Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Mối Quan Hệ Giữa Chính Trị Và Kinh Tế Qua Một Số Tác Phẩm Của Lênin Trong Thời Kỳ Nep

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.02 KB, 21 trang )









Tiểu luận:





Mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế
qua một số tác phẩm của Lênin trong
thời kỳ NEP và ý nghĩa của nó đối với
công cuộc đổi mới hiện nay






























A. Mở đầu

Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin gắn liền với hoạt động thực tiễn của
Người là sự khái quát kinh nghiệm điều tiết cơ cấu kinh tế nhiều thành phần nhằm
xúc tiến cách mạng xã hội chủ nghĩa vào những năm đầu thời kỳ quá độ ở Liên
Xô. Chỉ trong một thời gian ngắn từ năm 1921-1924 thực hiện chính sách kinh tế
mới, nước Nga đã thoát ra khỏi khủng hoảng trầm trọng, nền kinh tế được khôi
phục và phát triển, mức sống của tất cả các tầng lớp người lao động được cải
thiện, chính trị, xã hội ổn định Từ đó đến nay, sau 80 năm đã trôi qua, nhưng
những tư tưởng về con đường xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa vẫn còn
mang tính thời sự, vẫn là những vấn đề có tính quy luật đối với các nước trên con
đường xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.
Nước ta đang ở chặng đường đầu thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Sự nghiệp đổi mới gần 20 năm qua là sự vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác

- Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH, trong đó chính sách kinh tế mới là bộ phận
quan trọng, mà tư tưởng chủ đạo trong chính sách kinh tế mới là việc giải quyết
mối quan hệ biện chứng giữa chính trị và kinh tế.
Những bài học thành công và thất bại trong công cuộc cải tổ, đổi mới ở các
nước xã hội chủ nghĩa chứng tỏ rằng, để giữ vững được sự ổn định và phát triển
phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế. Những sai lầm
trong lĩnh vực này sẽ đưa đến những hậu quả nghiêm trọng. Công cuộc đổi mới ở
nước ta đã đạt được những thành tựu nhất định, trong đó một phần quan trọng là
nhờ Đảng và Nhà nước ta đã giải quyết thành công mối quan hệ này. Tuy nhiên đó
mới chỉ là những thành công bước đầu, sự nghiệp đổi mới đã và đang đặt ra những
khó khăn và thách thức. Để tiếp tục thúc đẩy công cuộc đổi mới đòi hỏi phải có sự
nghiêm túc nghiên cứu những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin về
thời kỳ quá độ, nhất là những luận đề cơ bản của V.I.Lênin trong chính sách kinh
tế mới.



Từ ý nghĩa trên, tiểu luận: " Mối quan hệ giữa chớnh trị và kinh tế trong
cỏc tỏc phẩm của Lờnin thời kỳ NEP và ý nghĩa của nú trong cụng cuộc đổi
mới ở nước ta hiện nay ".
Tập trung làm rõ một số luận điểm cơ bản của V.I.Lênin về mối quan hệ
giữa chính trị và kinh tế trong các tác phẩm thời kỳ chính sách kinh tế mới, từ đó
có cơ sở lý luận để xem xét thực tiễn những năm đổi mới vừa qua, tạo cơ sở khoa
học cho việc vận dụng nhằm đổi mới chính sách và cơ chế quản lý kinh tế - xã hội
thích hợp với thực trạng kinh tế ở bước đầu thời kỳ quá độ đi lên CNXH.



B. Phần nội dung


Cách mạng tháng Mười thành công với sự ra đời của Nhà nước Nga - Xô
viết, nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, đã mở ra một thời đại mới
trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội. Ngay từ khi mới ra đời, Nhà nước Xô viết non trẻ dưới
sự lãnh đạo của Đảng Bôn - sê - vích đã có chiến lược xây dựng CNXH. Chỉ trong
một thời gian ngắn, chế độ Xô - viết đã được xác lập, toàn bộ quyền lực từ Trung
ương tới địa phương đều do các Xô - viết - đại biểu công nhân, nông dân và hồng
quân được nhân dân bầu ra.
Nhà nước Xô - viết sau khi tập trung trong tay mình những huyết mạch
kinh tế đã chủ trương tiến hành thiết lập những quan hệ xã hội và kinh tế mới, chú
trọng công tác quản lý sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Nhưng trong khi
hướng mũi nhọn vào chủ nghĩa tư bản tư nhân và sự tự phát tiểu tư sản thì lại
không tập trung tăng cường quá tình cải tạo xã hội chủ nghĩa về mặt kinh tế. Như
V.I.Lênin trong Hội nghị VII Đảng bộ tỉnh Mátxcơva đã nhận định: "Nhà nước
Xô - viết chủ trương tiến hành thiết lập những quan hệ xã hội và kinh tế mới và
thực hiện bước quá độ đó một cách hết sức từ từ sao cho thích ứng với những
quan hệ xã hội tồn tại khi ấy" (Lênin, Toàn tập, tr.249).
Cụ thể là đã có chủ trương sử dụng rộng rãi chủ nghĩa tư bản nhà nước
(thành lập các công ty cổ phần Xô - viết với sự tham gia của tư bản tư nhân, chỉ
thuê một số xí nghiệp, cho phép các nhà tư bản thực hiện hợp đồng tô nhượng ).
Thế nhưng, rất đáng tiếc, con đường này đã không thực hiện được. Giai cấp tư sản
Nga không chấp nhận sự điều tiết và kiểm soát của Nhà nước đối với sản xuất, nó
chống cự một cách điên cuồng, đe doạ sự tồn tại của chính quyền Xô - viết. Trong
khi đó, bên ngoài 14 nước đế quốc bao vây, cấm vận hòng tiêu diệt một nhà nước
Xô - viết còn đang rất non trẻ.
Trong hoàn cảnh như vậy, chính sách và chế độ "cộng sản thời chiến" đã
hình thành. Các khâu và hướng chủ yếu của chính sách đó là: Kiên quyết tiêu diệt




các thành phần kinh tế tư bản tư nhân, chuyển tất cả các tư liệu sản xuất và trao
đổi cơ bản vào tay người lao động, nhanh chóng đưa ra hệ thống quản lý chung,
toàn bộ lợi ích kinh tế phục tùng lợi ích dân tộc. Những công việc lớn phải làm là:
Quốc hữu hoá, thu hẹp thị trường; hình thành bộ máy quản lý tập trung tuyệt đối;
trưng thu lương thực thừa; tổ chức hợp tác xã, thủ tiêu quyền tự trị
Chính sách cộng sản thời chiến bắt đầu được thực hiện từ mùa hè năm
1918, nhưng thời gian triệt để nhất là từ cuối năm 1919 đến đầu năm 1921. Khi
nói về chính sách này, V.I.Lênin cho rằng đấy là đường lối tấn công trực diện
chống chủ nghĩa tư bản, là ý định "dùng con đường ngắn nhất, nhanh nhất trực
tiếp để thực hiện việc phân phối theo nguyên tắc xã hội chủ nghĩa" (Lênin, toàn
tập, t.44, tr.254).
Đánh giá về ý nghĩa cũng như những mặt tồn tại của chính sách cộng sản
thời chiến, cho tới nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau. Nhưng tựu chung lại,
không ai có thể phủ nhận vai trò của nó đối với việc kết thúc nhanh chiến tranh,
với việc củng cố chính quyền Xô - viết, với việc chiếm lĩnh những vị trí kinh tế -
xã hội và chính trị quan trọng nhất của Nhà nước Xô - viết một nước thù trong
giặc ngoài đã bị đẩy tới trạng thái cùng kiệt và ngày càng trở nên phức tạp, những
khó khăn bao trùm lên tất cả mọi mặt của đời sống xã hội.
Theo V.I.Lênin, chính sách kinh tế trong thời chiến "Đó không phải là một chế
độ kinh tế chặt chẽ. Đó không phải là những điều kiện kinh tế đề ra, mà phần lớn do
yêu cầu quân sự bắt buộc thi hành" (Lênin, toàn tập, t.43, tr.96).
Đây chính là sự khẳng định cần thiết phải xây dựng một đường lối, một
chính sách kinh tế mới để sớm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng.
Tại Đại hội lần thứ V của Đảng Cộng sản Nga tháng 3 năm 1921 đã thông qua
quyết định thay đổi chính sách kinh tế. Sự thay đổi có tính chất tổng hợp: thay
biện pháp trưng thu lương thực thừa bằng thuế lương thực; xoá bỏ lệnh cấm buôn
bán, cho phép tự do lưu thông (trong khuôn khổ trao đổi ở địa phương); sử dụng
quan hệ trao đổi hàng hoá - tiền tệ; sử dụng hình thức tô nhượng; thay đổi điều lệ
hợp tác xã, mở rộng quyền hạn của nó như một tổ chức xã hội độc lập; có chính




sách khuyến khích đối với các chuyên gia tư sản; củng cố khối liên minh công
nông
I. Quan niệm của Lênin về mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế trong
các tác phẩm thời kỳ NEP
Giành được chính quyền, đối với giai cấp vô sản cách mạng đó chưa phải là
mục tiêu cuối cùng, là kết thúc cuộc cách mạng mà thực ra nó chỉ mới bắt đầu cho
một sự nghiệp lâu dài với những khó khăn, phức tạp để cải tạo triệt để xã hội cũ
và xây dựng thành công xã hội mới xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản.
"Trong cuộc đấu tranh của chúng ta có hai mặt của một vấn đề; một là
nhiệm vụ phá huỷ di sản của chế độ tư bản, đập tan âm mưu muốn bóp chết chính
quyền Xô viết, âm mưu toàn thể giai cấp tư sản cứ lặp đi lặp lại, cho đến nay
chúng ta phải tập trung chú ý nhiều nhất vào nhiệm vụ đó, nó cản trở chúng ta
chuyển sang nhiệm vụ thứ hai là nhiệm vụ xây dựng" (Lênin, toàn tập, tập 4,
tr.482).
Như vậy, trong bước chuyển sang tình hình, nhiệm vụ mới, chính trị của
giai cấp vô sản đã chuyển trọng tâm từ lật đổ giai cấp thống trị cũ để giành quyền
lực sang đấu tranh để giữ vững quyền lực và thực thi quyền lực bằng cách chiến
thắng các thế lực tự phát tiểu tư sản, các thế lực phản động nhằm âm mưu bạo
loạn, lật đổ nhằm khôi phục lại chế độ cũ. Mặt khác, giai cấp cầm quyền phải làm
quen với công việc mới, phải học cách lãnh đạo, quản lý để xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội, đảm bảo tốt nhất sự uỷ quyền của nhân dân, làm cho việc thực
thi quyền lực đó không bị biến dạng, thoái hoá, để quyền lực thực sự thuộc về
nhân dân. "Chính trị phải là việc của nhân dân, việc của giai cấp vô sản" (Lênin,
toàn tập, tập 41, tr.482).
Lênin xác định: lúc này, chính trị đã chuyển trọng tâm vào kinh tế, cơ sở để
chiến thắng là sức mạnh kinh tế, là năng suất lao động, xã hội dựa trên tài năng
sáng tạo, năng lực tổ chức và hiệu quả quản lý để đông đảo quần chúng phát huy
được tính tích cực, chủ động, sáng tạo và xây dựng chế độ mới. "Mỗi bước dẫn




chúng ta tới ngày chiến thắng bọn bạch vệ đều chuyển dần trọng tâm đấu tanh vào
chính trị trong lĩnh vực kinh tế" (Lênin, toàn tập, t.41, tr.482).
Ông chỉ rõ: "Chính trị chủ yếu của chúng ta lúc này là xây dựng Nhà nước
về mặt kinh tế để tích góp được nhiều lúa mì hơn, để sản xuất được nhiều than
hơn, để sử dụng lúa mì và than đó hợp lý hơn, sao cho không còn có người đói
nữa" (tr.483).
Khi chính trị chuyển trọng tâm quân sự trong chiến tranh sang trọng tâm
kinh tế trong hoà bình, đây là một bước chuyển khó khăn, phức tạp, vấn đề trọng
yếu và khó khăn nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ tổ chức: Phải
xây dựng một hệ thống tổ chức mới làm sao cho phù hợp với chính sách kinh tế
mới. "Một bộ máy vững mạnh phải thích ứng với mọi sự biến đổi" (Lênin, toàn
tập, tập 43, tr.87).
Nhìn nhận mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong điều kiện
giai cấp vô sản đã giành chính quyền, Lênin cho rằng: "Chính trị là biểu hiện tập
trung của kinh tế".
"Chính trị không thể không chiếm vị trí ưu tiên so với kinh tế" (Lênin, toàn
tập, t.42, tr.349).
* Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế hay chính trị là kinh tế cô
đọng lại, có nghĩa chính trị có căn nguyên từ kinh tế. Sự hình thành, tồn tại và
phát triển của chính trị là trên cơ sở những đòi hỏi khách quan của sự phát triển
kinh tế, của thực trạng kinh tế. Toàn bộ hệ thống chính trị của xã hội phải bảo vệ
được lợi ích của giai cấp thống trị mà trước hết là lợi ích kinh tế. Như vậy, xét đến
cùng lợi ích kinh tế là căn nguyên xã hội quy định những hoạt động chính trị.
Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế cũng có nghĩa kinh tế là nội
dung còn chính trị là hình thức phản ánh có tính chất tập trung của kinh tế. Thông
qua việc hình thành những tổ chức chính trị, những chính sách để từ đó giải quyết
những vấn đề quy định mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế, tạo điều

kiện, môi trường bảo hộ và phát triển kinh tế.



Chính trị không ngoài mục đích phát triển kinh tế, kinh tế là gốc, là thước
đo tính hợp lý của chính trị. Kinh tế hợp lý tạo điều kiện cho chính trị phát triển,
kinh tế khủng hoảng sẽ dẫn tới sự khủng hoảng về chính trị. Do vậy, chính trị nếu
không hướng vào giải quyết những vấn đề quan hệ lợi ích nhằm phát triển kinh tế
thì chính trị sẽ không có cơ sở tồn tại, sớm muộn cũng phải thay thế bằng chính trị
mới tiến bộ hơn.
Chính vì vậy, trong tác phẩm "Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền
Xô - viết" viết năm 1918, Lênin đã nêu: "Trong quản lý, cái có ý nghĩa trọng đại
hơn cả không là chính trị mà là kinh tế. Cơ sở thực chất của chính quyền Xô - viết
cũng như thực chất của quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH là ở chỗ các nhiệm
vụ chính trị không phải phụ thuộc so với các nhiệm vụ kinh tế" (Lênin, toàn tập,
t.36, tr.256).
* Mặt khác, chính trị không thể không chiếm vị trí ưu tiên so với kinh tế.
Chính trị có ảnh hưởng to lớn đối với kinh tế. Nó tác động trực tiếp tới sự biến đổi
của chế độ kinh tế, quyền lợi chính trị được sử dụng, tổ chức các quan hệ kinh tế
theo lợi ích của giai cấp thống trị. Do vậy, ưu tiên cho chính trị là ưu tiên cho
những vấn đề căn bản quyết định cho sự phát triển của bản thân kinh tế.
Sự tác động chính trị đối với kinh tế theo hai hướng, thúc đẩy hoặc kìm
hãm. Chỉ với đường lối quyết sách chính trị đúng mới làm cho kinh tế phát triển,
ngược lại chính trị sai lầm hay lạc hậu có thể kìm hãm sự phát triển, thậm chí làm
tổn hại đến kinh tế dẫn đến làm suy yếu chính trị và ảnh hưởng trực tiếp tới các
quan hệ xã hội.
Chính trị không những có vai trò lãnh đạo kinh tế mà còn tạo môi trường
xã hội ổn định để phát triển kinh tế, tham gia quản lý nền kinh tế, kiểm soát những
vấn đề cơ bản của nền kinh tế như vốn, ngân sách, đầu tư
Như vậy, mối quan hệ chính trị - kinh tế là mối quan hệ cơ bản, phức tạp

trong xã hội, nên giải quyết nó không được tuyệt đối hoá một lĩnh vực nào. Vì tất
cả các quan điểm, quyết định và hành vi chính trị nào cũng đều xuất phát từ nguồn
kinh tế và cơ sở xã hội của nó, cũng đều liên hệ bằng cách này hay cách khác với



những lợi ích kinh tế, những quan hệ kinh tế. Chính trị ở trong kinh tế và ngược
lại kinh tế thâm nhập vào chính trị.
Mối quan hệ này được Lênin giải quyết một cách đúng đắn trong thực tiễn
xã hội nước Nga vào thời kỳ thực hiện chính sách kinh tế mới. Như đã trình bày ở
chương I, nước Nga trong những năm đầu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội phải đương đầu với thù trong giặc ngoài, với nội chiến, bắt buộc phải thực
hiện "Chính sách cộng sản thời chiến" đã dẫn tới khủng hoảng kinh tế, chính trị,
trước tình hình đó, Lênin khẳng định cần phải chuyển sang Chính sách kinh tế
mới.
Vạch rõ thực trạng này, Lênin đánh giá rằng: "vào năm 1921 chúng ta vấp
phải một cuộc khủng hoảng chính trị bên trong nước Nga - Xô viết, đó là cuộc
khủng hoảng lớn nhất. Cuộc khủng hoảng đó không những làm cho một bộ phận
khá lớn trong nông dân mà ngay cả trong chúng ta cũng phải bất bình" (Lênin,
toàn tập, t.45, tr.327).
Theo Lênin trong những nhân tố thúc đẩy cuộc khủng hoảng, thì nhân tố
đầu tiên là các chính sách, chủ trương vi phạm lợi ích kinh tế của người lao động,
trước hết là nông dân, trong điều kiện họ đã mệt mỏi do chiến tranh, bị kiệt sức vì
nạn đói, thiếu công việc làm và thiếu điều kiện bình thường về an toàn xã hội.
Nhân tố quan trọng thứ hai là nạn quan liêu, thoái hoá trong bộ máy Nhà nước,
hiện tượng một bộ phận cán bộ nhân viên, kể cả những người lãnh đạo xa rời quản
lý, thiếu tôn trọng lợi ích quần chúng cũng phát triển thì càng gây thêm mất lòng
tin và bất mãn trong quần chúng
Xem xét toàn diện các nhân tố gây ra cuộc khủng hoảng, Lênin chỉ ra
nguyên nhân chủ yếu là sai lầm trong lãnh đạo quản lý trước hết và chủ yếu trong

lĩnh vực kinh tế. Lênin viết: "Tinh thần hăng say, tinh thần anh dũng và xung
phong đã giúp chúng ta những nhiệm vụ chính trị và quân sự. Chúng ta đã đạt
được thắng lợi về chính trị và quân sự như thế đó, nhưng những ưu điểm đó nay
đã trở thành khuyết điểm nguy hiểm nhất cho chúng ta. Khi tình hình đã thay đổi



chúng ta phải giải quyết những nhiệm vụ khác, không nên nhìn lại đằng sau và sử
dụng những phương pháp của ngày hôm qua" (Lênin, toàn tập, t.44, tr.398).
Chuyển sang NEP. Để khôi phục kinh tế mà trọng yếu hơn cả là nông
nghiệp nên khâu đầu tiên để thực hiện NEP là chuyển chế độ trưng thu lương thực
thừa sang chính sách thuế lương thực, đây là "biện pháp cấp tốc, cương quyết
nhất, cấp thiết nhất để cải thiện đời sống của nông dân và nâng cao lực lượng sản
xuất cho họ" (Lênin, toàn tập, t.43, tr.262).
Thực hiện thuế lương thực, xoá bỏ chế độ trưng thu có nghĩa là chuyển từ
biện pháp hành chính sang biện pháp kinh tế (Lênin, toàn tập, t.43, tr.262).
+ Vấn đề thứ nhất trong NEP: Cho phép tự do buôn bán trong giới hạn
nhằm thoả mãn nhu cầu thiết yếu của cuộc sống đông đảo quần chúng nông dân,
thay đổi bộ mặt nước Nga.
+ Vấn đề thứ hai: Sử dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ trong hệ thống quản
lý có kế hoạch và tổ chức lại phương pháp lãnh đạo kinh tế.
Chính sự chuyển hướng đó tất yếu dẫn đến sự khôi phục, củng cố và tăng
cường nền tài chính và hệ thống ngân hàng, để từng bước sử dụng như những
công cụ mạnh mẽ của Nhà nước trong quản lý kinh tế giành quyền làm chủ giá cả,
đưa toàn bộ nền kinh tế vào quỹ đạo được quản lý có kế hoạch.
+ Vấn đề thứ ba: Lênin chủ trương tô nhượng, một hình thức chủ nghĩa tư
bản Nhà nước nhằm thu hút tư bản nước ngoài góp vốn thúc đẩy nền kinh tế trong
nước.
+ Vấn đề thứ tư: Chuyển hợp tác xã sang con đường của chính sách kinh tế
mới.

Trong hợp tác xã thời kỳ chính sách kinh tế mới, hình ảnh trong những
người cộng sản đã tăng nhanh; hình thức hợp tác xã rất phong phú từ thấp tới cao:
Công xã, ác-len, hội liên hợp trong đó phát triển mạnh nhất là các Hội liên hiệp
đơn giản như: Hội máy móc, Hội cải tạo đất, Hội canh tác Trong tác phẩm " Bàn
về chế độ hợp tác xã" nhấn mạnh: "Kết hợp lợi ích tư nhân, lợi ích thương nghiệp



tư nhân với việc Nhà nước kiểm soát là kiểm tra lợi ích đó, mức độ làm cho lợi ích
tư nhân phục tùng lợi ích chung" (Lênin, toàn tập, t.45, tr.422).
+ Vấn đề thứ năm: Vấn đề sử dụng chuyên gia tư sản.
Khiđưa ra chính sách kinh tế mới là quá trình thực hiện ngoài việc sử dụng
hình thức tư bản Nhà nước để thu hút tư bản nước ngoài. Lênin rất chú trọng đến
việc sử dụng chuyên gia tư bản. Ông cho rằng, ở một nước công nghiệp lạc hậu,
trình độ dân trí thấp, rất cần những người giỏi về kiến thức chuyên môn nghiệp
vụ, giỏi về khâu quản lý tổ chức. Do vậy, việc sử dụng chuyên gia tư sản có lợi về
nhiều mặt, trước hết là nó tạo ra sản phẩm trực tiếp cho xã hội như cái quan trọng
hơn họ còn là những người thầy để cho người cộng sản học hỏi.
Khi bàn về quản lý Lênin cho rằng: Sẵn sàng đổi một tá cộng sản lấy một
chuyên gia tư sản, người khẳng định trong khi sử dụng các chuyên gia tư sản "chớ
nên suy tính về học phí, chớ có sợ phải trả đắt miễn là thu được kết quả tốt"
(Lênin, Sđd, t.43, tr.295).
Đồng thời Người cũng dạy những người cộng sản: "Một người cộng sản
thông minh không sợ phải học một nhà tư bản dẫu là một nhà tư bản được tô
nhượng hay một thương gia kinh tế, hay một nhà tư bản nhỏ tham gia hợp tác
xã " (Lênin, toàn tập, t.43, tr.293).
+ Vấn đề thứ sáu: Củng cố khối liên minh công nông chặt chẽ, coi đó là
nguyên tắc cao nhất của chuyên chính vô sản, là cơ sở chính quyền Xô viết, là
điều kiện quan trọng để xây dựng chủ nghĩa xã hội, tăng cường vai trò của Đảng
Cộng sản.

Để củng cố khối liên minh công - nông, Lênin đưa ra kế hoạch và chỉ rõ:
giai cấp công nhân và Đảng của mình trước hết cần phải nhượng bộ và thảo luận
với nông dân. Người khẳng định: "Chúng ta phải tổ chức nền kinh tế Nhà nước
thích ứng với kinh tế của trung nông mà trong 3 năm qua chúng ta chưa cải tạo
được, và 10 năm nữa chúng ta vẫn chưa thể cải tạo xong".



Lênin coi liên minh công - nông như một điều kiện cần thiết không thể
thiếu để đạt kết quả cuối cùng của cách mạng XHCN cải tạo cả công nghiệp lẫn
nông nghiệp theo nguyên tắc XHCN.
Theo Lênin, con đường củng cố khối liên minh công - nông phải dựa trên
cơ sở tính nguyên tắc là: điểm xuất phát vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Điều quy định bản chất của khối liên minh công - nông, xu hướng phát triển và
mục tiêu của nó là sự cần thiết phải củng cố và giành thắng lợi cho quan hệ xã hội
chủ nghĩa ở các thành thị và nông thôn, là sự cần thiết củng cố chuyên chính vô
sản. Chỉ có Đảng Cộng sản mới có thể vạch ra triển vọng XHCN cho việc củng cố
khối liên minh này, mới là người đại diện cho lợi ích của hai giai cấp anh em.
Từ luận điểm đó ta có thể thấy vai trò của giai cấp công nhân trong khối
liên minh công nông chủ yếu được thực hiện ở chỗ giai cấp này phải lãnh đạo việc
chuyển các tiểu thủ nông nghiệp sang hình thức lao động tập thể XHCN.
+ Vấn đề thứ bảy: Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, xây dựng bộ máy
Nhà nước, phát huy vai trò của quần chúng nhân dân, chống chủ nghĩa quan liêu.
Cùng với việc thực hiện chính sách kinh tế mới cần phải củng cố, xây dựng
bộ máy Nhà nước cho phù hợp với điều kiện bấy giờ. Khi thông qua dự thảo chính
sách kinh tế mới của Lênin, Đảng Cộng sản Nga đã xác định nhiệm vụ chính trị cơ
bản là toàn bộ cán bộ Đảng, cán bộ chính quyền phải nắm đầy đủ và thi hành cho
đúng "chính sách kinh tế mới" sự lãnh đạo kinh tế quốc dân phải điều chỉnh lại,
hình thức và phương pháp phải được cải tiến.
Theo Lênin, Đảng Cộng sản có vai trò vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ

thống chuyên chính của giai cấp vô sản. Sự lãnh đạo của Đảng trở thành điều chủ
yếu nhất, thành nguyên tắc bắt buộc không chỉ đối với việc thực hiện chuyên
chính vô sản và dân chủ XHCN mà còn cả công cuộc cải tạo và phát triển kinh tế:
"Để làm cho giai cấp vô sản có thể thực hiện một cách đúng đắn vai trò tổ chức
của nó một cách có kết quả và thắng lợi thì chính đảng của giai cấp vô sản phải
được thực hiện trong nội bộ của mình, một chế độ tập trung chặt chẽ và một kỷ



luật nghiêm ngặt Biết nhận xét tâm trạng của quần chúng và biết cách tác động
vào tâm trạng của quần chúng" (Lênin: Sđd - tập 41, trang 34).
Chính đảng của giai cấp vô sản chỉ có khả năng thực hiện được vai trò tổ
chức đảng khi nó đem tất cả lực lượng của mình để không ngừng "cải tiến tổ chức
của Đảng, nâng cao chất lượng nội dung công tác của Đảng, tạo một sự liên hệ
chặt chẽ hơn nữa với quần chúng, thảo ra một sách lược và một chiến lược ngày
càng đúng đắn và chính xác của giai cấp công nhân". (Lênin: Sđd - tập 44,
trang120).
Xuất phát từ chỗ phân biệt rõ ràng dân chủ xã hội chủ nghĩa với tư cách là
nền dân chủ thể hiện lợi ích của tuyệt đại đa số với dân chủ tư sản - thứ dân chủ
đóng vai trò bình phong che đậy quyền lực của thiểu số bóc lột. Lênin coi tiền đề
chủ yếu nhất đối với đảng để lãnh đạo chính trị, lãnh đạo công cuộc khôi phục và
phát triển kinh tế theo tinh thần của NEP thành công là liên hệ hàng ngày, sinh
động, toàn diện với quần chúng nhân dân lao động. Ông coi đó là sự thể hiện tính
chất dân chủ sâu sắc của công tác Đảng. Lênin đưa ra quy tắc xử thế về chính trị
với những người lãnh đạo và đối với mọi đảng viên của Đảng là: Liên hệ với quần
chúng; sống trong lòng quần chúng, biết tâm trạng quần chúng; biết tất cả, hiểu
quần chúng, biết đến quần chúng giành được lòng tin tuyệt đối của quần chúng;
những người lãnh đạo không được tách rời khỏi quần chúng bị lãnh đạo. Đội tiên
phong không được tách rời khỏi toàn bộ đội quân lao động". (Lênin: Sđd - tập 44,
trang11).

Điều chủ yếu khắc phục tệ quan liêu và bệnh giấy tờ của bộ máy Nhà
nước, Lênin đã nêu ra điểm chủ yếu là "lựa chọn người thiết lập chế độ trách
nhiệm cá nhân đối với công việc đang làm, kiểm tra công việc thực tế". (Lênin:
Sđd - tập 44 trang 278).
Trong điều kiện mới của công cuộc xây dựng CNXH đòi hỏi phải xây
dựng lại hệ thống tổ chức quản lý và kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân nhằm
thực hiện triệt để những nguyên tắc tập trung dân chủ. Người khẳng định, về
phương diện kinh tế và chính trị chính sách kinh tế mới hoàn toàn đảm bảo khả



năng xây dựng cơ sở cho nền kinh tế XHCN: "Lực lượng kinh tế mà nhà nước vô
sản Nga nằm trong tay hoàn toàn đủ đảm bảo cho bước chuyển sang chủ nghĩa
cộng sản". (Lênin: Sđd - tập 45, trang114).
Song nhiệm vụ quan trọng nhất đã phát huy kết quả là "không ngừng tinh
giảm bộ máy Xô viết và giảm bớt chi phí của nó bằng cách giảm nhẹ biên chế, cải
tiến tổ chức, xoá bỏ tác phong lề mề hành chính, bệnh quan liêu và giảm bớt các
khoản chi tiêu phi sản xuất". (Lênin: Sđd - tập 45, trang359).
Trong tác phẩm "Thà ít mà tốt" Lênin đã vạch ra kế hoạch cải tổ một cách
căn bản bộ máy Nhà nước và tổ chức kiểm tra. Bàn về việc cải cách bộ máy Nhà
nước, Lênin yêu cầu đổi mới thành cơ quan thực sự gương mẫu: "Muốn đổi mới
bộ máy Nhà nước của chúng ta, phải cố hết sức đặt cho mình nhiệm vụ sau đây:
một là học tập, hai là học tập, thứ ba học tập mãi và sau nữa phải làm sao cho học
thức ở nước Nga không nằm trên giấy hoặc một lời nói theo mốt nữa (điều này thú
thực là thường hay xảy ra ở nước ta) phải làm sao cho học thức phải thật sự ăn sâu
vào trí não hoàn toàn và thực tế trở thành một bộ phận khăng khít trong cuộc sống
của mỗi chúng ta" (Lênin: Sđd - tập 45, trang 444).
Trong quá trình cải cách bộ máy phải thấm nhuần nguyên tắc "Thà ít mà
tốt". Khi xem xét việc cải tổ tổ chức kiểm tra Lênin cho rằng, cần xác nhận công
tác kiểm tra của Đảng và công tác kiểm tra của Nhà nước để thành lập cơ quan

duy nhất: Ban kiểm tra Trung ương - Bộ dân uỷ thanh tra công nông. Theo ông
việc xây dựng một hệ thống cân đối cơ quan kiểm tra duy nhất của Đảng và Nhà
nước bao quát tất cả, thường xuyên hoạt động sẽ có ý thức lớn lao đối với việc
giải quyết nhiệm vụ của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Theo Lênin, vấn đề quan trọng cần phải bàn đến đó là công tác tổ chức
cán bộ, phải có tổ chức mạnh và cán bộ giỏi đầy tài năng sáng tạo, tinh thần trách
nhiệm và bản lĩnh dám chịu trách nhiệm. Lênin đòi hỏi phải chú ý tìm cho ra và
thử thách một cách hết nhẫn lại và thận trọng những người thực sự có tài tổ chức,
những người có óc sáng suốt, có bản lĩnh trong thực tiễn. Họ là những con người
vừa trung thành CNXH lại vừa có khả năng tổ chức một cách vững chắc và nhịp



nhàng những công việc làm chuyển cả một khối người to lớn trong phạm vi tổ
chức Xô viết. Chỉ những người như vậy chúng ta mới đề bạt lên chức vụ lãnh đạo
và quản lý sau khi đã thử thách họ hàng chục lần bằng cách cho họ đảm nhận
những chức vụ đơn giản nhất đến khó khăn nhất, phải kiểm tra công việc và con
người chấp hành, tăng cường kiểm soát để công việc được thi hành và kỷ luật
được thực hiện một cách nghiêm ngặt nhất. Mấu chốt của vấn đề là chọn đúng
người, giao đúng việc, kết hợp giáo dục, tuyên truyền, thuyết phục với đôn đốc và
kiểm tra trong một tổ chức phân công hợp lý. Đó là điều đảm bảo cho thắng lợi
trong mọi hoạt động kinh tế chính trị thực tiễn.
Như vậy, từ thực tiễn nước Nga cho thấy, việc thực hiện Chính sách kinh
tế mới của Lênin tuy rằng trong một thời gian ngắn từ năm 1921-1924, nhưng đã
tạo nên một phát triển vượt bậc, khủng hoảng được giải quyết, nền kinh tế phát
triển mạnh, đời sống của nhân dân được cải thiện. Một trong những yếu tố quan
trọng làm nên thành tựu phát triển kinh tế - xã hội đó là do bộ máy Nhà nước đã
nắm vững các phương pháp mới trong lãnh đạo kinh tế, đã cải tiến cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần, giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.
II. ý nghĩa của nó trong công cuộc đổi mới ở nước ta

Qua 20 năm đổi mới, việc vận dụng Chính sách kinh tế mới, đặc biệt là
mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị của Lênin vào phát triển kinh tế đất nước của
Đảng và Nhà nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, đã làm thay đổi bộ
mặt của đất nước. Từ một nước thiếu ăn, chuyên sống dựa vào sự viện trợ của
nước ngoài trở thành một nước xuất khẩu lương thực đứng thứ 3 trên thế giới, mặt
bằng dân trí nâng cao, ổn định chính trị - xã hội được giữ vững. Việt Nam đã tạo
cho mình một thế đứng trên chính trường quốc tế, điều này có ý nghĩa quan trọng
cả về lý luận và thực tiễn, khích lệ toàn Đảng, toàn dân tiếp tục công cuộc xây
dựng đất nước.
Trước đổi mới, nước ta cũng như các nước XHCN trên thế giới đã sai lầm
trong việc tìm cách giải pháp kinh tế, xã hội trong quá trình cải tổ, đổi mới. Chúng
ta đã tuyệt đối hoá vai trò của chính trị, dùng chính trị và các biện pháp chính trị



thay cho các biện pháp kinh tế, giải quyết các mâu thuẫn của đất nước bằng chính
trị hơn là bằng kinh tế. Lênin đã nói: "chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế",
do vậy để giải quyết những vấn đề xã hội cần phải xem xét từ căn nguyên kinh tế.
Trong bối cảnh của cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng tại Đại hội XII
của Đảng: chúng ta đã nhận rõ nguyên nhân sai lầm nôn nóng chủ quan duy ý trí
của chủ trương "tiến nhanh, tiến mạnh" lên CNXH trong những năm trước đổi
mới ở nước ta Khi đó với mục đích đúng đắn là nâng cao hiệu quả của sự nghiệp
nông nghiệp song biện pháp và đi quá vội vàng, chúng ta đã quá vội vàng tiến
hành hợp tác hoá và xây dựng hợp tác xã bậc cao bất chấp quy luật phát triển kết
quả của nó và cũng chưa tính đến một cách đầy đủ hoàn cảnh lịch sử cụ thể của
nước ta và độc lập tự do hạnh phúc vậy kết quả mang lại không như mong muốn.
Chúng ta đã thiếu quan tâm đến những hình thức nhỏ của sản xuất nông nghiệp và
phần nào đã không đánh giá đúng giai cấp một luận điểm quan trọng của Lênin
trong NEP - luận điểm về tính khả thi của việc chuyển nền sản xuất nhỏ lạc hậu
lên nền sản xuất lớn XHCN bằng cách ban bố những sắc lệnh từ trên xuống. Hậu

quả của việc làm đó không chỉ ở chỗ sản xuất nhỏ không phát triển mà còn ở chỗ
niềm tin của người nhân dân vào đường làm ăn tập thể phần nào bị giảm sút độc
lập tự do hạnh phúc lợi ích kinh tế của họ không được đáp ứng, đời sống của họ ít
được cải thiện. Trong lĩnh vực công nghiệp và các lĩnh vực khác cũng diễn ra như
vậy.
Thực tiễn cho thấy không thể giải quyết được những vấn đề cấp bách
trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế bằng các chủ trương biện pháp tư
duy kinh tế đã cũ mang đậm tính bị động và đối phó.
Đảng ta đã đặt sự nghiệp đổi mới trong một thể chế thống nhất của các
nhân tố ổn định và phát triển, đổi mới có nguyên tắc với mục đích xác định là
khắc phục các khuyết điểm, sai lầm để xây dựng CNXH cú hiệu quả mới kinh tế
làm trọng tâm, từng bước đổi mới hệ thống chính trị.
Vì kinh tế chúng ta tiến hành xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Về chính trị từng bước



xây dựng hệ thống chính trị XHCN theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong
những năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước bắt đầu từ đổi mới tư
duy. Chúng ta ngày càng có ý thức rõ rệt vị trí, vai trò và ý nghĩa quan trọng của
NEP trong từng giai đoạn. Có thể nói giờ đây những thành tựu chúng ta đặt được
nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị cho CNH đã
cơ bản hoàn thành và cho phép chúng ta chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH.
Công cuộc đổi mới nước ta hiện nay với bối cảnh lịch sử thế giới và trong
nước khác xa với hoàn cảnh lịch sử quốc tế và nước Nga thời kỳ NEP. Do đó việc
vận dụng NEP của Lênin chỉ là sự vận dụng tinh thần của NEP.
Khẳng định quan điểm vận dụng một cách sáng tạo và phát triển hơn nữa
những tư tưởng cơ bản của Lênin và chính sách kinh tế mới nhằm mục đích sáng
tạo ra những hình thức quá độ những nấc thang trung gian đa dạng, phù hợp với

bối cảnh của công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. Đảng
ta đã tiến hành thảo luận dân chủ nghiêm túc trên cơ sở khái quát lý luận, tổng kết
kinh nghiệm thực tiễn và đến quyết định chủ trương đổi mới, phát triển và nâng
cao hiệu quả kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế HTX dần
dần trở thành nền tảng. Tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh
doanh tư nhân yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài. Mở rộng các hình thức liên doanh
liên kết giữa kinh tế Nhà nước với thành phần kinh tế khác cả trong và ngoài
nước, áp dụng các hình thức kinh tế tư bản nhà nước. ( Văn kiện Đại hội Đảng lần
thứ VIII - NXB CTQGG).
Thực tiễn công cuộc đổi mới được tiến hành ở nước ta những năm vừa
qua đã chứng minh: Trong bối cảnh quốc tế hiện thời chúng ta không có điều kiện
để quá độ tiến thẳng lên CNXH, mà chỉ có khả năng thực hiện bước quá độ gián
tiếp lên CNXH. Với đường lối đổi mới, phát triển đất nước theo định hướng
XHCN, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước phát triển nền kinh tế
thị trường thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển doanh nghiệp tư nhân, cổ phần hoá
các xí nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ



Điều đó có thể dẫn tới sự phục hồi CNTB ở mức độ nhất định nào đó.
Song một khi chủ nghĩa tư bản được phục hồi thì biện pháp hữu hiệu nhất Lênin
khẳng định: Không phải là thủ tiêu nó mà tìm cách hướng nó vào con đường chủ
nghĩa tư bản Nhà nước. Tuy nhiên các hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước trong
điều kiện hiện nay nó khác xa với thời kỳ NEP, nó đa dạng phong phú hơn, nhưng
dù nó có đa dạng phong phú hơn trong điều kiện giai cấp vô sản nắm quyền lãnh
đạo và thực hiện công cuộc xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong
đó kinh tế nhà nước chiếm vị trí chủ đạo theo hướng XHCN vẫn chỉ là những hình
thức quá độ, những nấc thang trung gian để phát triển lực lượng sản xuất đưa nước
ta quá độ lên CNXH.
Phát triển các hình thức kinh tế ta bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên

CNXH, từ một nước tiểu nông, sản xuất nhỏ như ở nước ta không chỉ là con
đường là phương tiện để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, CNH, HĐH, kinh tế
mà còn đưa nước ta nhanh chóng thoát khỏi tình trạng của nước nghèo chậm phát
triển, tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn nữa so với các nước trong khu vực và trên thế
giới. Tạo công ăn việc làm cho lao động nước ta và góp phần cải thiện đời sống
của họ.
Theo tinh thần của những tư tưởng cơ bản của Lênin về NEP thì cần thiết
phải phát triển các hình thức kinh tế tư bản nhà nước với tư cách là những chiếc
cầu nhỏ vững chắc để xuyên qua nó đi lên CNXH. Rằng xây dựng và phát triển
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường. Nếu
không hướng TBNN đi theo con đường phát triển kinh tế TBNN chẳng những
chúng ta không hướng nó đi theo quỹ đạo của CNXH mà đôi khi làm cho nó tự
phát đi chệch hướng quỹ đạo của CNTB.
Vấn đề phát triển kinh tế HTX mà nòng cốt là các HTX trong bối cảnh
xây dựng và phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, Đảng ta đã khẳng định
"Kinh tế HTX là hình thức liên kết tự nguyện của những người lao động nhằm kết
hợp sức mạnh của từng thành viên với sức mạnh tập thể để giải quyết có hiệu quả
hơn những vấn đề sản xuất, kinh doanh và đời sống. Vì vậy Đảng chủ trương phát



triển kinh tế HTX với những hình thức đa dạng từ thấp tới cao. Được tổ chức theo
nguyên tắc tự nguyện bình đẳng cùng có lợi. Quản lý dân chủ trên cơ sở đóng góp
cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp các thành viên tham gia".
Thực tiễn của những năm đổi mới của nước ta cho thấy quá độ lên CNXH
từ nền sản xuất hàng hoá nhỏ lạc hậu, nông dân chiếm đại đa số bộ phận dân cư
chúng ta không thể không phát triển kinh tế HTX . Lênin coi kinh tế HTX như là
một tế bào của kinh tế thị trường.
Sự công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN chúng ta cần
chủ động giao lưu hội nhập đầu tư và thu hút vốn đầu tư của các thành phần kinh

tế khác.
Song song với vấn đề phát triển kinh tế, Đảng ta đã vận dụng những tư
tưởng của Lênin về việc nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, xây dựng bộ máy
quản lý nhà nước vững mạnh, có hiệu quả, về việc phát huy năng lực sáng tạo,
tính chủ động của quần chúng trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế,
động viên họ tham gia trực tiếp vào công tác quản lý, về sự khắc phục triệt để mọi
biểu hiện của chủ nghĩa quan liêu trong các tổ chức Đảng và chính quyền trong
những năm thực hiện vẫn là cơ sở để chúng ta khẳng định tính đúng đắn của sự
kết hợp giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong công cuộc đổi mới ở nước
ta hiện nay. Những tư tưởng đó của Lênin cho thấy rõ giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị có mối quan hệ biện chứng có sự tác động qua lại lẫn nhau, là tiền đề
là điều kiện của nhau, do đó ngay từ đầu giữa chúng phải có sự kết hợp chặt chẽ,
trong đó đổi mới kinh tế phải được coi là trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới
chính trị.
Những tư tưởng đó của Lênin là cơ sở để chúng ta khẳng định việc xây
dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường nhất
thiết phải đi đôi với việc tăng cường vai trò quản lý của nhà nước, nâng cao năng
lực quản lý kinh tế cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, tiến hành thường xuyên việc
tuyển chọn và đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, đồng thời phát huy năng lực sáng



tạo tính chủ động của quần chúng nhân dân lao động, động viên họ tham gia một
cách tích cực và trực tiếp vào công việc quản lý.
Những tư tưởng đó của Lênin còn là cơ sở để chúng ta khẳng định tính
thiếu yếu của việc củng cố và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự
nghiệp đổi mới đất nước, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Trong công
cuộc đổi mới đất nước, Đảng phải luôn tự đổi mới, phải được củng cố và ngày
một hoàn thiện cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức lẫn năng lực quản lý, tư duy sáng
tạo, bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng phải được củng cố

và ngày một gia tăng. Phương thực lãnh đạo, nền lối làm việc của Đảng cũng phải
được đổi mới cả về trình độ lẫn hiệu quả.
Có thể nói công cuộc đổi mới đất nước với sự nhận thức hết sức rõ ràng
và đứng đắn về ý nghĩa quốc tế và tính thời sự của NEP. Đảng ta đã vận dụng
sáng tạo tư tưởng của Lênin về NEP nhất là tư tưởng về mối quan hệ giũa chính trị
và kinh tế, nó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc sáng tạo ra những hình
thức quá độ, những nấc thang trung gian phù hợp với công cuộc đổi mới ở nước ta
hiện nay.

III. Kết luận

Chính sách kinh tế mới là một yếu tố khách quan là một quá trình lịch sử
tự nhiên quá trình chuyển từ một xã hội mà sản xuất nhỏ vẫn còn chiếm ưu thế lên
chủ nghĩa xã hội là sự phát triển hợp quy luật trong quá trình phát triển của xã hội.
Đó là sự vận động đi lên của chủ nghĩa xã hội không phải theo con đường thẳng
trực tiếp mà là sự vận động trải qua những hình thức trong gian, những "biện pháp
quá độ đặc biệt", "phải bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc đi xuyên qua chủ
nghĩa ta bản nhà nước", và ở các nước càng kém phát triển cảng phải trải qua
nhiều nấc trung gian quá độ ở các nước khác nhau những hình thức trung gian,
những biện pháp quá độ cũng khác nhau. Trong quá trình giải quyết các vấn đề



kinh tế xã hội phải giải quyết đúng mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, có như
vậy mới đảm bảo được công cuộc đổi mới đi đến thành công.
Với nước ta trong bối cảnh của công cuộc đổi mới đất nước theo định
hướng xây dựng chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
nhằm mục tiêu "dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Những tư tưởng cơ bản của Lênin về NEP và việc thực hiện NEP ở nước Nga đầu
những năm 20 vừa là cơ sở lý luận là bài học kinh nghiệm giúp chúng ta từng

bước hình dung ngày càng sáng tỏ về chủ nghĩa xã hội, về con đường xây dựng
chủ nghĩa xã hội, về những mô hình cụ thể trong từng lĩnh vực kinh tế chính trị
văn hoá xã hội. Qua tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm và nghiên cứu lý luận,
Đảng ta đã khẳng định một cách đứng đắn rằng: Trong thời đại ngày nay con
đường đưa nước ta lên chủ nghĩa xã hội một cách vững chắc không thể là con
đường nào khác ngoài việc vận dụng một cách sáng tạo và tiếp tục phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh, "đặc biệt là tư tưởng của Lênin về chính
sách kinh tế mới" nhằm sáng tạo ra nhiều hình thức quá độ, nhiều nấc thang trung gian,
phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước ta trong bối cảnh quốc tế hiện thời.

×