Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân Hàng Sacombank chi nhánh Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (657.58 KB, 75 trang )

Báo cáo thực tập Học Viện Tài Chính
LỜI NÓI ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài:
Trong bối cảnh nền kinh tế - tài chính của thế giới có nhiều biến động, nhưng
Đảng và Nhà nước ta luôn kiên trì với mục tiêu trở thành nước công nghiệp hiện đại
vào năm 2020, kiên trì với con đường đổi mới, mở cửa hội nhập và tăng cường tiềm
lực kinh tế của đất nước.
Để thực hiện được mục tiêu này thì vốn là một trong những yếu tố rất quan
trọng, vốn là tiền đề cho sự tăng trưởng kinh tế, mức tăng trưởng kinh tế phụ thuộc
vào quy mô và hiệu quả vốn đầu tư. Do vậy để đáp ứng nhu cầu phát triển và cạnh
tranh các doanh nghiệp Việt Nam cũng đòi hỏi phải được mở rộng, phát triển với quy
mô ngày càng lớn, đổi mới dây truyền công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch
vụ, vươn lên cạnh tranh với hàng hoá, dịch vụ của các nước khác trong khu vực và
trên thế giới. Bởi vậy nhu cầu vốn đầu tư cho nền kinh tế ngày càng tăng. Một địa chỉ
quen thuộc và tiện ích nhất mà người cần vốn nghĩ đến đó là các Ngân hàng thương
mại.
Cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế, nhu cầu về vốn ngày càng tăng và
đòi hỏi phải được đáp ứng nhanh chóng kịp thời. Do vậy, trong thời gian tới để phát
huy hơn nữa vai trò của mình và đáp ứng cho sự phát triển của nền kinh tế cũng như
cho chính bản thân hệ thống ngân hàng, việc huy động vốn cho kinh doanh trong
tương lai chắc chắn sẽ được đặt lên hàng đầu đối với các ngân hàng thương mại và
với Ngân hàng TMCP Sacombank chi nhánh Thanh Hóa cũng không là ngoại lệ. Vấn
đề tìm ra những giải pháp để hoàn thiện công tác huy động vốn là rất thiết thực và cấp
bách.
2. Mục đích và ý nghĩa nghiên cứu của chuyên đề:
Xuất phát từ lý luận về huy động vốn của NHTM, chuyên đề sẽ phân tích, đánh
giá thực trạng nguồn vốn, hoạt động huy động vốn từ bên ngoài của NHTM CP
SVTT: Ngô Văn Huy 1
Báo cáo thực tập Học Viện Tài Chính
Sacombank chi nhánh Thanh Hóa và dựa trên thực trạng đó để nâng cao kết quả huy
đông vốn của NH TMCP Sacombank chi nhánh Thanh Hóa.


3. Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu của chuyên đề:
Đề tài nghiên cứu tập trung vào các vấn đề cơ bản về công tác huy động vốn từ
bên ngoài của NHTM. Phân tích, đi sâu nghiên cứu hoạt động huy động vốn của
NHTM CP Sacombank chi nhánh Thanh Hóa trên các khía cạnh: các loại hình, quy
mô, cơ cấu, chi phí vốn và sự phù hợp với sử dụng vốn trên cơ sở các số liệu của ngân
hàng từ năm 2011 đến hết tháng 6 năm 2013.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Với những kiến thức đã học ở trường cùng với những kinh nghiệm thực tiễn thu
được trong thời gian thực tập tại Ngân hàng Sacombank Chi nhánh Thanh Hóa, em
xin mạnh dạn đi vào nghiên cứu và tìm hiểu vấn đề này qua đề tài “Nâng cao hiệu
quả huy động vốn tại Ngân Hàng Sacombank chi nhánh Thanh Hóa”
5. Kết cấu của chuyên đề:
Ngoài phần mở đầu và kết luận chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về nguồn vốn của Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực Trạng hiệu quả huy đông vốn tại Ngân hàng TMCP
Sacombank chi nhánh Thanh Hóa.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả huy động vốn tại
Ngân hàng TMCP Sacombank chi nhánh Thanh Hóa.
SVTT: Ngô Văn Huy 2
Báo cáo thực tập Học Viện Tài Chính
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.1.1. Ngân hàng thương mại và các hoạt động chủ yếu
1.1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại
“Ngân hàng thương mại (NHTM) là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh
vực tiền tệ, tín dụng, với hoạt động thường xuyên là nhận tiền gửi, cho vay và cung
cấp các dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế quốc dân.”
Cùng với sự phát triển kinh tế và khoa học công nghệ, hoạt động ngân hàng đã

có những bước tiến mạnh mẽ. Trước hết là sự đa dạng về các hình thức và hoạt động
ngân hàng. Bên cạnh các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước là số lượng lớn các ngân
hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh và ngân hàng nước ngoài. Nhiều nghiệp vụ ngân
hàng hiện đại đang ngày càng phát triển bên cạnh các nghiệp vụ ngân hàng truyền
thống. Nhiều ngân hàng mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng, cho vay đầu tư bất
động sản, cho vay kinh doanh chứng khoán, cho thuê tài chính. Các hình thức huy
động cũng ngày càng phong phú, đa dạng; Các loại hình tiền gửi khác nhau được đưa
ra nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng. Ngày nay, việc ứng dụng công nghệ
ngân hàng hiện đại đã và đang góp phần làm thay đổi căn bản các hoạt động của ngân
hàng thương mại. Thanh toán điện tử chiếm ưu thế và thay đổi dần thanh toán thủ
công, đẩy nhanh tốc độ, tính thuận tiện và an toàn trong thanh toán. Dịch vụ thanh
toán không dùng tiền mặt và dịch vụ ngân hàng trực tuyến đang tạo ra các tiện ích
ngày càng lớn cho xã hội.
Đặc trưng của ngân hàng thương mại so với các tổ chức tài chính khác là chuyên
về huy động vốn, cho vay và cung cấp các dịch vụ thanh toán. Bất kỳ ngân hàng
thương mại hay tổ chức tài chính nào đều hoạt động trong phạm vi pháp luật cho phép
SVTT: Ngô Văn Huy 3
Báo cáo thực tập Học Viện Tài Chính
và đều hoạt động dựa trên cơ sở sự phát triển của hoạt động sản xuất kinh doanh trong
nền kinh tế.
1.1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại
* Thứ nhất: hoạt động tạo lập nguồn vốn.
Nguồn vốn của ngân hàng thương mại là toàn bộ các nguồn tiền tệ mà ngân hàng
tạo lập, huy động để cho vay, đầu tư và thực thi các dịch vụ ngân hàng.
Nguồn vốn của ngân hàng bao gồm:
+ Vốn chủ sở hữu là số vốn thuộc quyền sở hữu của ngân hàng thương mại bao
gồm: vốn điều lệ, các quỹ dự trữ và các tài sản nợ khác theo quy định của Ngân hàng
Trung ương. Nguồn vốn này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số nguồn vốn kinh
doanh của ngân hàng nhưng nó có ý nghĩa rất lớn. Nó là điều kiện pháp lý cho sự ra
đời và hoạt động của ngân hàng thương mại, là căn cứ để tính toán các tỷ lệ an toàn

trong kinh doanh, đánh giá năng lực tài chính, mức độ chịu đựng rủi ro đồng thời là
cơ sở, nền tảng để thu hút các nguồn vốn khác. Bởi vậy, các ngân hàng thương mại
không ngừng tăng cường bổ sung vốn điều lệ, trích lập các quỹ dự trữ và sử dụng các
tài sản nợ.
+ Vốn huy động: Ngân hàng huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế tạo ra
nguồn vốn chủ lực trong kinh doanh thông qua các hình thức nhận tiền gửi, phát hành
các chứng từ có giá.
Vốn tiền gửi bao gồm tiền gửi của các tổ chức kinh tế, tiền gửi của dân cư và
tiền gửi khác. Huy động tiền gửi là hình thức huy động phổ biến của ngân hàng
thương mại. Các khoản tiền gửi có thể là không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn với các kỳ
hạn khác nhau, đồng thời ngân hàng sẽ mở các tài khoản tương ứng để thuận tiện
trong việc sử dụng.
Huy động vốn thông qua phát hành chứng từ có giá là việc các ngân hàng thương
mại phát hành các giấy tờ có giá như kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu ngân hàng, chứng
chỉ tiền gửi. Trong hình thức này, ngân hàng chủ động phát hành chứng từ có giá theo
đợt để bổ sung nguồn vốn kinh doanh, mà chủ yếu là vốn trung và dài hạn.
+ Vốn vay của các tổ chức tín dụng khác và của Ngân hàng Trung ương trong
hoạt động kinh doanh nếu ngân hàng thương mại thiếu vốn ngắn hạn để thanh toán thì
ngân hàng có thể đi vay từ ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác thông
qua thị trường liên ngân hàng hoặc vay của Ngân hàng Trung ương dưới hình thức tái
SVTT: Ngô Văn Huy 4
Báo cáo thực tập Học Viện Tài Chính
cấp vốn, vay bổ sung vốn thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng thương mại và vay khi
ngân hàng mất khả năng thanh toán. Lượng vốn vay này thường chiếm một tỷ trọng
nhỏ trong tổng nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng thương mại do vậy nó không
những góp phần tăng nguồn vốn, mở rộng kinh doanh mà nó còn có ý nghĩa trong
việc đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
của ngân hàng thương mại.
+ Nguồn vốn khác: như tiền ký quỹ vào tài khoản tiền gửi thanh toán, tiền chu
chuyển trong thanh toán, vốn ủy thác đầu tư, tài trợ của chính phủ hoặc của các tổ

chức trong và ngoài nước cho các chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội…Nguồn vốn khác này tuy không lớn nhưng ngân hàng không phải tốn kém chi
phí huy động nhưng lại có điều kiện phát triển các nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng
khác, phục vụ tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
* Thứ hai: hoạt động sử dụng vốn
Đây là hoạt động kinh doanh chủ yếu và quan trọng nhất của ngân hàng thương
mại. Hoạt động sử dụng vốn trong nền kinh tế thị trường ngày càng đa dạng và được
thự hiện dưới nhiều hình thức:
+ ngân hàng thương mại cho vay đối với khách hàng: đây là hướng chủ yếu
trong việc sử dụng vốn của ngân hàng, đem lại cho ngân hàng nguồn thu chính nhưng
cũng là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất.
+ Hoạt động đầu tư: ngân hàng thương mại đầu tư vào chứng khoán như tín
phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp. Tuy nhiên,
ngân hàng thương mại chỉ được phép đầu tư chứng khoán ở một giới hạn nhất định
theo quy định của pháp luật nhà nước. ngân hàng thương mại còn đầu tư vốn liên
doanh, liên kết với các ngân hàng thương mại khác và các doanh nghiệp thuộc lĩnh
vực sản xuất thương mại, dịch vụ nhằm tạo ra lợi thế cho ngân hàng và cho nền kinh
tế.
* Thứ ba: hoạt động dịch vụ ngân hàng
Dịch vụ ngân hàng được phát triển mạnh mẽ trong điều kiện nền kinh tế thị
trường và đưa lại nguồn thu đáng kể cho ngân hàng thương mại. Bao gồm các hình
thức: bảo lãnh, thanh toán, kinh doanh vàng và ngoại tệ, môi giới kinh doanh chứng
khoán, hoạt động ủy thác, thông tin, tư vấn.
SVTT: Ngô Văn Huy 5
Báo cáo thực tập Học Viện Tài Chính
Như vậy, nguyên tắc hoạt động của ngân hàng thương mại là đi vay để cho vay,
ngân hàng thương mại đóng vai trò là trung gian tín dụng giữa người đi vay và người
cho vay, giải quyết cung và cầu tín dụng về khối lượng vốn và thời hạn cho vay. ngân
hàng thương mại làm trung gian thanh toán trên cơ sở hoạt động đi vay để cho vay,
thông qua đó ngân hàng có thể huy động tiền gửi của khách hàng, mở rộng cho vay và

đầu tư. Thông qua các hoạt động của ngân hàng thì người gửi thu được khoản tiền lãi,
được hưởng các dịch vụ thanh toán tiện lợi mà vẫn đảm bảo an toàn về vốn. Đồng
thời, người đi vay thỏa mãn được các nhu cầu vốn cho sản xuất, tiêu dùng. Ngân hàng
thu được lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất- điều kiện tồn tại và phát triển của ngân
hàng. Còn đối với nền kinh tế góp phần đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hóa, luân
chuyển vốn, điều hòa lưu thông tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm
phát.
1.1.2. Những vấn đề cơ bản về hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương
mại
NHTM kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ dưới hình thức huy động vốn, cho vay,
đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Như vậy toàn bộ các hoạt động kinh doanh của
ngân hàng đều dựa trên nguồn vốn mà ngân hàng đó có.
Nguồn vốn của ngân hàng thương mại là toàn bộ các nguồn tiền tệ mà ngân hàng
tạo lập, huy động được để cho vay, đầu tư và thực thi các dịch vụ ngân hàng.
Nguồn vốn của ngân hàng bao gồm:
- Vốn chủ sở hữu
- Vốn huy động
- Vốn vay của tổ chức tín dụng khác và của ngân hàng trung ương
- Nguồn vốn khác.
Như vậy, vốn huy động là một bộ phận quan trọng cấu thành nên nguồn vốn của
ngân hàng thương mại. Đây là nguồn vốn lớn nhất chiếm tỷ trong cao và quyết định
khă năng vay của ngân hàng. Vốn huy động của ngân hàng thương mại bao gồm:
+ Vốn huy động từ tiền gửi:
Tiền gửi là nguồn vốn vay mượn chính, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài
sản nợ của ngân hàng thương mại. Thực chất nguồn này thuộc các chủ sở hữu khác
nhau và ngân hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu, phải có trách
nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi khi đến hạn hoặc khi khách hàng gửi tiền có nhu cầu rút
vốn.
SVTT: Ngô Văn Huy 6
Báo cáo thực tập Học Viện Tài Chính

Tiền gửi của ngân hàng thương mại bao gồm:
* Tiền gửi của các tổ chức kinh tế:
Khi các tổ chức kinh tế có một khoản tiền nhàn rỗi chưa cần đến trong hoạt động
kinh doanh thì họ có nhu cầu gửi tại các ngân hàng thương mại. Thông thường đây là
các khoản tiền tạm thời chưa được sử dụng hoặc được sử dụng vào mục tiêu định sẵn
vào một thời điểm nhất định trong tương lai.
Các tổ chức kinh tế thường gửi tiền vào ngân hàng dưới 2 hình thức:
• Tiền gửi không kỳ hạn (hay tiền gửi thanh toán)
Đặc điểm của loại tiền gửi này là người gửi tiền có thể rút ra bất kỳ lúc nào để sử
dụng và ngân hàng luôn có trách nhiệm phải thoả mãn nhu cầu rút tiền của khách
hàng. Các khoản tiền gửi này có mức lãi suất thấp xong thay vào đó chủ tài khoản có
thể được hưởng các dịch vụ của ngân hàng với mức phí thấp. Các tổ chức kinh tế khi
gửi tiền vào ngân hàng dưới hình thức này nhằm mục đích thanh toán và đảm bảo an
toàn vốn. Ngân hàng sẽ quản lý việc thanh toán của khách hàng thông qua số dư trên
tài khoản tiền gửi của họ tại ngân hàng. Lý do chủ yếu khiến khách hàng mở tài khoản
thanh toán tại ngân hàng đó là đảm bảo có thể sử dụng đồng vốn một cách nhanh
chóng khi cần thiết và có thể chuyển nhượng được. Đối với hầu hết khách hàng, việc
hưởng lãi đối với số tiền gửi nhằm mục đích thanh toán chỉ là thứ yếu và ngân hàng
cũng chỉ áp dụng một mức lãi xuất nhỏ đối với loại tiền gửi này. Tuy nhiên nguồn vốn
huy động từ số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán thường biến động, ngân hàng
thương mại chỉ sử dụng nguồn vốn này với một tỷ trọng nhất định để cho vay và đầu
tư, tỷ trọng này phụ thuộc vào khối lượng tiền gửi và mức độ ổn định thường xuyên
trong quá trình gửi tiền của khách hàng.
• Tiền gửi có kỳ hạn.
Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi mà khi gửi tiền vào ngân hàng có sự thỏa
thuận về thời hạn rút tiền ra theo thời hạn đã thỏa thuận. Tuy nhiên, trong thực tế, để
thu hút tiền gửi các ngân hàng cho phép khách hàng được rút trước hạn nhưng chỉ
được hưởng mức lãi suất thấp hơn.
Loại tiền gửi này có ưu điểm hơn tiền gửi thanh toán đó là lãi suất cao hơn và
đối với ngân hàng đây là nguồn vốn huy động tương đối ổn định. Vì thế ngân hàng có

thể sử dụng một cách chủ động để làm nguồn vốn kinh doanh dùng trong đầu tư và
cho vay. Để sử dụng nguồn vốn này một cách hợp lý và chủ động và cũng để hấp dẫn
SVTT: Ngô Văn Huy 7
Báo cáo thực tập Học Viện Tài Chính
khách hàng, ngân hàng thường đưa ra các loại kỳ hạn khác nhau như kỳ hạn 3 tháng,
6 tháng, 9 tháng, 1 năm , mỗi mức kỳ hạn ứng với một lãi xuất khác nhau, kỳ hạn
càng dài thì lãi suất càng cao.
* Tiền gửi của dân cư
Tiền gửi của dân cư là một bộ phận thu nhập của người dân gửi tại ngân hàng.
Khi tiêu dùng không hết thu nhập, người dân dùng để tích luỹ, khi thu nhập càng cao
thì nhu cầu tích luỹ càng lớn và một trong những cách tích luỹ có lợi nhất là gửi vào
ngân hàng. Vì thế đại bộ phận tiền gửi của dân cư ở ngân hàng là dành cho tích luỹ.
Tiền gửi dân cư bao gồm:
• Tiền gửi tiết kiệm:
- Tiền gửi tiết kiệm không kì hạn: là loại tiền gửi có thể rút ra bất cứ lúc nào
song không được dùng cho mục đích thanh toán qua ngân hàng. Số dư tài khoản tiền
gửi này không lớn nhưng ổn định hơn so với tiền gửi thanh toán vì thế ngân hàng phải
trả lãi suất cao hơn để huy động được nguồn vốn này.
- Tiền gửi tiết kiệm có kì hạn: là loại tiền gửi nhằm mục đích tiết kiệm và có sự
thỏa thuận về thời hạn rút tiền giữa ngân hàng và khách hàng. Loại tiền gửi này có
tính ổn định cao do đó nó có lãi suất cao. Dân chúng khi gửi tiền dưới hình thức này
chủ yếu với mục đích sinh lợi và an toàn vốn.
Để thu hút tiền gửi tiết kiệm, các ngân hàng cố gắng khuyến khích người dân thây
đổi thói quen nắm giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động,
đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn. Ngân hàng có thể
mở cho mỗi người gửi tiền nhiều sổ tiết kiệm cho mỗi kỳ hạn và được xuất trình khi
người gửi tiền rút tiền hay gửi tiền thêm vào. Đây là một loại chứng từ đảm bảo tiền
gửi nên người sở hữu nó có thể mang đến ngân hàng để xin cầm cố hoặc xin chiết khấu
để vay vốn.
• Tài khoản tiền gửi cá nhân:

Khi đời sống vật chất của con người ngày càng nâng lên thì ngày càng có nhiều
cá nhân mở tài khoản tại ngân hàng và thực hiện các giao dịch thanh toán qua ngân
hàng. Vì thế loại tiền gửi này cũng góp phần tăng cường nguồn vốn tín dụng cho ngân
hàng.
SVTT: Ngô Văn Huy 8
Báo cáo thực tập Học Viện Tài Chính
Tiền gửi tiết kiệm là nguồn vốn khá ổn định vì thế ngân hàng có thể sử dụng nó
một cách chủ động hơn và nhiều hơn cho mục đích đầu tư, cho vay.
* Tiền gửi khác.
Ngoài hai loại tiền gửi trên, các ngân hàng thương mại còn có các loại tiền gửi
khác:
- Tiền gửi vốn chuyên dùng.
- Tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác.
- Tiền gửi của Kho bạc nhà nước.
Việc huy động vốn tiền gửi của khách hàng đem lại cho ngân hàng một nguồn
vốn lớn để kinh doanh. Đặc điểm chung của tiền gửi là chúng phải được thanh toán
ngay khi khách hàng yêu cầu ngay cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn chưa đến hạn. Sự
thay đổi tiền gửi, đặc biệt là ngắn hạn làm thay đổi khả năng thanh khoản của ngân
hàng. Trong ngân hàng thương mại quy mô tiền gửi quyết định chủ yếu đến các khoản
tín dụng dưới hình thức cho vay và đầu tư. Thông thường nguồn nay chiếm hơn 50%
tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của
ngân hàng. Đa số tiền gửi hoàn toàn dễ hoán chuyển thành tiền mặt và tiền lãi sẽ chỉ
phản ánh mức thu nhập từ các lệ phí do tiến hành các dịch vụ khác nhau.
+ Vốn vay của các tổ chức tín dụng khác
Trong quá trình hoạt động, các ngân hàng thương mại tạm thời thừa vốn và thiếu
vốn. Do đó giữa các ngân hàng thương mại nảy sinh vay mượn lẫn nhau trên thị
trường liên ngân hàng. Các ngân hàng tạm thời dư thừa vốn có thể cho các ngân hàng
thương mại khác vay để kiếm lãi, ngược lại các ngân hàng thương mại khi thiếu hụt
vốn sẽ đi vay các ngân hàng khác để đáp ứng nhu cầu chi trả cấp bách thay vì phải
vay ngân hàng trung ương. Quá trình vay mượn này rất đơn giản, có thể thực hiện

bằng cách các ngân hàng thương mại liên hệ trực tiếp với nhau hoặc thông qua ngân
hàng trung ương, thời hạn của các khoản vay này rất ngắn, thường không quá 7 ngày.
Khoản vay có thể không cần hoặc có đảm bảo bằng các chứng khoán của kho bạc.
Nguồn vốn vay chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương
mại chủ yếu nhằm giải quyết tình trạng thiếu hụt vốn tạm thời khi nhu cầu thanh toán
của khách hàng tăng cao. Vay ngân hàng trung ương phụ thuộc rất lớn vào mục tiêu
của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ, việc vay mượn các tổ chức tớn dụng khác
SVTT: Ngô Văn Huy 9
Báo cáo thực tập Học Viện Tài Chính
trên thị trường liên ngân hàng cũng gặp nhiều khó khăn khi trong cùng một lúc các
ngân hàng thương mại cùng thiếu phương tiện thanh toán.
+ Vốn vay của Ngân hàng trung ương
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của ngân hàng
thương mại trong trường hợp thiếu hụt dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán. ngân hàng
thương mại thường vay ngân hàng trung ương tuỳ theo mục đích sử dụng và hình thức
vay vốn. Nguồn vay này được chia thành các loại:
* Vốn vay ngắn hạn bổ sung: là hình thức ngân hàng thương mại xin vay vốn bổ
sung ngắn hạn của mình. Trong hình thức vay này, các ngân hàng thương mại chỉ
được vay khi còn hạn mức tín dụng và trong hạn mức tín dụng đã thoả thuận.
* Vay để thanh toán: các ngân hàng thương mại vay ngân hàng trung ương nhằm
thực hiện công tác thanh toán giữa các ngân hàng để bù đắp thiếu hụt tạm thời trong
thanh toán.
* Tái cấp vốn: ngân hàng trung ương cho ngân hàng thương mại vay trên cơ sở
chứng từ có giá. Các chứng từ này phải là các chứng từ có chất lượng đảm bảo hợp lệ,
hợp pháp và an toàn. Tái cấp vốn có hai hình thức:
• Vay có đảm bảo: là hình thức các ngân hàng thương mại đem chứng từ có giá
đến ngân hàng trung ương để đảm bảo xin vay vốn .
• Vay tái chiết khấu: ngân hàng trung ương nhận các chứng từ có giá mà ngân
hàng thương mại đã chiết khấu trước đây để cho ngân hàng thương mại vay vốn.
Khoản mục vay ngân hàng trung ương cú thể xếp loại cho vay cũng hình thành

nên nguồn vốn của ngân hàng thương mại. Vì trong hệ thống ngân hàng hai cấp, ngân
hàng trung ương luôn đóng vai trò là người cho vay cuối đối với ngân hàng thương
mại. ngân hàng thương mại sau khi khai thác hết nguồn vốn trên thị trường sẽ vay
ngân hàng trung ương. Khoản vay này liên quan đến thị trường trung ương, đến chính
sách tiền tệ của ngân hàng trung ương
+ Phát hành các giấy tờ có giá.
Đây chính là việc các ngân hàng thương mại phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ
phiếu, trái phiếu ngân hàng để huy động vốn. Trong hình thức huy động vốn, ngân
hàng thương mại chủ động đứng ra thu gom vốn trong xã hội bằng việc phát hành
chứng từ có giá nhằm bổ sung nguồn vốn kinh doanh.Việc phát hành chứng từ có giá
chỉ được thực hiện sau khi đã tiến hành cân đối toàn hệ thống giữa nguồn vốn và nhu
SVTT: Ngô Văn Huy 10
Báo cáo thực tập Học Viện Tài Chính
cầu sử dụng. Khi nguồn vốn không đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng vốn của cả hệ thống
thì các ngân hàng thương mại có thể phát hành chứng từ có giá để huy động vốn
nhưng phải được sự chấp thuận của Thống đốc ngân hàng nhà nước.
Đây là hình thức huy động vốn nhanh nhất, có thể tập trung vốn trong một thời
hạn ngắn với số lượng vốn lớn. Các ngân hàng thương mại sử dụng hình thức huy
động vốn này khi đầu tư cho các dự án vốn lớn, phải đáp ứng ngay như thời hạn giải
ngân dài. Song do nhu cầu tập trung vốn lớn trong thời hạn ngắn nên lãi suất thường
cao hơn lãi suất thường cao hơn lãi suất tiền gửi huy động cùng kỳ hạn.
Nguồn vốn huy động thông qua phát hành giấy tờ có giá trị của ngân hàng
thương mại thường có thời hạn và quy mô xác định trước do vậy tạo nguồn vốn ổn
định cho ngân hàng. Khác với nhận tiền gửi, ngân hàng không nhất thiết phải huy
động nguồn vốn này thường xuyên mà chỉ huy động khi cần thiết và hoàn toàn chủ
động trong việc quyết định khối lượng bao nhiêu cho phù hợp với nhu cầu sử dụng.
Nguồn này có nhiều rủi ro hơn tiền gửi nên lãi suất thường cao hơn so với tiền gửi
cùng kỳ hạn.
1.2. Hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm

Hiệu quả huy động vốn của NHTM chính là kết quả huy động mà ngân hang đạt được
phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn, đảm bảo được mục tiêu an toàn và sinh lời cao cho
ngân hang trong từng thời kỳ.
Ngân hàng thương mại với chức năng trung gian tín dụng của nền kinh tế thực
hiện tập trung huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội để cho vay và đầu tư với
lãi xuất cao hơn. Đây là công việc của một định chế tài chính người trung gian, đóng
vai trò môi giới giữa người có vốn và người cần vốn. Các hoạt động này đòi hỏi ngân
hàng thương mại phải có nguồn lực tài chính lớn (nguồn vốn) và trong khi các nguồn
vốn chủ sở hữu hay nguồn vốn vay chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu nguồn
vốn của ngân hàng thương mại thì việc huy động vốn từ các nguồn nhàn rỗi trong xã
hội chiếm một vị trí vô cùng quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động kinh
doanh của ngân hàng.
SVTT: Ngô Văn Huy 11
Báo cáo thực tập Học Viện Tài Chính
Nguyên tắc “đi vay để cho vay” trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng
thương mại cũng chỉ ra rằng nguồn vốn chủ yếu và quan trọng được sử dụng cho mọi
hoạt động đầu tư, kinh doanh của ngân hàng thương mại là nguồn vốn huy động.
Nguồn vốn huy động càng lớn, chất lượng càng tốt thì càng tạo điều kiện cho ngân
hàng mở rộng và phát triển các hoạt động của mình. Vì thế để có nguồn vốn huy động
đủ mạnh thì công tác huy động vốn phải được quan tâm hàng đầu. Do đó có thể nói
công tác huy động vốn là tiền đề quan trọng để quyết định sự tồn tại và phát triển của
một ngân hàng.
Nguồn vốn huy động được coi là chất lượng nếu như nó đủ lớn để đáp ứng nhu
cầu và đầu tư ngày càng mở rộng của ngân hàng, có chi phí thấp để tiết kiệm chi phí
chung cho ngân hàng và tăng lợi nhuận. Hơn nữa nguồn vốn huy động phải đảm bảo
cơ cấu hợp lý, phù hợp với các mục tiêu, chiến lược đầu tư kinh doanh của ngân hàng
đó. Song trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay, ngân hàng thương mại chỉ
là một trong các kênh huy động vốn của nền kinh tế, các ngân hàng thương mại đua
nhau cạnh tranh tìm kiếm khách hàng trong khi nguồn vốn trong dân cư có hạn và nhu
cầu sử dụng cho đầu tư và phát triển là rất lớn thì không phải ngân hàng nào cũng đạt

được những tiêu chí trên. Vì thế nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn là nhân tố
cơ bản và là điều kiện kiên quyết cho việc nâng cao chất lượng hoạt động của ngân
hàng cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng đó trên thị trường.
Xuất phát từ các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng thương mại như hoạt động
cho vay, thanh toán, bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ Các hoạt động này không thể
phát triển được nếu như không có vốn. Ví dụ như trong cho vay: nguồn vốn trong cho
vay của ngân hàng chủ yếu là vốn huy động (vốn chủ sở hữu chỉ là cơ sở để tính hạn
nợ vay của ngân hàng) vì thế nếu nhu cầu vay vốn trong nền kinh tế cao mà vốn huy
động của ngân hàng không đáp ứng được thì ngân hàng không thể cho vay với số vốn
lớn. Hay nhu cầu vốn trung dài hạn lớn tất yếu đòi hỏi nguồn vốn trung, dài hạn cũng
phải lớn để đáp ứng (mặc dù ngân hàng được sử dụng một tỷ lệ vốn ngắn hạn nhất
định để cho vay trung, dài hạn). Trong hoạt động thanh toán, việc cung ứng các
phương tiện thanh toán và quy mô thanh toán phụ thuộc vào nguồn vốn trong hoạt
này. Nếu vốn nhỏ, khả năng chi trả, thanh toán của ngân hàng sẽ kém và vì thế không
thu hút được khách hàng Như vậy để thấy rằng nhân tố quan trọng để phát triển các
SVTT: Ngô Văn Huy 12
Báo cáo thực tập Học Viện Tài Chính
dịch vụ ngân hàng là vốn và trong đó vốn huy động là chủ yếu. Vì vậy để phát triển
các dịch vụ ngân hàng thì hoạt động huy động vốn phải được quan tâm trước nhất.
Tóm lại, huy động vốn là công tác quan trọng, quyết định và có ý nghĩa quan
trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vì thế nâng cao hiệu quả và chất
lượng công tác huy động vốn là điều tất yếu nếu muốn nâng cao năng lực kinh doanh
của ngân hàng thương mại .
1.2.2. Nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thương
mại
1.2.2.1. Nhân tố khách quan
* Môi trường kinh tế xã hội
Vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ tiết kiệm của mỗi cá nhân, tổ chức kinh tế
và của nhà nước trong nền kinh tế. Vì vậy khi nền kinh tế càng phát triển, của cải xã
hội và thu nhập tăng sẽ tạo ra nhiều nguồn vốn do đó tạo ra môi trường cho việc thu

hút vốn của ngân hàng được thuận lợi. Mặt khác nó cũng tạo môi trường đầu tư cho
ngân hàng từ đó ngân hàng phải tìm ra những biện pháp để huy động vốn sao cho có
hiệu quả đối với hoạt động kinh doanh của mình. Ngược lại, khi nền kinh tế không
tăng trưởng, hay lạm phát tăng cao làm giá trị đồng tiền bị mất giá, người dân sẽ
không gửi tiền vào ngân hàng mà họ dùng tiền để mua hàng tích trữ vì vậy ảnh hưởng
không tốt đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại.
* Môi trường pháp lý
Hành lang pháp lý là vấn đề quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động vốn của ngân
hàng thương mại. Vấn đề pháp luật, chính sách của Chính Phủ trong kinh doanh ngân
hàng luôn phải được phân tích kỹ lưỡng vì nó có ảnh hưởng đến hệ thống tài chính
quốc gia. Do đó so với các ngành kinh doanh khác, Nhà nước có sự kiểm soát chặt
chẽ hơn về phương diện pháp luật, chính sách đối với lĩnh vực kinh doanh ngân hàng.
Có những bộ luật điều chỉnh lĩnh vực này như Luật các tổ chức tín dụng, luật ngân
hàng nhà nước, các nghị định, quy định Hoạt động huy động vốn của ngân hàng
cũng được điều chỉnh cụ thể trong hệ thống pháp luật như quy định về tỷ lệ huy động
vốn so với vốn chủ sở hữu của nhân hàng, quy định về các hình thức huy động vốn.
Mặt khác chính sách tài chính tiền tệ điều chỉnh các vấn đề về lãi suất, tỷ giá,
thuế và hoạt động của các cơ quan hữu quan như Bộ thương mại, Bộ tài chính
cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại.
SVTT: Ngô Văn Huy 13
Báo cáo thực tập Học Viện Tài Chính
Chẳng hạn khi lạm phát tăng, Nhà nước có chính sách thắt chặt tiền tệ bằng cách tăng
lãi suất tiền gửi để thu hút tiền ngoài lưu thông thì các ngân hàng thương mại sẽ huy
động vốn dễ dàng hơn. Ngược lại, nếu Nhà nước thực thi chính sách khuyến khích
đầu tư, mở rộng sản xuất thì ngân hàng khó huy động vốn hơn vì nguồn tiền nhàn rỗi
trong xã hội được sử dụng để đầu tư kinh doanh thay vì gửi tiết kiệm ở ngân hàng.
Vì vậy những điều chỉnh về mặt pháp luật, chính sách của nhà nước hợp lý hay
không hợp lý sẽ ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến hoạt động huy động vốn của
ngân hàng thương mại.
* Sự phát triển của thị trường tài chính

Đây là yếu tố ảnh hưởng đến nguồn vốn vay trung, dài hạn của ngân hàng
thương mại. Thị trường tài chính là thị trường trong đó nguồn tài chính được chuyển
từ người có vốn dư thừa sang người thiếu vốn. Thị trường tài chính là tổng hoà các
mối quan hệ cung cầu về vốn, nó bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường chứng
khoán.
Với sự xuất hiện của thị trường tài chính chúng ta sẽ thấy rõ vai trò của nó trong
việc huy động vốn cho đầu tư. Qua thị trường thứ cấp cho phép lấy vốn và trực tiếp
chuyển đổi khoản tiết kiệm của gia đình thành các nguồn vốn trung, dài hạn cho các
chủ thể khác trong nền kinh tế thông qua ngân hàng thương mại. ngân hàng thương
mại đóng vai trò là người cho vay và người cho vay thực hiện việc kinh doanh chuyển
người dư thừa vốn sang người có nhu cầu về vốn bằng việc đặt một lãi suất cao hơn
các món cho vay so với các món mà họ đi vay để thu lợi nhuận.
* Thói quen tâm lý tiêu dùng của người gửi tiền.
Ở những nước phát triển, nhu cầu giao dịch thanh toán qua ngân hàng rất phát
triển. Hầu hết người dân có thu nhập đều mở tài khoản séc để thanh toán qua ngân
hàng. Tuy nhiên ở những nước kém phát triển, thu nhập của người dân còn thấp, nhu
cầu giao dịch thanh toán qua ngân hàng còn hạn chế nên ít người mở tài khoản tại
ngân hàng. Điều này hạn chế khả năng tạo tiền của hệ thống ngân hàng thương mại,
không phát huy được tính hiệu quả của tài khoản giao dịch do đó làm giảm tỉ lệ tiền
gửi thanh toán.
1.2.2.2. Nhân tố chủ quan
* Hình thức huy động vốn.
SVTT: Ngô Văn Huy 14
Báo cáo thực tập Học Viện Tài Chính
Ngân hàng muốn dễ dàng tìm kiếm nguồn vốn huy động thì trước hết phải đa
dạng hóa hình thức huy động. Ngân hàng càng có nhiều hình thức huy động hấp dẫn
thì càng thu hút người dân gửi tiền vào ngân hàng có hình thức huy động cho phù
hợp.
* Lãi suất.
Việc duy trì lãi suất tiền gửi cạnh tranh giữa các ngân hàng với nhau đã trở nên

cực kì quan trọng trong việc thu hút các khoản tiền gửi mới và duy trì các khoản tiền
gửi hiện có tại ngân hàng. Điều này đặc biệt đúng trong điều kiện lãi suất thị trường ở
mức cao. Các ngân hàng cạnh tranh nhau trong việc huy động vốn từ nền kinh tế nên
dù chỉ một sự biến động nhỏ về lãi suất cũng thúc đẩy người gửi tiền và nhà đầu tư
chuyển vốn từ ngân hàng này sang ngân hàng khác. Chính vì thế, để thu hút vốn ngân
hàng cần có chính sách lãi suất hợp lý, vừa đảm bảo lợi ích cho người gửi tiền vừa tiết
kiệm chi phí cho ngân hàng mình. Vì thế, khi đưa ra mức lãi suất huy động, ngân
hàng phải căn cứ vào tình hình kinh tế, chính sách nhà nước và lãi suất của các ngân
hàng .
* Các chính sách cơ bản và sức mạnh của ngân hàng.
Chính sách của ngân hàng liên quan đến tín dụng, đầu tư vào các vấn đề khác là
tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá năng lực lãnh đạo cũng như năng lực làm việc của
một ngân hàng. Nếu ngân hàng có tổ chức ổn định và có kỉ luật cao chứng tỏ các hoạt
động giao dịch tại ngân hàng đó được điều hành một cách chính xác và lành mạnh.
Điều này sẽ gây dựng và củng cố niềm tin của khách hàng vào ngân hàng. Khi khách
hàng tin tưởng vào ngân hàng thì tất nhiên sẽ có tâm lý gửi tiền vào ngân hàng hơn so
với các ngân hàng khác.
Các chính sách của ngân hàng như chính sách cho vay, thanh toán cũng ảnh
hưởng đến khách hàng gửi tiền. Nếu các chính sách này thuận lợi cho khách hàng thì
chắc chắn sẽ thu hút được người dân gửi tiền mặc dù họ chưa có nhu cầu sử dụng các
dịch vụ này ngay thời điểm đó. Sự quan tâm thường xuyên đến khách hàng của ngân
hàng cũng thu hút người dân gửi tiền vào ngân hàng.
* Các dịch vụ do ngân hàng cung ứng.
Nếu như ngân hàng đưa ra các dịch vụ tốt đa dạng hơn thường có lợi thế hơn so
với các ngân hàng có dịch vụ trong việc thu hút khách hàng. Ví dụ nếu ngân hàng có
các dịch vụ thuận tiện như các máy rút tiền tự động, hệ thống chi trả tự động, các dịch
SVTT: Ngô Văn Huy 15
Bỏo cỏo thc tp Hc Vin Ti Chớnh
v gi tin n gin v tn ớt thi gian, thi gian phc v di chc chn thu hỳt
c ngi dõn n giao dch.

* Ngun lc ca ngõn hng.
Thụng thng, khỏch hng luụn mong mun giao dch vi cỏc ngõn hng cú b
dy kinh nghim trong hot ng, cú uy tớn trờn th trng. Bờn cnh ú ngun lc
ca ngõn hng cng l yu t quan trng thu hỳt khỏch hng n vi ngõn hng.
Ngun lc ngõn hng õy chớnh l c s vt cht v ngun lc con ngi.
- C s vt cht l iu kin cn thit v quan trng ỏnh giỏ tỡnh hỡnh hot
ng ca ngõn hng. Khi cỏ nhõn cú nhu cu gi tin thỡ h mun tỡm n vi ngõn
hng cú y tin cy. Mt ngõn hng cú c s vt cht tt, khang trang hin i, y
trang tht b s tỏc ng tt n tõm lý ngi gi tin.
- Yu t con ngi cú tm quyt nh tng i c bit trong hot ng ca
ngõn hng. Nu ngõn hng m i ng nhõn viờn cú thỏi phc v tt, nhit tỡnh,
chu ỏo, vui v, lch s, tỏc phong lm vic nhanh nhn thỡ chc chn li n tng
tt cho khỏch hng. Nu lm c iu ny thỡ ú chớnh l im mnh ca ngõn hng
thu hỳt khỏch hng.
1.2.3 Ch tiờu ỏnh giỏ hiu qu huy ng vn ca ngõn hng thng mi
1.2.3.1. Chỉ tiêu định tính
a. Sự hài lòng của khách hàng.
Hoạt động của ngân hàng nhằm mục tiêu cơ bản là thoả mãn nhu cầu của khách
hàng. Do đó sự hài lòng của khách hàng là một chỉ tiêu đánh giá chất lợng hoạt động
huy động vốn.
Sự hài lòng của khách hàng đợc thể hiên:
- Lãi suất huy động: Lãi suất huy động là công cụ quan trọng trong công tác huy
động vốn. Một chính sách lãi suất vừa có sức cạnh tranh, vừa đảm bảo hiệu quả kinh
doanh thể hiện công tác huy động vốn của ngân hàng có chất lợng cao.
- Thái độ phục vụ khách hàng: Ngân hàng nào xây dựng đợc một đội ngũ cán bộ
có năng lực, có thái độ phục vụ tốt sẽ là nhân tố quan trọng để thu hút khách hàng, thu
hút nguồn vốn của họ.
b. Huy động vốn kèm theo phát triển các dịch vụ đi kèm.
Hoạt động của ngân hàng mang tính hệ thống và có quan hệ mật thiết với nhau.
Chất lợng huy động vốn đợc đánh giá là tốt khi ngân hàng phát triển đợc các dịch vụ

đi kèm với công tác huy động vốn.
1.2.3.2. Chỉ tiêu đinh lợng
Thứ nhất : Chi phí huy động vốn.
SVTT: Ngụ Vn Huy 16
Bỏo cỏo thc tp Hc Vin Ti Chớnh
Chi phí huy động vốn đợc phản ánh thông qua chỉ tiêu lãi suất đầu vào bình quân
( LSHĐVBQ ):
LSHĐVBQ càng cao càng chứng tỏ ngân hàng đã tốn nhiều chi phí trong việc huy
động vốn, từ đó dẫn đến lợi nhuận của ngân hàng sẽ bị giảm sút.
Ngợc lại nếu LSHĐVBQ càng thấp thì ngân hàng càng tiết kiệm đợc chi phí huy
động vốn, từ đó làm gia tăng lợi nhuận, mở rộng hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Thứ hai: Hiệu quả sử dụng vốn ( HQSDV )
Đây là chỉ tiêu quan trọng, nó phản ánh mối quan hệ giữa đồng vốn vào và đồng
vốn ra của ngân hàng. Chỉ tiêu này cho biết ngân hàng sử dụng vốn có hiệu quả hay
không? Chỉ tiêu này càng cao càng tốt bởi ngân hàng càng sử dụng nó một cách triệt
để. Ngợc lại khi chỉ tiêu này thấp thì số vốn dùng để cho vay và đầu t còn hạn chế, nên
hiệu quả sử dụng vốn là không cao.
Ngoài một số chỉ tiêu trên thì các NHTM còn sử dụng rất nhiều chỉ tiêu đánh giá
hiệu quả của hoạt động huy động vốn nh: ROA ( tỷ suất sinh lời trên tài sản ), ROE
( tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu )
Từ việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về nguồn vốn của ngân hàng, chúng ta
có thể thấy vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn
vốn của ngân hàng. Với đặc trng đi vay để cho vay, nguồn vốn huy động là nguồn
lực chính, đóng vai trò quyết định và có ý nghĩa sống còn đối với hoạt động kinh
doanh của ngân hàng. Chính vì vậy các ngân hàng cần phải chú trọng xây dựng nguồn
vốn huy động lớn mạnh, hợp lý để mở rộng quy mô hoạt động, đem lại lợi nhuận cao
cho ngân hàng và đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế.
1.2.4.S cn thit ca vic nõng cao hiu qu huy ng vn ca NHTM
i vi ngõn hng:
Trong mụi trng kinh doanh ngy nay s cnh tranh din ra gay gt thỡ vn l mt yu t giỳp cỏc ngõn

hng thng th trong cnh tranh. Ngõn hng no trng vn s cú kh nng tho món tt nht nhu cu ca
khỏch hng, cú kh nng m rng hot ng kinh doanh, tng thờm thu nhp v cng c v th trờn th
thng trng Nhn thc c vai trũ to ln ca vn trong hot ng kinh doanh, cỏc Ngõn hng Thng
SVTT: Ngụ Vn Huy 17
LSHĐVBQ =
( lãi suất huy động
i
x nguồn vốn huy động
i
)
Tổng nguồn vốn huy động
HQSDV =
Tng ngun vn huy ng
Tng d n
Báo cáo thực tập Học Viện Tài Chính
mại luôn tìm cách phát triển nguồn vốn của mình, tìm mọi biện pháp để đẩy mạnh hiệu quả của công tác
huy động vốn.
Huy động vốn là một nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng. Từ khi có các ngân hàng ra đời thì nghiệp vụ
huy động vốn đã gắn liền với các hoạt động của nó, trải qua quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng thì
nghiệp vụ huy động vốn cũng được đổi mới cho phù hợp với sự phát triển của xã hội. Hiệu quả công tác huy
động vốn được các ngân hàng quan tâm không chỉ vì nó là một nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng ma
còn vì nó là một trong những hoạt động chủ yếu và mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng. Do đó trong
mọi giai đoạn, nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn luôn là vấn đề được các Ngân hàng Thương mại
chú trọng.
Nhu cầu phát triển của xã hội ngày càng tăng kéo theo nhu cầu về vốn của các thành phần kinh tế, của dân
cư Để đáp ứng được mọi yêu cầu này thì các ngân hàng phải có một nguồn vốn đủ lớn để có thể phục vụ
cho sự phát triển chung của nền kinh tế, mà nguồn vốn tự có của ngân hàng luôn là quá “nhỏ bé” trước yêu
cầu phát triển của xã hội. Do đó để có thể có một lượng vốn cần thiết để thực hiện sứ mệnh “bà đỡ” cho nền
kinh tế thì các Ngân hàng Thương mại phải tìm cách tăng trưởng nguồn vốn hiện có của mình và vấn đề
nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn được đặt ra rất bức thiết.

Các Ngân hàng Thương mại hoạt động trên thị trường với tư cách là các trung gian tài chính với chức năng
chủ yếu là phân phối lại tiền tệ trong xã hội, thúc đẩy nền kinh tế không ngừng phát triển. Hoạt động huy
động vốn chính là việc thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội để rồi sau đó ngân hàng phân phối đến
nơi thiếu vốn (bằng các hoạt động cho vay, đầu tư). Làm tốt công tác huy động vốn cũng đồng nghĩa với
ngân hàng làm tốt nhiệm vụ quan trọng nhất của mình . Cho nên mọi Ngân hàng Thương mại đều ý thức
được sự cần thiết của việc đẩy mạnh hiệu quả hoạt động huy động vốn.
Đối với khách hàng:
• Đối với dân cư:
Nghiệp vụ huy động vốn đã cung cấp cho mọi người dân các phương thức tiết kiệm tiền hợp lý và an toàn.
Nguồn tiền tiết kiệm trong dân cư rất dồi dào, có nhiều điều kiện thuận lợi để ngân hàng sử dụng kinh
doanh. Để thu hút được các nguồn vốn này các ngân hàng đã sử dụng nhiều hình thức huy động vốn phong
phú và tiện lợi. Điều này giúp người dân dễ dàng lựa chọn một hình thức gửi tiền phù hợp với đặc điểm
khoản tiền của mình. Do đó tâm lý người dân luôn mong ngân hàng đưa ra được các hình thức huy động
vốn hiệu quả, có lợi cho cả hai bên: vừa ích nước vừa lợi nhà, vừa an toàn tài sản.
• Đối với các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp :
Nghiệp vụ huy động vốn đã giúp cho các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp thuận tiện trong thanh toán giao
dịch thông qua tài khoản tiền gửi thanh toán. Nếu ngân hàng đẩy mạnh công tác huy động vốn thì sẽ giúp
các doanh nghiệp rất nhiều trong hoạt động kinh doanh, làm cho hoạt động của doanh nghiệp và các tổ
chức kinh tế luôn trôi chảy. Hơn nữa, các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế đều có quan hệ tín dụng với ngân
hàng và huy động vốn có hiệu quả sẽ giúp cho doanh nghiệp có vốn kịp thời bất cứ lúc nào mà doanh
nghiệp cần vốn. Do đó đứng ở góc độ doanh nghiệp thì nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn ở mỗi
ngân hàng là cần thiết.
SVTT: Ngô Văn Huy 18
Báo cáo thực tập Học Viện Tài Chính
Đối với nền kinh tế :
Nghiệp vụ huy động vốn giúp cho các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội được tập trung về một mối, thuận
tiện cho việc phân phối lại chúng. Tránh được tình trạng lãng phí nguồn vốn, một số người tổ chức “hụi”,
“họ” gây mất ổn định trong xã hội.Với nền kinh tế thì hoạt động huy động vốn là không thể thiếu nhất là khi
nền kinh tế có lạm phát, lúc đó huy động vốn là một trong những công cụ để kìm chế lạm phát.
Khi nền kinh tế trong giai đoạn phát triển, huy động vốn giúp cho nó phát triển nhịp nhàng, hiệu quả hơn. Vì

thế đẩy mạnh công tác huy động vốn ở mỗi Ngân hàng Thương mại có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển
của nền kinh tế.
1.3. Kinh nghiệm quốc tế về nâng cao hiệu quả huy động vốn của một số ngân
hàng thương mại trên thế giới
1.3.1. Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả huy động vốn của một số ngân hàng
thương mại trên thế giới
Kể từ ngày 1/1/2012, theo lộ trình gia nhập WTO, ngân hàng nước ngoài sẽ được
hoạt động như ngân hàng bản địa thì áp lực cạnh tranh sẽ còn lớn hơn rất nhiều. Điều
này cũng có mặt tích cực là giúp các ngân hàng trong nước phải tự thân vận động,
trưởng thành, lớn mạnh để cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài. Các ngân hàng
nước ngoài hiện nay đã tham gia sâu vào lĩnh vực ngân hàng bán lẻ, tập trung vào
khách hàng VIP - một thị trường truyền thống của ngân hàng trong nước. Hay tập
trung vào các thương vụ lớn, doanh nghiệp lớn làm ăn tương đối bài bản, có kinh
nghiệm đi vay, trả nợ với các ngân hàng nước ngoài. Với chiến lược rõ ràng, ngân
hàng nước ngoài đã có giải pháp cụ thể, tưởng chừng rất nhỏ như: thuê riêng cán bộ
người Việt nói tiếng Hoa hoặc người Hoa nói tiếng Việt để giao dịch trực tiếp với
khách hàng VIP là người Trung Quốc. Đó là một trong những lợi thế mà ngân hàng
trong nước khó có thể cạnh tranh được. Phát hành trái phiếu quốc tế là một trong bốn
kênh huy động tài chính lớn mà các tập đoàn kinh tế nhà nước hướng tới cho việc huy
động vốn năm 2011 và đến năm 2020. Đối với sản phẩm tiền gửi, mạng lưới là yếu tố
quan trọng tạo thuận lợi cho việc huy động. Tuy nhiên, hiện số chi nhánh của các
ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam rất khiêm tốn. Các ngân hàng nước ngoài sẽ có
thể sử dụng các hình thức giao dịch như SMS, mobile, internet để đưa dịch vụ đến
khách hàng nhiều hơn là mở rộng mạng lưới. Mở chi nhánh không phải là kênh chính.
Mạng lưới là bất lợi nhưng họ sẽ hoá thành ưu thế của mình khi đưa công nghệ cao
vào.
SVTT: Ngô Văn Huy 19
Báo cáo thực tập Học Viện Tài Chính
Nhiều ngân hàng trên thế giới như ở Mỹ hiện không còn hình thức giao dịch viên
với khách hàng, có chi nhánh chỉ có máy giao dịch. Ngân hàng đưa dịch vụ đến đích

qua nhiều kênh SMS, mobile…
Một ưu thế rất lớn khác của ngân hàng nước ngoài là đồng vốn dồi dào nên giải
ngân rất nhanh. Đối với khách hàng lớn, vấn đề giải ngân rất quan trọng, nhất là giải
ngân một lượng tiền lớn. Tại ngân hàng nước ngoài, không có vấn đề nói khách hàng
trở lại sau, chúng tôi sẽ điều vốn sau 2, 3 ngày. Không chỉ dừng ở đó, ngân hàng nước
ngoài có cách bán chéo sản phẩm, tạo ra một gói dịch vụ tổng thể thuận tiện cho
khách hàng.
Ngân hàng nước ngoài rõ ràng không chú trọng cạnh tranh trên lãi suất mà là
cạnh tranh trên chất lượng dịch vụ và uy tín. Có thể ngân hàng nước ngoài có lãi suất
huy động thấp hơn ngân hàng trong nước. Nhưng ngân hàng nước ngoài chú trọng
đến vấn đề mà ngân hàng trong nước không quan tâm nhiều. Đó là bảo hiểm tiền gửi.
1.3.2. Bài học cho các ngân hàng thương mại Việt Nam
Sau khi gia nhập WTO, các ngân hàng nước ngoài đã có nhiều hoạt động phong
phú và đa dạng tại Việt Nam và được đối xử ngang bằng theo đúng nguyên tắc tối huệ
quốc của WTO. Khi này các ngân hàng trong nước sẽ gặp phải những đối thủ nặng ký
về thương hiệu, vốn, công nghệ, nhân lực, kinh nghiệm, sản phẩm… ngay trên thị
trường Việt Nam. Vấn đề thanh khoản của các ngân hàng thương mại thực sự là đề tài
hết sức nóng bỏng trong thời điểm cuối năm cận kề. Đây là hệ lụy của việc nguồn vốn
huy động vào thấp hơn vốn cho vay ra tại các ngân hàng thương mại. Mất cân đối đầu
vào và đầu ra là thực tế khiến các ngân hàng khó tránh khỏi nguy cơ thiếu vốn. Các
ngân hàng thương mại đã chạy đua với nhau về lãi suất huy động do các chính sách
kiềm chế lạm phát của Chính phủ như tăng dự trữ bắt buộc, duy trì lãi suất cơ bản
thấp để hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp, kiềm chế tăng trưởng tín dụng, điều hành tỷ giá
ngoại tệ, … Vậy tại sao các ngân hàng thương mại phải huy động bằng mọi giá, ngay
cả khi bị lỗ khi cho vay ra? Đó là vì: Phải bằng mọi giá xóa ngay sự mất thanh khoản,
hay chêch lệch tài sản có và tài sản nợ trên báo cáo tài chính. Một dấu hiệu nhỏ của
vấn đề trên nếu thể hiện ở Báo cáo tài chính năm của một ngân hàng thương mại nào
đó cùng đồng nghĩa với việc thang điểm về xếp hạng rủi ro của ngân hàng đó do các
tổ chức trong và ngoài nước đánh giá sẽ bị ảnh hưởng và kéo theo là rất nhiều hậu quả
xấu. Mặt khác, các ngân hàng thương mại buộc phải huy động lỗ để tiếp tục cung cấp

SVTT: Ngô Văn Huy 20
Báo cáo thực tập Học Viện Tài Chính
vốn cho các hợp đồng tín dụng đã cam kết với các khách hàng truyền thống, khách
hàng VIP, nhằm giữ được uy tín trong kinh doanh và giữ chân được khách hàng.
Trong khi đó hiện nay, các ngân hàng thương mại lớn, ngân hàng thương mại quốc
doanh với mạng lưới giao dịch phục vụ huy động vốn ở khắp nơi và quan trọng là
nắm giữ khá nhiều lượng trái phiếu Chính phủ nên tính thanh khoản rất tốt và vì thế
vào thời điểm khó khăn này các ngân hàng thương mại lớn không những luôn ổn định
thanh khoản mà còn là đại gia trên thị trường liên ngân hàng, trong khi một số ngân
hàng khác phải đôn đáo xoay xở nguồn và chấp nhận mức chi phí vốn khủng khiếp.
Trong tương lai, Ngân hàng nhà nước sẽ phải xem xét cho phép các ngân hàng có
tiềm lực tài chính mua lại các ngân hàng nhỏ, tránh nguy cơ phá sản và đổ vỡ dây
chuyền. Hệ thống các ngân hàng nước ta hiện nay đang đứng trước một áp lực rất lớn
để nâng cao năng lực hệ thống và đảm bảo phát triển bền vững. Áp lực của hội nhập
thị trường quốc tế càng khiến nhu cầu củng cố vị thế cạnh tranh của ngân hàng trở nên
bức thiết. Do đó, hoạt động trong một môi trường có mức cạnh tranh cao, tất yếu sẽ
dẫn đến một số ngân hàng phải sáp nhập với nhau nhằm hình thành chỗ đứng vững
chắc trên thị trường. Trong điều kiện chính sách tiền tệ thắt chặt, nguồn vốn huy động
khó khăn, thanh khoản của các ngân hàng này suy giảm mạnh đe dọa đến an toàn hệ
thống. Ngân hàng nhà nước sẽ phải xem xét cho phép các ngân hàng có tiềm lực
mạnh hơn mua lại các ngân hàng này tránh nguy cơ phá sản và đổ vỡ dây chuyền.
Điều này buộc các ngân hàng nhỏ sẽ tìm kiếm cơ hội sáp nhập với nhau hoặc với
ngân hàng lớn hơn để có thể đáp ứng được yêu cầu về vốn. Những ngân hàng yếu
kém sẽ phải rời khỏi cuộc chơi, qua đó nâng cao tính ổn định của cả hệ thống, đảm
bảo tiềm lực tài chính và khả năng cạnh tranh cao.
Kết luận chương 1: từ việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về nguồn vốn huy
động của ngân hàng thương mại, ta có thể đưa ra một kết luận là: vốn huy động là
vốn chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của ngân hàng. Với đặc trưng
“đi vay để cho vay”, nguồn vốn huy động là nguồn lực chính, đóng vai trò quyết định
và có ý nghĩa sống còn đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Chính vì vậy,

các ngân hàng thương mại cần phải chú trọng xây dựng nguồn vốn huy động lớn
mạnh hợp lý để mở rộng quy mô hoạt động, đem lại lợi nhuận cao cho ngân hàng và
đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế.
SVTT: Ngô Văn Huy 21
Báo cáo thực tập Học Viện Tài Chính
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN TẠI
SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN
ĐỘI
2.1 Giới thiệu về NH TMCP Sacombank chi nhánh Thanh Hóa.
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của NH TMCP Sacombank chi nhánh Thanh
Hóa:
Ngân hàng TMCP Sacombank chi nhánh Thanh Hóa, có trụ sở tại Số 73
Nguyễn Huệ, Khu Phố 2, Phường Ngọc Trạo, Thị Xã Bỉm Sơn, Tỉnh Thanh Hóa.
PGD nằm trên tuyến đường I Bắc Nam, giao thông thuận tiện.
Sacombank chi nhánh Thanh Hóa được thành lập ngày 22/02/2006, tại địa chỉ
số 02 Phan Chu Trinh, Tp. Thanh Hóa với số lượng CBNV ban đầu là 37 người. Hiện
nay số lượng CBNV đã lên tới gần 90 người. Hoạt động chủ yếu của chi nhánh là
huy động vốn, cho vay và dịch vụ thanh toán, bảo lãnh, chuyển tiền, ngân quỹ và các
dịch vụ khác. Ngày 10/08/07 thành lập PGD Nguyễn Trãi. Ngày 19/03/2008 thành
lập PGD Bỉm Sơn, ngày 20/01/2010 thành lập PGD Lam Sơn, và ngày 04/07/2011
thành lập PGD Tĩnh Gia. Ngày 16/11/2009 đưa vào hoạt động trụ sở chính tại 126
-130 Nguyễn Trãi. Ngày 14/12/2009 chính thức khánh thành và khai trương trụ sở
mới tại 126 -130 Nguyễn Trãi .
Theo quyết định ủy quyền số: 66/2013/UQ-CNTH ngày: 25/04/2013 của Giám
đốc Ngân hàng Sài gòn Thường tín – chi nhánh Thanh Hóa.
ĐT: 0373.771.886
Fax: 0373.771.887
Giám đốc PGD: Ông Lê Ánh Ngọc.
Chức năng hoạt động: Huy động vốn, hoạt động tín dụng, dịch vụ thanh toán và ngân

quỹ; các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của pháp luật và Ngân hàng.
SVTT: Ngô Văn Huy 22
Báo cáo thực tập Học Viện Tài Chính
2.1.2 Cơ cấu tổ chức:
* Nhiệm vụ của các phòng, ban trong chi nhánh
a. Phòng cá nhân: công việc thực hiện
+ Chịu trách nhiệm quản lý, theo dõi xuyên suốt quá trình sử dụng sản phẩm
dịch vụ của khách hàng và khai thác hiệu quả mối quan hệ này.
SVTT: Ngô Văn Huy 23
BP. Dịch vụ KH
GĐ Chi nhánh
PGĐ 2PGĐ 1
P. Kế toán / TC
PB. Hành
chính
BP. Kế
toán
P. Hỗ trợ
KD
P. Cá nhân
P. Doanh
nghiệp
Bộ phận hỗ trợ
BP. Quản lý
TD
BP. Xử lý
GD
Trưởng phòng
GD
Phó Phòng /

TBP Hỗ trợ
Báo cáo thực tập Học Viện Tài Chính
+ Tìm kiếm, thu thập và quản lý thông tin khách hàng cá nhân, hướng dẫn cho
khách hoàn thành các bộ hồ sơ, chứng từ và thực hiện thủ tục theo quy định của từng
loại sản phẩm khi khách hàng sử dụng các sản phẩm dịch vụ đó
+ Thực hiện công tác xác minh, thẩm định và đề xuất ý kiến đối với các bộ hồ
sơ tín dụng
+ Tiến hành bán/ bán chéo các sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng cho khách
hàng cá nhân, thực hiện công tác chăm sóc khách hàng cá nhân
b. Phòng doanh nghiệp: công việc thực hiện
+ Chịu trách nhiệm quản lý, theo dõi xuyên suốt quá trình sử dụng sản phẩm
dịch vụ của khách hàng và khai thác hiệu quả mối quan hệ này.
+ Tìm kiếm, thu thập và quản lý thông tin khách hàng doanh nghiệp nhằm đánh
giá tiềm năng khách hàng và cung cấp thông tin về khách hàng cho các bộ phận khác
+ Thực hiện công tác xác minh, thẩm định và đề xuất ý kiến đối với các bộ hồ
sơ tín dụng
+ Tiến hành bán/ bán chéo các sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng cho khách
hàng doanh nghiệp, thu thập và xử lý các phản hồi của khách hàng.
+ Thực hiện các công việc khác theo phân công của cấp quản lý
* Thanh toán quốc tế.
+ Xử lý các giao dịch thanh toán quốc tế: Xử lý các nghiệp vụ liên quan đến
L/C nhập khẩu, nhờ thu nhập khẩu, L/C xuất khẩu, nhờ thu xuất khẩu, nhờ thu trơn,
mua bán ngoại tệ, thực hiện báo cáo về công tác thanh toán quốc tế cho Phòng Thanh
toán quốc tế.
+ Xử lý các giao dịch chuyển tiền quốc tế: Xử lý các nghiệp vụ chuyển tiền đi
nước ngoài; thực hiện việc xác nhận mang ngoại tệ; đầu mối thực hiện phát hành
bankdraft theo ủy quyền của Ban Tổng Giám đốc, xử lý nghiệp vụ hủy bankdraft theo
yêu cầu của khách hàng; phối hợp kiểm kê bankdraft rỗng theo quy định; mua bán
ngoại tệ phục vụ nhu cầu chuyển tiến đi nước ngoài hợp pháp theo quy định; thực
hiện các báo cáo về công tác chuyển tiền quốc tế cho Phòng Thanh toán quốc tế.

SVTT: Ngô Văn Huy 24
Báo cáo thực tập Học Viện Tài Chính
+ Chức năng khác: Lập chứng từ kế toán có liên quan đến công việc do bộ phận
phụ trách; quản lý và lưu trữ hồ sơ thanh toán quốc tế theo quy định; triển khai thực
hiện các phần công việc trong các quy trình tác nghiệp liên quan đến chức năng của
bộ phận; tham gia thực hiện các phần công việc trong các quy trình có liên quan đến
bộ phận; lập bảng phân công cho các nhân sự để thực hiện các nhiệm vụ trên.
c. Phòng Hỗ trợ: bao gồm các bộ phận: Quản lý tín dụng, xử lý giao dịch.
* Quản lý tín dụng:
+ Hỗ trợ công tác tín dụng: Thực hiện thủ tục bảo đảm tiền vay; tiếp nhận tài
sản bảo đảm.
+ Kiểm soát tín dụng: Kiểm soát lại hồ sơ cấp tín dụng và phản hồi lại cho Ban
lãnh đạo Chi nhánh những vấn để chưa đúng quy định (nếu có); hoàn chỉnh hồ sơ và
lập thủ tục giải ngân, thu phí (nếu có): hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm, giấy
nhận nợ; tiếp nhận bản chính giấy tờ sở hữu tài sản bảo đảm và các giấy tờ có liên
quan; tham gia cùng với chuyên viên khách hàng kiểm tra sử dụng vốn định kỳ và
đột xuất sau khi cho vay đối với khách hàng có nợ xấu; lập thủ tục giải chấp taì sản
bảo đảm; kiểm soát hồ sơ tín dụng tại các đơn vị trực thuộc chi nhánh theo quy định
của ngân hàng.
+ Quản lý nợ: Quản lý danh mục cho vay, bảo lãnh theo danh mục ngành nghề
kinh doanh, loại hình cho vay, hạn mức tín dụng theo chính sách tín dụng của ngân
hàng trong từng thời kỳ và đề xuất biện pháp thích hợp để hạn chế rủi ro, nâng cao
hiệu quả; Theo dõi và báo cáo cho Ban lãnh đạo Chi nhánh, thông báo cho Phòng
doanh nghiệp và Phòng cá nhân về tình hình thu vốn, lãi của chi nhánh và diễn biến
của từng món vay; Kiểm soát chặt chẽ tình hình nợ gia hạn, nợ quá hạn, đề xuất các
biện pháp cụ thể để giảm thiểu nợ quá hạn, nợ không thu được lãi; đề xuất biện pháp
thực hiện việc thu nợ đối với các khoản nợ trễ hạn, nợ quá hạn, nợ xấu; thực hiện các
báo cáo định kỳ và đốt xuất sau: tình hình nợ đến hạn trong 10 ngày kế tiếp; nợ trễ
hạn; nợ được gia hạn; nợ quá hạn đến 03 tháng, 06 tháng, 09 tháng, 12 tháng, trên 12
tháng; danh mục cho vay theo ngành nghề, theo loại khách hàng, theo lãi suất, theo

SVTT: Ngô Văn Huy 25

×