Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ Lí LUẬN CHUNG VỀ LIấN KẾT KINH TẾ GIỮA CÁC ĐỊA PHƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.71 KB, 20 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ Lí LUẬN CHUNG VỀ LIấN KẾT KINH TẾ GIỮA CÁC ĐỊA
PHƯƠNG
I.VẤN ĐỀ LIÊN KẾT KINH TẾ GIỮA CÁC ĐỊA PHƯƠNG.
1. Khái niệm và đặc điểm của liên kết kinh tế.
Liên kết kinh tế là một hiện tượng kinh tế - xó hội khách quan của nền
sản xuất hàng hóa có sự phân công lao động xó hội ngày càng phát triển.
Những biểu hiện của hoạt động liên kết kinh tế đó ra đời, tồn tại từ lâu trong
lịch sử của nền kinh tế thế giới cũng như Việt nam. Ngày nay hoạt động kinh tế
tiếp tục phát triển đa dạng và phong phú về nhiều mặt.
Liên kết kinh tế được nhận thức một cách khái quát nhất là phạm trù
phản ánh mối quan hệ phối hợp hoạt động kinh tế giữa các chủ thể kinh tế với
nhau, để thực hiện những nhiệm vụ sản xuất kinh doanh nhất định, nhằm đem
lại những hiệu quả kinh tế cao nhất cho mỗi bên tham gia.
Đặc điểm cơ bản của quan hệ liên kết kinh tế là: Xuất phát từ mối quan
tâm “cùng có lợi ích kinh tế” mà các bên tham gia tự nguyện thiết lập các mối
quan hệ phối hợp. Các chủ thể liên kết kinh tế có sự phối hợp lẫn nhau khá chặt
chẽ và có trách nhiệm cao trong tổ chức thực hiện các hoạt động phối hợp. Các
chủ thể (đối tác) tham gia hoạt động liên kết kinh tế có thể là: doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh, các tổ chức kinh tế- xó hội, chính quyền địa phương, cơ
quan quản lý nhà nước cấp ngành, cấp quốc gia.
Trong hoạt động liên kết kinh tế, có thể thiết lập quan hệ liên kết kinh tế
với những nội dung khá phong phú ở tất cả các khâu của quá trỡnh tái sản
xuất mở rộng, như khâu chuẩn bị các yếu tố cho sản xuất, sản xuất, phục vụ
cho sản xuất, nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, đào tạo, bảo vệ tài
nguyên môi trường, tổ chức khai thác thị trường, thúc đẩy qúa trỡnh lưu
thông tiêu thụ sản phẩm...
Liên kết kinh tế có thể diễn ra trong một phạm vi không gian hẹp như:
liên kết kinh tế giữa các bên trong một khu công nghiệp, một địa phương, vùng
kinh tế. Nhưng cũng có thể diễn ra ở phạm vi không gian rộng như: toàn quốc
gia, giữa các quốc gia với nhau. Và hoạt động liên kết kinh tế giữa các bên có
thể thực hiện trong một thời gian ngắn là kết thúc (Liên kết kinh tế theo từng


vụ việc cụ thể) và có thể diễn ra một cách thường xuyên, liên tục nhiều năm.
Liên kết kinh tế được thực hiện thông qua hỡnh thức hợp đồng liên kết
kinh tế giữa các chủ thể kinh tế độc lập. Đồng thời quan hệ liên kết kinh tế
cũng có thể được thực hịên thông qua việc hỡnh thành một loại hỡnh tổ chức
mới, làm nhiệm vụ điều phối hoạt động của các bên tham gia. Liên doanh là
một biểu hiện cụ thể của hoạt động liên kết kinh tế.
Để nhận thức rừ bản chất của hoạt động liên kết kinh tế, cần chú ý phân
biệt giữa quan hệ liên kết kinh tế với các quan hệ kinh tế nói chung. Mọi quan
hệ liên kết kinh tế nói chung dều là những q4uan hệ kinh tế, nhưng ngược lại
thỡ không nhất thiết. Quan hệ kinh tế bao gồm tất cả các hoạt động kinh tế
như hoạt động mua bán, trao đổi, vay mượn, tổ chức sản xuất của các chủ thể
kinh tế. Nhưng chỉ những quan hệ kinh tế nào phản ánh sự phối hợp mang tính
cộng đồng trách nhiệm của các chủ thể kinh tế liên quan thỡ mới được coi là
quan hệ liên kết kinh tế.
Hoạt động liên kết kinh tế giữa các chủ thể kinh tế bao gồm những hoạt
động kinh tế được pháp luật cho phép, khuyến khích và bảo trợ. Đó là những
hoạt động liên kết kinh tế công khai, đúng luật. Đồng thời trong thực tiễn vẫn
tồn tại quan hệ kinh tế không được pháp luật cho phép, đó là những hoạt động
kinh tế ngầm.
2. Sự cần thiết khách quan phải liên kết kinh tế giữa các địa phương
trong vùng.
Ngày nay, hội nhập kinh tế, toàn cầu hóa kinh tế thế giới là một xu thế
khách quan do tác động của sự phát triển lực lượng sản xuất. Những thập niên
cuối thế kỷ XX, cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đó đẩy nhanh tốc
độ chu chuyển vốn, hàng hóa, dịch vụ, chuyển giao công nghệ trong phạm vi
toàn cầu. Quá trỡnh toàn cầu hóa diễn ra ở nhiều cấp độ, từ hợp tác song
phương giữa hai nước, hỡnh thành các tam giác, tứ giác,tiểu vùng, tổ chức
khu vực, liên khu vực, liên châu lục và các tổ chức toàn cầu với phương thức đa
dạng như khu vực mậu dịch tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, diễn
đàn kinh tế, liên minh kinh tế...

Toàn cầu hóa là một quỏ trỡnh vừa hợp tác vừa đấu tranh, mỗi nước có
thể tận dụng tối đa thế và lực của mỡnh để đảm bảo lợi ích dân tộc mỡnh
trong quan hệ song phương và đa phương với các nước khác. Vỡ vậy, trong xu
thế này, để khai thác lợi thế so sánh của quốc gia mỡnh để tận dụng, học hỏi
kinh nghiệm phát triển thành tựu khoa học công nghệ, tránh tụt hậu so với các
nước khác không một quốc gia nào đóng cửa đứng ngài xu thế này mà đều
tham gia vào hội nhập kinh tế, liên kết với các nước khác trong khu vực và trên
thế giới.
Nhận thức được điều này, từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, Đảng và
nhà nước ta đó chủ trương mở cửa nền kinh tế, mở rộng quan hệ với các nước
trên thế giới với tiêu chí “ hũa nhập chứ không hũa tan”. Tương tự như vậy,
nếu xét trên phạm vi một nước, thậm chí trên phạm vi một vùng thỡ xu hướng
mở rộng quan hệ hợp tác giữa các vùng với nhau và giữa các địa phương
trong vùng
với nhau cũng biểu hiện một cách rừ rệt.Vỡ vậy, liên kết hay hợp tác phối hợp
phát triển giữa các địa phương là một xu hướng tất yếu.
Đặt vấn đề theo một khía cạnh khác, lực lượng sản xuất càng phát triển
thỡ phân công lao động theo vùng lónh thổ càng diễn ra mạnh mẽ, do đó, xuất
hiện ngày càng nhiều các ngành chuyên môn hóa. Mỗi một địa phương, một
vùng không thể có đủ điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và lao động để
phát triển toàn diện các ngành sản xuất chuyên môn hóa theo kiểu khép kín,
mà chỉ có thể có lợi thế hơn trong việc phát triển một ngành chuyên môn hóa
nào đó.Hơn nữa, trong quỏ trỡnh phỏt triển, các địa phương thường phải đối
mặt với nhiều vấn đề vượt ra khỏi phạm vi giải quyết của một tỉnh như: ô
nhiễm môi trường, đầu tư công cộng, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đũi hỏi
phải có sự liên kết giữa các địa phương cùng giải quyết.
Trong lĩnh vực khoa học công nghệ cũng vậy. Ngày nay cuộc cách mạng
khoa học công nghệ có tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống và xó
hội. Các tiến bộ khoa học, công nghệ được áp dụng trong mọi lĩnh vực từ văn
hóa, kinh tế, xó hội, quốc phũng...Nghiên cứu vấn đề khoa học cũng như áp

dụng thành tựu khoa học mà khép kín trong phạm vi một địa phương, một
vùng thỡ mất nhiều ý nghĩa. Nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới, không
dễ gỡ ở một địa phương nào đó lại hội tụ đầy đủ các trường đào tạo cán bộ,
công nhân kỹ thuật và các viện nghiên cứu khoa học. Do đó, có nơi thỡ phát
triển trỡnh độ khoa học- công nghệ, có nợi thỡ chưa hay kém phát triển. Để có
thể nâng cao trỡnh độ khoa học – công nghệ và ứng dụng một cách có hiệu quả
các tiến bộ của lĩnh vực này đũi hỏi phải có sự phối hợp, hợp tác giữa các địa
phương trong việc đào tạo nguồn nhân lực có trỡnh độ chuyên môn, tay nghề
cao để quản lý và điều hành, vận dụng tốt. Trong lĩnh vực này, việc hợp tác
được tiến hành thông qua việc trao đổi mua bán những kết quả nghiên cứu,
thành tựu khoa học và công nghệ, hướng dẫn vận hành, sử dụng hay cử những
đũan đi thăm quan, học hỏi kinh nghiệm. Qua đó, những địa phương có trỡnh
độ khoa học công nghệ kém phát triển có thể tham khảo, học hỏi để nâng cao
trỡnh độ từ các địa phương khác có trỡnh độ phát triển cao hơn để tránh tụt
hậu xa hơn.
Hơn nữa, trong địa bàn một tỉnh hay thành phố không thể có đủ trang bị
cơ sở hạ tầng để có thể phục vụ cho quá trỡnh phát triển một cách toàn diện.
Vỡ vậy, giữa các tỉnh phải có sự ràng buộc nhau trong việc sử dụng chung các
cơ sở hạ tầng lớn có quy mô toàn vùng như các sân bay, cảng, một số bệnh viện
và trường đại học lớn. Ví dụ như trên địa bàn mỗi tỉnh đều có bệnh viện nhưng
một số những trường hợp cấp tỉnh không thể giải quyết được phải chuyển
bệnh nhân lên tuyến trên, việc này cũng đũi hỏi phải có sự phối hợp giữa các
địa phương.
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, các mối quan hệ liên tỉnh về mặt
kinh tế gần như không có. Khi Việt Nam chuyển sang cơ chế thị trường vấn đề
cần đặt ra là Chính phủ phải thực hiện việc phân quyền để đảm bảo bộ máy
Chính phủ có thể thực hiện các chức năng đáp ứng yêu cầu của một nền kinh tế
thị trường, đặc biệt là ở các tỉnh. Khi quyền tự chủ về kinh tế của các tỉnh đối
với phát triển kinh tế ngày càng tăng thỡ nhu cầu hợp tác, phối hợp giữa các
tỉnh ngày càng trở nên bức thiết. Giải quyết tốt vấn đề liên kết giữa các tỉnh

chính là cơ hội để tạo các địa bàn rộng hơn đáp ứng nhu cầu mở rộng không
gian kinh tế của cơ chế thị trường. Thêm vào đó, tồn tại trong cơ chế thị
trường, các địa phương, mọi thành phần kinh tế muốn phát triển đều phải chịu
một áp lực cạnh tranh rất lớn. Trong điều kiện như vậy, sự liên kết, hợp tác sẽ
làm tăng quy mô, tận dụng được lợi thế nhờ quy mô, nâng cao năng lực cạnh
tranh chủ động hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới.
Vỡ vậy, liên kết kinh tế giữa các vùng nói chung và giữa các địa phương
trong một vùng nói riêng là một xu hướng phát triển khách quan theo yêu cầu
của sự phát triển lực lượng sản xuất, yêu cầu của một nền kinh tế thị trường
hiện đại. Tham gia vào xu thế này, các địa phương không những khai thác
được các lợi thế so sánh của mỡnh mà cũn tận dụng được những lợi thế so
sánh của địa phương khác vào phục vụ cho phát triển kinh tế của địa phương
mỡnh, góp phần thúc đẩy sự phát triển của kinh tế vùng và cả nước.
3. Mục đích của việc liên kết kinh tế
Liên kết kinh tế giữa các địa phương trong vùng là rất quan trọng và
cần thiết nhằm:
- Đảm bảo sự lónh đạo thống nhất của nhà nước đối với nền kinh tế
theo đúng định hướng chiến lược chung của đất nước.
- Đảm bảo phát triển và thực hiện đúng các quy hoạch đó được phê
duyệt
- Đảm bảo khai thác nguồn lực của từng địa phương, từng vùng không
mâu thuẫn với lợi ích của cả nước.
- Đảm bảo sự phát triển hài hũa, công bằng giữa các địa phương. Vỡ
trong vùng sự phát triển không đồng đều giữa các tỉnh, nguồn lực và
yếu tố phỏt triển kinh tế -xó hội rất khác nhau nên yêu cầu của sự liên
kết giữa các tỉnh là có sự giúp đỡ và tạo điều kiện để các tỉnh yếu
phát triển.
- Đảm bảo sự phát triển kinh tế gắn với sự bền vững của môi trường
sinh thái, giữ gỡn bản sắc dân tộc và đặc trưng của vùng.
4. Vai trũ của liờn kết kinh tế giữa cỏc địa phương

Liên kết kinh tế giữa các tỉnh là một quỏ trỡnh phá vỡ sự cô lập giữa các
tỉnh với nhau. Sự liên kết này có thể diễn ra giữa các tỉnh trong nội bộ một
vùng (nghĩa là chúng không vượt ra ngoài ranh giới của vùng) hay giữa các
tỉnh ở trên các vùng khác nhau (nghĩa là về phạm vi hoạt động của nó vượt ra
khỏi ranh giới vùng và rất có thể vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia). Việc liên
kết có thể mang lại nhiều lợi ích cho việc phát triển.
.4.1.Nâng cao hiệu suất đầu tư công cộng
Đầu tư công cộng vào các tỉnh có thể được sử dụng một cách tối ưu nếu
các tỉnh trong vùng biết sẻ chia cho nhau. Liên kết liên tỉnh giúp tránh được
việc đầu tư với chi phí gấp đôi cho các dự án và tạo điều kiện để khai thác lợi
thế nhờ quy mô. Nếu biết liên kết liên tỉnh, kế hoạch có thể được xây dựng dựa
trên cơ sở nguồn lực và các thị trường liên tỉnh rộng lớn, nâng cao khả năng
và hiệu quả đầu tư cơ sở hạ tầng. Ví dụ như các cơ sở hạ tầng quy mô lớn như:
cảng biển và các sân bay cùng các tuyến đường giao thông liên kết chúng với
các tỉnh trong vùng có thể được xây dựng tại một vị trí chiến lược nhất trong
vùng, sử dụng triệt để công suất và thu được lợi ích tối đa, hơn là việc xây
dựng nhiều cơ sở hạ tầng manh mún, rải rác ở mỗi tỉnh. Tương tự như vậy, sẽ
hợp lý hơn về mặt kinh tế nếu đầu tư vào việc xây dựng các bệnh viện và các
trường đại học quy mô lớn, tiêu chuẩn cao của vùng để phục vụ cho nhiều tỉnh
một lúc.
Liên kết giữa các tỉnh là cơ sở để giải quyết các vấn đề về phát triển
vượt qua phạm vi mỗi tỉnh, nhất là đối với các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng
phục vụ cho lợi ích của nhiều ngành, nhiều tỉnh, tỡm ra phương án hợp lý nhất
có lợi cho các ngành, các địa phương trong vùng.
Đánh giá đầu tư công cộng sẽ có ý nghĩa nhiều hơn nếu được phân cấp,
bởi vỡ nhu cầu đầu tư công cộng sẽ được hiểu rừ hơn ở cấp tỉnh do các cán bộ
tỉnh chứ không phải trung ương, hàng ngày phải trực tiếp đối diện với các vấn
đề của tỉnh. Nếu như đại diện các tỉnh trong vùng cùng nhau phối hợp thực
hiện, thỡ công tác đánh giá và xác lập thứ tự ưu tiên của các dự án đầu tư sẽ
được cải thiện hơn. Sau đó, các tỉnh có thể chuyển kết quả đánh giá và xác lập

thứ tự ưu tiên lên trung ương để phê duyệt và chi ngân sách.
4.2.Tăng cường khả năng thu hút đầu tư nước ngoài và phát triển du
lịch của các tỉnh.
Các nhà đầu tư nước ngoài thích đầu tư vào những nơi có nhiều nguyên
liệu thô, lao động, các nguồn tài nguyên khác. Việc liên kết giữa các tỉnh trong
việc cung cấp những yếu tố đầu vào, về mặt chính sách, tạo môi trường đầu tư
hấp dẫn hơn, tăng khả năng thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào các tỉnh
trong vùng.
Tương tự như vậy, các du khách trong và ngoài nước đều thích trong
cùng một chuyến đi có thể đến thăm quan ở những nơi có nhiều điểm thu hút
du lịch. Vỡ vậy, các tỉnh có thể thu hút nhiều khách du lịch hơn nếu cùng liên
kết các phương tiện phục vụ du lịch ở tất cả các tỉnh, hợp tác hỡnh thành các
tuyến du lịch liên tỉnh. Bằng cách này, các tỉnh có thể cùng góp chung các
nguồn tài nguyên có hạn của mỡnh để đẩy mạnh hoạt động du lịch của cả
vùng.
4.3.Nâng cao tính hiệu quả trong việc thực hiện các tiêu chuẩn về môi
trường
Ngày nay, các vấn đề về môi trường đó và đang là mối quan tâm của mọi
quốc gia trên thế giới. Để giải quyết các vấn đề của môi trường thế giới là
trách nhiệm không của riêng một hay một vài quốc gia mà đũi hỏi phải có sự
tham gia của mọi quốc gia trên thế giới. Cũng với cách đặt vấn đề như vậy với
phạm vi một quốc gia hay vùng lónh thổ, để giải quyết vấn đề môi trường đũi
hỏi phải có sự hợp tác phối hợp giữa các địa phương.
Hơn nữa, ảnh hưởng của việc vi phạm các quy định về môi trường
thường không giới hạn trong phạm vi các tỉnh vi phạm. Đôi lúc ảnh hưởng đó
lại gây tác động xấu hơn đến các địa phương khác xung quanh. Có thể lấy ví dụ
về một con sông chảy qua địa bàn của nhiều tỉnh và phần thượng lưu bị ô
nhiễm vỡ các chất thải công nghiệp nhưng chính các tỉnh ở hạ lưu của con
sông sẽ bị ảnh hưởng tác hại nhiểu nhất. Do đó, các tỉnh cần phải có sự liên kết
cùng nhau thực hiện công tác giám sát việc tuân thủ các tiêu chuẩn về môi

trường.
4.4.Phát triển năng lực điều hành của cán bộ địa phương
Nếu các tỉnh trong vùng hay lân cận liên kết chặt chẽ với nhau thỡ có thể
tăng cường khả năng tự chủ của các đơn vị chính quyền địa phương và đẩy
mạnh quỏ trỡnh phân cấp. Liên kết làm cho mỗi tỉnh nhận ra rằng: Tỉnh có thể
nâng cao trỡnh độ phát triển nếu các tỉnh lân cận cũng đạt được trỡnh độ
phát triển cao hơn. Điều này sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc tỉnh
mỡnh mở rộng thị trường, đẩy mạnh sản xuất tạo thêm công ăn việc làm cho
các lao động trong tỉnh. Các cán bộ địa phương cũng nhận thấy rằng: nâng cao
trỡnh độ của các tỉnh lân cận không làm giảm đi cơ hội đạt được trỡnh độ
phát triển cao của tỉnh mỡnh, mà ngược lại cũn giúp đẩy mạnh tốc độ phát
triển. Do đó, các tỉnh có trỡnh độ, năng lực cao trong công tác lập kế hoạch,
điều hành chính quyền địa phương, quản lý ngân sách, phát triển và quản lý

×