Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

PHÁT TRIỂN CÁC VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.36 KB, 17 trang )

PHÁT TRIỂN CÁC VÙNG KINH TẾ
TRỌNG ĐIỂM Ở VIỆT NAM
TS. Trần Anh Phương
Ban Kinh tế ‑ Xã hội, Báo điện tử ĐCS Việt Nam
Việc hình thành các vùng kinh tế trọng điểm (KTTĐ) ở nước ta qua
thực tiễn phát triển hơn thập niên qua đã khẳng định tính đúng đắn của
sự cần thiết, từng bước đáp ứng được nhu cầu của phát triển nội vùng
nói riêng và yêu cầu phát triển chung của cả nền kinh tế Việt Nam trong
tiến trình hội nhập khu vực và toàn cầu.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên trong tiến trình
hình thành, phát triển các vùng KTTĐ đó đã gặp phải các khó khăn,
thách thức nảy sinh và vì thế cũng đã tồn đọng những hạn chế, bất cập
của chính sự phát triển các vùng KTTĐ đó.
Yêu cầu quan trọng đặt ra, đã đến lúc cần có sự nghiên cứu, đánh
giá về thực trạng và những vấn đề nảy sinh trong tiến trình phát triển
các vùng KTTĐ, làm cơ sở khoa học ‑ thực tiễn cho việc đề xuất các giải
phát phát triển bền vững hơn các vùng KTTĐ đó.
1. Phát triển các vùng KTTĐ là xu thế khách quan trong tiến trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH
Việc phát triển các vùng KTTĐ đối với nhiều quốc gia, lãnh thổ trên
thế giới cho đến nay không còn là vấn đề mới lạ mà trên thực tế đó đã
trở thành một xu thế mang tính quy luật khách quan trong tiến trình
đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Điều này
đặc biệt cần thiết đối với những quốc gia, lãnh thổ còn có nền kinh tế
chưa phát triển hoặc kể cả đã là nền kinh tế đang phát triển nhưng giá
trị sản phẩm nông nghiệp còn chiếm tỷ lệ khá cao (trên 20%) trong tổng
GDP như Việt Nam hiện nay.
124
CƠ SỞ KHOA HỌC CHO PHÁT TRIỂN VÙNG TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
Như đã biết, cơ cấu của nền kinh tế thường được xem xét trên các
phương diện: cơ cấu ngành, cơ cấu vùng (cơ cấu lãnh thổ), cơ cấu lao


động và cơ cấu thành phần… Theo định hướng chỉ đạo của Nghị quyết
Đại hội X (tháng 4.2006) của Đảng, cơ cấu kinh tế nước ta sẽ tiếp tục
được chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH. Có nghĩa là, trước hết về cơ
cấu ngành, cần và phải phấn đấu nâng cao tương đối và tuyệt đối hơn
nữa tỷ trọng % trong GDP của giá trị sản phẩm các ngành công nghiệp,
dịch vụ; trong khi đó, tỷ trọng % giá trị sản phẩm của ngành nông
nghiệp/GDP thì ngày càng giảm tương đối xuống dần ở mức hợp lý,
trong khi mức tăng tuyệt đối vẫn duy trì để đảm bảo an ninh lương thực
‑ thực phẩm và có xuất khẩu nông sản. Đồng thời trên cơ sở đó, các loại
cơ cấu vùng, cơ cấu lao động và cơ cấu thành phần cũng biến đổi phù
hợp tương ứng theo của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Theo đó, mục tiêu phấn đấu về cơ cấu ngành trong GDP đến năm
2010 của nước ta sẽ là: khu vực nông nghiệp giảm từ 20,9% năm 2005
xuống còn khoảng 15‑16%; công nghiệp và xây dựng tăng từ 41% năm
2005 lên 43‑44%, dịch vụ tăng từ 38,1% năm 2005 lên 40‑41%.
Cần thấy rằng, đồng thời với sự chuyển dịch đó, như là một tác động
tương hỗ của quan hệ nhân quả, cơ cấu kinh tế vùng của Việt Nam cũng
sẽ phải và cần phải chuyển dịch theo hướng phát huy lợi thế so sánh
của từng vùng, trong đó nổi bật vai trò hạt nhân phát triển trước hết là
ở 3 vùng KTTĐ đã có quá trình hình thành, phát triển từ những năm
1997‑1998 đến nay là Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ và gần đây từ tháng
4/2009 thêm mới là vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) mà dưới
đây ta sẽ xem xét kỹ hơn.
2. Tiến trình hình thành các vùng KTTĐ
2.1. Các vùng KTTĐ Bắc‑Trung‑Nam
Nhằm tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển chung của cả nước cũng
như tạo mối liên kết và phối hợp trong phát triển kinh tế ‑ xã hội giữa
các vùng lãnh thổ khác nhau của nước ta, kể từ cuối năm 1997 và đầu
năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã lần lượt phê duyệt Quyết định số
747/1997/QĐ‑TTg, 1018/1997/QĐ‑TTg và Quyết định số 44/1998/QĐ‑TTg

về Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế ‑ xã hội 3 vùng KTTĐ quốc gia
đến năm 2010, bao gồm 3 vùng KTTĐ ở Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ.
Phát triển các vùng kinh tế trọng điểm ở Việt Nam
125
Trong 3 vùng KTTĐ này, có 13 tỉnh/thành phố được xếp vào quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế ‑ xã hội các vùng KTTĐ.
Bảng 1: Số tỉnh, thành phố được xếp vào vùng KTTĐ
theo các quyết định của Thủ tướng Chính phủ năm 1997 và năm 1998
Trong Hội nghị các tỉnh thuộc vùng KTTĐ Nam Bộ ngày 20‑21/6/2003,
Thủ tướng Chính phủ đã quyết định mở rộng ranh giới của vùng. Văn
phòng Chính phủ sau đó đã ra Thông báo số 99/TB‑VPCP ngày 02/7/2003
về kết luận của Thủ tướng Chính phủ bổ sung vào vùng KTTĐ Nam Bộ
thêm 3 tỉnh: Tây Ninh, Bình Phước, Long An. Tổng diện tích vùng KTTĐ
sau khi bổ sung là 23.994,2 km
2
, bằng 7,3% diện tích cả nước. Dân số (tính
đến năm 2002) là 12,3 triệu người, bằng 15,4% so với cả nước.
Trong Hội nghị các tỉnh thuộc vùng KTTĐ Bắc Bộ ngày 14‑15/7/2003,
Thủ tướng Chính phủ đã quyết định mở rộng ranh giới của vùng; sau
I- Vùng KTTĐ Bắc Bộ
1 Hà Nội
2 Hưng Yên
3 Hải Phòng
4 Quảng Ninh
5 Hải Dương
II- Vùng KTTĐ Trung Bộ
1 Thừa Thiên - Huế
2 Đà Nẵng
3 Quảng Nam
4 Quảng Ngãi

III- Vùng KTTĐ Nam Bộ
1 TP Hồ Chí Minh
2 Bình Dương
3 Bà Rịa -Vũng Tàu
4 Đồng Nai
Tổng số: 13
126
Trần Anh Phương
đó Văn phòng Chính phủ đã ra Thông báo số 108/TB‑VPCP ngày
30/7/2003 về kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị, trong đó
có Quyết định “Đồng ý bổ sung 3 tỉnh: Hà Tây, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc
vào vùng KTTĐ Bắc Bộ”. Tổng diện tích vùng KTTĐ Bắc Bộ sau khi bổ
sung là 15.277 km
2
, bằng 4,64% diện tích và dân số (tính đến năm 2002)
là 13,035 triệu người, bằng 16,35% so với cả nước.
Vùng KTTĐ Trung Bộ, theo quyết định phê duyệt của Thủ tướng
Chính phủ số 1018/1997/QĐ‑TTg ngày 29/11/1997, gồm thành phố Đà
Nẵng và các tỉnh Thừa Thiên ‑ Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi. Nay
quy mô của vùng được mở rộng thêm tỉnh Bình Định. Như vậy, vùng
có diện tích tự nhiên 27.879 km
2
, dân số năm 2002 có khoảng 6 triệu
người, chiếm 8,47% diện tích tự nhiên và khoảng 7,49% dân số so với
cả nước.
Do yêu cầu thực tiễn cũng như sự hiểu biết ngày càng nâng cao
nhận thức hơn về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của các vùng KTTĐ
trong quá trình phát triển kinh tế ‑ xã hội của đất nước; để đảm bảo
cho sự vận hành về phát triển kinh tế của từng vùng cũng như giữa
các vùng một cách hiệu quả, ngày 18 tháng 02 năm 2004, Thủ tướng

Chính phủ đã ban hành Quyết định số 20/2004/QĐ‑TTg về việc thành
lập Tổ chức điều phối phát triển các vùng KTTĐ ở cấp Trung ương.
Cơ cấu bộ máy của Tổ chức điều phối phát triển các vùng KTTĐ bao
gồm: Ban Chỉ đạo điều phối phát triển các vùng KTTĐ (gọi tắt là Ban
Chỉ đạo) và các Tổ điều phối của các Bộ, ngành và địa phương trong
vùng KTTĐ.
Tiếp đó, ngày 13 tháng 8 năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành các Quyết định số 145, 146, 148/2004/QĐ‑TTg về phương hướng
chủ yếu phát triển kinh tế ‑xã hội vùng KTTĐ đến năm 2010 và tầm nhìn
năm 2020. Trong các quyết định này, quy mô của các vùng KTTĐ đã
được mở rộng thêm 7 tỉnh gồm Hà Tây, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh (Bắc Bộ);
Bình Định (Trung Bộ) và Tây Ninh, Bình Phước, Long An (Nam Bộ).
Đồng thời, các quyết định này cũng thay thế cho các quyết định số
747/1997/QĐ‑TTg, 1018/1997/QĐ‑TTg và Quyết định số 44/1998/QĐ‑TTg
đã ban hành năm 1997 và năm 1998.
Như vậy, tính cho đến nay, quy hoạch tổng thể về số tỉnh, thành phố
ở 3 vùng KTTĐ trên của Việt Nam đã được phân định như sau:
Phát triển các vùng kinh tế trọng điểm ở Việt Nam
127
Bảng 2: Số tỉnh, thành phố được xếp vào các vùng KTTĐ
Bắc-Trung-Nam cho đến nay
2.2. Vùng kinh tế trọng điểm ĐBSCL
Vùng kinh tế trọng điểm ĐBSCL được thành lập theo Quyết định
492 ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ. Có vùng này là do tầm
quan trọng sẽ trở thành vùng trọng điểm về sản xuất lúa gạo, thuỷ sản
I- Vùng KTTĐ Bắc Bộ
1 Hà Nội
2 Hưng Yên
3 Hải Phòng
4 Quảng Ninh

5 Hải Dương
6 Hà Tây
7 Bắc Ninh
8 Vĩnh Phúc
II- Vùng KTTĐ Trung Bộ
1 Thừa Thiên - Huế
2 Đà Nẵng
3 Quảng Nam
4 Quảng Ngãi
5 Bình Định
III- Vùng KTTĐ Nam Bộ
1 TP Hồ Chí Minh
2 Bình Dương
3 Bà Rịa -Vũng Tàu
4 Đồng Nai
5 Tây Ninh
6 Bình Phước
7 Long An
Tổng số: 20
128
Trần Anh Phương
của phía Nam và cả khu vực sông Mê Kông. Vùng kinh tế trọng điểm
ĐBSCL cùng với 3 vùng KTTĐ Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ sẽ đóng vai
trò động lực cho phát triển kinh tế ‑ xã hội của cả nước.
Vùng kinh tế trọng điểm ĐBSCL nằm ở phía Tây Nam của tổ quốc
bao gồm: Tp Cần Thơ, tỉnh Cà Mau, Kiên Giang và An Giang với tổng
diện tích hơn 16.600 km
2
, dân số khoảng 6,4 triệu người.
Trong 5 năm 2001 – 2005, GDP tăng trưởng của vùng này đạt bình

quân 10,96%/năm (trong khi cả nước 7,5%), từ năm 2006 ‑ 2008 là
13,57%/năm (cả nước 7,5%), 6 tháng đầu năm 2009 các tỉnh đã vượt qua
được khủng hoảng và phát triển ổn định.
Vùng KTTĐ này tuy mới thành lập nhưng nhiều năm qua các địa
phương đã biết khai thác những lợi thế khác nhau để tạo được bước
phát triển khá cao. Ngoài nông nghiệp trồng lúa và nuôi trồng thủy sản,
các tỉnh trong vùng đang tích cực chuyển đổi cơ cấu kinh tế tăng dần tỷ
trọng ngành dịch vụ.
3. Thực trạng phát triển và vấn đề đặt ra ở các vùng KTTĐ
Sự hình thành, phát triển của cả 4 vùng KTTĐ trên đây nếu không
kể đến vùng ĐBSCL mới được thành lập hơn 6 tháng nay đang trong
giai đoạn khởi động, còn lại cả 3 vùng Bắc‑Trung‑Nam từ hơn 10 năm
qua đều đã và đang từng bước được triển khai theo hướng sẽ xây dựng
thành những trung tâm lớn về công nghiệp, có công nghệ cao, trung tâm
tài chính, ngân hàng, viễn thông, trung tâm đào tạo và y tế chất lượng
cao, trung tâm dịch vụ vận tải và giao thông quốc tế. Nhằm tạo ra động
lực thúc đẩy sự phát triển chung của cả nước cũng như tạo mối liên kết
và phối hợp trong phát triển kinh tế ‑ xã hội giữa các vùng lãnh thổ khác
nhau của nước ta, các vùng KTTĐ đó sẽ tác động hỗ trợ đến sự phát
triển của các vùng khó khăn, nhất là các vùng sâu, vùng xa, biên giới,
hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được trợ giúp nhiều hơn về
nguồn lực để phát triển. Nằm trong quy hoạch chung về sự phát triển
các vùng KTTĐ đó, các tiểu vùng lãnh thổ thuộc mọi địa bàn khác nhau
của 3 miền Bắc, Trung, và Nam Bộ từ miền núi phía bắc, đồng bằng Sông
Hồng đến duyên hải miền Trung, trung du và miền núi Tây Nguyên,
cho đến vùng ĐBSCL những năm qua đều đã xây dựng và đang tích cực
triển khai chiến lược và kế hoạch riêng về phát triển kinh tế ‑ xã hội trên
Phát triển các vùng kinh tế trọng điểm ở Việt Nam
129
từng địa bàn. Trong đó, nổi bật lên thủ đô Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh

trong tương lai sẽ là những đầu tàu, trung tâm lớn về kinh tế, tài chính,
ngân hàng, công nghiệp công nghệ cao, thương mại, du lịch, hợp tác
quốc tế…
Thực tiễn cho thấy, sự phát triển kinh tế ‑ xã hội của đất nước trong
những năm vừa qua có được sự tăng trưởng cao và khá ổn định là do
nhiều nguyên nhân bắt nguồn từ đường lối đổi mới, hội nhập đúng đắn
của Đảng và Nhà nước. Song cần thấy, sự tăng trưởng đó có một nguyên
nhân quan trọng là do sự tác động qua lại không chỉ từ phát triển nội
tại từng vùng KTTĐ, mối quan hệ xâm nhập, liên kết lẫn nhau giữa các
vùng mà còn do những tác nhân cơ sở hạ tầng thiết yếu khác được hình
thành, phát triển từ chính yêu cầu hình thành, phát triển của từng vùng
hoặc giữa các vùng như: hệ thống giao thông bao gồm: đường bộ, đường
thuỷ, sân bay, các bến, cảng… trong các vùng KTTĐ và các tỉnh/thành
phố trong cả nước nhằm mục tiêu tác động cùng phát triển.
Trong quá trình hình thành và phát triển, rõ ràng là các vùng KTTĐ
đang phát huy lợi thế, tạo nên thế mạnh của mình theo cơ cấu kinh tế
mở, gắn với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước, không chỉ tạo ra
động lực thúc đẩy sự chuyển dịch nhanh cơ cấu nền kinh tế quốc dân
theo chiều hướng tích cực mà còn góp phần ổn định nền kinh tế vĩ mô,
đặc biệt là hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế ‑ xã hội của các tỉnh
lân cận trong vùng. Chính phủ đang tiếp tục định hướng, tạo ra nhiều
cơ chế, chính sách phù hợp, khuyến khích các ngành, các cấp, các cơ
quan chức năng liên quan đề ra và thực thi nhiều giải pháp thúc đẩy
các vùng KTTĐ phát huy vai trò đầu tàu tăng trưởng nhanh, đồng thời
tạo điều kiện và đầu tư thích đáng hơn cho vùng nhiều khó khăn. Trong
đó, định hướng đã thành nguyên tắc chỉ đạo chung của Chính phủ là
thống nhất quy hoạch phát triển trong cả nước, giữa các vùng, tỉnh,
thành phố, tạo sự liên kết trực tiếp về sản xuất, thương mại, đầu tư,
giúp đỡ kỹ thuật về nguồn nhân lực, nâng cao trình độ dân trí và đào
tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế ‑ xã hội của vùng

và khu vực, gắn chặt phát triển kinh tế ‑ xã hội với bảo vệ, cải thiện môi
trường và quốc phòng an ninh.
Sau đây là phác họa về sự phát triển và những vấn đề đặt ra của các
vùng KTTĐ đó:
130
Trần Anh Phương
3.1. Vùng KTTĐ Bắc Bộ
Với tỷ trọng đóng góp 21% GDP cả nước (năm 2005) và hướng phấn
đấu sẽ đóng góp 23‑24% GDP cả nước vào năm 2010, vùng này đang
hứa hẹn một tiềm năng lớn song cũng còn không ít khó khăn, bất cập
trong thực tiễn phát triển.
Theo số liệu thống kê, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của vùng
năm 2007 đạt 13,2%, trong đó khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản
tăng 2,5%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 17,1%; khu vực dịch
vụ tăng 12,3%. Thu nhập bình quân đầu người đạt 16,6 triệu đồng, cao
gấp 1,4 lần so với mức bình quân chung của cả nước.
Cơ cấu kinh tế có sự dịch chuyển đáng kể. Năm 2007, khu vực nông
lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 10,4%, công nghiệp và xây dựng chiếm
43,7%, dịch vụ chiếm 45,9% tổng GDP của vùng (năm 2005, các tỷ trọng
tương ứng là 12,6%, 42,2%, 45,2%).
Năm 2007, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của vùng đạt 26,2 tỷ USD,
trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 8 tỷ USD và kim ngạch nhập khẩu
18,2 tỷ USD.
Thu ngân sách của vùng tăng bình quân 19,2%, tăng nhanh hơn với
mức bình quân của cả nước (18,3%), tổng thu ngân sách của vùng năm
2007 đạt 75.260 tỷ đồng, tỷ lệ huy động ngân sách từ GDP đạt 34,8%.
Chi ngân sách hàng năm tăng bình quân 8%, chi ngân sách năm 2007 là
32.861 tỷ đồng.
Trong 2 năm 2006‑2007 tổng vốn đầu tư xã hội để phát triển của vùng
đạt khoảng 237 nghìn tỷ đồng, gần bằng tổng vốn đầu tư trong giai đoạn

5 năm 2001‑2005 (257 nghìn tỷ đồng), tốc độ tăng vốn đầu tư bình quân
đạt 25,4%/năm.
Tính từ năm 1988 đến hết năm 2007, Vùng KTTĐ Bắc Bộ có 2.220
dự án còn hiệu lực với vốn đầu tư trên 24 tỷ USD, chiếm 26% về số
dự án và 27% tổng vốn đăng ký trong cả nước và 24% tổng vốn thực
hiện của cả nước; trong đó Hà Nội đứng đầu (987 dự án với tổng vốn
đăng ký 12,4 tỷ USD) chiếm 51% vốn đăng ký và 50% vốn thực hiện
của cả vùng. Tiếp theo thứ tự là Hải Phòng (268 dự án với tổng vốn
đăng ký 2,6 tỷ USD), Vĩnh Phúc (140 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8
Phát triển các vùng kinh tế trọng điểm ở Việt Nam
131
tỷ USD), Hải Dương (271 dự án với tổng vốn đăng ký 1,7 tỷ USD), Hà
Tây (74 dự án với tổng vốn đăng ký 1,5 tỷ USD), Bắc Ninh (106 dự án
với tổng vốn đăng ký 0,93 tỷ USD) và Quảng Ninh (94 dự án với tổng
vốn đăng ký 0,77 tỷ USD). Trong 3 tháng đầu năm 2008, đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào vùng KTTĐ Bắc Bộ có 66 dự án với tổng vốn đầu
tư là 750,4 triệu USD, chiếm 44,9% về số dự án, 14,6% tổng vốn đăng
ký của cả nước.
Những vấn đề đặt ra cần quan tâm:
Một là, việc phát triển đô thị và khu công nghiệp trong vùng còn
những điểm chưa hợp lý. Hệ thống đô thị của vùng phát triển khá nhanh
nhưng chưa có quy hoạch chung với tầm nhìn dài hạn. Trong thời gian
vừa qua các tỉnh đồng loạt triển khai lập các đề án khu đô thị mới một
cách ồ ạt. Trong các đề án ấy có không ít đề án khu đô thị mới không
mang lại hiệu quả, gây lãng phí đất đai và vốn đầu tư.
Để giảm bớt sự tắc nghẽn giao thông cho thành phố Hà Nội cần suy
tính và cân nhắc phương án chuyển hướng xây dựng mới các khu công
nghiệp sang phía Bắc Hà Nội dễ dàng ra các cảng biển.
Hai là, ô nhiễm môi trường, nhất là ô nhiễm nguồn nước do chất thải
công nghiệp và đô thị ngày càng tăng, tình trạng ô nhiễm trên một số

con sông như sông Cầu, sông Nhuệ đã đến mức báo động. Việc xử lý
chất thải rắn đang là vấn đề nan giải cần có kế hoạch phối hợp liên tỉnh
và rất cụ thể.
Ba là, kể từ sau khi Hà Tây sát nhập vào Hà Nội khiến cho có sự thay
đổi lớn về địa giới hành chính của Thủ đô Hà Nội như hiện nay, đã nảy
sinh nhiều vấn đề đặt ra cho cả vùng phải xem xét và bàn thảo:
‑ Quy hoạch và tổ chức thực hiện quy hoạch đối với cả vùng Đồng
bằng sông Hồng nói chung và đối với vùng Thủ đô Hà Nội nói riêng
còn có những bất cập. Nổi bật lên là đối với quy hoạch sử dụng đất phải
chú ý theo hướng tiết kiệm và sử dụng hiệu quả đất nông nghiệp. Từ
đó cho thấy, nên cân nhắc phương án sử dụng vùng đất bạc màu thuộc
khu vực trung du cho các mục đích phát triển công nghiệp và đô thị.
Các địa phương cũng cần rà soát lại cơ chế, chính sách trong việc chuyển
đổi đất nông nghiệp sang các mục đích sử dụng khác. Về những vấn đề
này, Bộ Tài nguyên và Môi trường cần phối hợp đồng bộ, chặt chẽ hơn
132
Trần Anh Phương
nữa với các địa phương để sớm xây dựng cơ chế, chính sách để trình
Thủ tướng xem xét quyết định.
‑ Hệ thống giao thông nối kết các tỉnh và nhất là hệ thống giao thông
từ Hà Nội đi các tỉnh gắn với giao thông của Tp Hà Nội cũng nảy sinh
thêm nhiều phúc tạp. Việc phát triển đường cao tốc và tuyến đường ven
biển cần phải có kế hoạch triển khai nhanh hơn.
‑ Xây dựng cơ sở xử lý rác thải nguy hại về môi trường cho cả vùng
nói chung và vùng Thủ đô nói riêng cũng đang là vấn đề bức xúc.
‑ Xây dựng hệ thống cấp nước cho cả vùng Đồng bằng sông Hồng
và nhất là cho các thành phố và khu công nghiệp đang đặt ra rất cấp
bách. Nhu cầu nước sắp tới là rất lớn nhưng đến nay chưa có kế hoạch
xây dựng cụ thể.
‑ Việc phát triển các các khu công nghiệp phải kiên quyết theo hướng

chuyển bớt các đô thị mới và các khu công nghiệp mới lên phía trục
đường QL21 và QL18. Chỉ có như vậy mới giữ được đất lúa và giảm bớt
sự tập trung quá mức cho vùng Đồng bằng sông Hồng.
‑ Nhu cầu lao động có kỹ năng nghề nghiệp ở trình độ cao là rất lớn,
song đến nay vẫn chưa có kế hoạch dứt khoát xây dựng những cơ sở
đào tạo nghề đúng tầm cho toàn vùng KTTĐ Bắc Bộ cũng như cho vùng
Đồng bằng sông Hồng và cho cả miền Bắc.
‑ Chúng ta đang rất thiếu thông tin, nhất là thông tin kinh tế phục
vụ hoạch định đường lối, chính sách phát triển đối với vùng KTTĐ Bắc
Bộ. Nhưng hầu hết các ngành và các địa phương chưa tích cực đóng góp
công sức để hình thành hệ thống thông tin chung.
3.2. Vùng KTTĐ Trung Bộ
Theo Quy hoạch xây dựng vùng Trung Bộ đến năm 2025 đã được
Thủ tường Chính phủ phê duyệt ngày 12/08/2008, vùng KTTĐ Trung
Bộ sẽ trở thành đầu mối trung chuyển và trung tâm giao thương, chế
biến của vùng Mê Kông lớn cũng như khu vực Châu Á ‑ Thái Bình
Dương. Đồng thời, vùng Duyên hải Nam Trung Bộ sẽ được quy hoạch
theo hướng là vùng kinh tế tổng hợp, là cửa ngõ hướng biển của các tỉnh
vùng Tây Nguyên và các tỉnh Nam Lào, Đông Bắc Campuchia, Thái Lan.
Phát triển các vùng kinh tế trọng điểm ở Việt Nam
133
Theo đó, vùng KTTĐ Trung Bộ gồm Tp Đà Nẵng, các tỉnh: Thừa
Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định sẽ là vùng động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế ‑ xã hội cho miền Trung và Tây Nguyên, với
ngành kinh tế chủ đạo là kinh tế biển gắn với công nghiệp và dịch vụ.
Vùng có diện tích 27.884 km
2
, với dân số hơn 6,2 triệu người (năm 2006)
và là vùng có nhiều di sản văn hóa, di tích lịch sử cách mạng, cảnh quan
thiên nhiên đẹp.

Dự báo đến năm 2025, dân số trong vùng là 8,15 triệu người, trong
đó hơn 6 triệu người trong độ tuổi lao động; đất xây dựng đô thị khoảng
60.000 ‑ 65.000 ha, bình quân 120 ‑ 140 m
2
/người. Toàn vùng có 86 đô thị
trong đó có 43 đô thị mới.
Hệ thống chuỗi đô thị sẽ được xây dựng để tạo động lực thúc đẩy
phát triển kinh tế vùng, thu hút nguồn vốn, cơ hội đầu tư trong nước và
quốc tế , bao gồm Tp Đà Nẵng, Huế, Quy Nhơn, các đô thị Vạn Tường,
Núi Thành…
Qua đó, xác định vùng ưu tiên cho các dự án đầu tư, gồm: đầu tư
kết cấu hạ tầng kỹ thuật chuỗi du lịch tổng hợp Huế ‑ Lăng Cô ‑ Non
Nước; hình thành trung tâm đào tạo đa ngành chất lượng cao ở Huế và
Đà Nẵng; xây dựng Tp Đà Nẵng là thành phố biển ‑ trung tâm dịch vụ
tổng hợp lớn nhất của vùng; xây dựng Tp Huế trở thành trung tâm du
lịch văn hóa lớn của cả nước; còn Tp Quy Nhơn sẽ là trung tâm tăng
trưởng kinh tế phía Nam của vùng, là đầu mối giao thông đường bộ và
cảng biển phục vụ trực tiếp cho vùng Tây Nguyên.
Tại đây sẽ hình thành tuyến hành lang kinh tế thương mại tự do quốc
tế dọc theo vùng duyên hải, dựa trên trục quốc lộ 1A, tuyến đường sắt
quốc gia và hệ thống cảng biển, đồng thời mở rộng tuyến du lịch ven
biển, kết nối với các khu du lịch núi, du lịch di sản văn hóa và khám phá
đại dương.
Bên cạnh đó, hệ thống các khu công nghiệp, khu chế xuất sẽ được
quy hoạch nhằm khai thác lợi thế gần cảng; các hệ thống kho bãi quốc
gia và quốc tế sẽ gắn với hệ thống cảng tổng hợp quốc tế và các đầu mối
giao thông liên vùng, xuyên quốc gia.
Các cặp cửa khẩu qua các nước Myanmar, Thái Lan và Lào cũng sẽ
được nối thông với hệ thống cảng biển ‑ khu kinh tế của Việt Nam trên
134

Trần Anh Phương
cơ sở nâng cấp nối kết một số quốc lộ, tỉnh lộ trong vùng. Tuyến hành
lang cao tốc trên biển chạy theo hướng Bắc ‑ Nam và một tuyến liên hệ
với quốc tế cũng sẽ được xây dựng.
Những vấn đề đặt ra:
Tiềm năng và định hướng phát triển là bức tranh sáng lạn như vậy,
song bên cạnh những kết quả phát triển đã đạt được, tại vùng này đến
nay vẫn còn không ít khó khăn, bất cập. Nổi bật nhất là một số vấn đề
đang còn nan giải sau đây:
‑ Hiện tại, vùng KTTĐ Trung Bộ có hệ thống giao thông được kết nối
còn quá khó khăn. Đơn cử như đường cao tốc Đà Nẵng ‑ Dung Quất để
kết nối Đà Nẵng (đô thị trọng điểm của miền Trung với các khu kinh tế
Chu Lai và Dung Quất) đến nay vẫn chưa triển khai. Đường quốc lộ 1,
đoạn chạy qua các tỉnh duyên hải miền Trung cũng đã xuống cấp
nghiêm trọng. Trong các đợt lũ lụt vừa rồi, cả cầu và đường đã bị hư
hỏng rất nặng, gây ách tắc giao thông nghiêm trọng
‑ Sự gắn kết giữa kinh tế địa phương và kinh tế vùng đã và đang
nổi lên nhiều vấn đề rất bất cập. Thực tế hiện nay, kinh tế các tỉnh
đang thực sự chi phối phát triển kinh tế vùng. Do đó, kinh tế vùng
trên thực tế mang tính thống kê nhiều hơn là sự kết nối, bổ sung cho
nhau, tận dụng các thế mạnh của nhau nhằm phân bổ và sử dụng hợp
lý, hiệu quả và tiết kiệm các nguồn lực có được trong vùng. Thay vì
cùng nhau tìm ra sự liên kết trong phát triển, thì ở các tỉnh trong vùng
KTTĐ lại đang cạnh tranh nhau trực diện làm cho thị trường chia nhỏ,
tiêu hao lẫn nhau.
Từ trước đến nay đã có rất nhiều hội nghị, hội thảo, diễn đàn kinh tế
bàn về vấn đề liên kết ở các tỉnh trong vùng KTTĐ. Thậm chí, Chính
phủ cũng đã ban hành nhiều quyết định quan trọng và thành lập các
Ban chỉ đạo điều phối phát triển vùng KTTĐ. Tuy nhiên, cho đến nay,
việc liên kết trong phát triển kinh tế giữa các địa phương trong vùng

KTTĐ vẫn chưa có tiến triển, các địa phương gần như tự làm quy hoạch
rồi trình Chính phủ phê duyệt. chưa có sự nghiên cứu, tham khảo các
địa phương khác, để có sự đổi mới, liên kết Tình trạng này dẫn đến
hiện tượng các tỉnh gần như là dàn hàng ngang để đua đầu tư cảng nước
sâu, sân bay, trường đại học và kể cả sân golf. Thời gian tới đây, để
Phát triển các vùng kinh tế trọng điểm ở Việt Nam
135
triển khai tối đa lợi thế của từng địa phương trong mối liên kết vùng,
nhất thiết cần phải có vai trò chỉ đạo, định hướng mạnh mẽ của Chính
phủ. Phải tái quy hoạch tổng thể, quyết định các cơ chế chính sách rõ
ràng để các vùng KTTĐ thật sự là sự kết nối lan tỏa, thúc đẩy và lôi kéo
các vùng lân cận cùng phát triển.
Trong những năm qua, nhờ chủ trương phát triển vùng động lực,
các khu kinh tế, khu công nghiệp được phát triển, tốc độ tăng trưởng
kinh tế, cơ cấu công nghiệp cho nền kinh tế đất nước không ngừng được
tăng cao. Tuy nhiên, mô hình khu kinh tế, khu công nghiệp cũng bộc lộ
nhiều vướng mắc, nhất là trong bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái
định cư, trong quản lý đầu tư và bảo vệ môi trường. Chính phủ cần có
đánh giá và có mô hình thiết thực.
Xin ví dụ về khu kinh tế Dung Quất: Nhờ chủ trương và chỉ đạo sát
sao của Chính phủ, tại khu kinh tế này đã hình thành nhà máy lọc dầu
cho ra sản phẩm và kéo theo đó nhiều đề án đầu tư. Nguồn thu trên địa
bàn tăng cao, nhưng theo cơ chế tài chính hiện nay, phần cân đối lại cho
địa phương quá thấp Nhân dân trong khu kinh tế đã nhường hàng
ngàn ha đất, nay cần thiết phải tái đầu tư để cho các khu kinh tế có điều
kiện đầu tư phát triển. Những vùng khó khăn, cần có cơ chế tài chính
đặc thù để trong những năm đầu, ngân sách Nhà nước cân đối không
thấp hơn nguồn thu ngân sách trên địa bàn, theo yêu cầu đầu tư phát
triển hạ tầng các công trình công cộng Nội dung này đã được thể hiện
trong Quyết định 50 năm 2005 của Thủ tướng từ khi thành lập khu kinh

tế Dung Quất nhưng đến nay chưa được thực hiện.
Không chỉ ở khu kinh tế Dung Quất mà đã có một thực trạng là sau
hơn 10 năm hình thành và phát triển mô hình các khu kinh tế, đến nay,
ở khu vực miền Trung, tỉnh nào cũng có khu kinh tế. Tuy nhiên, hiệu
quả kinh tế ‑ xã hội mang lại từ các khu kinh tế hiện vẫn còn hạn chế.
Lý giải điều này, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, lâu nay chúng
ta chưa có chiến lược phát triển kinh tế miền Trung một cách bền vững.
Các khu kinh tế chưa quan tâm lựa chọn dự án trọng điểm và đề ra
những giải pháp hợp lý để thu hút đầu tư. Vì thế khi gặp khủng hoảng
từ năm 2008 đến nay, các khu kinh tế đã là nơi chịu tác động nhiều nhất
vì là nơi tập trung lực lượng lao động nhiều và là trọng tâm tăng trưởng
của nền kinh tế.
136
Trần Anh Phương
Để giải quyết vấn đề này, trước hết Nhà nước cần ban hành những
qui chế phối hợp giữa các vùng mang tính khả thi cao. Về phía các địa
phương, cần phát huy thế mạnh sẵn có của địa phương mình, tránh
tình trạng chạy đua “Cái gì cũng có, nhưng chẳng có cái nào lớn, cái
nào mạnh”.
Đây không chỉ là khó khăn, bất cập lớn đối với riêng vùng KTTĐ
Trung Bộ mà có lẽ cũng đang là “căn bệnh” chung cho cả các vùng KTTĐ
khác trong cả nước dù ở những mức độ khác nhau.
3.3. Vùng KTTĐ Nam Bộ
Với tỷ lệ đóng góp chiếm khoảng 40% GDP của cả nước, vùng KTTĐ
Nam Bộ đang tiếp tục là vùng động lực phát triển kinh tế của cả nước.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của vùng năm 2007 đạt 12,6%,
chiếm tỷ trọng 60% giá trị sản xuất công nghiệp, 70% kim ngạch xuất
khẩu. Cơ cấu kinh tế của vùng là khu vực nông, lâm, thuỷ sản 7,3%, khu
vực công nghiệp và xây dựng 56,3% và khu vực dịch vụ 36,4%. Thu
nhập bình quân đầu người của vùng đạt 31,4 triệu đồng/năm, gấp 2,6

lần mức bình quân của cả nước và gấp 1,9 lần vùng KTTĐ Bắc Bộ và 3,2
lần của vùng KTTĐ Trung Bộ. Năm 2007, tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu của vùng đạt 56,4 tỷ USD, gồm có kim ngạch xuất khẩu đạt 36,8 tỷ
USD và kim ngạch nhập khẩu 19,6 tỷ USD. Vùng KTTĐ Nam Bộ là vùng
có khả năng xuất khẩu cao và cũng là vùng có khả năng xuất siêu duy
nhất của cả nước. Tổng thu ngân sách của vùng chiếm 66,5% tổng thu
ngân sách quốc gia. Thu hút vốn đầu tư trong 20 năm qua, chiếm 54%
tổng vốn đăng ký đầu tư toàn quốc
Vấn đề lớn nhất đặt ra hiện nay cho vùng KTTĐ Nam Bộ là cần duy
trì mức tăng trưởng mà vẫn đảm bảo phát triển hài hoà các yếu tố về
môi trường và xã hội. Hiện nay đã xuất hiện một số vấn đề nghiêm trọng
mang tính hệ quả của quá trình phát triển thiếu liên kết, bằng mọi giá
phải thu hút đầu tư và tăng trưởng trong đó nổi bật là các vấn đề ô
nhiễm môi trường, liên kết hạ tầng giao thông, cấp nước và xử lý chất
thải, vấn đề về thiếu lao động chất lượng cao trong các ngành sản xuất,
cân bằng năng lượng phục vụ sản xuất và đời sống trên toàn vùng.
Đối với vấn đề môi trường, báo động nhất là ô nhiễm lưu vực các
dòng sông như Đồng Nai, Sài Gòn, Thị Vải. Trong vài năm trở lại đây
Phát triển các vùng kinh tế trọng điểm ở Việt Nam
137
song hành với sự phát triển công nghiệp của một số tỉnh, Tp Hồ Chí
Minh, Đồng Nai, Bình Dương là sự gia tăng về chất thải công nghiệp
của nhiều loại hình công nghiệp đặc biệt là chất thải nguy hại. Tuy nhiên
vấn đề về xử lý chất thải chưa được quan tâm quản lý đúng mức dẫn
đến trong một thời gian dài chất thải chưa qua xử lý hoặc có xử lý nhưng
chưa đạt tiêu chuẩn của các khu công nghiệp vẫn tiếp tục đổ ra theo hệ
thống thoát nước tới các dòng sông. Hệ quả là ảnh hưởng nghiêm trọng
đến chất lượng nước các dòng sông. Nước sông Đồng Nai có đoạn đã bị
ô nhiễm chất hữu cơ, chất rắn lơ lửng vượt tiêu chuẩn 3‑9 lần, đáng chú
ý là đã phát hiện hàm lượng chì vượt tiêu chuẩn TCVN 5942‑1995. Đối

với nước sông Đồng Nai tình trạng cũng rất nghiêm trọng, và đang có
chiều hướng ngày càng nghiêm trọng hơn, đặc biệt tại khu vực cầu Tân
Thuận hàm lượng dầu vượt 26 lần tiêu chuẩn cho phép; tại cầu Rạch
Ông, coliform vượt vài trăm lần, chất rắn lơ lửng vượt 4,8 lần và kết
quả khảo sát ở sông Thị Vải cũng cho những kết quả tương tư.
Vấn đề giao thông liên kết cũng đặt ra cho vùng này những khó
khăn, bất cập cần xử lý trong giai đoạn trước mắt và lâu dài. Đó là vấn
đề về lập dự án đầu tư, công tác đền bù giải phóng mặt bằng chậm dẫn
đến việc đình trệ các dự án giao thông. Trong khi mạng lưới giao thông
là yếu tố tối quan trọng để vận hành và truyền tải rất nhiều hoạt động
kinh tế liên quan. Các tuyến đường kết nối cần được đầu tư đồng bộ,
hoặc có thể chia quy mô ra để phân đợt đầu tư nhưng phải đảm bảo lưu
lượng giao thông trên cơ sở tính toán quy mô dự báo tối đa. Hiện nay
bức tranh tổng thể kinh tế toàn vùng đã tương đối rõ nét, việc dự báo
các luồng hàng, luồng khách trên các tuyến giao thông là hoàn toàn có
cơ sở. Giao thông liên vùng cần đi trước một bước trong vai trò khích lệ
các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu đô thị phát triển và cân đối hài
hoà các nguồn lực trên toàn vùng. Hiện nay đang diễn ra tình trạng tắc
đâu ‑ mở đó ở một số khu vực, đặc biệt là những khu vực có mật độ tập
trung cao các cơ sở kinh tế, đô thị. Trong khi cần nhìn nhận toàn bộ mạng
lưới giao thông vùng ở góc độ tổng thể, các hiện tượng xảy ra chỉ là hệ
quả của một mạng lưới giao thông thiếu đồng bộ. Như chúng ta thấy,
các tuyến quốc lộ hiện nay mặt cắt trên toàn tuyến rất khác nhau và đi
qua nhiều đô thị lớn, dẫn đến tình trạng ách tắc ở một số khu vực làm
cho thời gian vận chuyển hàng hoá giữa các khu vực tăng lên, thiệt hại
về mặt kinh tế là không nhỏ. Các tuyến quốc lộ 1, quốc lộ 51, quốc lộ 50
hiện trong tình trạng quá tải đang được đầu tư nâng cấp. Ngoài đường
138
Trần Anh Phương
bộ, vùng KTTĐ Nam Bộ có một hệ thống đường thuỷ rất quan trọng

đóng góp nhiều vào lưu thông hàng hoá như sông Sài Gòn, sông Đồng
Nai, hệ thống các sông nhánh cũng đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải
quyết như ùn tắc tàu bè trên sông, ô nhiễm mặt nước tác động xấu đến
các phương tiện vận tải thuỷ Hệ thống cảng biển là đầu ra ‑ vào chiến
lược cho vùng nhưng cần có sự hỗ trợ tốt từ hệ thống kết nối trên bộ mà
hiện nay đang trong tình trạng mất cân đối mà nếu không có dự báo tốt
về luồng hàng thì việc đầu ra ‑ vào không phải tắc ở cảng biển mà là ở
ngay trên các tuyến giao thông bộ.
Hạ tầng kỹ thuật đô thị là vấn đề nóng hiện nay của vùng KTTĐ
Nam Bộ. Trong đó cấp nước và xử lý nước thải đô thị cần được cân đối
trên toàn Vùng. Nguồn nước mặt sử dụng cho cấp nước sinh hoạt hiện
nay có trữ lượng lớn là sông Đồng Nai, sông Sài Gòn, sông Tiền, các hồ
Phước Hoà, Dầu Tiếng, Đá Đen, sông Ray Đến năm 2020, theo dự báo
nhu cầu tiêu thụ nước sạch ngày càng lớn trong khi diện tích các vùng
nước mặt đạt tiêu chuẩn xử lý ngày càng bị thu hẹp, cần có phương án
bảo vệ nghiêm ngặt các nguồn nước mặt vì đây là tài nguyên không thể
thay thế và có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển lâu dài của hệ thống các
đô thị, khu dân cư, khu công nghiệp trên toàn vùng. Đối với vấn đề thoát
nước thải thì việc lựa chọn công nghệ thích hợp với từng giai đoạn phát
triển cần được đặt lên hàng đầu. Quan trọng nhất vẫn là phải dùng cơ
chế quản lý thích hợp để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào xử
lý chất thải như một khâu trong quá trình sản xuất; các khu đô thị, khu
dân cư có nguồn thu phí từ hoạt động xả thải nhằm giảm bớt áp lực
cho khâu xử lý rác và nước thải đầu nguồn xả.
Vấn đề về phát triển năng lượng, trong đó trọng tâm là phát triển
điện năng đặt ra cho vùng nhiều thách thức trong giai đoạn tới. Với mức
độ phát triển công nghiệp của vùng thì cần phải tiêu thụ một lượng rất
lớn điện năng để phục vụ cho các hoạt động sản xuất. Vùng đang phấn
đấu đến năm 2015 tổng công suất đáp ứng cho nhu cầu khoảng 3.700‑
5.000MW. Tuy nhiên, nguồn điện cung ứng trong giai đoạn từ nay đến

năm 2015 là khó có thể đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ, trong khi rất
nhiều nhà máy thuỷ điện đều trong giai đoạn xây dựng khó có thể đáp
ứng ngay nhu cầu trước mắt. Vì vậy bài toán cân bằng về cung ‑ cầu
năng lượng là rất khó khăn cần phải cân nhắc sử dụng nguồn năng
lượng thay thế khác…
Phát triển các vùng kinh tế trọng điểm ở Việt Nam
139
Hầu hết các vấn đề đặt ra trên đây của vùng KTTĐ Nam Bộ và kể cả
các vùng KTTĐ khác như đã nêu trên đều đang cho thấy cần thiết có sự
trả lời về một câu hỏi: Cái giá phải trả cho sự phát triển vùng KTTĐ bằng mọi
giá là gì? Đó phải chăng chính là sự mất cân bằng tự nhiên – xã hội, sự thiếu
liên kết nội vùng và cả ngoại vùng đang diễn ra trong rất nhiều lĩnh vực.
Trả lời câu hỏi đó là cần thiết, song thiết nghĩ có lẽ cần thiết hơn cả
vẫn là phải tìm ra phương thức, biện pháp khắc phục sao cho nhanh
và có hiệu quả nhất. Đây mới chính là việc làm quan trọng nhất đang
đặt ra hiện nay cho tất cả các ngành, các cấp cơ quan, chính quyền liên
quan và đương nhiên ở tầm lãnh đạo, quản lý vĩ mô cao nhất là Chính
phủ cần có sự đồng thuận và quyết tâm cao hơn nữa trong sự phối
hợp cùng giải quyết những vấn đề còn khó khăn, bất cập đó. Chính
vì thế, thông qua tham luận này tuy chưa thể phản ánh đầy đủ và có
thể còn khiếm khuyết, song tác giả rất mong được bày tỏ quan điểm
và chia sẻ với các nhà khoa học là cần có sự điều tra, nghiên cứu
khách quan, cụ thể hơn nữa về chủ đề này, mong được góp phần cung
cấp thêm cho Đảng và Nhà nước Việt Nam những luận cứ khoa học
và thực tiễn không chỉ của sự phát triển trong nước ta mà cả tham
khảo kinh nghiệm thế giới, khu vực về những vấn đề liên quan mà
phạm vi tham luận này chưa thể đề cập đến. Để từ đó đề xuất những
kiến nghị, giải pháp có tinh khả thi nhằm phát triển mạnh nhưng bền
vững các vùng KTTĐ của Việt Nam.
(Nguồn tài liệu tham khảo: Từ các website của Ban Chỉ đạo các vùng

KTTĐ, Cổng thông tin điện tử Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công
thương, Báo điện tử ĐCS Việt Nam…; Các bài viết liên quan của nhiều tác giả
đã đăng Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, Tạp chí Kinh tế và dự báo, Tạp chí Cộng
sản… Thời báo Kinh tế Việt Nam, Đầu tư.v.v.)
140
Trần Anh Phương

×