nhiên, không có một tiêu chí rõ ràng nào để đánh giá chất lợng

6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
của giao thông công cộng mà nó phụ thuộc vào đối tợng hành khách sử dụng và
mục đích sử dụng.
- Còn đối với các nhà tổ chức quản lý và đầu t thì tồn tại nhiều quan điểm
khác nhau. Có quan điểm cho rằng chất lợng dịch vụ chỉ đợc quan tâm trong thời
gian hành khách sử dụng phơng tiện đi lại trên đờng. Nhng cũng có quan điểm
khác cho rằng chất lợng đó không chỉ đợc xác định trong thời gian hành khách sử
dụng phơng tiện mà còn liên quan đến toàn bộ quá trình ngay từ khi xuất hiện nhu
cầu đi lại cho đến cả thái độ của khách hàng sau khi sử dụng phơng tiện.
Thứ ba, hoạt động vận tải hành khách công cộng có quá trình sản xuất và tiêu
thụ diễn ra đồng thời nên không có sản phẩm nhập kho. Ngoài ra, nó còn có đặc
điểm là không gian sản xuất rộng và phân tán.
Những đặc điểm nêu trên vừa chi phối quá trình xây dựng, tổ chức và quản lý
giao thông công cộng, vừa quyết định đến vai trò quan trọng của nó đối với nền
kinh tế quốc dân. Điều này cũng lý giải vì sao mà phát triển giao thông vận tải
phải đi trớc một bớc - một quy luật chung đối với tất cả các nớc trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội.
II. hệ thống kiểm tra đối với hệ thống giao Thông công
cộng bằng xe bus.
1. Kiểm tra và vai trò của kiểm tra.
1.1- Khái niệm kiểm tra:
Kiểm tra là chức năng của mọi nhà quản lý, từ ông chủ tịch tới ngời giám sát
viên. Một số nhà quản lý, đặc biệt là ở cấp thấp quên rằng trách nhiệm đầu tiên đối
với việc thực hiện kiểm tra thuộc về mỗi ngời quản lý mà họ đợc giao phó việc
thực thi các kế hoạch. Đôi khi do quyền lực của các nhà quản lý cấp cao và trách
nhiệm tổng hợp của họ, việc kiểm tra cấp cao nhất và các cấp phía trên đợc nhấn
mạnh tới mức mà mọi ngời cho rằng ở các cấp dới chỉ cần công việc kiểm tra ít
nhiều mà thôi. Mặc dầu quy mô của việc kiểm tra thay đổi theo cấp bậc của các
nhà quản lý nhng tại mọi cấp họ đều phải có trách nhiệm đối với việc thực thi các

kế hoạch và do đó kiểm tra là một chức năng quản lý cơ bản ở mọi cấp. Vậy kiểm
tra là gì? Có nhiều định nghĩa về kiểm tra.
Theo quan điểm của Harold koontz - Oddorell và Heinz Weihrich thì kiểm
tra là đo lờng và chấn chỉnh việc thực hiện, nhằm để đảm bảo rằng các mục tiêu
này đã đang đợc hoàn thành.
Có quan điểm cho rằng, kiểm tra là một quá trình theo dõi những hoạt động
để biết chắc là chúng đang đợc thực hiện đúng theo kế hoạch và để sửa chữa
những sai lệch đã xảy ra.
Có quan điểm cho rằng, kiểm tra là quá trình xem xét, đo lờng và chấn chỉnh
việc thực hiện nhằm đảm bảo cho các mục tiêu của hệ thống đợc hoàn thành một
cách có hiệu quả.
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nh vậy, các quan điểm trên đều cho rằng kiểm tra là một quá trình, cốt lõi
của hầu hết mọi cuộc kiểm tra là một kiểu liên hệ ngợc nào đó và kế hoạch đợc coi
là cơ sở cho các cuộc kiểm tra. Từ đó, ta có khái niệm về kiểm tra đối với mạng
lới xe Bus:
Đó là quá trình dựa vào hệ thống thông tin chính thức và phi chính thức để
xem xét quá trình tổ chức và điều hành mạng lới xe Bus đợc thực hiện đến đâu, kết
quả ra sao so với mục tiêu đặt ra trong khi lập kế hoạch. Đồng thời để biết thái độ
của ngời dân đối với phơng án phát triển mạng lới xe Bus nh thế nào. Cũng từ quá
trình kiểm tra đó mà chủ thể quản lý phát hiện ra những vấn đề, các sai lệch để
điều chỉnh giúp cho hoạt động của mạng lới xe Bus đợc hiệu quả hơn, hoàn thiện
hơn.
1.2- Nội dung kiểm tra:
Bản chất của kiểm tra là phải xác định và sửa chữa đợc những sai lệch trong
hoạt động của hệ thống giao thông công cộng so với những mục tiêu kế hoạch đã
đề ra. Nội dung kiểm tra bao gồm:
- Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch vận tải hành khách công cộng có thể theo
từng quý, năm, theo tuyến đờng, loại xe và hình thức phục vụ, ...

- Kiểm tra chất lợng phục vụ hành khách trên các tuyến về giờ giấc, số tuyến,
giá vé và thái độ phục vụ,...
- Kiểm tra các chứng từ ghi chép ban đầu về vận tải của các đơn vị vận tải
hành khách công cộng bằng xe Bus. Mặt khác, còn phải kiểm tra, giám sát ngay cả
đối với các lái xe, các nhân viên trong khi thực hiện nhiệm vụ.
Nh vậy, kiểm tra là chức năng không thể thiếu trong công tác quản lý mạng l-
ới xe Bus. Nó chính là một nhu cầu nhằm hoàn thiện các quyết định về nhiều mặt,
khẳng định sự đúng, sai, sự phù hợp hay không phù hợp của mục tiêu, phát hiện
các vấn đề trong hoạch định, tổ chức và điều hành,...
Việc thiết lập hệ thống kiểm tra có khả năng cung cấp đầy đủ thông tin phản
hồi về mọi mặt hoạt động của hệ thống một cách nhanh chóng và kịp thời là một
công việc hết sức khó khăn. Các nhà quản lý luôn phải đối mặt với những câu hỏi:
Cần kiểm tra cái gì? Các cuộc kiểm tra cần đợc tiến hành thờng xuyên đến mức độ
nào? Trong hoạt động của hệ thống sai lệch xảy ra ở những đâu sẽ có thể gây tổn
hại nghiêm trọng đến kết quả cuối cùng của hệ thống.
Sự cố gắng kiểm tra mọi yếu tố và hoạt động một cách qua thờng xuyên có
thể gây hoang mang và làm nản lòng các đối tợng quản lý, làm giảm uy tín của
những nhà quản lý, gây lãng phí thời gian, tiền bạc của hệ thống. Có những nhà
quản lý lại chỉ quan tâm đến những yếu tố dễ đo lờng (chẳng hạn nh số lợng hành
khách trên xe bus, mà bỏ qua những yếu tố khó đo lờng (nh sự hài lòng của khách
hàng trong 1 khoảng thời gian nhất định). Đồng thời một số sai lệch so với các
tiêu chuẩn có ý nghĩa tơng đối nhỏ, một số khác có tầm quan trọng lớn hơn.
Những sai lệch nhỏ trong một hoạt động hay khu vực nào đó có thể quan trọng
hơn so với những sai lệch lớn trong hoạt động hay khu vực khác. Kết quả là trong
công tác kiểm tra cần tập trung nỗ lực vào những khu vực, những hoạt động,
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
những con ngời có tầm quan trọng thiết yếu đối với sự tồn tại và phát triển của hệ
thống. (các khu vực hoạt động thiết yếu và điểm kiểm tra thiết yếu).
Các điểm kiểm tra thiết yếu là những điểm đặc biệt trong hệ thống mà ở đó

việc giám sát và thu nhập thông tin phản hồi nhất định phải đợc thực hiện. Đó
chính là những điểm mà nếu tại đó những sai lệch không đợc đo lờng và điều
chỉnh kịp thời sẽ có ảnh hởng tới kết quả hoạt động của hệ thống. Chẳng hạn,
trong hệ thống giao thông công cộng bằng xe bus gồm nhiều tuyến trải khắp thành
phố. Tuy nhiên, trong mạng lới xe bus đó có những tuyến chính và tuyến phụ trợ.
Do đó, trong quá trình kiểm tra cần chú ý vào những tuyến hoạt động chính để
đảm bảo cho toàn bộ hệ thống hoạt động có hiệu quả.
Các khu vực hoạt động thiết yếu là những lĩnh vực, những khía cạnh yếu tố
mà doanh nghiệp cần phải hoạt động có hiệu quả cao để đảm bảo cho toàn bộ hệ
thống thành công.
Trong một hệ thống, thông thờng chỉ có một phần nhỏ mục tiêu hoạt động, sự
kiện con ngời là chiếm tầm quan trọng lớn đối với hệ thống.
Cần lu ý rằng, không có quy tắc nào để giúp các nhà quản lý lựa chọn những
điểm kiểm tra thiết yếu này vì những nét đặc trng trong chức năng, nhiệm vụ của
các loại cơ sở khác nhau vì sự đa dạng của những loại sản phẩm, dịch vụ đợc sản
xuất ra và vì sự khác nhau trong chính sách cũng nh kế hoạch của các doanh
nghiệp. Năng lực chọn lựa các điểm kiểm tra thiết yếu là một trong những nghệ
thuật của nhà quản lý bởi vì việc kiểm tra có đợc thực hiện tốt hay không là tuỳ
thuộc vào các điểm thiết yếu này.
Tuy nhiên, để có thể tự mình tìm ra các điểm thiết yếu trong kiểm tra, nhà
quản lý nên tự đặt ra cho mình các câu hỏi sau đây;
+ Những điểm nào là điểm phản ánh rõ nhất mục tiêu của đơn vị mình?
+ Những điểm nào là điểm phản ánh rõ nhất tình trạng không đạt mục tiêu?
+ Những điểm nào là điểm đo lờng tốt nhất sự sai lệch?
+ Những điểm nào là điểm giúp cho nhà quản lý biết ai là ngời chịu trách
nhiệm về sự thất bại?
+ Tiêu chuẩn kiểm tra nào ít tốn kếm nhất?
+ Tiêu chuẩn kiểm tra nào có thể thu nhập thông tin cần thiết mà không phải
quá tốn kém?
1.3- Vai trò của kiểm tra:

1.3.1. Những yếu tố tạo nên sự cần thiết của kiểm tra.
Các hoạt động quản lý là quá trình thông tin và căn cứ vào những quyết định
mà hệ thống bị quản lý hoạt động, tuy nhiên mọi hệ thống luôn biến động theo
thời gian nên kiểm tra là công cụ chủ yếu để phát hiện sự không phù hợp nhằm kịp
thời điều chỉnh. Quyết định ra trớc, sự thực hiện đợc tiến hành sau, do đó quyết
định không hoàn toàn chính xác mà phải có quá trình kiểm tra để phát hiện tình
hình mới để bổ sung vào quyết định. Mặt khác, nếu công tác kiểm tra đợc thực
hiện đều đặn thì làm cho các đối tợng quản lý luôn luôn có ý thức chấp hành tốt
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
kỷ luật lao động và thực hiện nghiêm chỉnh luật pháp cũng nh các tiêu chuẩn định
mức và quy định của cấp trên, đây chính là nhân tố thực hiện tiết kiệm trong quản
lý.
Nh vậy, một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho công tác kiểm tra trở
nên cần thiết là vì những kế hoạch tốt nhất cũng có thể không đợc thực hiện nh ý
muốn. Các nhà quản lý cũng nh cấp dới của họ đều có thể mắc sai lầm và hệ thống
kiểm tra cho phép phát hiện sửa chữa các sai lầm đó trớc khi chúng trở nên
nghiêm trọng, để mọi hoạt động của hệ thống đợc hoạt động theo đúng kế hoạch
đã đề ra.
Kiểm tra tạo ra chất lợng tốt hơn cho hoạt động. Quản lý chất lợng ngày nay
dẫn đến sự phát triển của kiểm tra và cũng làm thay đổi nhiều quan điểm, thái độ và
cách thức để đạt tới kiểm tra có hiệu quả. Nhờ kiểm tra, những sai lầm trong hoạt
động đợc phát hiện và sửa chữa kịp thời. Các nhà quản lý và nhân viên đều bị kiểm
tra và đợc trao quyền kiểm tra nên luôn tự hoàn thiện chính mình.
Kiểm tra giúp cho tổ chức theo sát và đối phó với sự thay đổi của môi trờng.
Thay đổi là thuộc tính tất yếu của môi trờng, các chính sách và pháp luật mới của
Nhà nớc đợc ban hành. Chức năng kiểm tra giúp cho các nhà quản lý có đợc
những phản ứng thích hợp trớc các vấn đề và cơ hội bằng cách giúp họ phát hiện
kịp thời những thay đổi đang và sẽ ảnh hởng đến kết quả hoạt động của tổ chức.
Kiểm tra góp phần bổ sung thêm giá trị cho các hoạt động thông qua những

kiến nghị đổi mới.
Kiểm tra góp phần mở rộng nền dân chủ trong quản lý, nâng cao công tác
phân quyền, uỷ quyền. Xu hớng hiện nay trong quản lý là nâng cao chế độ uỷ
quyền và khuyến khích nhân viên làm việc theo tinh thần hợp tác. Điều đó không
làm giảm trách nhiệm của những nhà quản lý nhng làm thay đổi tích chất của quá
trình kiểm tra. Trong hệ thống quản lý tập trung cũ, ngời quản lý xác định cả tiêu
chuẩn và phơng pháp để đạt đợc các tiêu chuẩn đó. Trong hệ thống hợp tác mới,
các nhà quản lý thông báo các tiêu chuẩn nhng họ cho phép nhân viên của mình
(cá nhân hay nhóm đợc vận dụng khả năng sáng tạo để quyết định phơng pháp giải
quyết vấn đề. Quá trình kiểm tra ở đây cho phép ngời quản lý giám sát sự tiến bộ
của nhân viên chứ không can thiệp vào công việc và phơng hại đến quá trình sáng
tạo của họ.
1.3.2. Mức độ cần thiết của kiểm tra.
Thuật ngữ kiểm tra thờng làm cho ta không thoải mái vì nó hình nh liên quan
tới việc ngăn cản quyền tự do hành động của mỗi ngời. Vào thời đại mà tính hợp
pháp của quyền lực bị đặt nhiều câu hỏi và xu thế hớng tới quyền tự do sáng tạo
cho các cá nhân đang đợc đẩy mạnh, khái niệm kiểm tra làm cho nhiều ngời khó
chịu. Mặc dù vậy, kiểm tra là cần thiết đối với mỗi hệ thống. Nhờ sự phát triển của
các kỹ thuật tin học, các phơng pháp kiểm tra đã trở nên chính xác và tinh vi và
các nhà quản lý luôn phải đối mặt với yêu cầu giải quyết mâu thuẫn giữa sự cần
thiết phải nâng cao quyền tự chủ của cá nhân với sự cần thiết của kiểm tra.
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Rõ ràng sự kiểm tra quá mức sẽ có hại đối với doanh nghiệp cũng nh với các
cá nhân vì nó gây ra bầu không khí căng thẳng, thiếu tin tởng lẫn nhau trong tập
thể, hạn chế và thậm chí làm triệt tiêu khả năng sáng tạo của con ngời. Nhng nếu
kiểm tra lỏng lẻo, tổ chức sẽ rơi vào tình trạng rối loạn, không tự biết mình đang
và sẽ ở đâu và nh vậy không thể hoạt động có hiệu quả. Tuy nhiên, mức độ kiểm
tra đợc coi là quá mức hay vừa phải phụ thuộc vào những hoàn cảnh và điều kiện
khác nhau. Ví dụ: Trong giờ cao điểm do lu lợng hành khách lớn nên các lái, phụ

xe luôn có t tởng thực hiện không đúng thời gian biểu và lộ trình để tranh giành
khách, vì vậy cần phải kiểm tra chặt chẽ. Tuy nhiên, ở giờ thấp điểm thì việc kiểm
tra quá mức chặt chẽ có thể bị coi là không phù hợp. Sự kiểm tra quá mức còn gây
tác hại cho hệ thống vì tiêu tốn nhiều nguồn lực mà lợi ích thu đợc thì có thể
không phù hợp với chi phí. Đồng thời cần phải lu ý rằng việc giảm mức độ kiểm
tra không đồng nghĩa với việc tăng quyền tự chủ cuả các cá nhân. Hơn nữa việc
thiếu một hệ thống kiểm tra có hiệu quả có thể buộc các nhà quản trị phải giám sát
cấp dới của mình chặt chẽ hơn và nh vậy quyền tự chủ của những ngời này sẽ bị
giảm đi.
Nh vậy, nhiệm vụ của các nhà quản trị khi thiết lập hệ thống kiểm tra là xác
định sự cân đối tốt nhất giữa kiểm tra và quyền tự do của các cá nhân; giữa chi phí
cho kiểm tra và lợi ích do hệ thống này đem lại cho doanh nghiệp. Ngoài ra, vì tổ
chức, con ngời, môi trờng công nghệ luôn biến đổi, hệ thống kiểm tra hiệu quả đòi
hỏi quá trình xem xét và đổi mới liên tục.
2. Bản chất của kiểm tra.
2.1- Kiểm tra là một hệ thống phản hồi.
Về cơ bản, cơ chế kiểm tra trong quản lý đợc xây dựng theo nguyên tắc của hệ thống
phản hồi thờng thấy trong các hệ thống vật lý và sinh học. Có thể thấy rõ điều này khi xem
xét quá trình liên hệ ngợc trong kiểm tra đợc mô tả ở sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1: Vòng liên hệ ngợc của kiểm tra.
Nhìn vào sơ đồ trên ta thấy, hệ thống này thể hiện một cách toàn diện nội
dung của kiểm tra. Các nhà quản lý tiến hành đo lờng kết quả thực tế, so sánh các
kết quả đo lờng này với các tiêu chuẩn xác định và phân tích các sai lệch. Sau đó
để thực hiện đợc những điều chỉnh cần thiết họ phải đa ra một chơng trình cho
11
Kết quả
mong
muốn
Kết quả
thực tế

Đo lường
kết quả
thực tế
So sánh
với các
tiêu chuẩn
Thực hiện
điều chỉnh
Xây dựng
chương
trình điều
chỉnh
Phân tích
nguyên
nhân của
sai lệch
Xác định
các sai
lệnh
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hoạt động điều chỉnh và thực hiện chơng trình này nhằm đi tới kết quả mong
muốn.
Xem xét vòng liên hệ ngợc của kiểm tra có thể thấy ở đây thời gian giữ vai
trò đặc biệt quan trọng. Các nhà quản lý biết càng sớm rằng các hoạt động mà họ
chịu trách nhiệm đang không đợc tiếp tục đi theo đúng kế hoạch thì họ càng mau
chóng ra đợc các tác động điều chỉnh. Việc sử dụng các công cụ kỹ thuật hiện đại
nh: máy tính, camera, ... cho phép xây dựng hệ thống thông tin theo thời gian thực,
hệ thống có thể cung cấp thông tin về các hoạt động tại thời điểm đang xảy ra. Ví
dụ, ở một số nớc trên thế giới ngời ta tiến hành lắp các máy camera trên các nút
giao thông chính của thành phố. Do đó, mỗi khi có xe buýt đi qua, nó sẽ đợc

truyền về trung tâm quản lý và điều hành giao thông công cộng và lúc đó các giám
sát viên sẽ biết đợc chiếc xe bus đó có đi đúng thời gian biểu và lộ trình không....
Một số ngời coi hệ thống thông tin theo thời gian thực là phơng tiện hữu hiệu giúp
cho nhà quản lý có thể tiến hành kiểm tra đúng vào thời điểm xảy ra sai lệch so
với kế hoạch. Tuy nhiên theo bản chất của vòng liên hệ ngợc trong kiểm tra thì
quá trình kiểm tra nh vậy không thể thực hiện đợc (trừ trờng hợp đơn giản và khác
thờng nhất) vì một số nguyên nhân sau đây:
- Cho dù có thể thu nhập đợc số liệu về kết quả thực hiện theo thời gian thực
ngay lập tức so sánh đợc các số liệu này với các tiêu chuẩn, thậm chí có thể xác
định đợc các sai lệch thì việc phân tích nguyên nhân của sai lệch, đa ra các chơng
trình điều chỉnh và thực thi các chơng trình này thờng là những nhiệm vụ tốn
nhiều thời gian. Và vì vậy, trong phần lớn các trờng hợp của kiểm tra, thời gian
trễ là tất yếu. Chẳng hạn trong kiểm tra chất lợng sản phẩm có thể phải mất khá
nhiều thời gian để phát hiện những nguyên nhân tạo nên phế phẩm và cần nhiều
thời gian hơn nữa để đa các biện pháp điều chỉnh vào thực tế.
- Chi phí bỏ ra để xây dựng hệ thống thông tin theo thời gian thực có thể vợt
quá lợi ích mà hệ thống đó đem lại.
Độ trễ của thời gian chính là điểm yếu của hệ thống kiểm tra chỉ dựa trên
những mối liên hệ ngợc từ đầu ra của hệ thống. Nó cho thấy tính không hiệu quả
của các dữ liệu lịch sử nh những dữ liệu thu đợc từ các báo cáo thống kê. Chẳng
hạn, có thể đã là quá chậm nếu các dữ liệu đó báo cáo cho các nhà quản lý vào
tháng 10 rằng các đơn vị tham gia hoạt động vận tải hành khách công cộng hoạt
động kém hiệu quả vào tháng 9 do các biện phap kiểm tra đợc thực hiện vào tháng
7. Các nhà quản lý cần một hệ thống kiểm tra có thể báo cho họ những vấn đề sẽ
nảy sinh nếu họ không có tác động kịp thời tại một thời điểm nhất định. Yêu cầu
đó làm ra đời hệ thống kiểm tra dự báo.
2.2- Kiểm tra là một hệ thống dự báo.
Các hệ thống phản hồi đơn giản đo lờng đầu ra của quá trình, rồi đa vào hệ
thống hoặc đầu vào của hệ thống những tác động điều chỉnh để thu đợc kết quả
mong muốn tại chu kỳ sau. Bản chất của hệ thống đo đợc miêu tả trên hình 1.2.

12
Hệ thống
kiểm tra
Các giá trị mong
muốn của đầu ra
(Các tiêu chuẩn)
Đầu vào Quá trình
thực hiện
Đầu ra
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
t+1 t+1 t
Hình 1.2: Hệ thống phản hồi đơn giản
t t t + 1
Hình 1.3: Hệ thống kiểm tra dự báo
Ghi chú: Thông tin
Tác động điều chỉnh
t: Mốc thời gian
Trong hệ thống kiểm tra dự báo trái lại sẽ giám sát đầu vào của hệ thống để
khẳng định xem những đầu vào đó có đảm bảo cho hệ thống thực hiện theo đúng
kế hoạch hay không, nếu không thì những đầu vào hoặc cả quá trình trong hệ
thống sẽ đợc thay đổi để thu đợc kết quả mong muốn. Bản chất của hệ thống kiểm
tra dự báo đợc mô tả trên hình 1.3. Tuy nhiên, để thực hiện công việc lờng trớc
trong thực hành những đầu vào cần phải đợc quan sát kỹ. Trong các loại chơng
trình kiểm tra lờng trớc (dự báo ) tốt nhất, mô hình của các biến vào nên bao gồm
những đầu vào của mô hình hệ thống mà chúng có ảnh hởng quan trọng tới các
13
Các giá trị mong
muốn của đầu ra
(Các tiêu chuẩn)
Đầu vào Quá trình

thực hiện
Đầu ra
Hệ thống
kiểm tra
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đầu vào chủ yếu. Ví dụ, sản lợng của hoạt động xe bus phụ thuộc vào lợng hành
khách trên tuyến, trong khi đó lợng hành khách này lại phụ thuộc vào sở thích và
nhu cầu của ngời dân. Đến lợt nhu cầu đi lại của ngời dân lại phụ thuộc vào nhiều
yếu tố khác nữa.
Một trong những vấn đề của toàn bộ hệ thống kiểm tra lờng trớc là sự cần
thiết phải quan sát những gì gây ra các "lộn xộn". Tuy nhiên do môi trờng quản lý
luôn biến động nên có những yếu tố không đợc xét tới trong mô hình đầu vào nh-
ng nó lại có thể ảnh hởng tới hệ thống và tới các kết quả mong muốn. Vì vậy, việc
giám sát đầu vào thờng lệ cần phải đợc bổ trợ thêm bằng cách quan sát và xét tới
những "lộn xộn" bất thờng và không mong đợi.
Có thể nói rằng, hệ thống kiểm tra dự báo trên thực tế cũng là một hệ thống
liên hệ ngợc. Nhng ở đây sự phản hồi nằm ở phía đầu vào của hệ thống sao cho
những tác động điều chỉnh có thể đợc thực hiện trớc khi đầu ra của hệ thống bị
ảnh hởng. Tuy nhiên, ngay cả với hệ thống lờng trớc không có một ai phủ nhận là
nhà quản lý sẽ vẫn muốn đo lờng cái ra cuối cùng của hệ thống, bởi vì không có
cái gì có thể hy vọng rằng nó làm việc cái ta mong muốn. Để xây dựng đợc một hệ
thống kiểm tra dự báo có hiệu quả cần thực hiện một số yêu cầu sau:
- Thực hiện phân tích kỹ càng hệ thống, lập kế hoạch và kiểm tra cũng nh các
đầu vào quan trọng.
- Đa ra mô hình của hệ thống thể hiện mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra.
- Mô hình phải đợc xem xét lại thờng xuyên sao cho đầu vào, đầu ra và mối
liên hệ giữa chúng luôn phản ánh thực tại.
- Thu thập các dữ liệu và các đầu vào một cách đều đặn và đặt chúng vào mô
hình.
- Đánh giá thờng xuyên những sai lệch của đầu vào thực tế so với kế hoạch

và ảnh hởng của chúng tới các kết quả mong đợi cuối cùng.
- Tiến hành tác động kịp thời lên các đầu vào và cả quá trình để điều chỉnh
sai lệch nhằm thực hiện đúng mục tiêu.
Trong thực tế hệ thống kiểm tra có hiệu quả phải là sự kết hợp của kiểm tra
kết quả thực tế và kiểm tra dự báo.
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
3. Các nguyên tắc kiểm tra.
Trong quá trình xây dựng các hệ thống kiểm tra và tiến hành công tác kiểm
tra cần tuân theo các nguyên tắc sau:
3.1- Nguyên tắc kiểm tra các điểm thiết yếu.
Nguyên tắc này đòi hỏi phải xác định các khu vực hoạt động thiết yếu và các
điểm kiểm tra thiết yếu để tập trung sự chú ý vào các khu vực và các điểm đó.
Lĩnh vực hoạt động thiết yếu là những bộ phận những khu vực của tổ chức
giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong sự tồn tại của tổ chức kết quả hoạt động của
những khu vực này có ảnh hởng quyết định của tổ chức.
Điểm kiểm tra thiết yếu là những nơi, những yếu tố phần tử, con ngời mà hệ
thống kiểm tra nhất thiết phải có thông tin về chúng. Do chúng đang có những
nhân tố hạn chế trong hoạt động hoặc là có những nhân tố khác tốt hơn, dù rằng
kế hoạch vẫn đang trôi chảy. Trong công tác kiểm tra đối với hệ thống giao thông
công cộng bằng xe bus các nhà quản lý cần chú ý vào các tuyến có sản lợng thấp,
hoạt động kém hiệu quả. Ngoài ra, trong mạng lới xe bus bao gồm các tuyến hoạt
động chính và các tuyến phụ trợ. Các tuyến bus chính là những tuyến chủ đạo, vận
chuyển lu lợng hành khách lớn và có ảnh hởng trực tiếp tới việc đi lại của ngời
dân. Các tuyến phụ trợ là những tuyến thu gom khách phục vụ cho các tuyến
chính. Do đó, trong quá trình kiểm tra cũng cần chú trọng vào các tuyến chính để
đảm bảo cho hệ thống giao thông công cộng bằng xe bus hoạt động có hiệu quả.
3.2- Nguyên tắc về địa điểm kiểm tra.
Nguyên tắc này đòi hỏi việc kiểm tra không chỉ dựa vào các số liệu và báo
cáo thống kê do doanh nghiệp gửi lên mà phải đợc tiến hành ngay trên tuyến xe

bus.
3.3- Nguyên tắc số lợng nhỏ các nguyên nhân.
Nguyên tắc này nêu rõ: trong một cơ hội ngẫu nhiên nhất định một số lợng
nhỏ các nguyên nhân cũng có thể gây ra đa số các kết quả. Đây là một nguyên tắc
rất quan trọng tạo cơ sở khoa học cho các nhà quản lý khi họ cố gắng xác định các
khu vực hoạt động thiết yếu và các điểm kiểm tra thiết yếu. Nguyên tắc này cũng
đỏi hỏi trong quá trình kiểm tra phải xem xét kỹ càng mọi nguyên nhân gây nên
sự sai lệch của sự thực hiện so với mục tiêu kế hoạch để có thể đề ra các biện pháp
điều chỉnh có hiệu quả.
3.4- Nguyên tắc tự kiểm tra.
Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình kiểm tra các nhà quản lý, các bộ phận
phải tự kiểm tra chính bản thân những cơ chế và hoạt động kiểm tra của mình.
4. Hệ thống kiểm tra đối với hệ thống giao thông công cộng bằng xe Bus.
4.1- Khái niệm hệ thống kiểm tra.
Hệ thống kiểm tra là một tổng thể bao gồm những con ngời, các phơng pháp
và phơng tiện kiểm tra để thực hiện những nhiệm vụ cơ bản của kiểm tra nh: giám
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
sát sự hoạt động, đo lờng kết quả hoạt độngvà điều chỉnh những sai lệch có thể
xảy ra.
Nh vậy, để hệ thống kiểm tra hoạt động có hiệu quả phải chú ý đến 3 yếu tố
đó là: bộ máy kiểm tra (con ngời), phơng pháp và phơng tiện kiểm tra, trong đó
con ngời (chủ thể kiểm tra) là yếu tố quyết định và quan trọng.
4.2- Những yêu cầu đối với hệ thống kiểm tra hiệu quả.
Tất cả các nhà quản lý đều muốn xây dựng đợc một hệ thống kiểm tra thích
hợp và hữu hiệu giúp họ thực hiện thành công các kế hoạch đề ra. Hệ thống đó cần
đáp ứng những yêu cầu cơ bản sau đây:
4.2.1. Hệ thống kiểm tra cần đ ợc thiết kế theo các kế hoạch.
Các hệ thống kiểm tra cần phản ánh các kế hoạch mà chúng theo dõi. Thông
qua hệ thống kiểm tra các nhà quản lý phải nắm đợc diễn biến của quá trình thực

hiện kế hoạch. Các kế hoạch và chơng trình đều có những đặc trng thống nhất, tuy
nhiên thông tin để kiểm tra tiến trình thực hiện một chơng trình Marketing sẽ khác
nhiều so với thông tin cần thiết để kiểm tra một kế hoạch sản xuất. Điều đó thể
hiện hai mặt thống nhất và đa dạng của công tác kiểm tra trong quản lý. Ngoài ra,
bản chất của việc kiểm tra cũng nhấn mạnh tới một sự thật là những cuộc kiểm tra
càng đợc thiết kế để giải quyết và phản ánh về bản chất và cấu trúc riêng biệt của
các kế hoạch, thì chúng sẽ càng phục vụ hiệu quả hơn cho các nhu cầu về quản lý.
Những kỹ thuật nhất định nh: ngân sách, số giờ và mức chi phí định chuẩn,...
đều có một áp dụng chung trong các tình huống khác nhau. Tuy nhiên, không có
một lĩnh vực nào trong số các kỹ thuật đợc dùng rộng rãi lại đợc áp dụng một
cách hoàn toàn vào mọi tình huống cho trớc. Các nhà quản lý cần phải thờng
xuyên nhận thức về những yếu tố đột biến trong các kế hoạch và các tác vụ của
mình mà chúng cần phải đợc kiểm tra và họ cần phải sử dụng những kỹ thuật và
thông tin thích hợp về chúng.
4.2.2. Hệ thống kiểm tra cần phù hợp với tổ chức và con ng ời trong tổ chức.
- Hệ thống kiểm tra phải phù hợp với đặc điểm của tổ chức. Chẳng hạn nh
một tổ chức nhỏ sẽ cần một số công việc kiểm tra khác với một tổ chức lớn. Hay
hệ thống kiểm tra đối với tổ chức hoạt động dịch vụ khác với hệ thống kiểm tra
đối với doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm vật chất.
- Hệ thống kiểm tra phải phản ánh cơ cấu của tổ chức, bảo đảm có ngời chịu
trách nhiệm trớc một hoạt động nào đó và chịu trách nhiệm điều chỉnh khi có các
sai lệch xảy ra.
- Hệ thống kiểm tra phải phù hợp với vị trí công tác của cán bộ quản lý. Ví
dụ: các nhà quản lý cấp cao quan tâm tới các công cụ kiểm tra tài chính nhng đối
với những ngời trực tiếp giám sát công việc lại cần những ngân quỹ phí tiền tệ nh:
số giờ lao động, số sản phẩm sản xuất đợc, ...
- Hệ thống kiểm tra phải phù hợp với trình độ của cán bộ, công nhân và bầu
không khí của doanh nghiệp. Ví dụ: một hệ thống kiểm tra ngặt nghèo đợc áp
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

dụng vào một tổ chức trong đó mọi ngời có trình độ và tay nghề cao, có quyền
tham gia đáng kể vào quá trình ra quyết định sẽ có thể bị thất bại.
- Hệ thống kiểm tra phải đơn giản (các đầu mối kiểm tra càng ít càng tốt), tạo
đợc sự tự do và cơ hội tối đa cho những ngời dới quyền sử dụng kinh nghiệm, khả
năng và sự khéo léo của mình để hoàn thành công việc đợc giao.
4.2.3. Hệ thống kiểm tra phải mang tính hệ thống.
Công tác kiểm tra phải toàn diện và đồng bộ đảm bảo chất lợng. Một mặt,
nhà quản lý phải có quan điểm tổng thể, mặt khác phải xây dựng đợc những nội
dung cơ bản cần phải kiểm tra để thực hiện đợc mục tiêu đề ra. Tại các điểm kiểm
tra thiết yếu phải trả lời các câu hỏi:
+ Ai là ngời cần kiểm tra (Đối tợng kiểm tra).
+ Hoạt động nào cần phải kiểm tra.
+ Khi nào cần phải kiểm tra.
4.2.4. Hệ thống kiểm tra cần phải vạch rõ những chỗ khác biệt tại các điểm
thiết yếu.
Một trong những nguyên tắc quan trọng của việc thiết kế kiểm tra đối với
những khâu cần thiết cho kết quả và hiệu quả là nắm chắc rằng chúng đợc thiết kế
ra để chỉ rõ những chỗ khác biệt. Nói cách khác, bằng cách tập trung vào những
chỗ khác biệt so với kế hoạch các nhà quản lý có thể dùng những cách kiểm tra
dựa trên nguyên lý loại trừ để tách riêng những chỗ đòi hỏi sự chú ý của họ và họ
nên chú ý vào đó. Kết quả là trong thực hành nguyên lý loại trừ cần phải đi kèm
với nguyên tắc kiểm tra các điều thiết yếu.
4.2.5. Kiểm tra cần phải khách quan.
Mặc dù việc quản lý tất yếu phải bao gồm nhiều yếu tố chủ quan nhng việc
đánh giá con ngời, hoạt động trong kiểm tra phải mang tính khách quan và chính
xác, dựa vào những tiêu chuẩn rõ ràng thích hợp. Tránh thái độ định kiến và cách
đánh giá chỉ bằng cảm tính mà không có những luận cứ vững chắc để chứng minh.
4.2.6. Kiểm tra cần phải linh hoạt.
Điều này đòi hỏi phải có một hệ thống kiểm tra cho phép tiến hành đo lờng,
đánh giá, điều chỉnh các hoạt động một cách có hiệu quả cả trong trờng hợp gặp

phải những kế hoạch thay đổi, những hoàn cảnh không lờng trớc hoặc những thất
bại hoàn toàn. Chẳng hạn để đáp ứng yêu cầu này của kiểm tra ngời ta đã chuyển
từ việc sử dụng hệ thống ngân quỹ cố định sang hệ thống ngân quỹ linh hoạt.
4.2.7. Kiểm tra cần phải hiệu quả.
Các kỹ thuật và cách tiếp cận kiểm tra là có hiệu quả khi chúng có khả năng
làm sáng tỏ nguyên nhân và điều chỉnh những sai lệch tiềm năng và thực tế so với
kế hoạch với mức chi phí nhỏ nhất.
Yêu cầu này đòi hỏi lợi ích của kiểm tra phải tơng xứng với chi phí cho nó.
Điều này nêu lên thì thật đơn giản nhng khó thực hiện trên thực tế. Những nhà
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
quản lý thờng gặp khó khăn trong việc đánh giá giá trị cũng nh chi phí của một hệ
thống kiểm tra nhất định. Để giảm chi phí kiểm tra cần biết lựa chọn để chỉ kiểm
tra các yếu tố thiết yếu trong các lĩnh vực quan trọng đối với họ. Việc kiểm tra sẽ
có thể là kinh tế nếu đợc thiết kế phù hợp với công việc và quy mô của mỗi cơ sở.
4.2.8. Việc kiểm tra phải dẫn đến tác động điều chỉnh.
Điều chỉnh thể hiện giá trị và tác dụng của kiểm tra. Việc kiểm tra chỉ đợc
coi là có tác dụng nếu những sai lệch so với kế hoạch đợc điều chỉnh thông qua
việc lập kế hoạch, tổ chức và điều hành thích hợp.
4.3- Các yếu tố cơ bản của hệ thống kiểm tra đối với hệ thống giao thông
công cộng bằng xe Bus.
4.3.1. Chủ thể kiểm tra.
Trong một tổ chức tuỳ thuộc vào mục tiêu, nội dung kiểm tra mà chủ thể
kiểm tra là khác nhau và có thể xuất hiện nhiều chủ thể kiểm tra. Mỗi chủ thể
kiểm tra thờng có chức năng và phạm vi phân cấp khác nhau. Hiện nay có ba mô
hình tổ chức quản lý cơ bản, trong mỗi mô hình thì tồn tại một chủ thể kiểm tra
khác nhau.
a. Mô hình độc quyền Nhà nớc.
Mọi hoạt động đều do thành phần Nhà nớc quyết định, sở hữu và điều hành,
trong đó Nhà nớc cung cấp và sản xuất hoàn toàn. ở mô hình này, Nhà nớc sẽ giao

việc thực hiện hoạt động vận tải hành khách công cộng cho một doanh nghiệp Nhà
nớc và nó sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn về công tác lập kế hoạch, tổ chức điều
hành và kiểm tra, điều chỉnh.
b. Mô hình cho thầu:
Nhà nớc giao trách nhiệm kinh doanh dịch vụvận tải công cộng cho các công
ty thông qua hợp đồng. Đoàn xe Bus sẽ do một công ty cho thuê xe Bus điều hành
trên cơ sở hợp đồng thông qua đấu thầu dịch vụ xe Bus. Hợp đồng cho thuê xe Bus
sẽ quy định các tiêu chuẩn chất lợng phục vụ, tuyến hoạt động và khung giá dịch
vụ cho phép.
Công ty cho thuê xe Bus có quyền kiểm tra dịch vụ xe Bus theo định kỳ và
không định kỳ, xử phạt thật nghiêm các trờng hợp vi phạm.
c. Mô hình tổ chức quản lý hỗn hợp.
Theo mô hình này, giữa Nhà nớc và các đơn vị có những cấp quản lý và điều
hành trung gian.
18
Chính quyền địa phương
Trung tâm quản lý và điều hành
Bộ phận
tổ chức
giao
thông
Bộ phận
điều
hành và
kiểm tra
tuyến
Bộ phận
điều
hành và
kiểm tra

bến bãi
Bộ phận
quản lý
phương
tiện
Bộ phận
quản lý
giá vé
Các đơn vị tham gia vận tải hành khách công cộng
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Ghi chú: Kiểm tra là một chức năng của quản lý.
Mối quan hệ chỉ huy.
--------- Mối quan hệ chức năng
Đây là một mô hình hợp lý, tối u. Nó đã và đang đợc nhiều nớc vận dụng.
Đặc điểm lớn nhất của mô hình này là nhất thiết phải có một cơ quan quản lý Nhà
nớc chịu trách nhiệm chung về vận tải hành khách công cộng của thành phố. Theo
mô hình này chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận đợc thể hiện ở các điểm sau:
Thứ nhất, chính quyền địa phơng là đơn vị chủ quản có chức năng lập các
chiến lợc và các quy hoạch cho sự phát triển mạng lới xe Bus. Xây dựng các cơ
chế và chính sách phát triển vận tải hành khách công cộng. Đồng thời đây cũng là
đơn vị có trách nhiệm giao kế hoạch vận chuyển, thời gian biểu chạy xe, chất lợng
phục vụ trên tuyến cho các đơn vị tham gia thông qua Trung tâm quản lý và điều
hành.
Thứ hai là trung tâm quản lý và điều hành. Theo mô hình này, Trung tâm
quản lý và điều hành là một đơn vị , một mặt thực hiện việc giao và quản lý các
doanh nghiệp trong khi thực hiện nhiệm vụ theo quy định, mặt khác nó thực hiện
vai trò điều phối toàn bộ các lực lợng trên toàn hệ thống giúp cho mạng lới hoạt
động đợc liên tục và thông suốt, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động vận
chuyển hành khách. Nh vậy, Trung tâm điều hành vừa làm một phần chức năng
quản lý Nhà nớc vừa làm chức năng điều hành chủ yếu thay vì cho doanh nghiệp

làm riêng rẽ. Đối với các trung tâm điều hành ở nhiều nớc đã có những hình mẫu
chứng minh cho sự tiện lợi và tính hiệu quả của các tổ chức đó. Để có thể có đợc
kết quả tốt thì điều quan trọng khi thành lập trung tâm là xác định rõ ràng chức
năng, nhiệm vụ của nó. Về lý thuyết có thể đa ra một số nhiệm vụ của trung tâm
là:
- Soạn thảo và kế hoạch thống nhất về tuyến và phơng thức phục vụ, một thời
gian biểu chạy xe thống nhất về giá cả và chuyên chở, thông tin cho khách hàng.
- Soạn thảo, phối hợp và vận dụng một số phơng thức phân chia thu nhập,
thực hiện và kiểm tra việc phân chia thu nhập.
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Phân phối các nhiệm vụ vận tải hành khách công cộng trong khu vực trách
nhiệm.
- Xây dựng kế hoạch đầu t, tài chính phù hợp với các cơ quan hữu quan.
- Soạn thảo các tiêu chuẩn thống nhất cho hệ thống hớng dẫn thông tin và
dịch vụ trong khu vực chịu trách nhiệm.
- Ký kết các hợp đồng về hợp tác vận tải và các hợp đồng khác với các doanh
nghiệp tham gia vận tải hành khách công cộng.
Nh vậy, Trung tâm quản lý và điều hành không thay thì các cơ quan quản lý
lãnh thổ, quản lý Nhà nớc cũng không thay thế các doanh nghiệp, mà nó là một
cấp trung gian đảm nhiệm những chức năng nhất định, trong đó có công tác kiểm
tra, giám sát đối với các đơn vị tham gia vận tải hành khách công cộng.
Thứ ba là đối với các đơn vị tham gia vận tải hành khách công cộng. ở đây,
mỗi một đơn vị là một thực thể có tính độc lập tơng đối với nhau và chịu trách
nhiệm trớc Trung tâm trong việc thực hiện các nhiệm vụ đợc giao. Đơn vị đợc toàn
quyền sử dụng và có trách nhiệm bảo toàn phơng tiện, các trang thiết bị và các cơ
sở vật chất kỹ thuật khác vào việc thực hiện các nhiệm vụ đợc giao trong hợp
đồng. Ngoài ra các đơn vị còn phải thực hiện đầy đủ, kịp thời các nghĩa vụ tài
chính mà Trung tâm giao.
Nh vậy, mỗi một bộ phận trong toàn hệ thống đều giữ một vai trò nhất định.

Một vai trò ngụ ý rằng công việc mà mỗi bộ phận làm có một mục đích hoặc một
mục tiêu nhất định, sự hoạt động của các bộ phận ấy nằm trong một phạm vi mà ở
đó họ biết sẽ rõ mục tiêu công việc của họ ăn khớp nh thế nào đối với sự hoạt
động của toàn bộ hệ thống.
4.3.2. Các ph ơng pháp và kỹ thuật kiểm tra đối với hệ thống giao thông
công cộng bằng xe bus.
a. Các phơng pháp kiểm tra:
Các phơng pháp kiểm tra rất đa dạng và có thể đợc phân loại theo nhiều tiêu
chí khác nhau nh: theo quá trình hành động, theo mức độ tổng quát của nội dung
kiểm tra, theo tần suất của các cuộc kiểm tra, theo chủ thể tiến hành kiểm tra,...
* Các phơng pháp kiểm tra xem xét theo quá trình hành động:
- Kiểm tra trớc hành động: đợc tiến hành để đảm bảo rằng mọi nguồn lực cần
thiết cho hoạt động vận tải hành khách công cộng của các doanh nghiệp đã đợc
ghi vào ngân sách và đợc chuẩn bị đầy đủ cả về chủng loại, số lợng xe, chất lợng
xe, nhân lực....đến nơi quy định.
- Kiểm tra lờng trớc: đợc tiến hành để phát hiện những sai lệch của sự thực
hiện so với các tiêu chuẩn và mục tiêu để có thể điều chỉnh kịp thời trớc khi xảy ra
hậu quả nghiêm trọng. Kiểm tra lờng trớc chỉ có hiệu quả nếu nh các nhà quản lý
có đợc thông tin chính xác, kịp thời về những thay đổi của môi trờng và về hoạt
động hớng tới mục tiêu mong muốn.
- Kiểm duyệt (kiểm tra đợc hay không): là hình thức kiểm tra trong đó các
yếu tố hay giai đoạn đặc biệt của hoạt động phải đợc phê chuẩn hay thoả mãn
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
những điều kiện nhất định trớc khi sự vận hành đợc tiếp tục. Ví dụ: Trung tâm
quản lý và điều hành qui định rằng: trong quá trình hoạt động các doanh nghiệp
chỉ đợc thay đổi thời gian xuất bến và lộ trình hoạt động của xe bus khi đợc sự phê
duyệt của trung tâm.
- Kiểm tra sau hoạt động: đo lờng kết quả cuối cùng của hoạt động, nguyên
nhân của sai lệch so với tiêu chuẩn và kế hoạch đợc xác định cho những hoạt động

tơng tự trong tơng lai. Hình thức này còn đợc áp dụng để làm cơ sở tiến hành khen
thởng và khuyến khích cán bộ, công nhân.
Bốn dạng kiểm tra trên đều là cần thiết và đợc áp dụng tổng hợp để thực hiện
các mục tiêu của hệ thống giao thông công cộng. Tuy nhiên, hiện nay ngời ta đặc
biệt nhấn mạnh tới tầm quan trọng của kiểm tra lờng trớc.
Luồng thông tin và hoạt động điều chỉnh của cả 4 phơng pháp kiểm tra trên
đợc thể hiện trên hình 1.4. Tốc độ của dòng thông tin là yếu tố sống còn của kiểm
tra hiệu quả vì sai lệch càng đợc phát hiện sớm thì hành động điều chỉnh càng sớm
đợc thực hiện. Sự chính xác của thông tin cũng là cần thiết vì sự điều chỉnh đợc
tiến hành dựa trên cơ sở thông tin thu đợc.
21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Thông tin
Hành động điều chỉnh
Hình 1.4: Luồng thông tin và hoạt động điều chỉnh.
* Các phơng pháp kiểm tra theo mức độ tổng quát của nội dung kiểm tra.
- Kiểm tra toàn bộ: nhằm đánh giá việc thực hiện mục tiệu, kế hoạch của
doanh nghiệp một cách tổng thể.
- Kiểm tra bộ phận: thực hiện đối với từng lĩnh vực, bộ phận, phân hệ cụ thể
của hệ thống.
- Kiểm tra cá nhân: thực hiện đối với những con ngời cụ thể trong hệ thống.
* Các phơng pháp kiểm tra theo tần suất của các cuộc kiểm tra.
- Kiểm tra định kỳ: đợc thực hiện theo kế hoạch đã định trong từng thời gian.
- Kiểm tra đột xuất: đợc thực hiện khi có những vấn đề này sinh bất ngờ đối
với hệ thống hoặc là khi chủ thể kiểm tra muốn thực hiện công tác kiểm tra mang
tính bất ngờ.
- Kiểm tra liên tục là giám sát thờng xuyên trong mọi thời điểm với mọi cấp,
mọi khâu và với nội dung toàn diện.
22
Kiểm tra lư

ờng trước
Kiểm tra đư
ợc/ không
Đầu vào Quá trình Đầu ra
Kiểm tra
trước hành
động
Kiểm tra
sau hành
động
Thông tin
Hành động điều chỉnh
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
* Các phơng pháp kiểm tra theo mối quan hệ giữa chủ thể và đối tợng kiểm
tra.
- Kiểm tra (kiểm tra gián tiếp) là việc chủ thể quản lý xem xét, đo lờng kết
quả hoạt động của các đối tợng quản lý, đánh giá nguyên nhân gây ra sai lệch,
tìm ngời chịu trách nhiệm đối với sai lệch đó và yêu cầu họ chấn chỉnh hoạt động
của mình.
- Tự kiểm tra (kiểm tra trực tiếp) là việc phát triển những nhà quản lý và công
nhân có năng lực, ý thức kỷ luật cao, có khả năng giám sát bản thân và áp dụng
thành thạo các khái niệm, lý thuyết, nguyên tắc để hoàn thành các mục tiêu, kế
hoạch với hiệu quả cao.
b. Các kỹ thuật kiểm tra.
Hiện nay, ở các thành phố trên thế giới có hệ thống giao thông công cộng
phát triển không đồng đều. ở các thành phố lớn có hệ thống giao thông công cộng
phát triển thì hệ thống kiểm tra và giám sát đều đợc trang bị các phơng tiện kỹ
thuật hiện đại nh: vệ tinh, máy camera, máy đếm khách, máy vi tính,... kết hợp với
yếu tố con ngời. ở các thành phố có hệ thống giao thông công cộng cha phát triển
thì hệ thống kiểm tra và giám sát luôn lấy con ngời là yếu tố chính kết hợp với các

công cụ kiểm tra truyền thống. Tuy nhiên, đối với hệ thống kiểm tra và giám sát
của bất cứ thành phố nào đều có những điểm cơ bản đợc thể hiện ở sơ đồ sau:
23
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
24
Mục tiêu
+ Khách hàng
+ Những người cộng tác
- Lái xe
- Phụ xe
+ Tính công cộng
+ Nhà nước và doanh nghiệp.
Tiêu chuẩn
+Mang tính kinh tế.
+ Đúng giờ, đúng lộ trình
+ Sạch sẽ.
+ Lịch sự, văn minh
+ Trật tự.
Các biện pháp và kỹ thuật kiểm tra
Giám sát hoạt động
+Lịch trình chạy xe và
số (Phiếu) theo dõi.
- Giờ giấc.
- Tiêu hao nguyên vật liệu.
- Sự cố.
+ Kiểm tra qua thiết bị
vô tuyến.
- ùn tắc đường.
- Sự cố trong hoạt động
- Quá nhiều khách.

Kiểm tra phương tiện
+ kiểm tra hàng ngày.
- Hệ thống phanh,...
- Vệ sinh.
- Những hỏng hóc
khác.
+ kiểm tra sơ bộ
Kiểm tra kinh tế
+ Thanh toán mỗi ca.
+ Kiểm tra trong xe.
- Giá vé.
+ kiểm tra bên
ngoài.
Thu thập và báo cáo số liệu
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
5. Quá trình kiểm tra.
5.1- Định nghĩa về quá trình kiểm tra.
Định nghĩa của Robert J.Mocklers phản ánh các yếu tố cần thiết của quá
trình kiểm tra.
"Kiểm tra trong quản lý là cố gắng một cách có hệ thống để xác định các tiêu
chuẩn so với mục tiêu kế hoạch thiết kế hệ thống thông tin phản hồi, so sánh sự
thực hiện với các tiêu chuẩn, xác định và đo lờng mức độ sai lệch và thực hiện
hoạt động điều chỉnh để đảm bảo rằng mọi nguồn lực đã đợc sử dụng một cách có
hiệu quả nhất trong việc thực hiện mục tiêu".
Định nghĩa đó chia quá trình kiểm tra làm ba giai đoạn đợc phản ánh trong
hình 1.6.
- Xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn và phơng pháp đo lờng sự thực hiện.
- Đo lờng và phân tích sự thực hiện.
- Tiến hành điều chỉnh sự thực hiện hoặc các tiêu chuẩn.
25

×