Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Công tác huy động vốn tại NHTMCP TiênPhong – Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.52 KB, 80 trang )

Luận văn tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
Mục Lục
Chương I. Những vấn đề cơ bản về công tác huy động vốn tại NHTM
1.1 . NHTM và các hoạt động của NHTM
1.1.1. Sự ra đời và phát triển của NHTM
1.1.2. Khái niệm NHTM
1.1.3. Chức năng và vai trò của NHTM
1.1.4. Các hoạt động kinh doanh của NHTM
1.2 . Nguồn vốn của NHTM
1.2.1. Vốn chủ sở hữu
1.2.2. Vốn huy động
1.2.3. Vốn vay
1.2.4. Nguồn vốn khác
1.3. Nâng cao hiệu quả huy động vốn của NHTM
1.3.1. Quan điểm về hiệu quả huy động vốn của NHTM
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn của NHTM
1.3.3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả huy động vốn
1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn
1.3.4.1. Nhân tố khách quan
1.3.4.2. Nhân tố chủ quan.
Chương II. Thực trạng công tác huy động vốn tại chi nhánh NH
2.1. Giới thiệu về chi nhánh NHTMCP Tiên Phong
SV: Phạm Thị Thúy CQ 46/ 15.02
1
Luận văn tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
2.1.1 Giới thiệu chung
2.1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
2.1.1.2. Các hoạt đông nghiệp vụ chính
2.1.1.3. Cơ cấu tổ chức
2.1.2. Đánh giá hiệu quả HĐKD của chi nhánh
2.2. Thực trạng công tác huy động vốn tại chi nhánh


2.2.1. Cơ cấu nguồn vốn
2.2.2. Tình hình biến động của từng loại vốn huy động
2.2.2.1.Huy động từ tiền gửi
2.2.2.2. Huy động vốn qua PHGTCG.
2.2.3. Mối quan hệ giữa huy động vốn và cho vay
2.3. Đánh giá về công tác huy động vốn tại chi nhánh
2.3.1. Những kết quả đat được
2.3.2. Những hạn chế trong công tác huy động vốn
2.3.3. Nguyên nhân
2.3.3.1. Nguyên nhân khách quan
2.3.3.2 Nguyên nhân chủ quan
Chương 3. Giải pháp và kiến nghị về công tác huy động vốn tại chi
nhánh
3.1. Mục tiêu và định hướng hoạt động.
3.2. Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả huy động vốn.
3.3. Một số kiến nghị nhằm thực hiện các giải pháp trên.
SV: Phạm Thị Thúy CQ 46/ 15.02
2
Luận văn tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
Lời mở đầu
Trong nền kinh tế thị trường, để tiến hành hoạt động sản xuất kinh
doanh các doanh nghiệp cần phải có những yếu tố cơ bản sau: sức lao
đông, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Để có được yếu tố này đòi
hỏi doanh nghiệp phải ứng ra một số vốn nhất định với quy mô và điều
kiện kinh doanh và trong quá trình hoạt động của mình vốn không ngừng
vận động, thường luân chuyển từ nơi thừa đến nơi thiếu để đáp ứng nhu
cầu của tooàn nền kinh tế.
Ngân hàng thương mại (NHTM) là doanh nghiệp đặc biệt, kinh doanh
trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng - Một tổ chức cung ứng vốn hữu hiệu cho
nền kinh tế. Việc tạo lập tổ chức và quản lý vốn của NHTM là một trong

những vấn đề được quan tâm hàng đầu không chỉ vì lợi ích riêng hàng
đầu của bản thân các NHTM mà còn sự phát triển chung của nền kinh tế.
Có thể nới ở Việt Nam hơn 80% lượng vốn là do NHTM cung cấp trong
khi thị trường chứng khoán trong chưa thực sự phát triển do vậy lượng
vốn huy động vốn bằng con đường tài chính trực tiếp thông qua phát hành
cổ phiếu, trái phiếu và GTCG còn rất nhỏ so với nhu cầu vốn của nền
kinh tế. Chính vì lý do đó vai trò của NHTM trong hoạt động huy động
vốn cho toàn nền kinh tế rất cần thiết và quan trọng.
Trong thời gian gần đây,lãi suất tiết kiệm và lãi suất cho vay trong các
ngân hàng biến động manh cả về mức độ và thời gian mặc dù NHNN đã
có những công cụ nhằm kiềm chế và quản lý nhưng có thời kỳ các NHTM
chay đua lãi suất để cạnh tranh trong hoạt động huy động vốn. Đồng thời
với tâm lý lạm phát cao vẫn còn tồn tại trong đa số khách hàng nên lượng
SV: Phạm Thị Thúy CQ 46/ 15.02
3
Luận văn tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
vốn huy động dường như đang dịch chuyển về các gói tiền gửi có kỳ hạn
ngắn, điều này sẽ khó khăn cho các NHTM vì vậy công tác huy động vốn
trong các NHTM cần phải có những chiến lược và cách thức cụ thể để có
được cơ cấu vốn hợp lý, vừa huy động với chi phí thấp nhất , đảm bảo sử
dụng hợp lý và hiệu quả.
Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa lớn lao của vấn đề trên với
những kiến thức đã được học tập, nghiên cứu tại trường và sau một thời
gian thực tập tại NHTMCP Tiên Phong – Chi nhánh Hoàn Kiếm, một
ngân hàng còn ít tuổi đời tuy nhiên với sức mạnh công nghệ và con người
trong tương lai sẽ hứa hẹn sẽ cung cấp một lượng vốn cho nền kinh tế. Để
làm được điều này thì Ngân hàng phải chuẩn bị tiềm lực tài chính vững
mạnh và trong sạch chính vì thế em đã quyết định lựa chọn đề tài : “
Công tác huy động vốn tại NHTMCP TiênPhong – Thực trạng và giải
pháp” làm luận văn tốt nghiệp.

SV: Phạm Thị Thúy CQ 46/ 15.02
4
Luận văn tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
Chương I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC HUY ĐỘNG
VỐN TẠI NHTM
1.1. Những vấn đề cơ bản về công tác huy động vốn tại NHTM
1.1.1. Sự ra đời và phát triển của NHTM
Lịch sử đã nghi nhận sự ra đời và phát triển của ngành Ngân hàng
được quyết đinh bởi quá trình phát triển của các mối quan hệ hàng hóa
tiền tệ. Nghề Ngân hàng được bắt đầu từ nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền
của các thợ vàng, việc lưu hành từng đồng tiền của mỗi quốc gia và vùng
lãnh thổ kết hợp với thương mại và giao lưu quốc tế đã tạo ra nhu cầu đổi
tiền hoặc đúc tiền tại các cửa khẩu hoặc trung tâm thương mại. Người làm
nghề đúc tiền hoặc đổi tiền thực hiện kinh doanh tiền tệ bằng cách đổi
ngoại tệ lấy bản tệ hoặc ngược lại, lợi nhuận thu được là chênh lệch giữa
giá mua và giá bán. Bên cạnh các nghiệp vụ trên người làm nghề đổi tiền,
đúc tiền còn thực hiện cả nghiệp vụ cất trữ hộ. Việc cất trữ hộ người khác
là điều kiện để thực hiện thanh toán không hộ và thanh toán không dùng
tiền mặt, với ưu điểm của thanh toán không dùng tiền mặt đã thu hít
khách hàng gửi tiền nhiều hơn. Trong điều kiện lưu thông tiền kim loại
các chủ cửa hàng vàng bạc vừa đổi tiền, vừa cất trữ hộ và thanh toán hộ –
các cửa hàng vàng bạc này gọi là Ngân hàng của những thợ vàng. Ban
đầu các Ngân hàng hoạt động bằng vốn tự có để tài trợ cho các hoạt động
của mình nhưng điều đó không kéo dài. Từ thực tiễn, các Ngân hàng nhận
thấy thường xuyên có người gửi tiền và người rút tiền song cả người
người gửi tiền không cùng đồng thời rút tiền ra một lúc nên luôn có một
lượng tồn khá lớn nằm tại Ngân hàng. Do tính chất vô danh của tiền, chủ
Ngân hàng có thể sử dụng tạm thời một phần tiền gửi của khách hàng để
SV: Phạm Thị Thúy CQ 46/ 15.02

5
Luận văn tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
cho vay. Từ đó hoạt động cơ bản của Ngân hàng được hình thành và phát
triển
Hình thức Ngân hàng đầu tiên là Ngân hàng của các thợ vàng hoặc
của những kẻ cho vay nặng lãi – thực hiện cho vay đối với các cá nhân
chủ yếu là những người giàu nhằm phục vụ mục đích tiêu dùng. Sau này
khi sản xuất phát triển hơn, quan hệ trao đổi mua bán sản phẩm hàng hóa
giữa các vùng, các quốc gia sôi động hơn thì các nhà buôn nhận thấy rằng
các Ngân gang thợ vàng này không đáp ứng được nhu cầu của họ. Do vậy
một số nhà buôn đã tự thành lập Ngân hàng và gọi là NHTM.
Đến cuối thế kỷ XVIII lưu thông hàng hóa được mở rộng cả về
quy mô và phạm vi. Trong bối cảnh ấy việc có nhiều Ngân hàng phát
hành với nhiều loại giấy bạc khác nhau đã cản trở quá trình phát triển
kinh tế. Mặt khác sự phá sản của nhiều Ngân hàng đã gây tổn thất lớn cho
người gửi tiền nói riêng và nên kinh tế nói chung. Đặc biệt sau khủng
hoảng kinh tế 1929 – 1933 thì xu hướng chung trên toàn thế giới là quốc
hữu hóa các ngân hàng phát hành. Các Ngân hàng này không được phép
phát hành kỳ phiếu, Phát hành giấy bạc Ngân hàng mà chức năng này
được chuyển về NHTW , NHTW không chỉ phát hành giấy bạc Ngân
hàng mà còn thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực Tiền tệ –
Tín dụng – Ngân hàng, đó là sự ra đời của NHTW còn các Ngân hàng
khác chỉ thực hiện các chức năng nhận tiền gửi, cho vay, đầu tư và làm
dịch vụ thanh toán và gọi các Ngân hàng này là ngân hàng chuyên doanh
hay Ngân hàng thương mại.
Trong giai đoạn hiện nay cùng với sự phát triển của khoa học kỹ
thuật và xu thế chung của nên kinh tế thế giới thì hệ thống NHTM đã phát
triển ngày càng đa dạng về loại hình, phạm vi, về quy mô, về chất lượng
hoạt động và có mối liên kết trên toàn cầu.
SV: Phạm Thị Thúy CQ 46/ 15.02

6
Luận văn tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
1.1.2. Khái niệm NHTM.
Ở Việt Nam, hiện đang trong bước phát triển nền kinh tế theo cơ
chế thi trường có sự quản lý của Nhà nước, thực hiện chính sách kinh tế
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chu nghĩa, các TCTD trong đó
có các NHTM đã được tạo lập để kinh doanh tiền tệ – Tín dụng. Theo
điều 4 luật các TCTD của Việt Nam có đưa ra các khái niệm sau.
“Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất
cả các hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tôt
chức tín dụng phi ngân hàng, tôt chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng
nhân dân”.
“Ngân hàng là loại hình tỏ chức tín dụng có thể được thực hiện tất
cả các hoạt động ngân hàng theo quy định của luật này. Theo tính chất và
mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương
mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã”.
“Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất
cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy
định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”.
Nhìn chung các NHTM có các đặc điểm sau:
+ Là tổ chức được phép nhận tiền gửi với trách nhiệm hoàn trả.
+ Sử dụng tiền gửi khách hàng để cho vay, chiết khấu và đầu tư.
+ Cung cấp các dịch vụ thanh toán và dịch vụ ngân hàng khác cho
khách hàng.
1.1.3. Chức năng của NHTM
Chức năng trung gian tín dụng
Làm trung gian tín dụng trong nền kinh tế, NHTM thực hiện các
nghiệp vụ:
SV: Phạm Thị Thúy CQ 46/ 15.02
7

Luận văn tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
Thứ nhất, NHTM huy động các khoản tiền nhàn rỗi của các chủ thể
kinh tế xã hội, từ các doanh nghiệp hộ gia đình, cá nhân, cơ quan nhà
nước, Ngân hàng trung ương, Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín
dụng khác… để hình thành nguồn vốn cho vay.
Thứ hai, Ngân hàng thương mại dùng nguồn vốn đã huy động được
để cho vay đối với chủ thể kinh tế thiếu vốn – có nhu cầu bổ sung vốn,
gửi vào tài khoản dự trữ bắt buộc hoặc tài khoản thanh toán tại Ngân hàng
trung ương, Ngân hàng thương mại hoặc các tổ chức tín dụng khác.
Như vậy, hoạt động của Ngân hàng mại là: “đi vay để cho vay”, là
“cầu nối” giữa người có vốn dư thừa và người có nhu cầu về vốn.
Chức năng trung gian thanh toán
vụ hoặc Ngân hàng thương mại làm trung gian thanh toán trên cơ
sở những hoạt động đi vay để cho vay. Việc nhận tiền gửi và theo dõi các
khoản chi trên tài khoản tiền gửi cỉa khách hàng là tiền đề để Ngân hàng
thực hiện chức năng này. Mặt khác, việc thanh toán bằng tiền trực tiếp
bằng tiền mặt giữa các chủ thể kinh tế có nhiều hạn chế như không an
toàn, chi phí lớn…đã tạo nên nhu cầu thanh toán qua Ngân hàng.
Khi làm trung gian thanh toán, ngân hàng tiến hành các nghiệp vụ
như: Mở tài khoản tiền gửi, nhận vốn tiền gửi vào tài khoản và thanh toán
theo yêu cầu của khách hàng. Trong đó, thanh toán theo yêu cầu của
khách hàng là kết quả sau khi thực hiện hai công việc trên. Ngân hàng
trích tiền từ tài khoản tiền gửi của khách hàng để thanh toán tiền hàng
hóa, dịch nhập vào tài khoản tiền gửi, tiền thu từ bán hàng và các khoản
thu khác theo theo lệnh của khách hàng.
Chức năng tạo tiền.
chức năng này được thưc hiện trên hai cơ sở:
SV: Phạm Thị Thúy CQ 46/ 15.02
8
Luận văn tốt nghiệp Học Viện Tài Chính

Thứ nhất, khi hệ thống Ngân hàng hai cấp đã được hình thành, các
Ngân hàng không còn hoạt động riêng lẻ mà theo hệ thống. Trong đó
Ngân hàng Trung ương giữ độc quyền phát hành giấy bạc Ngân hàng với
vai trò của các ngân hàng. Còn các Ngân hàng thương mại chuyên kinh
doanh tiền tệ trong mối quan hệ với các doanh nghiệp và cá nhân…
Thứ hai, với chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh
toán, Ngân hàng thương mại có khả năng tạo ra tiền gửi thanh toán.
Thông qua chức năng làm trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số tiền
vay vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay lại được khách hàng
sử dụng để thanh toán chuyển khoản cho khách hàng ở Ngân hàng khác
và chỉ thực hiện nghiệp vụ cho vay, Ngân hàng mới bắt đầu tạo tiền.
Từ một khoản tiền gửi ban đầu, thông qua chuyển khoản trong hệ
thống Ngân hàng thương mại, số tiền gửi đã tăng lên gấp bội so với lượng
tiền gửi ban đầu.
1.1.4. Các hoạt động kinh doanh của NHTM.
1.1.4.1. Nhận tiền gửi
Đây là hoạt đông cơ bản của NHTM, Ngân hàng nhận được các
khoản tiền gửi từ khách hàng dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn,
tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Ngân hàng
nhận tiền gửi của các cá nhân, của các tổ chức kinh tế và Ngân hàng phải
hoàn trả gốc và lãi cho khách hàng khi đến hạn hoặc khi khách hàng có
nhu cầu sử dụng là đến rút tiền ở Ngân hàng. Hoạt động này đã thu hút
một lượng lớn lượng tiền tạm thời nhàn rỗi để phục vụ cho các hoạt động
của mình như hoạt động cho vay và thông qua đó cung cấp phương tiện
thanh toán cho nền kinh tế.
1.1.4.2. Hoạt động tài trợ của Ngân hàng
SV: Phạm Thị Thúy CQ 46/ 15.02
9
Luận văn tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
Trên cơ sở tiền gửi từ nền kinh tế mà Ngân hàng đã tiếp nhận và

quản lý được sau khi trừ đi phần dự trữ cần thiết theo quy định, phần còn
lại sẽ được Ngân hàng sử dụng để tài trợ cho hoạt động của mình. Do tính
đa dạng của khách hàng và nhu cầu phong phú về phương thức sử dụng
tiền tài trợ của khách hàng nên Ngân hàng đã thiết lập và xây dựng các
phương thức tài trợ khác nhau
- Tài trợ cho các hoạt động của chính phủ
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng
đã trở thành trọng tâm chú ý của chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn của
chính phủ và thường là cấp bách trong khi thu không đủ chi hoặc thu chưa
đủ thì chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản vay của ngân
hàng. Phương thức được sử dụng nhiều nhất là ngân hàng thực hiện vụ
mua bán tín phiếu, trái phiếu hoặc làm đại lý phát hành các giấy tờ có giá
cho chính phủ, qua nghiệp vụ này một mặt vừa thực hiện nghĩa vụ với
nhà nước mặt khách vừa đem đem lại thu nhập cho ngân hàng.
- Tài trợ cho nền kinh tê
Để tiến hành hoạt động kinh doanh thì vấn đề sống còn là phải có
nguồn lực tài chính đủ mạnh, trước hết là để tiến hành hoạt động sản xuất
kinh doanh mặt khác là để mở rộng quy mô và tham gia cạnh tranh để
đứng vững trong nền kinh tế thị trường. Nguồn lực này ngoài nguồn vốn
tự có của các Doanh nghiệp (thường chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ), thì phần lớn
các doanh nghiệp đều phải dựa vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Tùy
theo nhu cầu và loại hình kinh doanh mà Ngân hàng chấp nhận cấp tín
dụng theo các phương thức khác nhau trên cơ sở thỏa mãn các điều kiện
vay vốn do ngân hàng đưa ra. Khi thực hiện nghiệp vụ này thì nó đem lại
lợi nhuận rất lớn cho ngân hàng và đây là nguồn thu chủ yếu của ngân
hàng.
SV: Phạm Thị Thúy CQ 46/ 15.02
10
Luận văn tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
Cho vay: là hình thức cấp tín dụng, theo đó Ngân hàng giao cho

khách hàng một khoản tiền để sử dụng trong một khoảng thời gian và
theo mục đích nhất định trên có sở với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và
lãi. Đây là phương thức phổ biến nhất trong hoạt đông tài trợ của Ngân
hàng đối với khách hàng.
Cho thuê tài chính: là hoạt động tín dụng trung và dài hạn kéo dài
trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là các tổ chức tín
dụng và khách hàng đi thuê. Khi kết thúc thời hạn thuê, khách hàng có thể
mua lại tài sản đó hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thỏa
thuận trong hợp đông thuê. Trong thời hạn thuê các bên không được đơn
phương hủy bỏ hợp đồng. Hình thức này giúp người cho thuê có ngay tài
sản có giá trị lớn để phục vụ cho sản xuất nhưng người thuê phải trả lãi
suất thuê thường cao hơn các hình thức khác.
Góp vốn đầu tư: là hình thức ngân hàng cùng với một số đối tác
cùng góp vốn để thực hiện các dự án sản xuất kinh doanh. Có thể là hình
thức đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp và ngân hàng được hưởng quyền lợi
và nghĩa vụ như một cổ đông thường
Mua nợ: Ngân hàng có thể tài trợ cho khách hàng thông qua việc
mua lại các khoản nợ hay chiết khấu các chứng từ có giá.
- Mua bán ngoại tệ
Đây là hình thức Ngân hàng làm trung gian trong việc chuyển đổi
các đồng tiền của các quốc gia với nhau theo nhu cầu của khách hàng dựa
trên tỷ giá mua bán các đông tiền đó với nhau, qua hoạt động này Ngân
hàng thu được lợi nhuận từ chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán. Số
lượng ngoại tệ mà Ngân hàng mua được có thể dùng để cho vay đối với
các khách hàng có nhu cầu vay bằng ngoại tệ hoặc dùng để thanh toán
trong các giao dịch bằng ngoại tệ.
SV: Phạm Thị Thúy CQ 46/ 15.02
11
Luận văn tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
- Các dịch vụ của Ngân hàng

• Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán hộ
Thông qua việc thu hút khách hàng (Cá nhân hoặc tổ chức) mở tài
khoản giao dịch tại ngân hàng, ngân hàng sẽ quản lý tài khoản của khách
hàng và tiến hành chi trả tiền hàng hóa dịch vụ cũng như thu hộ các khoản
phải thu của chủ tài khoản theo lệnh của họ. Thực hiện nghiệp này một
mặt ngân hàng giúp khách hàng giảm bớt được chi phí trong quá trình
thanh toán mặt khác ngân hàng tập trung được một lượng tiền lớn trong
nền kinh tế để sử dụng cho các hoạt động của mình.
• Bảo quản vật có giá
Đây là một dịch vụ mang lại thu nhập khá cao cho các ngân hàng.
Trên thế giới dịch vụ này rất phát triển. Nội dung của nghiệp vụ này là
các ngân hàng cho khách hàng thuê két của ngân hàng để bảo quản tài sản
của mình và thu phí từ hoạt động cho thuê đó.
• Dịch vụ bảo lãnh
Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của các tổ chức tín
dụng với bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho
khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết.
Muốn vạy khách hàng phải có được sự đồng ý của ngân hàng, nó phải
tuân theo một qui trình bảo lãnh riêng. Khi ngân hàng thực hiện nghĩa vụ
thay cho khách hàng thì ngân hàng được hưởng một khoản phí gọi là phí
bảo lãnh, mức phí này tuỳ thuộc vào mức độ rủi ro của từng hợp đồng bảo
lãnh.
• Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn đầu tư
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng có rất nhiều
chuyên gia về quản lý tài chính vì vậy có rất nhiều cá nhân và doanh
SV: Phạm Thị Thúy CQ 46/ 15.02
12
Luận văn tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
nghệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ.
Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập,

mua bán và sáp nhập doanh nghiệp.
• Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán
Với trình độ của đội ngũ cán bộ công nhân viên và hệ thống cơ sở
vật chất kỹ thuật, ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng các thông tin về
chứng khoán và đầu tư chứng khoán như các danh mục đầu tư, quản lý tài
khoản, mua bán hộ, bảo quản chứng khoán…
• Cung cấp dịch vụ đại lý
Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi
nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi, nhiều ngân hàng (thường là các
Ngân hàng lớn) cung cấp dịch vụ đại lý cho các ngân hàng khác như
thanh toán hộ, phát hành chứng chỉ tiền gửi, làm Ngân hàng đầu mối
trong đồng tài trợ…
Đây là hoạt động cơ bản của NHTM, Ngân hàng nhận được các
khoản tiền gửi từ khách hàng dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn,
tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Ngân hàng
nhận tiền gửi của các cá nhân, của các tổ chức kinh tế và Ngân hàng phải
hoàn trả gốc và lãi cho khách hàng khi đến hạn hoặc khi khách hàng có
nhu cầu sử dụng là đến rút tiền ở Ngân hàng. Qua hoạt động này Ngân
hàng đã thu hút một lượng lớn tiền tạm thời nhàn rỗi để phục vụ cho các
hoạt động của mình như hoạt động cho vay và thông qua đó cung cấp
phương tiện thanh toán cho nền kinh tế.
1.2. Nguồn vốn của NHTM.
Nguồn vốn của NHTM là toàn bộ các nguồn tiền tệ mà ngân hàng
tạo lập, huy động được để cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ ngân
SV: Phạm Thị Thúy CQ 46/ 15.02
13
Luận văn tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
hàng. Nguồn vốn của NHTM bao gồm: vốn chủ sở hữu, vốn huy động,
vốn vay và một số loại vốn khác.
1.2.1. Vốn chủ sở hữu

Vốn chủ sở hữu là vốn thuộc quyền sở hữu của NHTM, đó là
nguồn tiền được đóng góp chủ yếu bởi người chủ ngân hàng. Vốn chủ sở
hữu của ngân hàng bao gồm nhiều loại khác nhau và được phân thành vốn
cấp 1 và vốn cấp 2. Trong đó: Vốn cấp 1 (vốn cơ bản) được xem là sức
mạnh và tiềm lực thực sự của ngân hàng; Vốn cấp 2 (vốn bổ sung) được
giới hạn tối đa bằng 100% vốn cấp 1.
Theo các văn bản hiện hành của Ngân hàng Nhà nược Việt Nam,
vốn của NHTM được xác định như sau.
• Vốn cấp 1 bao gồm: vốn điều lệ, quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ,
quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ, lợi nhuận không chia, thặng dư vốn cổ
phần được tính vào vốn theo quy định của pháp luật trừ phần dùng để
mua cố phiếu quỹ (nếu có).
- Vốn điều lệ là số vốn được ghi trong điều lệ hoạt động của
NHTM. Tùy theo hình thức sở hữu mà vốn điều lệ của NHTM được hình
thành từ các nguồn khác nhau: Đối với NHTM nhà nước, vốn điều lệ do
ngân sách nhà nước cấp khi thành lập và được bổ sung trong quá trình
hoạt động; NHTM cổ phần, vốn này do các cổ đông đóng góp; Ngân hàng
liên doanh do các bên tham gia liên doanh góp; chi nhánh ngân hàng nước
ngoài hoạt động tại Việt Nam, vốn điều lệ do ngân hàng mẹ ở nước ngoài
cấp.
- Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ và đầu tư phát triển nghiệp vụ: các
quỹ này được hình thành trong quá trình hoạt động và được tích lũy theo
thời gian để sử dụng cho các mục đích cụ thể của ngân hàng. Việc trích
SV: Phạm Thị Thúy CQ 46/ 15.02
14
Luận văn tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
lập và sử dụng các các quỹ dự trữ của ngân hàng được thực hiện theo quy
định của pháp luật trong từng thời kỳ.
- Lợi nhuận không chia là phần thu nhập của ngân hàng được giữ
lại trong quá trình kinh doanh thay vì dùng để chi trả cổ tức cho các cổ

đông.
- Thặng dư vốn cổ phần chính là phần chênh lệch giữa giá trị thị
trường của cổ phiếu của ngân hàng và mênh giá của nó. Phần thặng dư
này phụ thuộc vào tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng và sự
biến động của thị trường Chứng khoán nói chung.
• Vốn cấp 2 bao gồm:
- Giá trị tăng thêm của tài sản cố định và tài sản tài chính được định
giá theo quy định của pháp luật. Do giá trị thị trường của tài sản có thể
thay đổi theo thời gian, nên vốn do đánh giá lại tài sản thường không ổn
định, vì vậy các ngân hàng chỉ được tính vào vốn cấp 2 một phần giá trị
tăng thêm của tài sản. Theo quy định hiện hành thì vốn cấp 2 gồm: 50%
giá trị tăng thêm của tài sản cố định và 40% giá trị tăng thêm của tài sản
tài chính được đánh giá lại theo quy định của pháp luật.
- Quỹ dự phòng tài chung: đây là các khoản tiền được trích lập cho
những tổn thất chưa xác định được trong quá trình phân loại nợ và trích
lập cụ thể , trong các trường hợp khó khăn về tình hình tài chính của ngân
hàng khi chất lượng các khoản nợ suy giảm. Việc trích lập và sử dụng dự
phòng chung được thực hiện theo quy định của pháp luật. Theo quy định
hiện hành mức dự phòng được tính vào vốn cấp 2 tối đa bằng 1,25% tổng
tài sản có rủi ro.
- Các trái phiếu chuyển đổi và một số các công cụ nợ khác thỏa
mãn các điều kiện do Ngân hàng nhà nước quy định theo TT 13/ 2010 –
NHNN. Đây là khoản nợ vốn dài hạn do các nhà đầu tư bên ngoài góp
SV: Phạm Thị Thúy CQ 46/ 15.02
15
Luận văn tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
vốn . Vì vậy các nhà quản lý Ngân hàng chỉ được tính và vốn cấp 2 khi
các quy định về công cụ này thỏa mãn các điều kiện do Ngân hàng trung
ương quy định về thời hạn, về đảm bảo của Ngân hàng khi phát hành, về
điều chỉnh tăng lãi suất, về thanh toán nợ gốc và lãi.

Do tính chất đặc thù trong kinh doanh Ngân hàng, nên số vốn
chủ sở hữu chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn hoạt động
của NHTM. Song vốn chủ sở hữu của Ngân hàng lại đóng một vai trò
quan trọng và có ý nghĩa rất lớn. Đây là điều kiện cho sự ra đời và hoạt
động của NHTM, là căn cứ để tính toán tỷ lệ an toàn trong kinh doanh
của Ngân hàng.
1.2.2. Vốn huy động:
Vốn huy động của NHTM dưới hình thức bằng tiền (nội tệ và ngoại
tệ) và bằng vàng được phân loại theo công cụ huy động vốn bao gồm hai bộ
phận: vốn huy động từ tiền gửi và phát hành giấy tờ có giá.
1.2.2.1. Vốn huy động từ tiền gửi
Đây là bộ phận chủ yếu trong cơ cấu tài sản nợ của các Ngân hàng
Thương mại. Huy động tiền gửi là đặc trưng cơ bản trong kinh doanh của
các ngân hàng. Tiền gửi bao gồm :
- Tiền gửi thanh toán (thường không có kỳ hạn)
Đó là các khoản tiền gửi không kỳ hạn trước hết được sử dụng để tiến
hành thanh toán, chi trả cho các hoạt động hàng hoá, dịch vụ và các khoản
chi khác phát sinh trong quá trình kinh doanh một cách thường xuyên, an
toàn và thuận tiện. Tiền gửi thanh toán thường được bảo quản tại ngân hàng
trên hai loại tài khoản : tài khoản tiền gửi thanh toán và tài khoản vãng lai.
Đối với tài khoản tiền gửi thanh toán, việc rút tiền hoặc chi trả cho bên thứ
ba được thực hiện bằng séc hay chuyển khoản. Tài khoản vãng lai là tài
SV: Phạm Thị Thúy CQ 46/ 15.02
16
Luận văn tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
khoản có lúc dư Nợ có lúc dư Có. Với tài khoản này, khách hàng còn có thể
được ngân hàng dáp ứng nhu cầu tín dụng trong một thời gian nhất định.
Đứng trên góc độ ngân hàng, tiền gửi không kỳ hạn là một khoản nợ
mà ngân hàng phải chủ động trả cho khách hàng vào bất cứ lúc nào. Tuy
nhiên, trong mỗi ngân hàng do có sự không khớp nhịp giữa xuất và nhập

trên mỗi tài khoản tiền gửi thanh toán của doanh nghiệp hay giữa các tài
khoản của các doanh nghiệp làm cho nhập lớn hơn xuất, tạo nên tồn khoản
mà ngân hàng được phép sử dụng một phần làm vốn kinh doanh.
- Tiền gửi có kỳ hạn
Là loại tiền được uỷ thác vào ngân hàng trên cơ sở có sự thoả thuận về
thời gian rút tiền giữa khách hàng và ngân hàng. Như vậy, theo nguyên tắc
khách hàng ký thác chỉ được rút ra khi đến hạn đã thoả thuận. Đại bộ phận
nguồn tiền gửi này có nguồn gốc từ tích luỹ và xét về bản chất chúng được
ký thác với mục đích hưởng lãi. Do đó, khác với tiền gửi không kỳ hạn yếu
tố lãi suất có tác động rất lớn đến nguồn này. Về cơ bản, các khoản tiền có
kỳ hạn không được sử dụng để tiến hành thanh toán như các tài khoản chi trả
bằng vốn trên tài khoản vãng lai. Thông thường, tiền gửi có kỳ hạn là các
khoản tiền gửi có thời hạn dài và có lãi suất cao.
Tiền gửi có kỳ hạn giữ vai trò trung gian giữa tiền gửi thanh toán và
tiền gửi tiết kiệm. Đây là nguồn tiền tương đối ổn định, ngân hàng có thể sử
dụng phần lớn tồn khoản vào kinh doanh. Để tăng cường khả năng huy động
nguồn này, trước hết các Ngân hàng Thương mại thường áp dụng nhiều kỳ
hạn khác nhau nhằm đáp ứng được mọi nhu cầu của các loại khách hàng
khác nhau. Mỗi kỳ hạn ngân hàng thường áp dụng một mức lãi suất tương
ứng, với nguyên tắc thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
- Tiền gửi tiết kiệm
SV: Phạm Thị Thúy CQ 46/ 15.02
17
Luận văn tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
Ở các nước phát triển, trong các loại tiền gửi vào ngân hàng thì tiền gửi
tiết kiệm đứng ở vị trí thứ hai về mặt số lượng. Tiền gửi tiết kiệm là khoản
để dành của cá nhân được gửi vào ngân hàng nhằm hưởng lãi theo định kỳ.
Tiền gửi tiết kiệm gồm có : tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn.
+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là khoản tiền gửi có thể rút ra bất cứ
lúc nào song không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho

người khác.
+ Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là khoản tiền có sự thoả thuận về thời
hạn gửi và rút tiền, có mức lãi suất cao hơn so với tiền gửi tiết kiệm
không kỳ hạn.
1.2.2.2. Vốn huy động qua phát hành giấy tờ có giá.
Các Ngân hàng Thương mại còn tăng cường nguồn vốn bằng cách
phát hành các phiếu nợ như kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu Ngân hàng
Thương mại. Các hình thức này ngày càng phổ biến và mang lại những kết
quả tốt .
Phát hành các loại phiếu nợ:
- Trái phiếu và kỳ phiếu ngân hàng là những hình thức huy động vốn
rất cơ động và thoáng. Bằng các công cụ này các ngân hàng có thể tạo ra
một khối lượng vốn lớn như mong muốn một cách nhanh chóng để đáp ứng
nhu cầu vốn cấp bách. Điều này đặc biệt cần thiết khi nền kinh tế có lạm
phát. Các trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng được phát hành ra vừa có tác dụng
duy trì khối lượng huy động vừa có tác dụng chống lạm phát. Các Ngân
hàng thương mại phải trả lãi suất cao hơn cho các hình thức huy động này so
với lãi suất tiền gửi huy động. Như vậy, khi thực hiện huy động vốn dưới
các hình thức này, các ngân hàng phải căn cứ vào đầu ra để quyết định về
khối lượng huy động, mức lãi suất và thời hạn, phương pháp huy động vốn.
Vốn này chỉ được huy động trong một thời gian nhất định, khi đã đủ khối
SV: Phạm Thị Thúy CQ 46/ 15.02
18
Luận văn tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
lượng vốn theo dự kiến các ngân hàng sẽ ngừng việc huy động (bán) kỳ
phiếu, trái phiếu.
1.2.2.3. Tiền gửi khác.
Ngoài hai loại tiền gửi trên tại các NHTM còn có thêm các khoản tiền
gửi khác như:
- Tiền gửi của TCTD khác.

- Tiền gửi của Kho bạc nhà nước.
- Tiền gửi của các đoàn thể xã hội…
1.2.3. Vốn đi vay
Trong quá trình sản xuất kinh doanh của các NHTM luôn có tình trạng
tạm thòi thừa và thiếu vốn, đó là khi huy động vốn nhưng chưa cho vay hết,
hay khi ngân hàng có nhu cầu vay lớn nhưng nguồn hiện tại không đủ, hoặc
người rút tiền trước thơi hạn trong khi đó vốn cho vay chưa đến lúc thu hồi.
Khi đó các NHTM có thể gửi vào các TCTD khác để hưởng lãi, hay đi vay
vốn để tận dụng cơ hội kinh doanh hoặc đảm bảo khả năng thanh toán.
NHTM có thể vay vốn ở các TCTD khác hoặc vay vốn ở NHNN.
Huy động vốn thông qua việc vay các Ngân hàng Thương mại, các tổ
chức tín dụng và ngân hàng trung ương (huy động thông qua các hình thức
vay vốn khác trên thị trường ):
Các Ngân hàng Thương mại khi xuất hiện trên thị trường để vay vốn
thường do một số nguyên nhân cấp thiết như thiếu hụt dự trữ tại ngân hàng
trung ương, thiếu tiền mặt nên ngoài việc phát hành phiếu nợ, các Ngân
hàng thương mại có thể đi vay lẫn nhau giữa các ngân hàng tại những khoản
dự trữ tại ngân hàng trung ương.
Trong trường hợp vốn vay trên tiếp tục không đáp ứng được đủ nhu
cầu sử dụng của Ngân hàng Thương mại thì Ngân hàng Thương mại sẽ đi
vay của ngân hàng trung ương. Trong quan hệ với ngân hàng trung ương,
SV: Phạm Thị Thúy CQ 46/ 15.02
19
Luận văn tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
các Ngân hàng Thương mại đóng vai trò là khách hàng thường xuyên và
ngân hàng trung ương với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng đồng thời
là người “cứu cánh cuối cùng” đối với các Ngân hàng Thương mại.
1.2.4. Nguồn vốn khác.
Bên cạnh nguồn vốn nêu trên, tring quá trình hoạt động các NHTM
còn có thể tạo lập vốn cho mình từ nhiều nguồn khác:

- Vốn trong thanh toán: vốn trong thanh toán là số vốn có được do
Ngân hàng làm trung gian thanh toán trong nền kinh tế. Cụ thể:
+ Số vốn trong thời gian đã trích khỏi tài khoản tiền gửi thanh toán
của người trả tiền lương nhưng chưa chuyển vào tài khoản của người
được hưởng do phải luân chuyển, xử lý chứng từ thanh toán.
+ Số vốn trong thời gian khách hàng lưu ký tại Ngân hàng nhưng
chưa thanh toán trong một số hình thức thanh toán như thanh toán bằng:
séc bảo chi, thư tín dụng, thẻ thanh toán ký quỹ…
Khi công nghệ thanh toán của Ngân hàng ngày càng hiện đại, quy
trình thủ tục thanh toán được cải tiến thì thời gian của mỗi cuộc thanh
toán giảm đi đáng kể, do đó vốn mà Ngân hàng có được trong mỗi khoản
thanh toán cũng giảm. Nhưng do ngày càng có nhiều khách hàng mở tài
khoản và thanh toán được thực hiện qua Ngân hagf ngày càng tăng, làm
cho số vốn này có điều kiện gia tăng.
- Vốn ủy thác đầu tư, tài trợ của Chính phủ hoặc của các tổ chức
trong và ngoài nước cho các chương trình dự án phát triển kinh tế, văn
hóa – xã hội. Đây là nguồn vốn mà ngân hàng có được do làm đại lý nhận
ủy thác của các tổ chức trong và ngoài nước để thực hiện đầu tư cho
những chương trình dự án. Trong thời gian vốn đã được ngân hàng tiếp
nhận nhưng chưa giải ngân hết theo kế hoạch hoặc vốn cho vay đã thu hồi
về nhưng chưa dến hạn chuyển lại cho chủ đầu tư, Ngân hàng có được
SV: Phạm Thị Thúy CQ 46/ 15.02
20
Luận văn tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
một số vốn kinh doanh. Mặt khác khi thực hiện nghiệp vụ này, ngân hàng
sẽ được hưởng hoa hồng phí.
Ngoài ra, Ngân hàng làm đại lý còn làm đại lý bán cổ phiếu, trái
phiếu cho các doanh nghiệp, cũng như thu hộ lợi tức đầu tư chứng khoán
cho khách hàng…những nghiệp vụ này cũng tạo thêm được nguồn vốn
cho Ngân hàng.

Các nguồn vốn khác của Ngân hàng có thể không nhiều, thời gian
sử dụng đôi khi rất ngắn, nhưng điều đáng quan tâm là nguồn vốn này
ngân hàng không phải tốn kém chi phí huy động nhưng lại có điều kiện
phát triển các nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng khác, phục vụ tốt nhất nhu
cầu của khách hàng.
1.3. Nâng cao hiệu quả huy động vốn của NHTM.
1.3.1. Quan điểm về hiệu quả huy động vốn của NHTM
Công tác huy động vốn của một NHTM được coi là có hiệu quả cao
khi huy động được một nguồn vốn đảm bảo các yếu tố sau.
- Đảm bảo vốn về quy mô: một nguồn vốn coi là đảm bảo về quy
mô khi khối lượng vốn huy động được đáp ứng được nhu cầu sử dụng
vốn của Ngân hàng, về dự trữ , cho vay, đầu tư…
- Chi phí huy động hợp lý: chi phí phải phù hợp với điều kiện nền
kinh tế, đảm bảo lợi nhuận cho Ngân hàng, đồng thời phải đảm bảo khả
năng cạnh tranh với các ngân hàng khác.
- Cơ cấu nguồn vốn phải hợp lý: nguồn vốn phải có cơ cấu phù hợp
với nhu cầu sử dụng vốn, nguồn vốn trung dài hạn phải được sử dụng hết
để cho vay trung dài hạn và đầu tư, nguôn vốn ngắn hạn có thể được sử
dụng để cho vay trung dài hạn, tuy nhiên tỷ lệ này phải phù hợp với mục
đích là đảm vảo an toàn vốn.
SV: Phạm Thị Thúy CQ 46/ 15.02
21
Luận văn tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
- Công tác sử dụng vốn phải phù hợp với công tác huy động vốn:
nguồn vốn huy động phải được sử dụng hiệu quả, tránh dư thừa vốn cũng
như lượng vốn huy động phải đảm bảo nhu cầu sử dụng vốn của ngân
hàng.
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn của NHTM
Điểm khác nhau cơ bản trong nguồn vốn của NHTM với các doanh
nghiệp phi tài chính là: NHTM kinh doanh chủ yếu bằng nguồn vốn huy

động từ nền kinh tế còn các doanh nghiệp khác hoạt động dựa trên vốn tự
có là chính. Vì vậy đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn là công tác
không thể thiếu trong nghiên cứu nguồn vốn của Ngân hàng.
Khi đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn, các nhà nghiên cứu
thường tập trung vào một số tiêu chí sau.
- Tốc độ tăng trưởng vốn hàng năm: sự phát triển của các ngân
hàng đều tập trung vào mục tiêu lợi nhuận và tăng trưởng dư nợ. Để tăng
trưởng được dư nợ thì ngân hàng phải mở rộng doanh số cho vay và điều
kiện này có liên quan đến nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng lớn hay
nhỏ. Việc gia tăng nguồn vốn biểu hiện qua nghiệp vụ huy động vốn. Nếu
huy động vốn có hiệu quả sẽ làm tăng nguồn vốn kinh doanh, tăng doanh
số cho vay và tăng lợi nhuận.
Ta có:VHĐ
CL
= VHĐ
1
– VHĐ
0
Hoặc ta cũng có thể tính tỷ lệ tăng, giảm vốn huy động của kỳ
này so với kỳ trước theo công thức.
%VHĐ
CL
= (VHĐ
1 –
VHĐ
0
)

/


VHĐ
0
* 100%
Trong đó: VHĐ
1
là vốn huy động kỳ này

VHĐ
0
là vốn huy động kỳ trước

%VHĐ
CL
là tỷ lệ tăng (giảm) vốn huy động kỳ này so
với kỳ trước. Tỷ lệ chênh lệch này càng cao thì quy mô huy đông vốn của
SV: Phạm Thị Thúy CQ 46/ 15.02
22
Luận văn tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
ngân hàng càng mở rộng, đây là tiền đề cho sự phát triển của Ngân hàng.
Ngược lại, khi chỉ tiêu này thấp thì đây là dấu hiệu cho thấy hoạt động
huy động vốn của ngân hàng chưa hiệu quả. Tuy vậy không phải lúc nào
tốc độ tăng trưởng nguồn vốn càng cao càng tốt, sự tăng trưởng của
nguồn vốn phải cân đối với sự tăng trưởng của thị trường cũng như lượng
vốn huy động tăng lên phải đảm bảo nằm trong giới hạn quản lý, thực
hiện tốt kế hoạch đề ra. Bên cạnh đó tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn
huy động phải phù hợp với tốc độ tăng trưởng của dư nợ. Tốc độ tăng
trưởng cao song nhu cầu sử dụng vốn lại không cân đối sẽ dẫn đến tình
trạng sử dụng vốn không hiệu quả.
- Chỉ tiêu đánh giá cơ cấu vốn huy động.
Mỗi loại tiền gửi có các yêu cầu khác nhau về chi phí, thanh khoản,

thời hạn…Do đó việc xác đinh rõ chi phí sẽ giúp cho ngân hàng hạn chế
rủi ro có thể gặp phải và tối thiểu hóa chi phí đầu vào.
Chúng ta sẽ so sánh những khoản vốn có tính thời hạn so với các
khoản vốn có tính thời hạn thấp đẻ xem xét sự ổn đinh của nguồn vốn huy
động. Từ đó tìm ra nguyên nhân và biện pháp để tăng tính các khoản huy
động có thời hạn dài. Chi phí huy động là vấn đề mà các ngân hàng đêu
quan tâm. Để có được chi phí đầu vào hợp lý, có lợi cho ngân hàng thì các
ngân hàng phải xem xét khoản mục nào có tỷ trọng lớn nhất. Trong thực
tế các khoản huy động từ các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế có tính ôn
định tương đối cao, chi phí vừa phải rất có lợi cho hoạt động kinh doanh
của ngân hàng. Cho nên để đẩy mạnh công tác huy động vốn thì các ngân
hàng phải tìm cách nâng cao tỷ trọng của nhóm này lên hơn nữa trong cơ
cấu vốn huy động của mình. Bên cạnh đó các khoản kinh doanh tín dụng
tiêu dùng thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt sẽ tiết kiệm chi phí
lưu thông cho nền kinh tế.
SV: Phạm Thị Thúy CQ 46/ 15.02
23
Luận văn tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
- So sánh nguồn vốn lưu động và việc sử dụng vốn.
Nếu một Ngân hàng Thương mại có nguồn sử dụng vốn tương
xứng với nguồn vốn huy động, chứng tỏ nguồn vốn huy động đã được sử
dụng có hiệu quả và công tác huy động vốn của ngân hàng đã thành công.
Bởi vì phần lớn thu nhập từ hoạt động sử dụng vốn sẽ bù đắp phần nào
chi phí huy động và đem lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng. Hơn nữa
việc sử dụng vốn tốt sẽ thúc đẩy hoạt động huy động vốn. Cho nên khi
đánh giá hiệu quả hoạt động của công tác huy động vốn người ta thường
xem xét đến công tác sử dụng vốn của ngân hàng đó.
Ngoài các chỉ tiêu ở trên thì nhân hàng còn sử dụng rất nhiều các
chỉ tiêu khác để đánh giá hiệu quả huy động vốn như ROA (tỷ suất lời
trên tài sản), ROE (tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu)…

1.3.3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả huy động vốn
Xuất phát từ những vai trò quan trọng của nguồn vốn huy động đối với nền
kinh tế nói chung và bản thân mỗi ngân hàng nói riêng, việc nâng cao hiệu
quả huy động vốn là tất yếu khách quan.
Nguồn vốn huy động càng lớn, chất lượng càng cao thì càng tạo điều kiện
cho ngân hàng mở rộng quy mô phát triển kinh doanh. Vì vậy, để có được
nguồn vốn đảm vảo yêu cầu thì công tác huy động vốn cân phải được quan
tâm hàng đầu.
Nguồn vốn huy động được coi là đảm bảo chất lượng khi chúng phải đảm
bảo đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng cũng như chi phí phải
thấp nhằm đảm bảo lợi nhuận trong kinh doanh của ngân hàng. Ngoài ra,
nguồn vốn huy động phải đảm bảo có cơ cấu hợp lý, phù hợp với các mục
tiêu, chiến lược kinh doanh của ngân hàng.
Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế ngày càng mở rộng và phát triển, các
ngân hàng đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, sự cạnh tranh ngày
SV: Phạm Thị Thúy CQ 46/ 15.02
24
Luận văn tốt nghiệp Học Viện Tài Chính
càng trở nên gay gắt. Các ngân hàng đua nhau tìm kiếm khách hàng trong
khi lượng bốn trong dân cư thì có hạn và nhu cầu cho đầu tư phát triển lại là
rất lớn, do vậy nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn là một yêu cầu
khách quan đặt ra đối với ngân hàng.
1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn.
1.3.4.1. Nhân tố khách quan.
- Môi trường kinh tế xã hội.
Tình trạng phát triển của nền kinh tế là một nhân tố vĩ mô có tác
động trực tiếp đến hoạt động của NHTM nói chung và đến hoạt động huy
động vốn nói riêng. Trong điều kiện nền kinh tế phát triển tăng trưởng và
ổn định, thu nhập của người dân được đảm bảo và ổn định thì nhu cầu
tích luỹ của dân cư cao hơn từ đó lượng tiền gửi vào ngân hàng tăng lên

hay khả năng huy động vốn tăng lên. Mặt khác khi nền kinh tế tăng
trưởng cao và ổn định thì nhu cầu sử dụng vốn tăng lên, ngân hàng có thể
mở rộng khối lượng tín dụng bằng cách tăng lãi suất huy động nhằm kích
thích người dân gửi tiền vào ngân hàng để tạo nguồn vốn nhằm đáp ứng
nhu cầu tiền tín dụng của nền kinh tế. Ngược lại, khi nền kinh tế lâm vào
tình trạng suy thoái, thu nhập thực tế của người lao động giảm và ngày
càng biến động, điều này sẽ làm giảm lòng tin của khách hàng vào sự ổn
định của đồng tiền hơn nữa khi thu nhập thấp thì lượng tiền nhàn rỗi trong
toàn nền kinh tế sẽ giảm xuống mà lượng tiền dân cư đã ký thác vào hệ
thống Ngân hàng còn có nguy sơ bị rút ra. Khi đó Ngân hàng sẽ gặp khó
khăn trong công tác huy động vốn, quản ký dự trữ và củng cố lòng tin của
khách hàng vào hệ thống Ngân hàng.
- Môi trường pháp lý
Mọi hoạt động kinh doanh, trong đó hoạt động của Ngân hàng đều
phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Các hoạt động của các NHTM chịu
SV: Phạm Thị Thúy CQ 46/ 15.02
25

×