Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

LIÊN KẾT KINH TẾ GIỮA CÁC ĐỊA PHƯƠNG TRONG PHÁT TRIỂN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.66 KB, 22 trang )

LIÊN KẾT KINH TẾ GIỮA CÁC ĐỊA PHƯƠNG
TRONG PHÁT TRIỂN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
Bùi Văn Tuấn
Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, ĐHQG Hà Nội
Đặt vấn đề
Liên kết kinh tế là một xu thế tất yếu trong quá trình phát triển, đặc
biệt đối với phát triển vùng. Ở nước ta trong những năm gần đây liên
kế kinh tế giữa các địa phương, các vùng đã và đang nhận được nhiều
sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, nhà khoa học cùng các cấp lãnh
đạo trong quy hoạch phát triển vùng. Nói cách khác, liên kết kinh tế
phải được đặt lên hàng đầu và làm rõ đối với sự phát triển chung của
mỗi vùng ở nước ta hiện nay.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, quan hệ hợp tác ngày càng
phát triển đã dẫn đến liên kết giữa các chủ thể (địa phương, vùng,
quốc gia ) khác nhau được mở rộng và đa dạng, đặc biệt trong lĩnh
vực kinh tế. Có thể nói trong bối cảnh toàn cầu hóa, liên kết kinh tế là
một trong những nhân tố quan trọng tạo sự thành công đối với phát
triển vùng.
Đồng bằng sông Hồng
1
là vùng có ý nghĩa then chốt trong sự nghiệp
phát triển kinh tế ‑ xã hội của cả nước. Dựa trên cơ sở nguồn lực, tiềm
năng, vị trí địa lý và lợi thế so sánh của các địa phương, từng bước phát
triển đồng bằng sông Hồng thành một vùng kinh tế phát triển năng
động, có tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững, bảo đảm vai trò hạt
nhân, thúc đẩy phát triển đối với khu vực phía Bắc nói riêng và cả nước
1. Vùng kinh tế đồng bằng sông Hồng, là một trong 8 vùng kinh tế của cả nước, bao
gồm 12 tỉnh, thành phố là Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà Tây, Hải Dương,
Hưng Yên, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, có
tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao, đạt 10,5%, gấp 1,4 lần mức bình quân chung
cả nước. Năm 2005, vùng kinh tế này đã đóng góp 21,5% GDP, 15,4% giá trị xuất


khẩu và 26% tổng thu ngân sách quốc gia.
420
CƠ SỞ KHOA HỌC CHO PHÁT TRIỂN VÙNG TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
nói chung. Đó là bài toán lớn, không dễ giải quyết đối với vấn đề liên
kết kinh tế giữa các địa phương trong phát triển vùng đồng bằng sông
Hồng trong hiện nay.
Ở góc độ thực tiễn, cần luận giải nguyên nhân của những hạn chế
hợp tác và liên kết giữa các địa phương trong quá trình phát triển để có
thể đưa ra mô hình liên kết và hợp tác phát triển phù hợp. Từ đó phát
huy tốt nhất các nguồn lực và lợi thế của các địa phương vào sự phát
triển chung của vùng một cách bền vững.
Qua bài tham luận, tác giả muốn giới thiệu một đôi điều về thực
trạng liên kết kinh tế giữa các địa phương của vùng đồng bằng sông
Hồng trong những năm qua và hiện nay. Từ đó đưa ra một số kiến
nghị, giải pháp cho liên kết kinh tế đối với phát triển vùng đồng bằng
sông Hồng.
Số liệu sử dụng trong bài viết trích từ kết quả khảo sát định lượng
thuộc đề tài “Cơ sở lý thuyết ‑ thực tiễn của liên kết vùng lãnh thổ ở các
tỉnh/thành phía Bắc nước ta trong quá trình đẩy mạnh Công nghiệp hoá, Hiện
đại hoá”, được khảo sát từ tháng 5 đến tháng 7/2009, với phương pháp
chọn mẫu ngẫu nhiên thuận tiện ở một số tỉnh/thành vùng đồng bằng
sông Hồng.
1. Cách tiếp cận nghiên cứu vấn đề
Trong quá trình phát triển, các nguồn lực về lao động, vốn, tài
nguyên, khoa học kỹ thuật, công nghệ, trình độ quản lý… của các địa
phương cũng như của các vùng là có hạn. Vì vậy, để phát triển các địa
phương không chỉ dựa vào các nguồn lực nội tại mà còn phải dựa vào
các nguồn lực bên ngoài. Do đó, “Phát huy nội lực và tận dụng ngoại lực”
hay nói cách khác là liên kết vùng là một phương châm trong chính
sách phát triển góp phần phát huy nội lực và tận dụng ngoại lực của

các địa phương.
Vào giữa thế kỷ XX, P.Samuelson với thuyết về “lợi thế so sánh” đã
nhấn mạnh đến tư tưởng, nội dung của liên kết kinh tế, ông ví dụ: có
hai vùng, trong đó một vùng xét theo con số tuyệt đối là hữu hiệu hơn,
có lợi hơn hoặc không có lợi bằng vùng kia. Nếu mỗi vùng tự sản xuất
ra của cải, hay từng vùng chuyển sang chuyên môn hoá để tạo ra sản
Liên kết kinh tế giữa các địa phương trong phát triển vùng đồng bằng sông Hồng
421
phẩm có lợi thế so sánh, tức là hiệu quả tương đối cao hơn thì việc trao
đổi giữa hai vùng sẽ có lợi cho cả hai bên. Qua đó chúng ta hiểu liên
kết kinh tế là sự liên minh, kết hợp các quan hệ vật chất, tài chính giữa
các chủ thể với nhau theo những thỏa thuận nhất định nhằm thực hiện
các chương trình, mục tiêu nào đó để mang lại lợi ích chung của khối,
trong đó có lợi ích của các bên.
Vậy khái niệm liên kết kinh tế là gì? Theo các tác giả ở Việt Nam:
Liên kết kinh tế là sự thiết lập các mối quan hệ giữa các chủ thể sản xuất, kinh
doanh, có thể giữa các doanh nghiệp thuộc cùng lĩnh vực hoạt động, giữa các
đối tác cạnh tranh hoặc giữa các doanh nghiệp có các hoạt động mang tính chất
bổ sung, nhằm tiết kiệm thời gian, tiết kiệm chi phí, đạt hiệu quả cao hơn trong
sản xuất ‑ kinh doanh, tạo ra sức mạnh cạnh tranh, cùng nhau chia sẻ các khả
năng, mở ra những thị trường mới
1
.
Ở bài viế́t này, liên kết kinh tế giữa các địa phương trong phát triển
vùng đồng bằng sông Hồng được hiểu là những hoạt động liên kết về̀
các vấn đề của kinh tế giữa các địa phương trong vùng nhằm tranh thủ
những lợi thế của đối tác, đem lại hiệu quả tố́t nhất trong phát triển kinh
tế của địa phương. Đây cũng chính là cơ sở quan trọng thúc đẩy sự phát
triển chung của vùng đồng bằng sông Hồ̀ng.
Mục tiêu của liên kết kinh tế giữa các đị̣a phương là tìm cách bù đắp

thiếu hụt và khắc phục hạn chế của mình từ sự phối hợp hoạt động với
đối tác.
Trong phát triển có nhiều hình thức liên kết kinh tế; mức độ và
tính chất liên kết như thế nào còn phụ thuộc vào các bên tham gia.
Nếu căn cứ vào chủ thể, liên kết kinh tế có thể chia ra làm hai cấp độ
vi mô và vĩ mô. Liên kết kinh tế vi mô là hình thức liên kết giữa các
cá nhân, các hộ gia đình và các doanh nghiệp, nhà máy trong cùng
địa phương với nhau. Liên kết kinh tế vĩ mô là hình thức liên kết giữa
các địa phương, các vùng với nhau. Tuỳ theo điều kiện và yêu cầu của
mỗi địa phương, mỗi vùng mà liên kết kinh tế có tính chất và mức độ
khác nhau
1. Lê Xuân Bá (2003), Về vấn đề liên kết kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
422
Bùi Văn Tuấn
2. Thực trạng liên kết kinh tế giữa các địa phương vùng đồng bằng
sông Hồng
Có thể nói trong quá trình phát triển, vùng kinh tế trọng điểm phía
Bắc ‑ Đồng bằng sông Hồng đã và đang phát huy các lợi thế, tạo nên thế
mạnh theo cơ cấu kinh tế mở, gắn với nhu cầu thị trường trong và ngoài
nước. Không chỉ tạo động lực thúc đẩy sự chuyển dịch nhanh cơ cấu
kinh tế của vùng theo chiều hướng tích cực, mà còn góp phần ổn định
nền kinh tế vĩ mô, đặc biệt là hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế ‑
xã hội của các địa phương trong vùng. Trong những năm qua, vùng kinh
tế đồng bằ̀ng sông Hồng tiếp tục được thúc đẩy và phát huy vai trò đầu
tàu, tạo điều kiện phát triển cho các tỉnh, thành trong vùng, thống nhất
quy hoạch phát triển giữa các địa phương, tạo sự liên kết trực tiếp về
sản xuất, thương mại, đầu tư, trợ giúp kỹ thuật, nguồn nhân lực, nâng
cao trình độ dân trí và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu liên kết
phát triển kinh tế ‑ xã hội của các địa phương, gắn chặt phát triển kinh
tế ‑ xã hội vù̀ng với phát triển bền vững.

Đồng bằng sông Hồng ngày càng phát triển, trình độ hợp tác giữa
các địa phương trong vùng vì thế cũng ngày được chuyển hóa thành các
hình thức liên kết phong phú, đa ngành và đa lĩnh vực. Chính các mối
quan hệ liên kết đã đưa đến cho các địa phương trong vùng cơ hội để
nhận được những lợi ích to lớn trong chiến lược phát triển kinh tế ‑ xã
hội. Bởi vậy, liên kết kinh tế của các địa phương trong vùng hiện nay
nhận được sự quan tâm của người dân.
Hình 1: Liên kết trong lao động sản suất giữa các địa phương

Liên kết kinh tế giữa các địa phương trong phát triển vùng đồng bằng sông Hồng
423
Điều này được thể hiện rõ qua liên kết kinh tế trong lao động sản
xuất của người dân giữa các địa phương trong vùng để làm ăn, phát
triển kinh tế, qua khảo sát có tới 77.9% tỷ lệ người dân trả lời có liên kết
với người dân khác ở các địa phương trong vùng, chỉ có 22.1% chọn
phương án không. Kết quả này cho thấy hiện nay, người dân ở các địa
phương thuộc vùng đồng bằng sông Hồng đã liên kết, hợp tác trong lao
động sản xuất và phát triển kinh tế.
Hình 2: Tương quan liên kết giữa các địa phương trong vùng
Như đã phân tích về thực trạng liên kết kinh tế của người dân
giữa các địa phương trong vùng hiện nay diễn ra ở hầu hết các địa
phương. Tuy nhiên, theo kết quả khảo sát định lượng mức độ liên
kết giữa các địa phương trong vùng có sự khác nhau, đáng chú ý là
ở hai tỉnh/thành Hưng Yên và Hải Phòng có tỷ lệ liên kết trong phát
triển kinh tế chiếm tỷ lệ cao nhất, lần lượt là 94.0% và 83.7%, Hà Nội
có tỷ lệ liên kết không cao, với 66.8%. Qua biểu đồ trên, chúng ta có
thể thấy hiện nay đại đa số người dân ở các tỉnh/thành trong vùng
đã ý thức được vai trò về vấn đề liên kết trong phát triển kinh tế ‑ xã
hội. Do vậy hầu hết ở các tỉnh đều có tỷ lệ trên 65% người dân thực
hiện liên kết kinh tế với người dân ở các tỉnh, thành khác để phát

triển kinh tế. Đây cũng là một nhu cầu tất yếu trong quá trình phát
triển, hơn nữa liên kết kinh tế sẽ giúp cho các địa phương tận dụng
được những lợi thế so sách của các đối tác trong quá trình liên kết và
phát triển. Theo thuyết “lợi thế so sánh” hay “lợi thế tương đối” của
David Ricardo: “các địa phương hoặc các nước có chuyên môn hoá sản
xuất và xuất khẩu sản phẩm của mình với chi phí cơ hội thấp hơn so với các

424
Bùi Văn Tuấn
địa phương, các nước khác, thì trong quá trình trao đổi tự do cả hai bên đều
cùng có lợi”
1
.
Bảng 1: Các lĩnh vực liên kết của người dân
Có thể nói, liên kết kinh tế́ ở các tỉnh, thành trong vùng đồng bằng
sông Hồ̀ng hiện nay đã và đang được nhiều người dân quan tâm và
thực hiện trong quá trình phát triển của toàn vùng và phát triển kinh
tế́ của các địa phương. Nó không chỉ được thực hiện ở một vài lĩnh
vực hoạt động kinh tế mà trên rất nhiều lĩnh vực. Kết quả khảo sát
cho thấy đa phần người dân ở các địa phương liên kết với nhau trong
nhiều lĩnh vực như: Tạo việc làm và phát triển nguồn nhân lực; Tạo
nguyên liệu và sản phẩm nông nghiệp; Liên kết phát triển công nghiệp
chế biến; Liên kết phát triển du lịch; Trao đổi kinh nghiệm phát triển
kinh tế; Trao đổi khoa học kỹ thuật. Trong đó, lĩnh vực liên kết tạo việc
làm và phát triển nguồn nhân lực được nhiều hộ gia đình thực hiệ̣n,
chiếm tỷ lệ cao nhất trong số các phương án trên (53,5%) tỷ lệ thấp
nhất trong số những phương án nghiên cứu đưa ra là liên kết phát triển
công nghiệp chế biến (22,2%). Sắp xếp theo thứ tự một cách tương đối
tốp 5 lĩnh vực mà người dân có liên kết trong quá trình phát triển kinh
tế ta có: (1) Tạo việc làm và phát triển nguồn nhân lực với 53.5%; (2)

Trao đổi kinh nghiệm phát triển kinh tế, 43,1%; (3) Trao đổi khoa học
1. Xem PGS.TS. Phạm Thanh Khiết, Học viện Chính trị ‑ Hành chính khu vực III: Liên
kết kinh tế và vai trò của nó trong quá trình phát triển kinh tế ‑ xã hội.
Lĩnh vực liên kết Tần suất (%)
Tạo việc làm và phát triển nguồn nhân lực 53,5
Tạo nguyên liệu và sản phẩm nông nghiệp 32,3
Liên kết phát triển công nghiệp chế biến 22,2
Liên kết phát triển du lịch 25,0
Trao đổi kinh nghiệm phát triển kinh tế 43,1
Trao đổi khoa học kỹ thuật 33,8
Liên kết kinh tế giữa các địa phương trong phát triển vùng đồng bằng sông Hồng
425
kỹ thuật 33,8%; (4) Tạo nguyên liệu và sản phẩm nông nghiệp 32,3%;
(5) Liên kết phát triển du lịch là 25.0%. Trên đây là 5 lĩnh vực theo đánh
giá của người dân địa phương có liên kết với các địa phương khác có
hiệu quả.
Bảng 2: Mục đích khi thực hiện liên kết kinh tế
Có nhiều mục đích khi thực hiện liên kết kinh tế giữa các địa phương
trong vùng, tuỳ vào từng lĩnh vực liên kết và nhu cầu của các địa
phương cần liên kết. Kết quả khảo sát cho thấy nhiều người liên kết kinh
tế với người dân ở các địa phương khác nhằm mục đích trao đổi kinh
nghiệm về sản xuất kinh doanh (24,3%), một số khác liên kết với mục
đích nâng cao sản lượng, hiệu quả kinh tế (22,9%), đồng thời cũng có ý
kiến cho rằng liên kết để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm (21,8%).
Bên cạnh đó cũng không ít ý kiến đưa ra mục đích liên kết là để giúp đỡ
đào tạo, bồi dưỡng trình độ, kỹ thuật (21,6%). Có thể nói, mục đích liên
kết giữa các địa phương là rất đa dạng và phong phú. Nhưng tựu chung
lại thì đều nhằm mục đích mang lại hiệu quả và phát triển kinh tế khi
thực hiện liên kết.
Thực trạng liên kết kinh tế theo ngành hiện nay ở các địa phương

trong vùng, kết quả khảo sát nhận được nhiều mức độ đánh giá khác
nhau của người dân trên các lĩnh vực như nông nghiệp, công nghiệp,
thương mại dịch vụ và xây dựng.
Mục đích Tần suất (%)
Nâng cao sản lượng, hiệu quả kinh tế 22,9
Bảo vệ lợi ích kinh tế công cộng 12,5
Trao đổi kinh nghiệm về sản xuất kinh doanh 24,3
Phát triển du lịch địa phương 9,9
Trao đổi, tổ chức bảo tồn, tôn tạo di tích lịch sử 9,5
Giúp đỡ đào tạo, bồi dưỡng trình độ, kỹ thuật 21,6
Mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm 21,8
426
Bùi Văn Tuấn
Trong lĩnh vực liên kết về nông nghiệp phần lớn đều đánh giá ở mức
độ bình thường 42,0%, có tới 36,1% đánh giá tốt, chỉ có 4,4% đánh giá
không tốt. Trong lĩnh vực liên kết về công nghiệp tỷ lệ người dân đánh
giá tốt 26,0%, 49,9% đánh giá mức độ bình thường và có tới 9,4% đánh
giá không tốt. Thậm chí có 9,6% người trả lời không biết khi được hỏi
về vấn đề này. Liên kết trong lĩnh vực xây dựng chưa nhận được sự đánh
giá cao của người dân, chỉ có 27,9% cho là tốt, 49,9% cho là bình thường
và 7,5% trả lời không tốt. Liên kết trong lĩnh vực thương mại ‑ dịch vụ
có 8,1% đánh giá rất tốt, 28,8% đánh giá tốt. Bên cạnh đó vẫn có 9,5%
đánh giá không tốt.
Tóm lại, đánh giá về liên kết trên các ngành kinh tế giữa các địa
phương theo người dân chủ yếu chỉ dừng ở mức độ bình thường, chưa
thực hiện liên kết với quy mô rộng và đồng bộ, bởi vậy chưa nhận được
sự đánh giá cao của người dân. Trong đó, liên kết về nông nghiệp nhận
được sự đánh giá cao hơn so với các lĩnh vực liên kết khác. Điều này cho
thấy, các địa phương cần có biện pháp khắc phục để thực hiện liên kết
tốt hơn trong quá trình phát triển vùng.

Về liên kết kinh tế theo thành phần ở các địa phương hiện nay cho
thấy thành phần kinh tế tư nhân được đánh giá cao với 45,0% cho rằng
thực trạng liên kết hiện nay là tốt, cao nhất trong các thành phần kinh tế
nêu; 10,8% đánh giá rất tốt, chỉ có 2,6% đánh giá không tốt khi được hỏi
về vấn đề này. Thứ hai, là thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và thành
phần kinh tế nhà nước trên 40,0% và 32% lựa chọn hai thành phần kinh
Liên kết kinh tế giữa các địa phương trong phát triển vùng đồng bằng sông Hồng
427
Hình 3: Đánh giá thực trạng liên kết kinh tế theo ngành hiện nay
giữa các địa phương
tế này đã có sự liên kết giữa địa phương trong vùng. Thành phần kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài chưa được sự đánh giá cao vì chỉ có 21,1%
đánh giá tốt, trong khi đó có tới 21,1% đánh giá hoạt động liên kết trong
thành phần kinh tế này không tốt, cao hơn rất nhiều lần so với các thành
phần kinh tế khác. Qua đánh giá về thực trạng liên kết kinh tế theo thành
phần ở các địa phương, đa phần người dân (58,4%) đánh giá liên kết
kinh tế theo thành phần kinh tế tập thể giữa các địa phương trong vùng
ở mức độ bình thường.
Đánh giá về thực trạng liên kết theo lĩnh vực ở các địa phương, đa
phần người dân đánh giá thực trạng liên kết theo lĩnh vực giữa các địa
phương trong vùng ở mức độ bình thường, trên 54,9% đánh giá liên
kết nhằm tạo giá trị gia tăng hàng hoá, liên kết tiếp nhận ‑ chuyển giao
công nghệ và liên kết giải quyết vấn đề lao động ‑ việc làm ở mức độ
bình thường.
Ở mức độ tốt, lĩnh vực liên kết mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm được đánh giá cao, với 36,2%; thấp nhất là liên kết tiếp nhận‑
chuyển giao công nghệ 6,7%, Tỷ lệ đánh giá rất tốt chỉ chiếm rất thấp
và tương đương nhau, không có sự chênh lệch nhiều giữa các
phương án.
Ở mức độ không tốt, lĩnh vực liên kết để giải quyết vấn đề lao động

‑ việc làm giữa các địa phương có 10,8%, cao nhất trong các phương án
428
Bùi Văn Tuấn
Hình 4: Thực trạng liên kết theo thành phần kinh tế ở địa phương
với các tỉnh thành khác hiện nay
nêu trên. Thấp nhất là liên kết mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm
6,1%. Ngoài ra, còn một bộ phận người dân không biết hay không quan
tâm nhiều khi được hỏi về vấn đề này.
Ngoài các loại hình liên kết trên giữa các địa phương nêu trên còn
có nhiều hình thức liên kết khác trong quá trình phát triển, như: liên kết
phát triển du lịch; liên kết trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao và liên kết trong giải quyết các vấn đề xã hội của vùng, như: xoá đói
giảm nghèo; giải quyết vấn đề lao động việc làm; giải quyết các vấn đề
y tế, dịch bệnh; phòng và chống tệ nạn xã hội…
Liên kết kinh tế đem lại những lợi thế không nhỏ cho các địa
phương, những lợi thế này có vai trò quan trọng đối với phát triển
vùng. Đánh giá về những lợi thế này, kết quả khảo sát cho thấy, có
67,2% người được hỏi cho rằng liên kết kinh tế đem lại lợi thế mở rộng
thị trường cho các địa phương trong vùng và đây cũng chính là lợi
thế được nhiều người dân lựa chọn đánh giá cao nhất trong số các lợi
thế mà nghiên cứu đưa ra; thứ hai là liên kết sẽ phát huy thế mạnh
tiềm năng của vùng (44,8%), Thứ ba, tận dụng tối đa nguồn nhân lực
tại chỗ (39,1%). Thứ tư, tìm được nguồn cung ứng nguyên liệu 37%.
Hơn nữa, những lợi thế mang lại không chỉ về mặt kinh tế mà còn
Liên kết kinh tế giữa các địa phương trong phát triển vùng đồng bằng sông Hồng
429
Hình 5: Ý kiến về thực trạng liên kết kinh tế theo lĩnh vực
tăng cường tính cố kết cộng đồng dân tộc giữa các địa phương khi
thực hiện việc liên kết phát triển kinh tế (31,2%). Ngoài ra còn nhiều
lợi ích khác mà liên kết phát triển kinh tế mang lại cho địa phương,

do đó cần thúc đẩy liên kết trong quá trình phát triển giữa các địa
phương để mang lại những lợi ích trong phát triển vùng kinh tế đồng
bằng sông Hồng.
Những lợi thế đem lại cho các địa phương trong quá trình thực hiện
liên kết kinh tế là rất lớn. Tuy nhiên giữa các địa phương cũng có sự
khác nhau rất lớn về các lợi thế này, Ở lợi thế mở rộng thị trường, Hà
Nam có tỷ lệ người chọn phương án này cao nhất chiếm 77,7%, tiếp theo
là Hưng Yên và Hà Nội lần lượt là 76,7% và 75,1%, Bắc Ninh là địa
phương có tỷ lệ người chọn phương án này thấp nhất 45,1%. Lợi thế
đem lại nguồn cung ứng nguyên liệu Hưng Yên và Hà Nam là hai địa
phương có tỷ lệ người dân chọn cao nhất với 54,0% và 43,6%, Hải Phòng
là tỉnh có tỷ lệ thấp nhất 22,6%. Từ kết quả trên chúng ta có thể nhận ra
ở mỗi địa phương đều có một thế mạnh riêng trong quá trình phát triển
kinh tế ‑ xã hội, và để cho sự phát triển này có quy mô lớn, chất lượng
cao và mang tính đồng bộ thì các địa phương trong vùng cần hợp tác,
liên kết với nhau để phát triển, tận dụng những lợi thế của đối tác để
thúc đẩy sự phát triển chung của cả vùng và nền kinh tế riêng của mỗi
địa phương.
430
Bùi Văn Tuấn
Hình 6: Liên kết kinh tế mang lại những lợi thế gì cho địa phương
Bảng 3: Cơ cấu lợi ích mang lại cho các địa phương nhờ liên kết
phát triển kinh tế vùng (Tỷ lệ:%)
Chính những lợi ích khi liên kết đem lại đã có tác động không nhỏ
đến sự phát triển kinh tế của các địa phương và đời sống của nhân dân.
Điều này đã dẫn đến sự thay đổi lớn trong đời sống của người dân hiện
nay, địa phương phát triển có nghĩa đời sống của người dân sẽ có sự
tiến bộ. Do đó, khi đánh giá về đời sống kinh tế của các gia đình so với
trước khi chưa có liên kết kinh tế giữa các địa phương, kết quả có 89,4%
đánh giá khá hơn, đây là một tỷ lệ khá cao. Chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ người

dân cho rằng đời sống kinh tế gia đình kém hơn 0,9% và 9,6% đánh giá
như cũ. Nói chung đời sống kinh tế của hộ dân ở các địa phương trong
vùng sau khi liên kết kinh tế đã có nhiều chuyển biến theo chiều hướng
tích cực, khá hơn so với trước khi chưa thực hiện liên kết, đây là một
điều đáng khích lệ nhằm thúc đẩy hơn nữa các hoạt động liên kết trong
phát triển vùng.
Sự thay đổi này cũng có sự khác nhau giữa các địa phương được
khảo sát, địa phương có tỷ lệ cao nhất đánh giá kinh tế của hộ gia đình
khá hơn sau khi thực hiện liên kết kinh tế là Hưng Yên 98%, tiếp theo
Lợi thế Hà Nội Hà Nam Bắc Ninh Hưng Yên Hải Phòng
Mở rộng thị trường 75,1 77,7 45,1 76,7 60,5
Đem lại nguồn cung ứng
nguyên liệu
34,7 43,6 31,6 54,0 22,6
Hỗ trợ công nghệ - kỹ thuật 35,4 35,3 24,9 48,7 21,4
Phát huy thế mạnh tiềm năng 47,6 67,8 37,3 22,7 46,3
Giảm thiểu chi phí xây dựng,
sản xuất
30,2 22,7 26,1 8,7 17,5
Phát triển kinh tế cả quy mô
lẫn chất lượng
35,3 34,9 28,2 11,3 27,8
Tận dụng tối đa nguồn nhân
lực tại chỗ
42,5 52,7 42,9 24,0 31,5
Tăng cường tính cố kết cộng
đồng dân tộc
39,2 30,6 28,4 37,3 19,5
Liên kết kinh tế giữa các địa phương trong phát triển vùng đồng bằng sông Hồng
431

là Hà Nam 90,1%. Thấp nhất là Bắc Ninh với 85,7%. Tuy có sự khác
nhau, nhưng hầu hết ở các tỉnh người dân đều đánh giá đời sống của
họ hiện nay khá hơn và khá hơn nhiều so với trước đây chiếm tỷ lệ rất
cao, trên 90%.
Hình 8: Tương quan đánh giá về kinh tế hộ gia đình giữa các
địa phương so với trước khi chưa có liên kết
Sự đánh giá của người dân ở các tỉnh, thành trong vùng có sự khác
nhau ở tiêu chí “như cũ”, cao nhất ở Bắc Ninh là với 13.1%, thấp nhất là
Hưng Yên 1.3%. Ở mức độ kém hơn rất ít người dân lựa chọn và có địa
phương hầu như không có ai lựa chọn phương án này.
Tóm lại, liên kết kinh tế trong những năm qua đã đem lại nhiều lợi
thế và thuận lợi không nhỏ cho các địa phương vùng đồng bằng sông
Hồng, tạo điều kiện cho vùng đồng bằng sông Hồng phát triển ngày
432
Bùi Văn Tuấn
Hình 7: Kinh tế hộ gia đình so với trước khi chưa có liên kết
giữa các địa phương trong vùng
càng lớn mạnh, ổn định, có thế và lực mạnh hơn để cạnh tranh và hợp
tác với các vùng khác, một khu vực phát triển năng động, ngày càng
vững mạnh và trở thành đối tác quan trọng với các vùng khác trong cả
nước giúp các địa phương trong vùng khai thác được tiềm năng, lợi thế
cho sự phát triển. Chẳng hạn Hà Nội khai thác được công nghệ, chất
xám và mở rộng thị trường để thu hút lao động và tiêu thụ sản phẩm
của các địa phương khác trong vùng. Với Hải Phòng cảng biển là một
trong những lợi thế để liên kết với các vùng khác phát triển công nghiệp,
thương mại, dịch vụ đường biển. Quảng Ninh có tiềm năng du lịch (Hạ
Long) có thể liên kết để đầu tư, phát triển dịch vụ du lịch Đồng bằng
sông Hồng có nhiều tiềm năng để phát triển công nghiệp, du lịch nên
có thể liên kết với các vùng khác để thu hút vốn đầu tư, khai thác các lợi
thế phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa của vùng nói

riêng và cả nước nói chung.
Liên kết kinh tế giúp các địa phương giảm tải được các chi phí và
tiêu hao nguồn lực, tăng hiệu quả đáp ứng nhanh nhạy yêu cầu phát
triển. Một số công ty, doanh nghiệp của Hà Nội hay các địa phương khác
liên kết đặt nhà máy tại vùng có nguyên liệu tại chỗ, sản xuất tại chỗ.
Biện pháp này làm giảm chi phí vận chuyển, lưu giữ nguyên liệu, sản
phẩm, giảm chi phí đào tạo nhân lực, sản phẩm làm ra tiêu thụ tại chỗ
và một số khu vực lân cận.
Liên kết kinh tế còn xoá bỏ ranh giới, địa lý hành chính, xoá bỏ các
thủ tục hành chính và miễn giảm thuế, đồng thời tận dụng được cơ sở
vật chất, kỹ thuật và kết cấu hạ tầng hiện đại, làm giảm chi phí lưu
thông, giảm các chi phí phí kinh tế, tăng hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh.
Liên kết kinh tế giữa các địa phương còn tạo khả năng huy động
nhanh nhạy các nguồn vốn, công nghệ đáp ứng yêu cầu đầu tư phát
triển. Bản thân sự liên kết là tập trung nguồn lực, mô hình liên kết có vị
thế cao hơn để liên kết, hợp tác với các đối tượng khác, có khả năng thu
hút vốn đầu tư và vay tín dụng.
Liên kết kinh tế giúp các địa phương vùng đồng bằng sông Hồng
tập trung nguồn lực để thực hiện được những công trình, dự án lớn mà
từng công ty hoặc từng địa phương không làm được. Ví dụ như ở một
số địa phương có nhiều tiềm năng thuỷ điện nhưng không thể một mình
Liên kết kinh tế giữa các địa phương trong phát triển vùng đồng bằng sông Hồng
433
làm được. Sự liên kết giữa địa phương với các Viện nghiên cứu, các
Trường Đại học sẽ thực hiện được việc này. Trường Đại học Bách khoa
Hà Nội đã liên kết với các địa phương ở Tây Bắc, Tây Nguyên, miền
Trung xây dựng nhiều nhà máy thuỷ điện nhỏ khai thác năng lượng tự
nhiên có hiệu quả.
Liên kết kinh tế tạo sức mạnh nội sinh, hạn chế tác động tiêu cực từ

bên ngoài, đồng thời tạo môi trường thu hút đầu tư có hiệu quả tăng
thêm sức mạnh nội sinh, có sức đề kháng để chống lại tác động tiêu cực
của cơ chế thị trường. Đồng thời với môi trường ổn định, lành mạnh, ở
đó hoạt động sản xuất kinh doanh năng động, doanh nghiệp làm ăn có
hiệu quả sẽ tạo điều kiện thu hút các nguồn vốn đầu tư cả trong và ngoài
vùng. Đồng bằng sông Hồng là vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc cần
phải tạo sự liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp, các ngành, các địa
phương, xây dựng các hiệp hội ngành nghề trong sản xuất, phân phối
sản phẩm để tăng thêm sức mạnh, đứng vững được tại thị trường trong
nước, khu vực và trên thế giới. Để làm được điều đó, đòi hỏ̉i các địa
phương trong vùng cần thực hiện tốt liên kết kinh tế.
Liên kết kinh tế giúp các địa phương của vùng tăng thêm sự phát
triển kinh tế tổng hợp, xoá bỏ sự phát triển đơn cực, cục bộ, khép kín,
mở rộng sự hợp tác, mở rộng thị trường. Liên kết kinh tế vừa hợp tác
vừa xâu chuỗi các ngành, gắn kết các địa phương, các vùng tạo nên một
chuỗi các giá trị tổng hợp trong quá trình phát triển kinh tế. Trong đó,
sự phát triển đơn cực, khép kín nhường chỗ cho sự kết nối liên thông
giữa ngành này với ngành khác, địa phương này địa phương khác, vùng
này với vùng khác. Liên kết kinh tế có thể kéo văn minh thế giới về tới
những vùng hoang sơ, nghèo khổ, đồng thời sản phẩm tiểu thủ công
nghiệp, hàng nông sản có thể vào được thị trường thế giới. Sự hợp tác
phân công giữa các địa phương, vùng được mở rộng tạo điều kiện cho
các địa phương đang và kém phát triển khai thác các nguồn lực, đẩy
nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
3. Một số hạn chế trong liên kết kinh tế giữa các địa phương vùng
đồng bằng sông Hồng
Vấn đề liên kết vùng luôn được đặt ra trong chiến lược phát triển
ở các lĩnh vực để mang lại hiệu quả kinh tế cho các địa phương của
434
Bùi Văn Tuấn

vùng đồng bằng sông Hồng trong những năm qua. Bên cạnh những
mặt tích cực mà liên kết kinh tế giữa các địa phương mang lại vẫn còn
không ít hạn chế và gặp nhiều khó khăn. Qua khảo sát một số ý kiến
đánh giá các hoạt động liên kết kinh tế hiện nay giữa các địa phương
chưa đạt được hiệu quả cao, có 57,0% đánh giá địa phương có liên kết
kinh tế nhưng chỉ là số ít, chưa có sự tổ chức cao, thậm chí có 18,7%
cho rằng chưa có liên kết, 12,8% đánh giá địa phương có liên kết nhưng
chủ yếu của doanh nhân, và 11,5% cho là liên kết chỉ bước đầu có ở
các cấp chính quyền.
Nguyên nhân dẫn đến liên kết giữa các địa phương trong vùng đồng
bằng sông Hồng hiện nay chưa đạt được hiệu quả, theo kết quả khảo
sát trên 2500 hộ dân ở các địa phương trong vùng cho thấy, nguyên nhân
lớn nhất mà nhiều người dân đánh giá là do chính sách phát triển của
các địa phương chưa có sự đồng nhất (43,5%); nguyên nhân thứ hai là
cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng nhu cầu phát triển (33,7%); một nguyên
nhân nữa cũng phải kể đến theo đánh giá của nhiều người là do các thủ
tục hành chính gây cản trở việc liên kết 33,6%; thị trường còn sơ khai,
kém phát triển cũng ảnh hưởng đến thúc đẩy liên kết phát triển kinh tế
giữa các địa phương của vùng. 30,0% trong số những người được hỏi
chọn phương án này. Hơn nữa, sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh
tế giữa các tỉnh thành và các thủ tục hành chính gây cản trở làm cho việc
liên kết giữa các địa phương trong vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay
chưa đạt được hiệu quả.
Ngoài ra có thể kể đến một số nguyên nhân khác như các doanh
nghiệp công nghiệp ở một số địa phương trong vùng chủ yếu có quy
mô nhỏ, phân bố rời rạc, chưa kết nối được thành hệ thống nên rất
khó để liên kết với nhau. Chính điều này đã làm giảm tính cấp bách
của việc phải thiết lập liên kết kinh tế trong cùng địa phương cũng
như giữa các địa phương với nhau; cơ chế điều phối kinh tế của các
địa phương hiện nay cũng là một rào cản lớn đối với liên kết. Mặc dù

đều nằm trong vùng đã được quy hoạch song mỗi địa phương là một
chủ thể kinh tế độc lập, không có cơ cấu điều hành nào cho vùng vì
vậy sẽ chẳng ai nghe ai, chẳng ai quan tâm đến ai khi hoạch định các
chính sách phát triển kinh tế của mình. Cũng phải kể thêm rằng, trong
những năm qua, Chính phủ đã có nhiều chính sách nhằm phát triển
vùng, tuy nhiên khi triển khai lại chưa có cơ chế để điều phối và quản
Liên kết kinh tế giữa các địa phương trong phát triển vùng đồng bằng sông Hồng
435
lý nên chính sách thường chỉ nằm trên giấy, không có nhiều giá trị
trong thực hiện hoặc có cũng chỉ ở mức độ vừa phải. Việc tạo ra sự
“vượt trội” so với các địa phương khác đang được xem là tiêu chí
quan trọng để đánh giá “năng lực” lãnh đạo. Vì vậy, điều quan tâm
của lãnh đạo các địa phương là tìm mọi cách để lôi kéo được nhiều
dự án đầu tư về địa phương mình, bất kể hiệu quả cũng như hậu quả
lâu dài; Bản tính cục bộ địa phương, động cơ phải cạnh tranh để vượt
trội đã phần nào làm cản trở tư duy hợp tác, liên kết với các địa
phương khác trong khu vực.
4. Một số giải pháp nhằm phát huy liên kết trong phát triển vùng
kinh tế đồng bằng sông Hồng
Từ những phân tích trên ta thấy, hiện nay liên kết kinh tế giữa các
địa phương trong vùng còn một số vấn đề chưa phát huy hết tiềm năng
và lợi thế vốn có của vùng. Do đó để liên kết vùng phát triển ngày càng
tốt hơn cần phải thực hiện tốt một số vấn đề: trước hết, cần có chính
sách hợp lý trong quan hệ kinh tế giữa các địa phương (66,7%), thứ hai
cần xây dựng cơ chế liên kết giữa các ngành, các thành phần và vùng
kinh tế (65,8%). Trên 50,0% người dân lựa chọn một số yếu tố cần thực
hiện tốt như: Xây dựng cơ sở hạ tầng đáp ứng nhu cầu liên kết (57,1%),
bởi lẽ theo đánh giá đây là một trong những nguyên nhân gây ảnh
hưởng đến việc thúc đẩy liên kết phát triển kinh tế giữa các địa
phương; Nhận thức rõ ràng, có liên kết mới có thể phát triển (54,8%);

Chính quyền các cấp cũng là những người có vai trò quan trọng để liên
kết vùng mang lại hiệu quả, có 51,9% người dân lựa chọn phương án
chính quyền các cấp phải là người chủ trì cho các hoạt động liên kết
này. Một số hoạt động khác cũng có ảnh hưởng tới việc thúc đẩy liên
kết kinh tế giữa các địa phương trong phát triển vùng, do đó cần có sự
quan tâm để có biện pháp phù hợp với từng tỉnh, thành. Đồng thời,
chúng ta cần có những chính sách ưu tiên thực hiện các giải pháp nhằm
thúc đẩy liên kết:
Kết quả khảo sát định lượng hơn 2500 hộ dân ở một số địa phương,
để liên kết giữa các địa phương đạt hiệu quả cao trong quá trình phát
triển chung của vùng kinh tế đồng bằng sông Hồng. Theo ý kiến người
dân các địa phương cần phải ưu tiên các giải pháp nhằm thúc đẩy liên
kết, như: Phát triển mạnh hạ tầng giao thông liên tỉnh, liên vùng (46,1%);
436
Bùi Văn Tuấn
Xây dựng cơ chế khuyến khích hợp tác, liên kết phát triển giữa các tỉnh,
thành (49,8%); Xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế ‑ xã hội
vùng (41,9%); Có một chiến lược, định hướng lâu dài cho sự liên kết
kinh tế vùng (37,8%); Phát huy lợi thế của các địa phương, tạo liên kết
giữa các tỉnh thành (30,2%); Đầu tư đầy đủ các nguồn lực cho công tác
quy hoạch, liên kết phát triển vùng (26,9%); Sử dụng tài nguyên hiệu
quả giữa các địa phương trong vùng (24,4%); Tạo lập môi trường văn
hoá ‑ tâm lý thuận lợi cho quá trình liên kết hợp tác (19,6%); Giám sát
việc thực hiện quy hoạch, thực hiện các chính sách 18,6%; Tạo sự cân
bằng trong quá trình phát triển ngành, thành phần kinh tế giữa các tỉnh,
thành trong vùng (17,0%).
Thống nhất các chính sách thu hút đầu tư cho địa phương nói riêng và
toàn vùng nói chung:
Để tránh tình trạng các địa phương ban hành chính sách thu hút đầu
tư tràn lan như hiện nay, trong thời gian tới Chính phủ cần nhanh chóng

triển khai các biện pháp sau đây:
+ Nghiên cứu và ban hành chính sách thống nhất cho vùng kinh tế
đồng bằng sông Hồng, không để tình trạng mỗi địa phương mỗi chính
sách, kể cả chính sách do TW và địa phương ban hành.
+ Thành lập các đoàn kiểm tra của Chính phủ để kiểm tra tình hình
ban hành chính sách tại các địa phương nhằm phát hiện và loại bỏ
những văn bản đã ban hành trước đây nhưng trái với quy định chung.
Đối với các chính sách đã áp dụng tại các địa phương, tùy từng trường
hợp cụ thể mà quy định thời gian được phép tiếp tục áp dụng hoặc phải
loại bỏ ngay.
+ Khi ban hành chính sách phát triển cho vùng, Chính phủ cần phải
tham vấn từ tất cả các địa phương trong vùng, tránh trường hợp các
chính sách tạo ra lợi thế cho địa phương này nhưng gây bất lợi cho địa
phương khác.
+ Có chính sách ưu đãi cho các ngành công nghiệp mũi nhọn cần ưu
tiên phát triển trong vùng trên cơ sở quy hoạch phát triển chung đã phê
duyệt, trong đó cần chỉ rõ địa phương nào được ưu tiên phát triển lĩnh
vực gì, sản phẩm gì.
Liên kết kinh tế giữa các địa phương trong phát triển vùng đồng bằng sông Hồng
437
438
Bùi Văn Tuấn
+ Cần xóa bỏ tình trạng các địa phương tranh thủ “xin xỏ” trung
ương để được hỗ trợ cho các chính sách ưu đãi riêng.
Xúc tiến thành lập “Hội đồng vùng”
Mặc dù Chính phủ phê duyệt quy hoạch phát triển vùng kinh tế
đồng bằng sông Hồng nhưng về mặt quản lý lại không có một cơ cấu
nào để điều hành nó. Để giải quyết vấn đề này, một cơ chế chính sách
tạo sự nối kết toàn vùng là cần thiết hiện nay để thực hiện các vấn đề
như: liên kết thế nào, làm cái gì, địa phương làm gì, trung ương làm

gì là hết sức quan trọng trong quá trình phát triển vùng.
Vì vậy, để việc phối hợp giữa các địa phương trong vùng được
thuận tiện và hiệu quả, theo chúng tôi Chính phủ cần thành lập một cơ
cấu điều hành dưới dạng “Hội đồng vùng”. Hội đồng có trách nhiệm
điều phối việc hoạch định chính sách của các địa phương trong vùng
trên cơ sở quy hoạch tổng thể của Chính phủ và các quy hoạch ngành
đã được phê duyệt theo nguyên tắc đồng thuận tập thể.
Đẩy mạnh giao lưu giữa các địa phương để tăng cường đoàn kết
Tâm lý cục bộ, địa phương là một trở ngại lớn cho việc mở rộng hợp
tác liên kết, là tác nhân cản trở sự thống nhất hành động, làm suy giảm
sức mạnh tổng hợp của vùng, vì vậy cần phải giảm thiểu và loại bỏ.
Đây là việc làm rất khó, đòi hỏi rất nhiều thời gian và nỗ lực của chính
quyền và người dân các địa phương.
Trong giai đoạn trước mắt, cần tăng cường các hoạt động giao lưu
thường xuyên giữa chính quyền và nhân dân các địa phương trong
vùng, làm cho mọi người thấy được mối quan hệ thân tình, gắn bó với
nhau trong một mái nhà chung, cụ thể:
+ Ở cấp độ chính quyền, nên định kỳ tổ chức các cuộc họp Hội
đồng nhân dân chung giữa các tỉnh, thành trong vùng. Đây là cơ hội
tốt để lãnh đạo các địa phương có dịp hiểu rõ được mong muốn,
nguyện vọng của nhau nhằm tìm kiếm cơ hội hợp tác phát triển cũng
như chia sẻ trách nhiệm trong những vấn đề chung mà các bên cùng
quan tâm.
+ Đối với người dân, cần nghiên cứu để thường xuyên tổ chức các
sự kiện văn hóa, du lịch, thể thao liên tỉnh, liên vùng để người dân các
Liên kết kinh tế giữa các địa phương trong phát triển vùng đồng bằng sông Hồng
439
địa phương có nhiều dịp giao lưu, hiểu biết lẫn nhau nhẳm tăng cường
đoàn kết, gắn bó.
Về lâu dài, cùng với việc tiếp tục duy trì các hoạt động giao lưu, công

tác cán bộ cũng cần phải được cải tiến theo hướng đa dạng hoá nguồn
sử dụng. Nên dành một tỷ lệ nhất định người từ địa phương khác tham
gia vào các chức vụ lãnh đạo và cán bộ chủ chốt tại mỗi địa phương,
tránh chỉ sử dụng người địa phương trong các chức vụ trọng yếu tại địa
phương mình.
Giải quyết tốt các mối quan hệ giữa các địa phương: Có nhiều phương án
nếu muốn xử lý tốt các mối quan hệ liên quan đến liên kết phát triển
cần phải thực hiện. Theo đánh giá của người dân tỷ lệ cao nhất cho rằng
cần xXử lý tốt quan hệ giữa các địa phương trên phạm vi toàn vùng
thành một mạng lưới chỉnh thể thống nhất (52,0%). Đồng thời xử lý tốt
quan hệ giữa đô thị và nông thôn trong quá trình đô thị hoá (49,6%).
Đây là hai vấn đề trọng điểm cần ưu tiên thực hiện để xử lý tốt các mối
quan hệ liên quan đến liên kết phát triển, ngoài ra còn một số phương
án khác cũng cần quan tâm.
Kết luận
Kết quả nghiên cứu thực trạng liên kết giữa các địa phương trong
phát triển vùng kinh tế đồng bằng sông Hồng cho thấy, sự hợp tác, liên
kết kinh tế này là một yêu cầu tất yếu khách quan. Mối quan hệ hợp tác
và liên kết nêu trên đã hình thành và phát triển, được xem như là điều
kiện mang tính cấp bách trong bối cảnh nền kinh tế Vùng đồng bằng
sông Hồng nói riêng và cả nước nói chung đang vận hành rất năng động
và đa dạng, đặc biệt là trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã, đang
và sẽ diễn ra với tốc độ nhanh chóng và mạnh mẽ hiện nay cũng như
tương lai.
Chính mối quan hệ hợp tác kinh tế giữa các địa phương trong
phát triển vùng kinh tế đồng bằng sông Hồng đã góp phần tăng
trưởng kinh tế cao và ổn định của toàn Vùng trong những năm qua.
Tuy nhiên, liên kết kinh tế của toàn vùng vẫn còn nhiều bất cập dẫn
tới hiệu quả của sự liên kết chưa cao, nhiều ý kiến cho rằng liên kết
kinh tế trong vùng chưa cao, có nhưng chỉ là số ít, hơn nữa những

liên kết này chưa có sự tổ chức cao, thậm chí liên kết chỉ bước đầu
440
Bùi Văn Tuấn
hình thành ở các cấp chính quyền. Mặt khác trong liên kết thiếu phối
hợp giữa Bộ, ngành trung ương và các địa phương trong vùng dẫn
đến những hạn chế như thiếu kết nối cơ sở hạ tầng kỹ thuật, ô nhiễm
môi trường
Xuất phát từ những tồn tại trong liên kết giữa các địa phương
trong phát triển vùng kinh tế đồng bằng sông Hồng những năm qua
theo đánh giá của người dân các địa phương, tham luận xin đề xuất
một số giải pháp đồng bộ nhằm đẩy mạnh hợp tác, liên kết giữa các
địa phương trong phát triển vùng kinh tế đồng bằng sông Hồng như
sau: (1) Xây dựng cơ sở khoa học và thực tiễn của hợp tác vùng (nội
bộ vùng và liên vùng); (2) Quy hoạch vùng trọng điểm điều phối giữa
các tỉnh trong vùng, đồng thời giữ vai trò đầu tàu, là động lực kéo
theo sự phát triển các tỉnh, thành trong toàn vùng và khu vực; (3) Xây
dựng cơ chế khuyến khích hợp tác, liên kết phát triển giữa các tỉnh,
thành; (4) Xây dựng chính sách và giải pháp để thực hiện liên kết
vùng; (5) Phát triển mạnh hạ tầng giao thông liên tỉnh, liên vùng; (6)
Đẩy mạnh công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao phục vụ yêu cầu công nghiệp hóa ‑ hiện đại hóa của vùng; (7) Phối
hợp chặt chẽ giữa các tỉnh, thành của vùng trong phát triển và bảo vệ
môi trường bền vững; (8) Xây dựng mạng lưới thông tin liên kết giữa
các địa phương trong vùng; (9) Hoàn thiện công tác ký kết Chương
trình hợp tác kinh tế giữa các địa phương trong vùng; (10) Tạo sự cân
bằng trong quá trình phát triển ngành, thành phần kinh tế giữa các
tỉnh, thành; (11) Tăng cường sự phối hợp giữa các Bộ, ngành trung
ương và các tỉnh, thành phố trong Vùng; (12) Củng cố vai trò điều
phối của Ban Chỉ đạo điều phối phát triển các vùng kinh tế trọng
điểm; (13) Xác định rõ trách nhiệm của các Bộ, ngành trung ương và

các tỉnh, thành trong công tác phối hợp, liên kết; (14) Tổ chức thực
hiện, kiểm tra và điều chỉnh quá trình liên kết vùng; (15) Tạo lập môi
trường văn hoá ‑ tâm lý thuận lợi cho quá trình liên kết, hợp tác.
Ngoài ra cần xử lý tốt các mối quan hệ giữa các địa phương trên
phạm vi toàn vùng thành một mạng lưới chỉnh thể thống nhất; xử lý tốt
mối quan hệ giữa vùng trọng điểm và vùng lân cận trong quá trình phát
triển toàn vùng; xử lý tốt mối quan hệ giữa đô thị và nông thôn trong
quá trình đô thị hoá.
Liên kết kinh tế giữa các địa phương trong phát triển vùng đồng bằng sông Hồng
441
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Dương Đình Giám (07/2003), Về vấn đề liên kết kinh tế ở Việt Nam hiện
nay, Thời báo Kinh tế Việt Nam.
[2] Đại học Quốc gia Hà Nội, Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển
(2008), Khoa học phát triển, lý luận và thực tiễn ở VN, Nxb Thế Giới.
[3] Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển (2006), Khu vực học: cơ sở
lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu, Hội thảo về nghiên cứu
và đào tạo về khu vực học, 2005.
[4] Phương Thảo (06/2005), Vai trò của công nghệ thông tin trong việc liên kết
phát triển KT‑XH vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Báo Đầu tư.
[5] Ngô Đình Lập (05/2006), Gia nhập WTO doanh nghiệp cần sự liên kết,
Vietnamnet.

×