Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Hoàn thiện công tác lập kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 80 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Kính gửi:

Ban giám hiệu trường Đại học Kinh tế quốc dân
Ban chủ nhiệm khoa Kinh tế Kế hoạch và Phát triển
Tên tôi là
:Đinh Thị Phương Thảo
Sinh viên lớp
:Kế hoạch 48B
Khoa
:Kế hoạch và phát triển
Sau một thời gian thực tập tại phịng Tài chính-Kế hoạch huyện n Châu, tỉnh
Sơn La, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Thanh Hà, và tập thể cán bộ phịng
Tài chính-Kế hoạch, tơi đã hoàn thành chuyên đề luận văn tốt nghiệp với đề
tài:"Hoàn thiện công tác lập kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội huyện Yên
Châu, tỉnh Sơn La."
Nay tôi viết đơn này với nội dung sau:
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân tơi, dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Thanh Hà, và cán bộ tại cơ quan. Các số liệu, kết
quả trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ
chuyên đề tốt nghiệp nào trước đây.
Sinh viên

Đinh Thị Phương Thảo


MỤC LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
KH


KHH
KTXH
Bộ KH&ĐT
Sở KH&ĐT
HĐND
UBND
TD&ĐG
CHXHCN
CHLB
AN-QP
TCKH
BQL
VDP
PRA
ĐBKK
SWOT
WTO
XĐGN
GTZ

Kế hoạch
Kế hoạch hóa
Kinh tế-xã hội
Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Sở Kế hoạch và Đầu tư
Hội đồng nhân dân
Ủy ban nhân dân
Theo dõi và đánh giá
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Cộng hòa liên bang

An ninh-Quốc phịng
Tài chính-Kế hoạch
Ban quản lý
Lập kế hoạch phát triển thơn bản
Đánh giá nơng thơn có người tham gia
Đặc biệt khó khăn
Điểm mạnh, Điểm yếu, Cơ hội, Thách thức
Tổ chức thương mại thế giới
Xóa đói giảm nghèo
Tổ chức hợp tác kỹ thuật của Cộng hòa Liên Bang Đức


DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ
Bảng 1: Cơ cấu sử dụng đất huyện Yên Châu – Sơn La
Bảng 2: Tình hình dân số huyện Yên Châu qua các năm
Bảng 3: Khung KH trong việc xác định các giải pháp thực hiện KH
Sơ đồ 1: Sơ đồ tổ chức bộ máy KHH ở Việt Nam
Sơ đồ 2: Quy trình lập KH phát triển KTXH huyện Yên Châu
Sơ đồ 3: Lập KH dựa vào kết quả
Sơ đồ 4: Sự tham gia đóng vai trị trung tâm
Sơ đồ 5: Quy trình xây dựng KH huyện Yên Châu


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình đổi mới nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước, cơng
tác kế hoạch cũng từng bước được hồn thiện, góp phần tích cực vào việc hồn
thành thắng lợi các mục tiêu trong các Chiến lược và Kế hoạch phát triển KTXH đề
ra. Ngày nay, trước xu thế hội nhập hội nhập và sự biến động của cơ chế thị trường

thì vai trị Nhà nước càng thể hiện quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô và định
hướng phát triển cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để tăng
cường hơn nữa vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện nay, thì việc
đổi mới, hồn thiện các cơ chế, chính sách là một điều tất yếu. Trong đó, kế hoạch
là một trong những công cụ quản lý, điều hành của Nhà nước nên việc đổi mới,
hồn thiện cơng tác lập KH là một việc hết sức cần thiết và cấp bách.
Đối với các địa phương hồn thiện cơng tác lập KH phát triển KTXH đang là
một trong những trọng tâm của cơng tác cải cách hành chính. Bởi lẽ, chỉ khi cơng
tác này được đổi mới, hồn thiện sẽ giúp địa phương có cơng cụ điều hành, quản lý
đời sống KTXH trên địa bàn một cách hiệu quả. Bên cạch đó,việc hồn thiện cơng
tác xây dựng KH phát triển KTXH là tiền đề để huy động một cách có hiệu quả
nguồn lực của toàn xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế địa phương. Vai trị của
cơng tác KH đã và đang được tiếp tục khẳng định.
Yên Châu là một trong những địa phương được triển khai nhiều hoạt động
hoàn thiện công tác lập KH phát triển KTXH. Hoạt động tham vấn KH phát triển
KTXH 5 năm, hàng năm của huyện sớm được triển khai trên toàn địa bàn của
huyện, trong khuân khổ dự án “ Dự án phát triển lâm nghiệp xã hội Sông Đà”,Bộ
Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Hợp tác kỹ thuật CHXHCN Việt Nam-Liên
bang Đức tài trợ, đồng thời dự án cũng mở lớp tập huấn hỗ trợ các cán bộ phịng
Tài chính-Kế hoạch huyện về công tác lập KH từ thôn bản, đánh giá nông thơn có
người dân tham gia. Đây là những tiền đề quan trọng để huyện có thể tiếp tục triển
khai cơng cuộc này sâu rộng hơn,nhằm tạo ra một sự chuyển biến thật sự trong công
tác lập KH phát triển KTXH trong tồn huyện.
Tuy nhiên, trong hoạt động thực tiễn cơng tác lập KH cấp huyện ở Yên Châu
mặc dù đã có nhiều hồn thiện, đổi mới, song q trình hồn thiện thiếu đồng bộ,


hiệu quả và hiệu lực còn thấp, KH còn mang nặng tính áp đặt, chủ quan duy ý chí.
Cơng tác lập kế hoạch hàng năm được thực hiện theo khung hướng dẫn từ Trung
ương đến địa phương và được Trung ương tổng hợp trong vịng một tháng, sau đó

đã khơng đủ thời gian tổng hợp từ cơ sở nên quy trình tham vấn các bên liên quan
vào bản KH vẫn chưa đạt hiêu quả cao. Các chỉ số về nguồn tài chính và KH
thường cách xa nhau, thiếu các chỉ tiêu lồng ghép giữa kinh tế-xã hội-xóa đói giảm
nghèo-mơi trường. Công tác lập KH chưa thực sự được coi trọng, bản KH chưa
thực sự trở thành cơng cụ hữu ích cho cơng tác quản lý của các cấp chính quyền
huyện.
Từ những nhược điểm nêu trên cho thây việc hoàn thiện công tác lập KH phát
triển KTXH là cấp bách và hết sức cần thiết. Xuất phát từ thực tế trên, em xin được
chọn đề tài “Hồn thiện cơng tác lập kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội huyện
Yên Châu, tỉnh Sơn La” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Bài chuyện
đề này chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp cơ bản có thể
hồn thiện cơng tác lập KH phát triển KTXH tại huyện Yên Châu, với hy vọng công
tác lập KH tại huyện sẽ ngày càng hoàn thiện hơn, bản KH được xây dựng với chất
lượng tôt hơn và thực sự là cơng cụ hỗ trợ cho q trình quản lý, điều hành của
chính quyền địa phương.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tương nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu công tác lập kế hoạch
phát triển KTXH cấp huyện hàng năm và 5 năm.
- Phạm vi nghiên cứu:
• Về nội dung: nghiên cứu, đánh giá thực trạng cơng tác lập KH phát triển
KTXH cấp huyện.
• Phạm vi không gian: Nghiên cứu công tác lập kế hoạch huyện Yên Châu,
tỉnh Sơn La.
• Phạm vi thời gian: Tiến hành nghiên cứu công tác lập KH phát triển KTXH 5
năm (2006-2010) và công tác lập KH phát triển KTXH hàng năm 2007,2008, 2009
3. Mục đích của việc nghiên cứu
Chuyên đề tập trung làm rõ cơ sở lý luận về KH phát triển KTXH trong nền
kinh tế thị trường và sự cần thiết đổi mới công tác lập KH phát triển KTXH cấp
huyện hiện nay. Trên cơ sở đó, chuyên đề đi sâu tìm hiểu thực trạng cơng tác lập
KH phát triển KTXH tại huyện Yên Châu hiện nay. Từ đó, đề xuất các giải pháp

nhằm hồn thiện cơng tác lập KH phát triển KTXH cấp huyện ở Yên Châu.


Kết cấu của chuyên đề:
Chương I: Sự cần thiết phải hồn thiện cơng tác lập kế hoạch phát triển kinh
tế xã hội ở huyện Yên Châu-Sơn La
Chương II: Đánh giá về công tác lập kế hoạch phát triển ở huyện n ChâuSơn La
Chương III: Hồn thiện cơng tác lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội huyện
Yên Châu Sơn La (giai đoạn 2011-2015)
Do em còn nhiều hạn chế về trình độ trong lý thuyết và thực tiễn, mặc dù đã
nhiều cố gắng song bài chuyền đề này vẫn không tránh khỏi sai sót, nên em mong
nhận được ý kiến đóng góp từ phía các thầy cơ giáo, bạn bè và những ai quan tâm
tới đề tài này.
Cuối cùng, em xin được chân thành cảm ơn thầy giáo Nguyễn Thanh Hà, cùng
tồn thể các cơ chú cán bộ phịng Tài chính-Kế hoạch huyện n Châu-Sơn La đã
nhiệt tình đã nhiệt tình giúp đỡ em hồn thành tốt bài chun đề thực tập này.


CHƯƠNG I
SỰ CẦN THIẾT PHẢI HỒN THIỆN CƠNG TÁC LẬP
KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở
HUYỆN YÊN CHÂU – SƠN LA
1.1. Kế hoạch trong nền kinh tế thị trường
1.1 .1 Khái niệm và vai trò của kế hoạch trong nền kinh tế thị trường
1.1.1.1 Khái niệm về kế hoạch
Nhà nước có một vai trị chính đáng và thường xuyên trong các nền kinh tế
hiện đại. Vai trò đó của Nhà nước đặc biệt thể hiện rõ rệt ở việc xác định "các quy
tắc trò chơi" để can thiệp vào những khu vực cần có sự lựa chọn, khắc phục những
khuyết tật của thị trường, để đảm bảo tính chỉnh thể của nền kinh tế.
Để thực hiện được vai trị của mình, Nhà nước đã sử dụng nhiều công cụ khác

nhau như: hệ thống luật pháp, hệ thống hoạch định phát triển, các cơng cụ địn bẩy
kinh tế(thuế, trợ cấp…), các chính sách kinh tế(tài khóa, tiền tệ, thương mại, đầu
tư…), lực lượng kinh tế của Nhà nước (doanh nghiệp Nhà nước, dự trữ quốc gia…).
Công cụ kế hoạch với tư cách là một trong những công cụ khác nhau được Chính
phủ sử dụng điều tiết nền kinh tế thị trường. Kế hoạch được hiểu là sự thể hiện ý đồ
của chủ thể về sự phát triển trong tương lai của đối tượng quản lý và các giải pháp
để thực thi. Nó xác định xem một q trình phải làm gi? Làm thế nào? Khi nào làm
và ai sẽ làm?
Như vậy, Kế hoạch là một công cụ quản lý và điều hành vĩ mô nền kinh tế
quốc dân, nó là sự cụ thể hóa các mục tiêu định hướng của chiến lược phát triển
theo từng thời kỳ bằng hệ thống các mục tiêu và chỉ tiêu biện pháp định hướng phát
triển và hệ thống các chính sách, cơ chế áp dụng trong thời kỳ kế hoạch.
Từ đó ta có thể đưa ra được định nghĩa về KH phát triển KTXH như sau:
“Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KHPTKT-XH) là công cụ quản lý của
nhà nước theo mục tiêu, nó được thể hiện bằng những mục tiêu định hướng phát
triển KTXH phải đạt được trong một khoảng thời gian nhất định của một quốc gia
hoặc một địa phương và những giải pháp, chính sách nhằm đạt được các mục tiêu
đặt ra một cách hiệu quả cao nhất.”(Nguồn: ThS Vũ Cương, Bộ tài liệu đào
tạo:Lập Kế hoạch có tính chất chiến lược phát triển kinh tế địa phương, trang 9)


1.1.1.2 Vai trò của kế hoạch trong nền kinh tế thị trường
Trước tiên, cần thấy rằng sự tồn tại của kế hoạch xuất phát từ vai trò tất yếu
của nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Như chúng ta đều biết, một nền kinh tế
thị trường hoàn hảo đến đâu vẫn khơng thể vận hành mà khơng có sự điều tiết, quản
lý của nhà nước. Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường tồn tại như tất
yếu khách quan, xuất phát từ những đòi hỏi thực tế của xã hội muốn có một cơ chế
điều tiết bổ trợ cho cơ chế thị trường, nhằm vừa tạo điều kiện cho cơ chế thị trường
phát huy những mặt mạnh của mình, vừa hạn chế hậu quả khắc nghiệt mà cơ chế đó
tạo ra trong nền kinh tế thị trường, kế hoạch có vai trị:

● Kế hoạch tồn tại với tư cách là công cụ quản lý của nhà nước trong mọi
nền kinh tế.
* Kế hoạch là công cụ chủ yếu trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung
Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế mệnh lệnh là các cơ sơ kinh tế được xây
dựng và hoàn thiện trên chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, nhà
nước chun chính vơ sản khơng những đóng vai trị điều hành chính trị mà cịn có
khả năng điều tiết và quản lý tồn diện, trực tiếp các vấn đề về kinh tế. Kế hoạch
hóa tập trung thực chất là sự khống chế trực tiếp những hoạt động kinh tế bằng cách
tập trung phân bổ nguồn lực thơng qua các quyết định mang tính mệnh lệnh phát ra
từ trung ương. Các mục tiêu cụ thể được hoạch định trước bởi các nhà kế hoạch ở
trung ương đã tạo nên cơ sở cho một kế hoạch kinh tế quốc dân toàn diện và đầy đủ,
và được chuyển xuống cho cấp dưới theo tuyến dọc. Quá trình triển khai thực hiện
kế hoạch được tiến hành trên cơ sở hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh cấp trên giao cho
cấp dưới, phương thức cấp phát-giao nộp vốn, vật tư, lao động, sản phẩm hàng hóa
và các chỉ thị mệnh lệnh mang tính hành chính. Như vậy, kế hoạch là cơng cụ chủ
yếu trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung.
* Kế hoạch là công cụ định hướng phát triển trong nền kinh tế thị trường
Đặc trưng cơ bản của các nước có nền kinh tế thị trường là tính chất đa thành
phần kinh tế, sở hữu tư nhân dưới nhiều hình thức khác nhau thống trị nền kinh tế.
Kế hoạch hóa trong nền kinh tế thị trường là kế hoạch hóa định hướng phát triển,
trong đó các mục tiêu và chỉ tiêu được xác định mang tính định hướng, dự báo, nó
chỉ thể hiện trong một số lĩnh vực chủ yếu, được ưu tiên trong từng giai đoạn phát
triển nhất định. Để thực hiện các mục tiêu đặt ra, cơ chế tác động của Chính phủ
thường mang tính gián tiếp thơng qua các chính sách định hướng và điều tiết vĩ mô.


Các công cụ kế hoạch phát triển bao gồm: Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
chương trình phát triển KTXH trực tiếp giúp Chính phủ thực hiện chức năng ổn
định vĩ mô và định hướng tương lai trong điều kiện kinh tế thị trường. Chính phủ,
thơng qua các cơng cụ hoạch định, sẽ đánh giá được tình hình kinh tế hiện tại và

mức độ, khả năng giải quyết các vấn đề KTXH tại thời điểm nhất định, xây dựng
các mục tiêu chiến lược định hướng sự phát triển KTXH của từng vùng, từng ngành
trong tương lai, liên kết mục tiêu đặt ra với cơ cấu nguồn lực, thực hiện các ưu tiên
đầu tư cần thiết để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu, liên kết các ngành, các vùng
kinh tế thành một thể thống nhất theo các chương trình phát triển KTXH của quốc
gia và các cấp khác, gắn các chính sách vào cơ chế giải quyết các nhiệm vụ chiến
lược đặt ra, cung cấp các thơng tin và tình hình thị trường trong và ngồi nước cho
các nhà kinh doanh.
Như vậy, kế hoạch là công cụ định hướng phát triển trong nền kinh tế thị trường.
● Kế hoạch là một trong hai công cụ điều tiết trong nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh thị trường luôn tồn tại hai công cụ điều tiết là thị trường và kế
hoạch. Điều tiết nền kinh tế thị trường bảo đảm cho sản xuất đạt hiệu quả tài chính
cao, là cơ sở lựa chọn và phân bổ nguồn lực tối ưu cho các hoạt động sản xuất và
tiêu dùng. Tuy nhiên, nó cũng cịn có nhiều khuyết tật, hạn chế. Kế hoạch phát triển
là một công cụ tổ chức can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế thị trường. Nó giúp
cho sự can thiệp của nhà nước chắc chắn khắc phục được thất bại của thị trường,
hướng hoạt động thị trường vào những mục tiêu mà xã hội cần có và bảo đảm sự
vận hành của thị trường luôn tương xứng với hiệu quả xã hội.
1.1.2 Sự khác biệt giữa kế hoạch trong nền kinh tế thị trường và nền kinh
tế tập trung
1.1.2.1 Sự khác biệt về mặt bản chất
Trong cơ chế KHH tập trung, KH thể hiện ở sự khống chế trực tiếp của Nhà
nước đối với những hoạt động kinh tế-xã hội thơng qua q trình đưa ra những
quyết định pháp lệnh phát ra từ Trung ương. Các chỉ tiêu KH được xác định bởi các
nhà KH Trung ương, tạo nên một KH kinh tế quốc dân toàn diện và đầy đủ. Nguồn
nhân lực, vật tư chủ yếu và tài chính khơng phải được phân phối theo giá thị trường
và cung cầu mà phân phối theo các nhu cầu của KH tổng thể, theo những quyết định
hành chính của các cấp, lãnh đạo. Như vậy, đặc trưng của KH trong cơ chế KHH
tập trung là mang tính chất cưỡng chế trực tiếp.
Trong nền kinh tế thị trường, KH là thể hiện sự nỗ lực có ý thức của Chính



phủ trong quá trình thực hiện sự can thiệp ở tầm vĩ mô của nền kinh tế quốc dân,
trên cơ sở chủ động thiết lập mối quan hệ giữa khả năng và mục đích nhằm đạt
được mục tiêu sử dụng có hiệu quả nhất những tiềm năng hiện có. KH trong nền
kinh tế thị trường được thể hiện ở các phương án lựa chọn, sắp xếp, khai thác, huy
động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực cho phép để đạt được kết quả cao nhất. Các
chỉ tiêu đặt ra trong KH là những định hướng phát triển một số lĩnh vực chủ yếu và
cách thức tác động của Chính phủ mang tính gián tiếp thơng qua các chính sách và
cơng cụ của chính sách điều tiết vĩ mơ. Như vậy, bản chất của KHH phát triển trong
nền kinh tế thị trường là tính thuyết phục gián tiếp.
Từ sự phân tích trên ta có thể tóm tắt sự khác nhau về bản chất của kế hoạch
trong cơ chế KHH tập trung và trong nền kinh tế thị trường. (Phụ lục 1- So sánh
bản chất của KH trong cơ chế KHH tập trung và trong nền kinh tế thị trường)
1.1.2.2 Hệ thống chỉ tiêu
Hệ thống chỉ tiêu trong KHPT là thước đo nhiệm vụ và nội dung phát triển
KTXH của đất nước trong thời kỳ KH và được sử dụng để thực hiện hành vi điều
tiết vĩ mô của nhà nước. Do có sự khác nhau về bản chất của kế hoạch trong cơ chế
KHH tập trung và trong nền kinh tế thị trường nên hệ thống chỉ tiêu kế hoạch trong
hai cơ chế cũng có sự khác nhau cả về hình thức và bản chất.
● Hệ thống chỉ tiêu KH trong cơ chế KHH tập trung có đặc điểm:
- Hệ thống chỉ tiêu mang tính pháp lệnh. Trong cơ chế KHH tập trung, vấn đề
quan trọng nhất là hình thành hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh.
- Trong hệ thống chỉ tiêu thì chủ yếu là các chỉ tiêu kinh tế, không chú ý nhiều
đến các chỉ tiêu xã hội–môi trường.
- Sử dụng các chỉ tiêu hiện vật.
● Hệ thống chỉ tiêu KH trong cơ chế thị trường có đặc điểm:
- Hệ thống chỉ tiêu mang tính định hướng, dự báo.
- Trong hệ thống chỉ tiêu bao gồm sử dụng các chỉ tiêu kinh tế, xã hội, môi
trường, các chỉ tiêu lồng ghép.

- Sử dụng các chỉ tiêu giá trị.
1.1.2.3. Phương pháp lập KH
Theo phương pháp lập kế hoạch truyền thống trước đây, việc lập kế hoạch
chủ yếu bắt đầu từ việc xác định những nguồn lực sẵn có của địa phương. Đây là
yếu tố quan trọng quyết định đến việc đề ra mục tiêu cần thực hiện trong thời kỳ kế


hoạch. Phương pháp lập kế hoạch này là phương pháp lập kế hoạch dựa trên những
gì mình có. Nó có một số đặc điểm sau:
- Việc lập kế hoạch chủ yếu là xuất phát từ các căn cứ đầu vào để xác định các
mục tiêu trong thời kỳ kế hoạch dẫn đến các bản kế hoạch sẽ không tạo ra được tính
đột phá khi thực hiện trong thực tế và bị rằng buộc bởi những gì sẵn có.
- Với cách lập kế hoạch như thế này cũng dẫn đến một tình trạng đó là sẽ có ít
phương án kế hoạch địa phương có thể lựa chọn nhằm tìm kiếm được khả năng phát
triển tối ưu nhất.
Từ những đặc điểm trên của phương pháp lập kế hoạch theo kiểu cũ thì dẫn
đến một tình trạng chung đó là cơng tác lập kế hoạch bị rơi vào tình trạng bị động.
Cho nên, cùng trong q trình hồn thiện thì cơng tác lập kế hoạch cũng đang được
hoàn thiện theo hướng lập kế hoạch từ mục tiêu mong muốn. Nó được thể hiện cụ
thể qua những đặc điểm sau:
- Việc lập kế hoạch được tiến hành theo hướng sẽ xác định các mục tiêu mong
muốn thực hiện kỳ kế hoạch trước rồi mới căn cứ vào những mục tiêu này để có
những chính sách huy động, khai thác các nguồn lực đầu vào. Đây là phương pháp
đi từ mục tiêu để cân đối đầu vào nên khi lập kế hoạch sẽ không bị phụ thuộc hồn
tồn vào những nguồn lực sẵn có mà tìm cách huy động, khai thác thêm các nguồn
lực khác.
- Với cách lập kế hoạch theo kiểu mới này sẽ tạo ra tính tích cực. giúp địa
phương khơng những có thể thực hiện được nhũng mục tiêu mong muốn mà cịn có
thể tận dụng một cách tối đa mọi khả năng để phát triển.
● Phương pháp lập kế hoạch dựa vào kết quả (mục tiêu mong muốn)

Kế hoạch hóa dựa trên kết quả là phương pháp kế hoạch tiên tiến, hiện đại, có
những ưu điểm chủ yếu:
- Khi sử dụng phương pháp kế hoạch dựa vào kết quả thì buộc các nhà lập kế
hoạch phải nghĩ tới các giải pháp nhằm đạt được kết quả đã định và bản kế hoạch sẽ
mạng tính hành động chứ khơng chỉ đơn thuần là vạch ra kế hoạch hoạt động hay kế
hoạch công tác.
- Nâng cao trách nhiệm của các đối tượng tham gia thực hiện kế hoạch hoạt
động trong việc tổ chức các hoạt động bằng cách so sánh kết quả đạt được với kết
quả dự kiến thông qua giám sát, đánh giá, báo cáo, và điều chỉnh thường xuyên hoạt
động nhằm đạt được các mục tiêu và chỉ tiêu kế hoạch.


- Tạo ra sự thống nhất trong hệ thống kế hoạch thông qua kết quả thực hiện
mục tiêu, chỉ tiêu kế hoạch, đồng thời định hướng các hoạt động từ khâu xây dựng
kế hoạch đến tổ chức thực hiện và theo dõi đánh giá.
- Bảo đảm tính hiệu quả của kế hoạch thông qua việc kiểm tra, giám sát, đánh
giá kết quả đạt được so với kết quả dự kiến.
- Bảo đảm chính xác, trung thực và chặt chẽ giữa lập kế hoạch và thực hiện kế
hoạch thông qua các kết quả với chỉ số kiểm định đúng đắn. Phương pháp kế hoạch
hóa dựa trên kết quả cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm tra, giám sát và
đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch.
- Gắn kết được giữa kế hoạch với ngân sách. Kế hoạch trở thành các khung
phân bổ chi phí ngân sách theo mục tiêu đã chọn, tránh thất thốt và hoang phí.
Sự khác biệt chủ yếu giữa xây dựng kế hoạch truyền thống và xây dựng kế
hoạch dựa vào kết quả:Quy trình lập kế hoạch truyền thống chủ yếu dựa vào đầu
vào và đầu ra mà chưa tính đến kết quả tác động của nó.Phương pháp xây dựng kế
hoạch truyền thống chủ yếu dựa vào đầu vào và đầu ra trong khi phương lập kế
hoạch dựa vào kết quả chú trọng tới các kết cục của các mục tiêu, chỉ tiêu để xây
dựng các phương án, giải pháp và hành động nhằm đạt được mục tiêu đề ra. ( Phụ
lục 2, Sơ đồ sự khác nhau giữa lập kế hoạch truyền thống và lập kế hoạch dựa vào

kết quả)
Qua những phân tích, so sánh trên ta có thể thấy rõ sự khác nhau cơ bản giữa
hai phương pháp lập kế hoạch truyền thống và dựa vào kết quả. Trong đó, điểm
khác biệt lớn nhất là một bên dựa vào nguồn lực sẵn có rồi mới xác định mục tiêu
cần thực hiện cho thời kỳ kế hoạch dựa trên nguồn lực đó, cịn một bên thì xác định
mục tiêu mong muốn thực hiện trước rồi mới tìm cách huy động, khai thác tổng thể
các nguồn lực nhằm thực hiện thành cơng mục tiêu đó.
1.1.2.4 Trình tự xây dựng KH
Do có sự khác biệt về bản chất, nội dung và tính chất của KH trong cơ chế
KHH tập trung và KH trong nền kinh tế thị trường nên trình tự xây dựng KH của
hai phương thức cũng có những sự khác biệt
Trong cơ chế KHH tập trung, KH được xây dựng mang nặng tính bao cấp,
phân bổ nguồn lực cho nền kinh tế chỉ chú trọng hai thành phần sở hữu quốc doanh
và tập thể, mang tính dàn đều, khơng khuyến khích sự phát triển của các thành phần
kinh tế khác. KH được xây dựng từ trên xuống theo quy trình sau:
- Trung ương giao số kiểm tra xuống cho các bộ , ngành, địa phương


- Các đơn vị và địa phương giử nhu cầu lên cho cơ quan trung ương.
- Trung ương căn cứ nguồn lực hiện có xem xét, cân đối, phân bổ chi tiết và cụ
thể từng sản phẩm, từng mặt hằng đến từng đơn vị.
Quá trình xây dựng như vậy thường bị chi phối bởi cả những mong muốn chủ
quan của các cấp lãnh đạo và những người xây dựng KH. Trong nhiều trường hợp,
KH thiếu tính khách quan và mang tính áp đặt, khơng dựa theo nhu cầu cụ thể từng
ngành, từng địa phương.
Trong cơ chế kinh tế thị trường hiện nay: được đổi mới dựa trên nền tảng KH
phải xây dựng phải phù hợp với điều kiện của từng địa phương hoặc từng ngành.
KH được xây dựng dựa trên cơ sở tình hình thực tế và khả năng thực hiện, mang
tính định hướng, khơng áp đặt. KH phải huy động được nhiều nguồn lực của nhiều
thành phần để thực hiện các mục tiêu đặt ra, điều tiết, khắc phục các khiếm khuyết

của thị trường. Do vậy, quy trình KH phải được xây dựng ngày càng mở, có sự
tham gia của nhiều ngành, nhiều cấp và các thành phần kinh tế. (Phụ lục 4, Bảng so
sánh sự khác biệt về quy trình lập kế hoạch trong cơ chế KHH tập trung và cơ chế
kinh tế thị trường)
1.1.3 Các cấp độ lập kế hoạch ở Việt Nam
Bộ máy quản lý kế hoạch của Việt Nam được phân chia thành 3 nhóm: cơ quan
kế hoạch trung ương, các bộ phận lập kế hoạch của các bộ ngành và cơ quan chức
năng, các đơn vị lập kế hoạch của địa phương.
● Cơ quan kế hoạch hóa quốc gia (Bộ KHĐT)
Bộ KH ĐT là cơ quan tham mưu cho Thủ tướng chính phủ và đảm nhận các
chức năng sau đây:
- Là cơ quan tổng hợp về chiến lược, quy hoạch, kế hoạch 5 năm, kế hoạch
hàng năm phát triển kinh tế xã hội chung của cả nước.
- Tham mưu tổng hợp về cơ chế, chính sách và luật pháp có liên quan đến
quản lý kinh tế chung và một số lĩnh vực cụ thể như: đầu tư trong và ngoài nước,
đấu thầu, tổ chức đăng ký kinh doanh, quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc
phạm vi quản lý của Bộ.
- Là đầu mối thu hút và phân bổ chi tiết nguồn vốn đầu tư trong và ngoài
nước, xét duyệt các dự án đầu tư đối với các dự án quốc gia.
- Chịu trách nhiệm thống nhất các nội dung mang tính chất nghiệp vụ thuộc
ngành kế hoạch, đầu tư cho toàn bộ hệ thống kế hoạch hóa của cả nước.
● Cơ quan kế hoạch ngành (Bộ quản lý ngành)


Các bộ, ngành trung ương với chức năng quản lý nhà nước có nhiệm vụ xây
dựng quy hoạch và kế hoạch phát triển toàn ngành, tổng hợp xử lý và tối ưu hóa các
phương án kế hoạch từ các tổng công ty, các công ty, các cơ sở sản xuất kinh
doanh. Mối quan hệ giữa bộ Kế hoạch-Đầu tư với các bộ ngành trung ương là mối
quan hệ hai chiều, cung cấp thông tin, xử lý liên ngành và tổng hợp các phương án
tối ưu trong tổng thể phát triển nền kinh tế.

● Cơ quan kế hoạch các cấp địa phương
Sở Kế hoạch-Đầu tư có chức năng tham mưu cho UBND tỉnh, thành phố về
định hướng phát triển kinh tế xã hội của địa phương và là tổ chức ngành dọc của Bộ
KH-ĐT. Chức năng của Sở Kế hoạch-Đầu tư cũng giống như Bộ KH-ĐT nhưng
quy mô và phạm vi thực hiện trên địa bàn tỉnh. Sở KH-ĐT chịu sựu quản lý hành
chính, nhà nước UBND tỉnh và chịu sự quản lý theo ngành dọc và Bộ KH-ĐT. Bên
cạch sở KH-ĐT, các sở, các ban ngành chuyên môn ở tỉnh như Sở Nông nghiệp và
phát triển nông thôn, Sở Khoa học cơng nghệ…với chức năng của mình cũng sẽ
nghiên cứu quy hoạch và kế hoạch phát triển của ngành mình ở trên địa phương.
Trên cơ sở đó, Sở KH-ĐT sẽ tổng hợp theo tuyến dọc và ngang để có bản kế hoạch
phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Tương tự như cấp tỉnh, các cấp kế hoạch cấp dưới cũng được hình thành và tổ
chức với quy mơ nhỏ hơn. Tùy thuộc vào quy mô các địa phương huyện, xã, các cơ
quan chuyên trách xây dựng và quản lý kế hoạch sẽ được hình thành (xem sơ đồ 1
trang 12).
1.1.4 Quy trình lập kế hoạch
Cơng tác lập KH cấp huyện ở hầu hết các địa phương đều được tiến hành theo
quy trình “2 xuống- 1 lên”, cụ thể là 2 lần từ trên xuống ( lần 1: hướng dẫn KH, lần
2: giao chỉ tiêu KH) và 1 lần từ dưới lên( lập KH từ dưới lên sau khi được hướng
dẫn). Theo quy trình này, cấp KH trên sẽ gửi hướng dẫn lập xuống cho cấp dưới,
trên cơ sở đó, cấp dưới xây dựng KH của mình và gửi lên trên. Sau khi tổng hợp và
phê duyệt, cấp trên sẽ giao chỉ tiêu kế hoạch xuống cấp dưới thực hiện. Đây là quy
trình lập KH mang tính chất của thời kỳ bao cấp, nặng về việc áp đặt mục tiêu
nhiệm vụ từ trên xuống. Mặc dù trong thời gian gần đây, số chỉ tiêu pháp lệnh do
cấp trên giao được chuyển gần hết sang chỉ tiêu hướng dẫn, nhưng quy trình này
vẫn mang nặng hình thức thiếu đi tính thực tiễn.


Sơ đồ 1: Sơ đồ tổ chức bộ máy KHH ở Việt Nam
Quốc hội

Kế
hoạch
cấp
Trung
Ương

Chính Phủ

Bộ KH&ĐT

Tỉnh, Thành phố
Kế
hoạch
các cấp
địa
phương

Bộ quản lý ngành

Quận, huyện

Kế
hoạch
ngành

Các đơn vị kinh tế

Phường, xã

Nguồn: PGS.TS Ngô Thắng Lợi - Giáo trình Kế hoạch hóa phát triển

(Trang 75) – Nhà xuất bản Đại học kinh tế quốc dân
1.2. Sự cần thiết phải hồn thiện cơng tác lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội ở huyện Yên Châu – Sơn La
1.2.1 Vai trò của kế hoạch cấp huyện
Là một bộ phận trong hệ thống KH quốc gia, nên vai trò của KH phát triển
KTXH huyện được thể hiện:
- Điều tiết phối hợp ổn định kinh tế huyện. KH cấp huyện có chức năng
điều tiết sự phát triển của kinh tế-xã hội và tạo lập môi trường ổn định. Trong từng
thời kỳ với các mục tiêu đặt ra, KH phát triển KTXH phải xây dựng được các giải
pháp, chính sách để thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội của địa phương, phát huy
được thế mạnh của mình, đồng thời phải đảm bảo sự phát triển ổn định giữa các mặt


kinh tế, xã hội và môi trường.
KH huyện hoạch định KH chung tổng thể của huyện với việc đưa ra những
chính sách hợp lý dựa trên cơ sở sử dụng tổng hợp những nguồn lực địa phương
nhằm phát hiệu quả tổng thể KT-XH, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển cơ sở hạ
tầng kinh tế kỹ thuật, xã hội và bảo vệ mơi trường.
KH phát triển KTXH có vai trò điều chỉnh, điều tiết sự phát triển giữa các
vùng, các tầng lớp dân cư, các thành phần kinh tế nhằm phát huy lợi thế của các
vùng, các thành phần kinh tế, đồng thời điều chỉnh để giảm bớt sự chênh lệch giữa
các vùng, các tầng lớp dân cư tạo điều kiện phát triển kinh tế-xã hội lành mạnh của
địa phương.
- Định hướng PTKT-XH của huyện. KH cấp huyện đưa ra một hệ thống
mục tiêu phát triển vĩ mô về kinh tế-xã hội trên địa bàn huyện, xây dựng các dự án,
các chương trình, tìm các giải pháp và các phương án thực hiện, dự báo khả năng,
phương hướng phát triển, xác định các cân đối lớn… nhằm thực hiện chức năng dẫn
dắt, định hướng phát triển, xử lý kịp thời các mất cân đối xuất hiện trong nền kinh
tế thị trường, đồng thời tạo đòn bẩy cần thiết, khuyến khích và hỗ trợ các thành
phần kinh tế cùng thực hiện vì mục tiêu chung của địa phương.
- Kiểm tra, giám sát hoạt động KT-XH của huyện. KH cấp huyện thường

xuyên theo dõi, kiểm tra tình hình thực hiện tiến độ kế hoạch và tuân thủ các cơ chế,
thể chế, chính sách hiện hành áp dụng trong thời kỳ kế hoạch.Đánh giá kết quả của
việc thực hiện các chính sách, mục tiêu đặt ra. Phân tích hiệu quả tài chính. hiệu quả
kinh tế-xã hội bảo đảm các luận cứ quan trọng cho việc xây dựng các kế hoạch của
thời kỳ tiếp theo.
Tóm lại, xuất phát từ chức năng là một trong những công cụ quản lý quan
trọng của các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương và vai trò của kế
hoạch đã được khẳng định như trên nên kế hoạch trở thành điều kiện tiền đề để
tăng cường hiệu quả quản lý của nhà nước và thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của
địa phương.
1.2.2 Các bộ phận cấu thành hệ thống kế hoạch cấp huyện
Hệ thống cấp huyện cũng là một cấp độ kế hoạch trong hệ thống kế hoạch của
quốc gia nên hệ thống kế hoạch cấp huyện bao gồm các bộ phân sau:
- Chiến lược phát triển KT-XH của huyện: Là hệ thống các phân tích, đánh
giá và chọn lựa quan điểm, mục tiêu tổng quát định hướng phát triển các lĩnh vực
chủ yếu của đời sống xã hội và các giải pháp cơ bản về phát triển KTXH của huyện


trong thời gian dài.
- Quy hoạch phát triển KT-XH của huyện: Thể hiện tầm nhìn, sự bố trí chiến
lược về thời gian, không gian lãnh thổ, xây dưngj khung vĩ mô về tổ chức không
gian để chủ động hướng tới mục tiêu, đạt hiệu quả cao, phát triển bền vững.
- KH 5 năm phát triển KT-XH của huyện: Là sự cụ thể hóa các chiến lược và
quy hoạch phát triển trong lộ trình phát triển dài hạn của huyện. Nó xác định các
mục tiêu, chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, nâng cao phúc lợi xã hội trong thời kỳ 5 năm
và xác định các cân đối, các chính sách phân bổ nguồn lực, vốn cho các chương
trình phát triển của khu vực kinh tế nhà nước và khuyến khích sự phát triển của khu
vực kinh tế tư nhân.
- KH năm phát triển KT-XH của huyện: Là bước cụ thể hóa KH 5 năm, là
công cụ điều hành các hoạt động mang tính tác nghiệp thường niên của nền kinh tế

nhằm thực hiện mục tiêu của KH 5 năm. Nếu như KH 5 năm là cơng cụ chính sách
định hướng thì KH hàng năm là cơng cụ thực hiện.
- Chương trình và dự án phát triển KT-XH của huyện: Là công cụ triển khai
tổ chức thực hiện chiến lược và KH 5 năm của huyện, nó đưa ra các mục tiêu và tổ
chức bảo đảm nguồn lực để thực hiện mục tiêu đối với các vấn đề mang tính bức
xức, nổi cộm và đột phá của nền kinh tế trong thời kỳ KH.
1.2.3 Hạn chế của lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp huyện
Hiện nay nước ta đang trong thời kỳ quá độ từ nền kinh tế tập trung bao cấp
sang một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, song song với quá
trình này q trình hồn thiện những cơng cụ quản lý Nhà nước từ cơ chế cũ sang
cơ chế mới. Kế hoạch phát triển KTXH là một trong những công cụ quản lý Nhà
nước đã có những hồn thiện mạnh mẽ trong thời kỳ quá độ này. Tuy nhiên, trong
nội dung của KH phát triển quốc gia nói chung và KH phát triển KTXH cấp huyện
nói riêng vẫn cịn mang nặng nhiều tính chất kế hoạch trong cơ chế kế hoạch hóa
tập trung trước đây. Điều đó cho thấy cơng tác lập KH phát triển KTXH ở cấp
huyện vẫn còn những hạn chế:
Thứ nhất, nhận thức về việc lập kế hoạch cũng như vai trị, vị trí của kế
hoạch cấp huyện cịn chưa đúng đắn. Trên thực tế hiện nay, thì nhận thức về công
tác lập kế hoạch phát triển KTXH ở cấp huyện chỉ thay đổi về mặt hình thức so với
công tác kế hoạch trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, cịn về nội dung thì vẫn duy
trì ở phương thức lập kế hoạch trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước đây.Xét
một cách tồn diện thì vai trị và vị trí của kế hoạch cấp huyện chưa được đặt đúng


chỗ, nhận thức về kế hoạch chưa đúng hay đúng mà chưa đủ nên chính quyền cấp
huyện vẫn chưa thực sự sử dụng công cụ kế hoạch, chưa thực sự coi đây là một
công cụ quan trọng giúp cho viêc điều hành quản lý của chính quyền cấp huyện trở
nên hiệu quả.
Thứ hai, việc lập kế hoạch chưa thực sự làm cho kế hoạch gắn với thị trường.
Các căn cứ cho việc lập kế hoạch chưa xuất phát từ cơ sở đánh giá đúng thực trạng

phát triển KTXH của địa phương, các định hướng phát triển chưa dựa trên sự nắm
bắt quy luật, nắm bắt nhu cầu một cách khách quan. Các căn cứ chủ yếu cho việc
lập kế hoạch ở huyện hiện nay chủ yếu xuất phát từ yêu cầu kế hoạch của cấp trên.
Thứ ba, công tác lập kế hoạch cấp huyện hiện nay vẫn cịn mang tính chất mệnh
lệnh. Đây là một trong những tồn tại lớn nhất mà nền kinh tế tập trung bao cấp để lại.
Trong đó, các mục tiêu, chỉ tiêu chính mang tính áp đặt và chịu sự chi phối của nhóm
cán bộ lập kế hoạch và sự chỉ đạo của cá nhân những người lãnh đạo mà thiếu đi sự
tham vấn của cộng đồng. Bệnh sính thành tích cũng là nguyên nhân làm cho những
mục tiêu mang tính chủ quan, thiếu tính khả thi. Cũng như cơ sở chính cho việc lập kế
hoạch ở huyện dựa vào nguồn ngân sách được cấp cho. Dẫn đến việc đưa ra các giải
pháp chính sách thực hiện chưa gắn liền với thực tiễn đang diễn ra.
Thứ tư, việc lập KH làm cho KH thiếu đi tính linh hoạt, chưa bám sát vào
những diễn biến ln thay đổi của thị trường nên thiếu đi sự điều chỉnh kịp thời. Như
chúng ta đã biết, trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, các yếu tố tác động tới
sự phát triển KTXH luôn luôn biến động, do đó, trong q trình lập kế hoạch phải xây
dựng được nhiều phương án kế hoạch gắn với mỗi biến số khác nhau về các điều kiện
hiện tại cũng như tương lai. Tuy nhiên, đối với việc xây dựng kế hoạch ở cấp huyện cơ
bản vẫn theo phương pháp truyền thống cố định 5 năm, hoặc kế hoạch hàng năm thì
năm trước khơng khác gì nhiều việc lập kế hoạch năm sau. Việc lập kế hoạch đó làm
cho kế hoạch thiếu tính cập nhật sự thay đổi cơ chế thị trường, các chỉ tiêu xây dựng sẽ
trở nên bị lạc hậu thiếu chính xác…hạn chế việc nắm bắt cơ hội do cơ chế thị trường
tạo ra cũng như hạn chế bớt hậu quả mà cơ chế thị trường để lại.
Thứ năm, công tác dự báo phục vụ cho công tác lập KH phát triển KTXH
cịn nhiều hạn chế. Các thơng tin về KTXH trong quá trình xây dựng và tổng hợp
KH chưa mang tính thống nhất, chưa bao quát được các lĩnh vực, nhatas là các lĩnh
vực xã hội chưa có độ tin cậy cao. Hệ thống thơng tin dự báo cịn có nhiều hạn chế,
thiếu các dự báo có tính khoa học và thực tiễn. Vì vây, KH chưa phản ánh kịp thời
những thay đổi và diễn biến của tình hình kinh tế địa phương.



Thứ sáu , việc lập KH ở cấp huyện là khơng làm cho KH ở địa phương có
được được một cái nhìn dài hạn, mang tính chất đón bắt, vì lợi ích chung, tồn cục
của huyện. Quy trình KHH là đi từ chiến lược đến quy hoạch, KH trung hạn, KH
ngắn hạn.Song hầu hết các địa phương đều không chú ý xác định xây dựng chiến
lược phát triển dài hạn, kế hoạch lâu dài cho địa phương, nên không xác định hướng
đi trong vịng 20, 30 năm tới. Do đó, vấn đề xác định các chính sách trong các bản
kế hoạch phát triển thường nhằm vào giải quyết các vấn đề trước mắt, cục bộ mà
chưa tính đến vấn đề phát triển dài hạn, tổng thể.
Tóm lại, trong thời kỳ chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch tập trung bao cấp sang
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì những hạn chế trong việc
lập kế hoạch phát triển KTXH là một tất yếu khách quan. Đây là tình trạng chung
phổ biến trong cả nước nói chung và của huyện n Châu nói riêng. Bởi vì do sự
thay đổi trong công tác lập kế hoạch chưa thực sự diễn ra đồng bộ, toàn diện,
thống nhất về phương pháp, nội dung, quy trình. Chính vì những hạn chế này đã
làm cho kế hoạch của huyện đã không đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế hiện
nay, làm cho vai trò của kế hoạch bị mờ nhạt. Để tiếp tục giữ vững và tăng cường
hơn nữa vai trò của kế hoạch trong điều kiện hiên nay chúng ta cần phải hồn thiện
cơng tác lập KH phát triển KTXH của huyện Yên Châu – Sơn La.
1.2.4 Các yêu cầu của lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp huyện
Lập KH là một trong những công cụ quản lý quan trọng của các cấp chính
quyền từ trung ương tới địa phương. Lập KH tốt là điều kiện tiền đề để tăng cường
hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế địa phương. Vai trị của
cơng tác lập kế hoạch đã và đang tiếp tục được khẳng định. Tuy nhiên, khi nền kinh
tế chuyển từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường thì cơng tác lập kế
hoạch của huyện cũng cần có những u cầu mới đặt ra nhằm hồn thiện hơn nữa
vai trị mình.
Thứ nhất, cần thay đổi tư duy của chính quyền cấp huyện, cũng như những
bên hữu quan và cộng đồng dân cư về công tác lập KH của địa phương. Kế hoạch
hóa là một cơng cụ chủ yếu của công tác quản lý. Trong điều kiện chuyển đổi nền
kinh tế sang cơ chế thị trường hiện nay hiện nay ở nước ta thì cơng tác kế hoạch hóa

dường như bị xem nhẹ. Mặc dù, trong thời gian gần đây đã có sự chú ý đến, song
cơng tác lập kế hoạch phát triển KTXH vẫn chưa đáp ứng nhu cầu và mang nặng
tính chất trong cơ chế cũ. Như vậy. một vấn đề đặt ra là cần phải đổi mới tư duy và
nhận thức trong lập kế hoạch. Đổi mới tư duy kế hoạch thực chất là thay đổi nhận


thức về vai trò, chức năng, nhiệm vụ, cách thức tiến hành lập kế hoạch cho phù hợp
với tình hình thực tiễn phát triển KTXH của địa phương. Thay đổi tư duy kế hoạch
là tiền đề cho đổi mới nội dung, phương pháp, quy trình cũng như cách thức tổ
chức, điều hành kế hoạch. Từ đó, mới có thể nâng cao vai trò quan trọng của kế
hoạch cấp huyện, đưa nó trở thành một cơng cụ hữu ích của chính quyền đưa kinh
tế xã hội của địa phương phát triển đi lên.
Thứ hai, việc lập kế hoạch ở huyện phải đảm bảo cho kế hoạch có tầm nhìn
chiến lược dài hạn của địa phương. Hoạt động của cơ chế thị trường hiện nay có
một nhược điểm lớn đó là tính thiển cận, chú trọng quá mức vào những lợi ích ngắn
hạn, trước mắt mang tính cá nhân mà thiếu đi cái tổng thể, dài hạn mang tính xã hội.
Với tư cách là người chăm lo cho lợi ích của tồn thể nhân dân trên địa bàn thì
chính quyền huyện cần có một tầm nhìn dài hạn, tổng thể, vạch sẵn hướng đi phát
triển lâu dài của huyện.
Thứ ba, để KH trở thành một công cụ quản lý nhà nước hữu ích ở huyện thì
việc lập kế hoạch phải dựa trên các nguồn lực tại địa phương. Một trong những
nhược điểm lớn trong các KH phát triển KTXH của huyện là sự thiếu gắn kết giữa
các mục tiêu kế hoạch với tổng thể nguồn lực tại địa phương. Vì vậy, các mục tiêu
kế hoạch thiếu tính khả thi và mang nặng tính hình thức. Do đó, việc lập kế hoạch
gắn với nguồn lực là một yêu cầu cấp thiết trong công tác lập kế hoạch hiện nay.
Việc lập kế hoạch gắn với nguồn lực, trong đó khơng chỉ nguồn lực tự nhiên, vật
chất và tài chính, mà tất cả các nguồn lực khác và con người, thể chế, xã hội cần
được phát huy tối đa, sẽ tạo ra một bản kế hoạch đảm bảo các cơ chế, chính sách
vững chắc. Đặc biệt đối với nguồn lực tài chính, trong bản kế hoạch đó thể hiện rõ
những hoạt động nào sẽ được đảm bảo từ nguồn ngân sách của nhà nước, những

hoạt động nào được đảm bảo từ nguồn huy động ngoài ngân sách và làm thế nào để
có được nguồn tài chính đó. Nếu khơng có đủ nguồn tài chính cũng như cơ chế huy
động nguồn lực không vững chắc, cần xem xét lại các mục tiêu và hoạt động kế
hoạch để nâng cao tính khả thi của bản kế hoạch.
Thứ tư, lậpKH phát triển KT-XH phải đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững.
KH phát triển KTXH địa phương phải được xây dựng đảm bảo tính bền vững trong
phát triển địa phương. Đồng thời, đảm bảo sự phát triển các mặt xã hội và môi
trường. KH phát triển KTXH của huyện được xây dựng hài hòa giữa các mục tiêu
kinh tế, xã hội và môi trường. Phát triển kinh tế nhưng vẫn phải quan tâm đến các
vấn đề về xã hội như xóa đói giảm nghèo, giả quyết các vấn đề về giới và dân tộc…


và đảm bảo việc khai thác, sử dụng tài nguyên không chỉ phục vụ cho thế hệ hôm
nay, mà phải đảm bảo sự phát triển bền vững cho các thế hệ mai sau.
Thứ năm, công tác lập KH ở huyện hiện nay cần phải có sự tham gia của các
bên hữu quan và cộng đồng dân cư vào các bước của q trình lập KH. Xây dựng
kế hoạch có sự tham gia của các bên hữu quan là phương pháp đưa các đối tượng,
các bên liên quan trong công tác kế hoạch hóa, tham gia vào một hoặc nhiều cơng
đoạn trong cả quy trình xây dựng, thực hiện và giám sát kế hoạch. Việc tham gia
các bên hữu quan trong cơng tác kế hoạch hóa tạo ra sự đồng thuận cao trong xã
hội, giữa các ngành, các cấp, tạo thuận lợi cho q trình triển khai thực hiện và khi
đó bản kế hoạch được xây dựng lên mới có tính khả thi cao nhất.
Thứ sáu, trong quá trình xây dựng KH ở huyện cần phải gắn liền với việc đề
xuất các giải pháp, chính sách thực hiện, phải đảm bảo tính chủ động, sáng tạo, linh
hoạt. KH phát triển KTXH của huyện được xây dựng để thực hiện các mục tiêu phát
triển của huyện và trong nền kinh tế thị thị trường hiện nay, mọi yếu tố luôn luôn biến
động không ngừng. Do vậy, KH được xây dựng vận phải vận dụng sáng tạo những
điểm mạnh phù hợp với điều kiện của địa phương và sự biến động khôn lường, khơng
rập khn máy móc, phải ln đảm bảo tính linh hoạt với mọi điều kiện để sát thực tế
hơn, bản kế hoạch cũng trở nên khả thi hơn và đạt kết quả cao nhất.

Tóm lại, hồn thiện cơng tác lập kế hoạch ở huyện là một công việc gắn liền
với tiến trình phát triển kinh tế-xã hội. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện
nay, những yêu cầu hoàn thiện công tác lập kế hoạch ở cấp huyện là cấp thiết. Chỉ
khi nào đáp ứng được các yêu cầu đó thì KH phát triển KTXH cấp huyện mới trở
nên là một công cụ quản lý hữu hiệu đối với hoạt động quản lý Nhà nước của chính
quyền địa phương.
1.2.5 Sự cần thiết phải hồn thiện cơng tác lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội ở huyện Yên Châu – Sơn La.
Trong hệ thống KHH ở Việt Nam, kế hoạch đóng vai trị là cơng cụ quản lý, tổ
chức triền khai, theo dõi đánh giá các hoạt động kinh tế xã hội trong từng giai đoạn
nhất định. Hiện nay, trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế tập trung sang nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của nhà nước, thì yêu cầu
đặt ra đối với công cụ kế hoạch là phải có những thay đổi cần thiết đáp ứng những
địi hỏi và điều kiện mới trong quá trình chuyển đổi. Muốn đáp ứng được những
u cầu đó, địi hỏi hồn thiện và đổi mới mạnh hơn nữa công cụ quản lý, đặc biệt
là cơng cụ kế hoạch hóa. Cơng tác lập KH phát triển KTXH cấp huyện là một bộ


phận trong hệ thống kế hoạch phát triển KTXH quốc gia, hồn thiện cơng tác lập kế
hoạch được diễn ra trên tất cả mọi bộ phận của hệ thống kế hoạch phát triển, nên
hồn thiện cơng tác lập kế KH phát triển KTXH cấp huyện là một yêu cầu tất yếu.
Ở vị trí nằm trên quốc lộ 6- tuyến đường giao thông huyết mạch nối các tỉnh
Tây Bắc với Hà Nội, đồng thời là huyện nằm giữa cao nguyên Mộc Châu với cao
nguyên Sơn La, nên huyện Yên Châu giữa vai trò trọng yếu trong phát triển kinh tế
xã hội của tỉnh Sơn La, phát triển KHXH của huyện Yên Châu cũng sẽ đóng góp
một phần vào phát triển KTXH của đất nước.
Mặt khác, so với Trung ương, khả năng chủ động về sử dụng các công cụ vĩ
mô của các chính quyền địa phương là rất hạn chế và càng xuống thấp thì lại càng
hạn chế hơn. Chẳng hạn, Chính phủ có thể sử dụng các cơng cụ như chính sách tài
chính, chính sách tiền tệ, điều chỉnh tỷ giá hối đoái, thay đổi thể chế và ra lệnh đối
với các cơng ty, tập đồn kinh tế…thì các địa phương hầu như khơng có các cơng

cụ đó. Các cơng cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế của tỉnh, huyện, xã do dó mà hẹp hơn,
và ngày càng hẹp hơn đối với các huyện vẫn cịn nhiều khó khăn như huyện Yên
Châu, khi mà các hoạt động của huyện phần lớn phụ thuộc vào ngân sách cấp trên.
Do đó, huyện n Châu cần phải có những cơng cụ quản lý vĩ mơ hữu hiệu, một
trong những cơng cụ đó là kế hoạch hóa. Vì vậy hồn thiện cơng tác lập kế hoạch là
một yêu cầu tất yếu góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, nâng cao
đời sống xã hội của người dân.
Qua những phân tích về vị trí, vai trị của hệ thống KH phát triển KTXH cấp
huyện, những hạn chế trong lập KH phát triển KTXH cấp huyện nói chung, qua đó
ta thấy được những hạn chế trong lập kế hoạch phát triển KTXH huyện Yên Châu –
Sơn La, cụ thể:
- Chất lượng của các bản kế hoạch vẫn còn thấp. Nội dung của được thực hiện
theo những khuâm mẫu nhất định.
- Các bản kế hoạch thiếu tính khả thi trong thực hiện, thiếu những thơng tin dự
báo, định hướng.
- Q trình xây dựng thiếu đi tính sát thực.
- Q trình tham vấn cho bản kế hoạch còn được đảm bảo được yêu cầu.
- Hoạt động tổ chức và giám sát thực hiện yếu không đáp ứng được yêu cầu
trong xây dựng và thực hiện kế hoạch.
Từ những hạn chế của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Yên Châu, ta thấy
được việc hồn thiện cơng tác lập kế hoạch ở huyện Yên Châu là một yêu cầu tất yếu.


CHƯƠNG II
ĐÁNH GIÁ VỀ CÔNG TÁC LẬP KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI Ở HUYỆN YÊN CHÂU – SƠN LA
2.1 Tình hình phát triển kinh tế - xã hội huyện Yên Châu –Sơn La(giai
đoạn 2000-2009)
2.1.1 Điều kiện tự nhiên , tài nguyên thiên nhiên
2.1.1.1 Điều kiện tự nhiên

Yên châu là một huyện miền núi, biên giới của tỉnh Sơn la, nằm trên trục Quốc
lộ 6, cách Hà nội 256 km theo hướng tây bắc, cách thị xã Sơn la 64 km về phía
đơng, là khu vực đệm giữa 2 cao ngun Nà sản và Mộc châu, phía đơng giáp
huyện Mộc châu, phía tây giáp huyện Mai sơn, phía bắc giáp huyện Bắc n, phía
nam có 47 km đường biên giới tiếp giáp với nước CHDCND Lào.
Huyện có 5 dân tộc, trong đó cơ cấu dân tộc Thái: 53,5 %; Dân tộc Kinh 20,5
%; Dân tộc H’mông12,7 %; Dân tộc Sinh mun 12,86 % và dân tộc Khơ mú 0,44 %.
Mật độ dân số 68 người/km2, trong đó các xã vùng cao Biên giới mật độ 52
người/km2.
Huyện Yên Châu được chia thành 15 đơn vị hành chính trực thuộc gồm các xã
đó là: Chiềng Đơng, Chiềng Sàng, Chiềng Pằn, Viêng Lán, Thị Trấn Yên Châu,
Chiềng Khoi, Sặp Vạt, Chiềng Hặc, Tú Nang, Mường Lựm, Lóng Phiêng, Chiềng
Tương, Phiêng Khồi, Chiềng On và Yên Sơn.
2.1.1.2 Địa hình
Địa hình chia cắt và chia thành 2 vùng rõ rệt: Vùng lòng chảo n Châu và
vùng cao biên giới. Vùng lịng chảo có 9/15 xã (Vùng dọc quốc lộ 6) xen giữa 2 cao
nguyên Mộc châu và Nà Sản nằm ở độ cao trung bình 400 m so với mặt biển. Vùng
cao biên giới có 6/15 xã ( là các xã Đặc biệt khó khăn và vùng cao Biên giới), nằm
ở độ cao từ 900 – 1000 m so với mặt nước biển, các xã cách trung tâm huyện từ 30
-70 km và ô tô chỉ đến các xã được vào mùa khô.
Giữa 2 vùng khác nhau về điều kiện đất đai, địa hình, thời tiết khí hậu và trình
độ dân trí khác nhau nên huyện được chia ra làm 2 vùng kinh tế, là Vùng dọc Quốc
lộ 6 và Vùng cao Biên giới.
2.1.1.3 Tài nguyên thiên nhiên


● Khí hậu thời tiết
Huyện thuộc vùng khí hậu nhiệt đới chia thành 2 mùa rõ rệt: Mùa mưa từ
tháng 5- 10, mùa khô hanh từ tháng 11-4 năm sau, mùa khơ thường có rét đậm kéo
dài nhiệt độ trung bình năm 23 0c, nhiệt độ có ngày cao nhất 40,5 0c, nhiệt độ có

ngày thấp nhất 1,7 0c, biên độ chênh lệch ngày đêm khá cao. Độ ẩm trung bình 78,2
%, độ ẩm thấp nhất 38,7 %.
● Gió
Chịu ảnh hưởng của gió bắc và gió đơng bắc song khơng nhiều, gió thổi từ
tháng 10 -:- 2 năm sau. Vùng quốc lộ 6 bị ảnh hưởng của gió phơn tây nam (gió
Lào) khơ và nóng, gió thường thổi từ tháng 3 đến tháng 5.
● Đất đai
Gồm nhiều loại đất Ferlit phát triển trên các loại đá nên phụ thuộc nhiều vào
tính chất của đá mẹ, do nguồn gốc hình thành chia ra làm 3 loại chính:
+ Đất núi
+ Đất nhiệt đới ẩm
+ Đất ruộng.
Tài nguyên đất là kết quả cuả q trình phù sa suối dốc tụ, loại đất có độ dốc
dưới 25

0

chiếm khoảng 20%, đất có tầng dầy 30 cm chiếm 45% trong tổng diện

tích. Thành phần cơ giới chủ yếu là đất thịt trung bình.
Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện là 84.367 ha.
Bảng1: Cơ cấu sử dụng đất huyện Yên Châu-Sơn La
1
2
3
4
5
6

Đất đang sản xuất Nông nghiệp:

Đất đang sản xuất Lâm nghiệp:
Đất dân cư nông thôn:
Đất đô thị:
Đất chuyên dùng:
Đất chưa sử dụng:

16.989,2 ha
28.709,2 ha
399,62 ha
45,45 ha
1.695,8 ha
36.528,4 ha

chiếm
chiếm
chiếm
chiếm
chiếm
chiếm

20,13 %
34,00 %
0,47 %
0,053 %
2,0 %
43,27 %

● Tài nguyên nước
* Vùng quốc lộ 6: Có 2 hệ thống suối chính: Hệ thống suối Sặp và hệ thống
suối Vạt. Hệ thống suối Sặp bắt nguồn từ Mộc Châu và các nhánh khác nhập về:

Huổi Tô Buông, Huổi Nà Ngà, Suối Phà. . . và hợp với suối Vạt ở khu Sặp Vạt. Trữ
lượng nước nhiều nhưng giá trị sử dựng của suối này còn thấp, chưa được khai thác


×